Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích, đánh giá và ví dụ minh họa đối với các qui định về quyền nhân thân trong BLDS 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.88 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Sự gắn kết giữa xã hội và tự do cá nhân đã trở thành những điều kiện bắt
buộc của tiến bộ xã hội. Xuất phát từ đó, cần thiết phải làm rõ những tiêu chí bắt
buộc mà một xã hội công dân và cá nhân hướng tới địa vị tự do cần phải tuân
thủ. Nhà nước thực hiện chức năng của mình thông qua một trong những công
cụ quan trọng – đó chính là pháp luật. Tương ứng, cần phải có một chế định điều
chỉnh và bảo vệ sự độc lập xã hội của con người cũng như việc cá thể hoá con
người với tư cách là một thành viên của xã hội công dân - một cá nhân. Xác lập
và bảo đảm mức độ tự do của các nhân đồng nghĩa với điều kiện sinh tồn và nhu
cầu phát triển của xã hội. Việc xác lập và bảo đảm này có thể đạt được thông qua
những cấp độ khác nhau: cấp độ pháp luật chung, cấp độ pháp lụât tư và ở cấp
độ từng cá nhân con người riêng biệt. Công cụ điều chỉnh ở cấp độ thứ nhất
chính là bản thân hệ thống luật tư, công cụ điều chỉnh ở cấp độ thứ hai – đó
chính là phạm trù năng lực chủ thể và ở cấp độ thứ ba – là phạm trù các quyền
chủ thể về nhân thân hay còn gọi là quyền nhân thân. Việt Nam cũng không nằm
ngoài thực tế khách quan đó. Quyền nhân thân là một trong những chế định
quan trọng của BLDS, là sự cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về việc công nhận,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân về dân sự.
Để làm hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn vấn đề này, em xin chọn đề tài: “Phân
tích, đánh giá và ví dụ minh họa đối với các qui định về quyền nhân thân
trong BLDS 2015.”
NỘI DUNG
1. Khái niệm và phân loại các quyền nhân thân
Điều 25 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1.Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật Dân sự (BLDS) là quyền
gắn liền với mỗi cá nhân không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp


luật khác có liên quan quy định khác,
2. Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân
của người chưa thành niên người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được người đại diện theo pháp luật của

2


người này đồng ý theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc
theo quyết định của Toà án.
Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của
người bị tuyên bố mất tích, người đã chết phải được sự đồng ý của vợ, chồng
hoặc con thành niên của người đó: trong trường hợp không có người này thì
phải được sự đồng ý của cha, mẹ của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết,
trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Quyền nhân thân gắn liền với mỗi chủ thể nhất định và về nguyên tắc
quyền không thể chuyển giao cho các chủ thể khác. Quyền nhân thân không xác
định được bằng tiền, quyền nhân thân và tiền tệ không phải là những đại lượng
tương đương nên không thể trao đổi ngang giá. Trong trường hợp quyền nhân
thân của cá nhân bị xâm phạm (xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của
cá nhân…) thì chủ thể chịu trách nhiệm phải bồi thường cho cá nhân một khoản
tiền. Bản chất của khoản tiền này là nhằm bù đắp những mất mát, tổn thương đã
gây ra cho người bị thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm…mà không phải là
việc quy đổi quyền nhân thân bị xâm phạm ra tiền.
Có rất nhiều cách thức khác nhau để phân loại quyền nhân thân, trong đó
cách thức phân loại quyền nhân thân phổ biến là dựa vào đối tượng của quyền
nhân thân. Theo cách thức phân loại này thì quyền nhân thân phổ biến là dựa
vào đối tượng của quyền nhân thân. Theo cách thức phân loại này thì quyền
nhân thân được phân thành 5 nhóm: (1) Nhóm các quyền cá biệt hoá chủ thể; (2)
Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân; (3) Nhóm các quyền liên

quan đến giá trị tinh thần của chủ thể; (4) Nhóm các quyền liên quan đến quan
hệ hôn nhân và gia đình của cá nhân; (5) Nhóm các quyền đối với hình ảnh.
2. Xác lập, thực hiện quyền nhân thân
Cá nhân tự thực hiện các hành vi để xác lập, thực hiện các quan hệ nhân
thân cho chính mình. Đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì việc xác lập,
thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người này phải
được người đại diện theo pháp luật của người này đồng ý hoặc theo quyết định
của Toà án.
3


Ví dụ:Trẻ sơ sinh được cha mẹ hoặc những người thân thích thực hiện việc
đăng kí khai sinh, quy định này xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích chính đáng của
các cá nhân khi mà khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của họ không đầy
đủ.
Đối với người bị tuyên bố mất tích, người bị tuyên bố là đã chết, việc xác
lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân phải được sự đồng
ý của vợ, chồng hoặc con đã thành niên của người đó hoặc cha, mẹ của họ.
Những cá nhân bị tuyên bố mất tích hoặc bị tuyên bố là đã chết thì năng lực chủ
thể của họ bị tạm dừng hoặc chấm dứt nên những vấn đề liên quan đến nhân
thân của những người này không thể thực hiện được thông qua người đại diện
giống như những cá nhân không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Bởi vậy,
người thân thích trong gia đình sẽ là người quyết định vấn đề xác lập, thực hiện
quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của các cá nhân này.
3. Nhóm các quyền nhân thân cụ thể
3.1. Nhóm các quyền cá biệt hoá chủ thể
Thứ nhất, đối với quyền xác định, xác định lại dân tộc qui định tại Điều 29
BLDS 2015.
Xác định dân tộc tức là việc xác định lần đầu tiên dân tộc cho một cá nhân

(áp dụng đối với trẻ sơ sinh khi làm thủ tục đăng ký khai sinh); còn xác định lại
dân tộc là việc xác định dân tộc cho những cá nhân đã được thừa nhận một dân
tộc trước đó.
Ví dụ: Chị Nguyễn Thị Hằng và anh Hoàng Văn Thắng kết hôn với nhau và
sinh 1 bé trai đặt tên Hoàng Tuấn Đạt, khi làm thủ tục đăng ký khai sinh cho bé
Đạt thì vợ chồng anh chị thoả thuận lựa chọn và xác định dân tộc của bé theo
dân tộc của mẹ (dân tộc kinh), khi bé Đạt lên 8 tuổi thì anh chị muốn xác định
lại dân tộc cho bé theo dân tộc của cha là dân tộc Tày. Vậy việc xác định dân
tộc lần đầu tiên khi đăng ký khai sinh là xác định lại dân tộc, còn việc thay đổi
từ dân tộc kinh sang dân tộc Tày là việc xác định lại dân tộc.
Quyền xác định dân tộc của cá nhân phát sinh từ khi cá nhân được sinh ra,
điều đó được hiện thực hoá trên giấy tờ nhân thân đó là giấy khai sinh và quyền
xác định, xác định lại dân tộc là một quyền nhân thân được ghi nhận từ các
4


BLDS trước đó, từ BLDS 1995, được kế thừa trong BLDS 2005 và đến nay là
BLDS 2015, các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định 158/2005/NĐ-CP
về đăng ký và quản lý hộ tịch và luật chuyên ngành đó là Luật Hộ tịch năm
2014. Quyền xác định lại dân tộc là quyền nhân thân cơ bản của cá nhân, có từ
khi cá nhân sinh ra và được áp dụng cho lần xác định dân tộc đầu tiên của một
cá nhân (cá nhân chưa có dân tộc nào trước đó). Theo BLDS 2005 thì dân tộc
của một cá nhân được xác định theo dân tộc của cha hoặc mẹ, trong trường hợp
cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì con sinh ra được xác định theo
tập quán hoặc theo thoả thuận. Căn cứ xác định dân tộc theo tập quán hoặc theo
thoả thuận được đặt ngang hàng nhau mà không có sự ưu tiên áp dụng trước, sẽ
gây ra sự phức tạp nếu có tranh chấp liên quan đến viêc xác định lại dân tộc cho
con trong những trường hợp sau này, khắc phục những điểm hạn chế đó, Điều
29 BLDS 2015 đã bổ sung thêm khoản 2 về việc xác định dân tộc đối với trẻ em
được ghi nhận làm con nuôi và trẻ em bị bỏ rơi mà chưa xác định được cha đẻ,

mẹ đẻ.
Thứ hai, đối với quyền xác định lại giới tính, Điều 36 BLDS 2015 quy
định:
“1. Cá nhân có quyền xác định lại giới tính.
Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp
giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà
cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ giới tính.
2. Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật.
3. Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng
ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch, có quyền nhân thân
phù hợp với giới tính đã được xác định lại theo quy định của Bộ luật này và
pháp luật khác có liên quan”.
Giới tính là những điểm riêng biệt tạo nên sự khác biệt giữa nam và nữ. Cá
nhân có quyền xác định lại giới tính nếu thoả mãn điều kiện: (1) giới tính của cá
nhân bị khuyết tật bẩm sinh; hoặc (2) giới tính của cá nhân chưa định hình chính
xác cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính.
Nguyên tắc xác định lại giới tính, bảo đảm mỗi người đều được sống đúng
với giới tính thật của mình, việc xác định lại giới tính phải được thực hiện trên
5


nguyên tắc tự nguyện, khách quan, trung thực, khoa học và phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc xác định lại giới tính; giữ bí mật về các thông tin
liên quan đến người được xác định lại giới tính, trừ trường hợp có văn bản của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu cung cấp hồ sơ phục vụ cho việc kiểm
tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xet xử liên quan đến việc xác định lại giới tính.
Thủ tục đề nghị xác định lại giới tính được thưc hiện, người đề nghị xác
định lại giới tính gửi hồ sơ để xác định lại giới tính đến cơ sở khám, chữa bệnh
được phép và cơ sở khám, chữa bệnh phải trả lời lại đơn theo thời hạn luật định.
Cơ sở khám, chữa bệnh đã thực hiện việc can thiệp y tế xác định lại giới tính cấp

giấy chứng nhận y tế sau khi đã xác định lại giới tính cho người được can thiệp
y tế. Giấy chứng nhận y tế là căn cứ để đăng ký hộ tịch cho người đã được xác
định lại giới tính. UBND cấp huyện có trách nhiệm giải quyết việc đăng ký hộ
tịch cho người đã được xác định lại giới tính theo quy định của pháp luật về
đăng ký hộ tịch.
3.2. Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân
Thứ nhất, đối với quyền sống, quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng,
sức khoẻ, thân thể, Điều 33 BLDS 2015 quy định: “Cá nhân có quyền sống,
quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể quyền được pháp luật bảo hộ về
sức khoẻ, không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.”
Quyền sống là một quyền nhân thân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm
2013, Điều 19 “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật
bảo hộ. Không ai bi tước đoạt tính mạng trái luật”.Điều 33 đã có các quy định
thể chế hoá tinh thần của Hiến pháp năm 2013, BLDS 2015, Điều 33 đã quy
định
Giữa quyền sống và quyền bất khả xâm phạm về tính mạng có mối liên
quan mật thiết với nhau. Một cá nhân có quyền sống thì đương nhiên loại trừ các
hành vi xâm phạm đến tính mạng, vi phạm đến quyền sống của cá nhân; ngược
lại, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng là cơ sở, điều kiện quan trọng để cá
nhân được bảo đảm quyền sống. Mọi cá nhân trong xã hội, không phân biệt giới
tính, giàu nghèo, địa vị xã hội đều được bình đẳng trước pháp luật trong việc
bảo vệ tính mạng, thân thể, sức khoẻ của mình. Việc xâm phạm đến những yếu
6


tố này gây ra thiệt hại cho người bị xâm phạm là cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của người có hành vi xâm phạm.
Ví dụ: theo Điều 590 và 591 BLDS 2015, khi một người gây thiệt hại trái
pháp luật đến sức khoẻ, tính mạng của người khác thì có trách nhiệm phải bồi
thường thiệt hại. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại có tính chất nguy hiểm

cho xã hội, đã đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì người gây thiệt hại còn phải
chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình.
Thứ hai, đối với quyền hiến bộ phận, quyền nhận bộ phận cơ thể người qui
định tại Điều 35 BLDS 2015.
Cá nhân được quyền tự quyết đối với cơ thể mình và thi thể của họ sau khi
chết. Bên cạnh đó, cá nhân cũng có quyền nhận mô, bộ phận cơ thể của người
khác để chữa bệnh cho mình. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, pháp nhân có thẩm
quyền về nghiên cứu khoa học có quyền nhận bộ phận cơ thể người, lấy xác để
chữa bệnh, thử nghiệm y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác. Nhận
mô, bộ phận cơ thể của người khác là quyền nhân thân thể hiện việc cá nhân
được quyền chữa bệnh và quyền được sống. Đây còn là quyền nhân thân của cơ
sở khám, chữa bệnh, pháp nhân có thẩm quyền về nghiên cứu khoa học. Các tổ
chức này nhận bộ phận cơ thể người, lấy xác để thực hiện các hoạt động với
mục đích: chữa bệnh, thử nghiệm y học, dược học và các nghiên cứu khoa học
khác.
3.3. Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể
Thứ nhất, đối với quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín qui định
tại Điều 34 BLDS năm 2015.
Danh dự, nhân phẩm, uy tín là những yếu tố nhân thân (quyền nhân thân)
phi tài sản gắn liền với mỗi cá nhân cụ thể, con người cụ thể, thể hiện phẩm
chất, nhân cách, đạo đức và giá trị của mỗi cá nhân. Danh dự, nhân phẩm, uy tín
của mỗi cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Khi danh dự,
nhân phẩm, uy tín của một cá nhân cụ thể nào đó bị xâm phạm thì cá nhân đó có
quyền yêu cầu Toà án tuyên bố bác các thông tin đã gây ảnh hưởng xấu đến cá
nhân. Cá nhân không chỉ được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín khi còn sống
mà ngay cả khi cá nhân đã chết thì pháp luật vẫn duy trì sự bảo hộ, điều đó được
7


thể hiện bằng việc vợ, chồng hoặc con đã thành niên của người bị xâm phạm đến

danh dự, nhân phẩm, uy tín; hoặc cha, mẹ của cá nhân này trong trường hợp cá
nhân không có vợ, chồng, con đã thành niên.
Những thông tin gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ
bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó, nếu thông tin này
được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được huỷ bỏ.
Thứ hai, đối với quyền bí mật đời tư qui định tại Điều 38 BLDS năm 2015.
Quyền riêng tư là quyền của cá nhân đối với đời sống của mình mà không
chịu bất kỳ sự can thiệp nào từ những người xung quanh khác; còn “bí mật cá
nhân, bí mật gia đình” là những thông tin, tư liệu mà cá nhân không muốn công
khai, bộc bạch, được giữ kín bằng các biện pháp thông thường hoặc biện pháp
kỹ thuật khác nhau.
Việc thu thập, lưu trữ, sử dụng công khai thông tin liên quan đến đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân phải được bản thân cá nhân đó đồng ý. Quy định này
hoàn toàn phù hợp với mọi cá nhân trong đời sống, xã hội thể hiện sự tôn trọng
pháp luật đối với đời sống riêng tư, bí mật đời tư của cá nhân.
3.4. Nhóm các quyền liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình của cá nhân
Thứ nhất, quyền kết hôn, là quyền nhân thân của cá nhân được pháp luật
thừa nhận, là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định
của luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Việc kết hôn phải được đăng
ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Theo quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình hiện hành, nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa
những người cùng giới tính.
Thứ hai, quyền ly hôn: vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà
án giải quyết ly hôn. Quyền yêu cầu ly hôn là quyền nhân thân của vợ, chồng,
chỉ với tư cách là vợ, chồng mới có quyền ly hôn.
Pháp luật thừa nhận và bảo hộ quyền ly hôn của vợ và chồng. Tuy nhiên,
quyền này cũng bị hạn chế trong một số trường hợp cụ thể nhằm bảo vệ quyền
lợi của người vợ và người con là trẻ sơ sinh: chồng không có quyền yêu cầu ly
hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12

tháng tuổi (khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Quy định
8


này xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà mẹ, trẻ em,
phụ nữ có thai và thai nhi. Việc hạn chế quyền ly hôn này chỉ áp dụng với riêng
người chồng mà không áp dụng đối với người vợ. Theo quy định trên, dù người
vợ đang mang thai hoặc đứa trẻ sinh ra chưa đủ 12 tháng tuổi (tức là đứa trẻ
không phải là con của người chồng mà có thể là con của bất kỳ người đàn ông
nào) thì người chồng vẫn bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn. Bên cạnh đó, theo
quy định của pháp luật tố tụng dân sự, trong trường hợp bị Toà án xử bác đơn
yêu cầu ly hôn thì người vợ, chồng bị Toà án xử bác đơn yêu cầu ly hôn đó phải
đợi sau thời hạn một năm mới được quyền yêu cầu ly hôn.
Thứ ba, đối với quyền bình đẳng giữa vợ, chồng, Điều 17 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền,
nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền,
nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, luật này và các luật
khác có liên quan”.
Nguyên tắc vợ, chồng bình đẳng được ghi nhận đầu tiên trong sắc lệnh số
97 – SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước về sửa đổi một số quy lệ và chế định
trong dân luật (Điều 5), đồng thời là một trong những nguyên tắc cơ bản của hệ
thống pháp luật hôn nhân và gia đình. Nội dung của nguyên tắc này bảo đảm
quyền bình đẳng của vợ chồng trong các quan hệ nhân thân và tài sản (được quy
định từ Điều 17 đến Điều 50 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Các
quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của vợ chồng luôn gắn liền và được
thực hiện tương ứng giữa vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân; không thể
chuyển giao cho người khác và không thể thực hiện bằng nghĩa vụ khác.
Thứ tư, quyền xác định cha, mẹ, con là quyền nhân thân đươc ghi nhận
trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Cụ thể, Điều 90 quy định về quyền
nhận cha, mẹ: Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trường hợp cha, mẹ

đã chết; Con đã thành niên nhận cha, không cần phải có sự đồng ý của mẹ; nhận
mẹ, không cần phải có sự đồng ý của cha; Điều 91 quy định về quyền nhận con:
cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trường hợp con đã chết; Trường hợp người
đang có vợ, chồng mà nhận con thì việc nhận con không cần phải có sự đồng ý
của người kia. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về nguyên tắc suy
9


đoán pháp lý xác định cha, mẹ con; đặc biệt, Luật đã ghi nhận vấn đề mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo (từ Điều 94 đến Điều 100), đây là quy định mới trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Thứ năm, quyền được nhận làm con nuôi và quyền nuôi con nuôi: Nuôi con
nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được
nhận làm con nuôi (khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010). Việc thực
hiện quyền này trên thực tế phải tuân theo các điều kiện, trình tự, thủ tục do Luật
Nuôi con nuôi quy định. Luật cũng quy định các nguyên tắc giải quyết việc nuôi
con nuôi, thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế, hệ quả của việc nuôi con
nuôi và những căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi.
3.5. Nhóm các quyền đối với hình ảnh
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá
nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, theo đó cá nhân được phép sử dụng
hình ảnh và cho phép người khác sử dụng hình ảnh của mình.
Cá nhân là người có quyền đối với hình ảnh của mình, việc sử dụng hình
ảnh của cá nhân phải được sự đồng ý của người đó. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp thì pháp luật cũng quy định thì một chủ thể được quyền sử dụng hình
ảnh của cá nhân mà không cần sự đồng ý của người có hình ảnh: (1) Việc sử
dụng hình ảnh cá nhân vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng “Hình ảnh
của lãnh tụ, danh nhân văn hoá được sử dụng nhằm quảng bá cho dân tộc, cho
đất nước Việt Nam”; (2) Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng:
Hội nghị, hội thảo, biểu diễn nghệ thuật, thi đấu thể thao và các hoạt động công

cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân có
hình ảnh.
Ví dụ: Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam
dưới hình thức đó là hình ảnh của lãnh tụ, danh nhân văn hoá được sử dụng
nhằm quảng bá cho dân tộc, cho đất nước Việt Nam không thuộc các qui định
về quyền nhân thân đối với hình ảnh.
4. Đánh giá các qui định của BLDS năm 2015 về quyền nhân thân
BLDS năm 2015 nói chung và các quy định về quyền nhân thân trong
BLDS nói riêng đã cụ thể hóa những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của Hiếm
10


pháp 2013 về việc tăng cường các biện pháp để bảo vệ các quyền con người,
quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự. Đây là một xu thế khách
quan, là điều không thể khác được trong bối cảnh hiện nay.
Tuy nhiên, việc ghi nhận các quyền nhân thân trong BLDS với những tham
biến, những nội hàm cụ thể ra sao, với cách tiếp cận và trong tương quan tổng
thể với tính logic và tính hệ thống của toàn bộ hệ thống pháp luật theo “chiều
ngang” và ‘chiều dọc” như thế nào thì còn là điều cần cần được tiếp tục bàn
luận:
Thứ nhất, về khái niệm quyền nhân thân: “Quyền nhân thân được quy định
trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển
giao cho người khác, trừ trường hợp luật có quy định khác”. Quy định này thực
chất chưa đưa ra được khái niệm quyền nhân thân mà mới chỉ liệt kê các đặc
tính chung của quyền nhân thân. Không thể phủ nhận rằng việc đưa ra khái niệm
của một hiện tượng pháp lý thông qua liệt kê những đặc trưng của hiện tượng đó
là một thực tế trong khoa học pháp lý. Tuy nhiên, trong trường hợp này các đặc
trưng nêu trên của quyền nhân thân thực sự chưa đủ để phân biệt quyền nhân
thân với các quyền dân sự khác, bởi lẽ một số quyền tài sản cũng có đặc điểm
này.

Thứ hai, về việc lựa chọn các giá trị nhân thân nào để đưa vào nội dung các
quyền nhân thân. Nhìn chung hệ thống quyền nhân thân trong pháp luật dân sự
hiện hành đã thể hiện đã thể hiện rõ nét xu thế ngày càng mở rộng phạm vi các
giá trị nhân thân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, tôn trọng cá nhân với các
quyền con người trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, trong hệ thống các giá trị nhân
thân này có một số giá trị nhân thân không nhất thiết phải được ghi nhận trong
BLDS vì việc ghi nhận chúng hoàn toàn chưa thể hiện đầy đủ tính chất dân sự
của các giá trị đó.
Thứ ba, về giới hạn thực thi quyền nhân thân. Đặc trưng của việc thực thi
quyền nhân thân là ở chỗ pháp luật không qui định những giới hạn cho việc thực
thi quyền nhân thân mà chỉ đặt ra những ranh giới ngăn chặn sự can thiệp của
những người thứ ba đối với lĩnh vực cá nhân của một con người. Như đã phân
tích ở trên, việc thực hiện quyền nhân không bị giới hạn trong những hành vi cụ
11


thể được liệt kê trong điều luật tương ứng. Tuy nhiên, có một giới hạn chung
nhất đối với việc thực thi các quyền nhân thân: không ai được lạm dụng quyền
nhân thân của mình để xâm phạm tới lợi ích của nhà nước, lợi ích cộng đồng,
quyền và lợi ich hợp pháp của người khác.điều này lại không được thể hiện
trong BLDS 2015. Việc không đưa ra những nguyên tắc, giới hạn chung của
việc thực hiện quyền nhân thân như trên dẫn tới tính thiếu khái quát của các quy
định, đồng thời lại làm cho nội dung một số điều luật trở nên “cồng kềnh” thêm
với việc nhắc lại đâu đó về nguyên tắc này trong từng quy định về các quyền
nhân thân cụ thể.
KẾT LUẬN
Chế định quyền nhân thân trong pháp luât dân sự là một trong những chế
định cơ bản, quan trọng song song cùng với các chế định khác như chế định về
thừa kế, chế định vê tài sản, chế định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…
Tuy nhiên, chế định quyền nhân thân có điểm riêng biệt, nó gồm các quyền nhân

thân chỉ gắn liền với mỗi cá nhân cụ thể mà khi con người sinh ra đương nhiên
đã có, mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng về quyền nhân thân của mình, không
phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo; đó là những quyền không thể chuyển giao
cho người khác và nó gắn liền với suốt cuộc đời của mỗi cá nhân cụ thể. Quyền
nhân thân của mỗi cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và được
thể chế hoá cụ thể từng quyền cơ bản trong các luật chuyên ngành như Bộ luật
Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Nuôi con nuôi và một số văn bản pháp
lý khác.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam I + II, Nxb. Công an

2.

Nhân dân, Hà Nội, 2016.
Lê Đình Nghị, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam I + II, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,

3.

2016.
Bộ Tư pháp, Một số chuyên đề về Bộ Luật Dân sự nước CHXCNVN, Nxb. Tư

4.
5.
6.

7.

pháp, Hà Nội, 2017.
/> /> /> />
13



×