Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH đối với NGƯỜI có CÔNG với CÁCH MẠNG TRÊN địa bàn HUYỆN BA vì, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.58 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU LOAN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ
CÔNG VỚI CÁCH MẠNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Chính sách công
Mã số: 834 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHÙNG NGỌC TẤN

HÀ NỘI - 2020


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách đối với người có công với cách mạng là một bộ phận cấu
thành trong hệ thống an sinh xã hội ở nước ta, là chính sách mang tính đặc thù
của Việt Nam được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Nó không chỉ góp
phần to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là định hướng giá trị
cho toàn xã hội, đặc biệt là giáo dục thế hệ trẻ, thế hệ tương lai trong việc gìn
giữ, bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước. Chính sách này, không chỉ là vấn
đề trước mắt mà còn có ý nghĩa lâu dài, mang tính nhân văn sâu sắc, góp phần
ổn định chính trị - xã hội; là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ
người trồng cây”, là sự “Đền ơn đáp nghĩa” chứ không phải là việc ban ơn.
Chính vì vậy, trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều
chính sách, chế độ và tổ chức vận động toàn dân chăm lo đời sống vật chất,


tinh thần cho các gia đình người có công với cách mạng, giải quyết có hiệu
quả những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh, làm tăng thêm lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta, tạo nên nét đẹp mới trong đời
sống văn hoá - xã hội. Hệ thống chính sách từng bước hoàn thiện, đạt nhiều
thành tựu quan trọng, được nhân dân đồng tình.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện từ thực tiễn huyện Ba vì, Thành phố Hà
Nội cho thấy chính sách này còn nhiều hạn chế, bất cập, đó là: diện đối tượng
người có công với cách mạng chưa phủ kín; điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận
người có công với cách mạng chưa thật sự khoa học, hợp lý; chế độ trợ cấp ưu
đãi chưa đạt mục tiêu ưu đãi xã hội gắn liền với tăng trưởng kinh tế, tiến bộ
và công bằng xã hội; một số quy định của chính sách không mang tính kế
thừa, thiếu tính ổn định, luôn thay đổi, chưa phù hợp với thực tiễn dẫn đến
khó thực hiện. Nhiều chế độ ưu đãi được quy định ở Pháp lệnh ưu đãi người
có công với cách mạng nhưng chưa có quy phạm hướng dẫn, chưa được thực
thi trong đời sống. Phong trào chăm sóc đời sống người có công với cách

1


mạng qua các chương trình tình nghĩa đang có xu hướng giảm dần. Quỹ “Đền
ơn đáp nghĩa” hoạt động hiệu quả thấp và chưa mang ý nghĩa xã hội cao cả
của nó.
Từ những lý do nêu trên tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Thực hiện chính
sách đối với người có công với cách mạng trên địa bàn huyện Ba Vì, Thành
phố Hà Nội”, làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công, với
mong muốn bổ sung hoàn thiện những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách
công và thực hiện chính sách đối với người có công trong cả nước nói chung,
ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chính sách người có công với cách mạng là một chính sách lớn của

Đảng và nhà nước ta. Sau hàng loạt các văn bản của Nhà nước ban hành ưu
đãi đối với thương bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công đã thể hiện sự
quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với người có công, qua đó đảm
bảo được một bước lợi ích, công bằng xã hội và góp phần nâng cao đời sống
kinh tế của họ, đồng thời, góp phần ổn định chính trị - xã hội đất nước. Song,
trong quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nhiều chính sách, chế độ không còn phù hợp, nhà nước đã nghiên
cứu, ban hành nhiều Nghị định kịp thời điều chỉnh chế độ chính sách đối với
người có công, để phù hợp với giai đoạn phát triển mới, ngày 29/6/2005 Quốc
hội đã ban hành Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH11, đây là một văn bản
được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống, phù hợp với tình
hình đất nước, định hướng cho việc thực hiện chính sách, góp phần nâng cao
đời sống kinh tế đối với người có công trong giai đoạn hiện nay.
Trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học, đã có nhiều công trình nghiên cứu
về các chính sách đối với người có công với cách mạng, như:
- Năng lực thực hiện chính sách công những vấn đề lý luận và thực tiễn
của PGS-TS Văn Tất Thu, Tạp chí tổ chức nhà nước, số 12/2014 [Error!

2


Reference source not found.].
- Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp của GS Phạm Xuân
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1997
- Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề xóa đói giảm nghèo

Việt Nam của GS.PTS Vũ Thị Ngọc Phùng, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1999.
- Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội một số lý luận và thực tiễn ở
một số tỉnh miền trung của PGS.TS Phạm Hảo, Nxb Chính trị quốc gia, năm
2000.

- Luận án Phó Tiến sĩ khoa học luật học: “Hoàn thiện pháp luật ưu đãi
người có công với cách mạng ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn” của Nguyễn
Đình Liêu (1996) [Error! Reference source not found.].
- Nguyễn Thị Tuyết Mai (2009), Luận văn thạc sĩ luật học: “Hoàn thiện
pháp luật ưu đãi xã hội ở Việt Nam” [Error! Reference source not found.]
Bên cạnh đó có những nghiên cứu, bài viết có nội dung liên quan đến
đề tài luận văn, như:
- Nguyễn Văn Thành (1994), Luận án tiến sĩ kinh tế: “Đổi mới chính
sách kinh tế - xã hội đối với người có công ở Việt Nam” [Error! Reference
source not found.]
- Đỗ Thị Dung (2010), “Đối tượng hưởng ưu đãi xã hội và một số kiến
nghị”, Tạp chí Luật học, (số 8), [Error! Reference source not found., tr. 1017].
- Hoàng Công Thái (2005), “Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối
với người có công”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (số 7), tr. 28-31.
- Nguyễn Hiền Phương (2008), “Quan niệm về an sinh xã hội trên thế
giới và ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (số 1), [Error! Reference source not
found., tr. 45-54].
- Lê Thị Hoài Thu (2006), Đề cương bài giảng Pháp luật an sinh xã hội
Việt Nam - chương trình đào tạo sau đại học [Error! Reference source not
found.]
3


Nhìn chung các công trình nghiên cứu, bài viết nói trên đã đề cập đến

4


nhiều góc độ của văn bản pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật
nói riêng và việc triển khai thực hiện. Tuy nhiên, phần lớn đều tập trung ở

phương diện rộng, nghiên cứu cả hệ thống chính sách an sinh xã hội hoặc
nghiên cứu ở phương diện quy mô toàn quốc, chưa đánh giá đúng thực trạng,
chưa nêu cụ thể đâu là nguyên nhân của những hạn chế, bất cập của quy định
chính sách đối với người có công đang thực hiện.
Ở Thành phố Hà Nội, qua tìm hiểu đến nay chưa có tác giả nào
nghiên cứu đề tài: “Thực hiện chính sách người có công với cách mạng trên
địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội”. Đây là lý do để đề tài này được lựa
chọn nghiên cứu. Thông qua đề tài này, tác giả muốn được tham gia, làm rõ
thêm một số vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chính sách đối
với người có công để phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống, đáp ứng nhu cầu
của người có công, góp phần giữ vững thành quả cách mạng, ổn định chính trị
- xã hội, phát triển kinh tế bền vững.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện chính sách đối
với người có công, trên cơ sở đó, phân tích đánh giá thực trạng tổ chức thực
hiện chính sách đối với người có công từ thực tiễn huyện Ba Vì, thành phố
Hà Nội, đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức thực hiện chính sách đối với
người có công ở nước ta nói chung và huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội nói
riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực hiện chính sách người có công với
cách mạng;
- Phân tích thực trạng tình hình thực hiện chính sách người có công
với cách mạng ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội;
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách người
có công với cách mạng tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5



4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách đối với người có
công từ thực tiễn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, cụ thể là các quy định về
điều kiện, thủ tục, quy trình xác nhận; việc tổ chức thực thi chính sách này
cho các nhóm đối tượng thuộc diện thụ hưởng chính sách theo quy định tại
Pháp lệnh ưu đãi người có công.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Luận văn đề cập việc thực hiện chính sách đối với
người có công trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
- Thời gian nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu trong khoảng thời
gian từ năm 2015 đến nay.
- Không gian nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu trên phạm vi địa
bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Nội dung luận văn sử dụng phương pháp triết học Mác – Lênin kết hợp
với các quan điểm của Đảng, Nhà nước; các chính sách, các phương pháp
truyền thống của khoa học xã hội; các mô hình thực tiễn để nghiên cứu và giải
quyết vấn đề đặt ra của đề tài luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị
học trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế trên các nguồn tài liệu
và thông tin, các cuộc hội thảo khoa học, sách, báo, tạp chí có liên quan đến
đối tượng nghiên cứu. Đồng thời, sử dụng phương pháp đối chiếu và so sánh,
phương pháp phân tích và tổng hợp để giải quyết nội dung nghiên cứu.
Phương pháp sưu tầm tài liệu, là phương pháp rất quan trọng trong quá
trình thực hiện đề tài, để thực hiện đề tài này tôi đã tiến hành thu thập các tài
liệu có liên quan, việc thu thập tài liệu là cả một quá trình tìm hiểu và thu thập


6


từ nhiều nguồn khác nhau như: Sưu tầm, tìm kiếm các nguồn tài liệu có sẵn ở
sách báo, các pháp lệnh, thông tư, nghị định; các chính sách liên quan đến
lĩnh vực người có công tại địa phương và mạng internet, các website của
Chính phủ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các trang mạng internet.
Phương pháp thống kê, tổng hợp đánh giá, được sử dụng trong việc
thống kê những số liệu cụ thể về thực trạng việc thực hiện chính sách đối với
người có công, việc thống kê và phân tích đòi hỏi phải có sự chính xác cao để
làm rõ vấn đề nghiên cứu. Sau khi thu thập tài liệu tôi tiến hành thống kê phân
tích xử lý số liệu, lựa chọn số liệu theo những mục đích, yêu cầu cần làm rõ từ
đó dẫn chứng vào đề tài của mình. Khi công việc phân tích số liệu, xem xét
tài liệu xong tôi tiến hành ghi chép lại, tổng hợp và phân loại sắp xếp riêng
theo từng loại, ví dụ: số liệu về tình hình thực hiện chính sách ưu đãi xã hội;
số liệu hằng về năm chương trình chăm sóc người có công; số liệu về các
chương trình khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Đóng góp bổ sung hoàn thiện những vấn đề lý luận về tổ chức thực
hiện chính sách đối với người có công nói chung và tổ chức thực hiện chính
sách đối với người có công ở đất nước ta nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn thể hiện ở chỗ trên cơ sở các kết quả,
kết luận, rút ra từ việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp thiết thực, hữu hiệu
giúp UBND và các cơ quan chức năng của huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách đối với người
có công..
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, các phục lục, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về chính sách và thực hiện chính sách

7


người có công với cách mạng.
Chương 2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách người có công với
cách mạng, tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện
chính sách người có công với cách mạng tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
1.1. Khái niệm người có công với cách mạng và chính sách, pháp
luật về ưu đãi người có công với cách mạng
1.1.1. Khái niệm người có công với cách mạng
Thuật ngữ “người có công” thì mặc dù chính sách ưu đãi người có công
với cách mạng đã được thực hiện từ lâu, nhưng cho đến nay chưa có một văn
bản pháp luật nào nêu rõ khái niệm “người có công”. Tuy nhiên, căn cứ các
tiêu chuẩn đối với từng đối tượng là người có công mà Nhà nước đã quy định,
trong một số công trình đã nêu khái niệm “người có công” theo 2 nghĩa sau:
Theo nghĩa rộng: “Người có công là những người không phân biệt tôn
giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện cống hiến sức lực,
tài năng, trí tuệ, có người hy sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp dựng nước,
giữ nước và kiến thiết đất nước. Họ là người có những thành tích đóng góp
hoặc những cống hiến xuất sắc phục vụ vì lợi ích của đất nước, của dân tộc
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo qui định của pháp
luật”. Ở đây có thể thấy rõ những tiêu chí cơ bản của người có công, đó là

phải có đóng góp, cống hiến xuất sắc và vì lợi ích của dân tộc. Những đóng
góp, cống hiến của họ có thể là trong các cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do
cho Tổ quốc và cũng có thể là trong công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. [Error! Reference source not found., tr.18-19]

8


Theo nghĩa hẹp: “Người có công là những người không phân biệt tôn giáo,
tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác có những đóng góp, những cống hiến
xuất sắc trong thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945, trong các cuộc
kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được các cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền công nhận theo qui định của pháp luật”. Ở khái niệm này,
người có công bao gồm người tham gia hoặc giúp đỡ cách mạng, họ đã hy
sinh cả cuộc đời mình hoặc một phần thân thể hoặc có thành tích đóng góp
cho sự nghiệp cách mạng. [Error! Reference source not found., tr.19]
Từ khái niệm trên, có thể rút ra một số đặc điểm của người có công
như sau:
Thứ nhất, người có công bao gồm người tham gia hoặc giúp đỡ cách
mạng, họ đã hy sinh cả cuộc đời mình hoặc một phần thân thể hoặc có thành
tích đóng góp cho sự nghiệp cách mạng.
Thứ hai, người có công là người có thành tích đóng góp hoặc cống
hiến xuất sắc và vì lợi ích của dân tộc, những đóng góp, cống hiến của họ có
thể là trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc và
cũng có thể là trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ ba, phạm trù người có công rất rộng, trong phạm vi hẹp, đối tượng
người có công là những người có công trong các cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở thời kỳ cách mạng dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam. Hơn nữa, chính sách đối với người có công
chủ yếu điều chỉnh đối tượng này.

1.1.2. Khái niệm chính sách đối với người có công với cách mạng
Những người có công là một bộ phận lớn những người đã hy sinh,
cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, đó là những “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”, những liệt sĩ, thương
binh, người có công giúp đỡ cách mạng… Họ là những người có công với
cách mạng, với đất nước, được Nhà nước và nhân dân ta ghi nhận, biết ơn

9


sâu sắc. Do vậy, ưu đãi đối với người có công xét ở một góc độ nào đó chính
là những ưu đãi xã hội.
Tuy nhiên, đối tượng người có công được hưởng ưu đãi xã hội không
chỉ bó hẹp trong phạm vi những người có công mà còn được hiểu theo nghĩa
rộng, đó là những người đã cống hiến sức lực, năng lực, trí tuệ và mạng sống
của mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, phát triển đất nước mà không có bất kỳ sự đòi hỏi, yêu cầu bù
đắp nào. Họ là những người có thành tích xuất sắc bảo vệ cho sự bình an của
xã hội, làm rạng danh đất nước, cống hiến, hy sinh vì lợi ích của đất nước, của
dân tộc, được pháp luật công nhận mà không có sự phân biệt tôn giáo, dân tộc,
tín ngưỡng, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp…, như Nhà giáo nhân dân, Nghệ sĩ
nhân dân, Thầy thuốc ưu tú, Nhà kinh tế, Nhà khoa học có đóng góp xuất
sắc…
Từ những suy nghĩ trên chúng ta có thể hiểu ưu đãi đối với người có
công là việc nhà nước, xã hội dành những điều kiện, quyền lợi đặc biệt hơn
so với đối tượng khác vì được đề cao, được coi trọng hơn. Ưu đãi đối với
người có công là sự đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất lẫn tinh thần của Nhà
nước và xã hội nhằm ghi nhận, đền đáp công lao đối với những người có
công với cách mạng. Ưu đãi đối với người có công có thể hiểu là trách nhiệm
của nhà nước thông qua việc xây dựng những hệ thống chính sách cụ thể về

sự ưu tiên và cơ chế thực hiện sự ưu tiên đó. Vận động mọi người dân, các tổ
chức chính trị - xã hội với truyền thống tốt đẹp sẵn có, tổ chức các phong
trào, đóng góp công sức để tạo cơ sở vật chất cho sự ưu đãi đối với người có
công.
Từ sự phân tích trên cho thấy chính sách kinh tế là cơ sở cho chính
sách ưu đãi xã hội. Và, đến lượt mình chính sách ưu đãi xã hội là động lực, là
tiền đề góp phần ổn định và phát triển xã hội, tạo điều kiện cho nền kinh tế
phát triển mạnh mẽ và vững chắc. Điều 59 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội

10


chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013) quy định: “Nhà nước, xã hội tôn vinh, khen
thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi người có công với nước”. [Error!
Reference source not found., tr. 28] Dưới góc độ khoa học chính sách công
có thể định nghĩa: “Chính sách đối với người có công là thái độ, quan điểm,
quyết định cách xử sự của nhà nước đối với người có công, với mục tiêu, giải
pháp, công cụ cụ thể nhằm ưu đãi, hỗ trợ, giúp đỡ người có công, duy trì,
phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa của dân tộc
ta trong sự nghiệp, xây dựng và phát triển đất nước”. Đó là các chính sách
cụ thể của nhà nước đối với 12 đối tượng người có công được quy định trong
pháp lệnh ưu đãi người có công
1.1.3. Khái niệm, ý nghĩa tầm quan trọng của việc thực hiện chính
sách đối với người có công với cách mạng
1.1.3.1. Khái niệm thực hiện chính sách đối với người có công
Thực hiện chính sách đối với người có công được hiểu là hoạt động
của các chủ thể do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định nhằm đưa
chính sách đối với người có công vào cuộc sống thông qua các công việc cụ
thể theo trình tự, thủ tục nhất định, như việc tổ chức xác nhận, quản lý và
thực hiện các chính sách, chế độ ưu đãi của nhà nước đối với các đối tượng

người có công và thân nhân. Tổ chức thực hiện chính sách là tất yếu khách
quan, là một bước quan trọng trong chu trình chính sách nhằm duy trì sự tồn
tại của công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý của nhà nước và cũng là mục
tiêu đề ra của chính sách. Tổ chức thực hiện chính sách đối với người có
công là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của chủ thể trong chính sách thành
hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu, định hướng của
chính sách đối với người có công. Nói một cách khác tổ chức thực hiện chính
sách đối với người có công là quá trình hiện thực hóa, đưa chính sách đối với
người có công của nhà nước vào thực tiễn cuộc sống xã hội.
1.1.3.2. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách đối với người có công

11


Tổ chức thực hiện chính sách là khâu cấu thành chu trình chính sách
đối với người có công, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể
chính sách thành hiện thực với các đối tượng chính sách, nhằm đạt được mục
tiêu chính sách. Nói cách khác tổ chức thực hiện chính sách đối với người có
công là khâu, là bước đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách, có
nhiệm vụ hiện thực hóa, đưa chính sách vào cuộc sống. Tổ chức thực hiện
chính sách đối với người có công là trung tâm kết nối các khâu, các bước
trong chu trình chính sách thành một hệ thống. Hoạch định được chính sách
đối với người có công đúng, có chất lượng là rất quan trọng nhưng tổ chức
thực hiện chính sách đối với người có công đúng còn quan trọng hơn. Thực
tế cho thấy có chính sách đối với người có công đúng nhưng tổ chức thực
hiện chính sách đối với người có công không đúng nó trở thành vô nghĩa, trở
thành khẩu hiệu suông, không những không có ý nghĩa, không có giá trị mà
còn ảnh hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định, xây dựng, ban hành chính
sách là nhà nước. Nếu chính sách đối với người có công không được tổ chức
thực hiện đúng sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng, thậm chí sự phản ứng, chống

đối của nhân dân đối với nhà nước. Điều này hoàn toàn bất lợi về mặt chính
trị và xã hội, gây những khó khăn, bất ổn cho nhà nước trong quản lý. Qua tổ
chức thực hiện chính sách đối với người có công mới biết được chính sách có
đúng hay không đúng, phù hợp hay không phù hợp, chính sách có đi vào
cuộc sống hay không đi vào cuộc sống, có được người dân đồng tình ủng hộ
hay không đồng tình ủng hộ. Có những vấn đề trong giai đoạn hoạch định
chính sách chưa phát sinh hoặc đã phát sinh nhưng các nhà hoạch định chưa
nhận thấy đến giai đoạn tổ chức thực hiện mới phát hiện ra. Chính quá trình
tổ chức thực hiện chính sách với những hoạt động thực tiễn sẽ góp phần điều
chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng
yêu cầu cuộc sống và mong muốn của người dân. Đồng thời việc phân tích,
đánh giá chính sách đối với người có công đúng hay không đúng chỉ có cơ sở
đầy đủ và có sức thuyết phục sau khi tổ chức thực hiện chính sách. Thực hiện
là chân lý, kết quả tổ chức thực hiện chính sách đối với người có công là

12


thước đo, là cơ sở đánh giá chính xác và khách quan chất lượng hiệu quả của
chính sách đối với người có công. Ngoài ra, tổ chức thực hiện chính sách,
đưa chính sách vào cuộc sống là một quá trình phức tạp, đầy biến động chịu
sự tác động của một loạt các yếu tố thúc đẩy, cản trở. Do đó cần phải đặc biệt
chú ý đến khâu tổ chức thực hiện chính sách đối với người có công. Tổ chức
thực hiện tốt chính sách đối với người có công là tiền đề và điều kiện bảo
đảm sự thành công và hiệu quả của chính sách.
1.1.4. Những yêu cầu cơ bản thực hiện chính sách đối với người có
công với cách mạng
a. Thực hiện đúng mục tiêu của chính sách Chính sách đối với người
có công với cách mạng là một trong những công cụ quan trọng trong việc
quản lý xã hội. Trong lĩnh vực này, thực hiện chính sách đối với người có

công với cách mạng là cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với người có công, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để các cơ
quan, tổ chức, gia đình, cá nhân nâng cao nhận thức, tham gia tích cực vào
việc đền ơn đáp nghĩa, chăm lo cho người có công, tạo sự đồng thuận cao,
góp phần bảo đảm công bằng xã hội và tạo điều kiện thuận lợi để người có
công xây dựng cuộc sống, tiếp tục khẳng định vai trò trong cộng đồng xã hội.
Thực hiện chính sách đối với người có công phải được tổ chức triển khai
đúng mục tiêu của Nhà nước đề ra, quy định rõ ràng, cụ thể và đầy đủ về đối
tượng, điều kiện, căn cứ xác nhận, trình tự thủ tục hồ sơ đối với từng loại đối
tượng người có công khác nhau, tùy theo công trạng và đóng góp của từng
người.
b. Tính hệ thống trong thực hiện chính sách. Thực hiện chính sách đối
với người có công phải đảm bảo tính hệ thống, thể hiện rõ trách nhiệm cụ thể
cho từng cấp, từng ngành từ Trung ương đến địa phương theo chức năng
nhiệm vụ trong việc xây dựng, ban hành, tổ chức quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn
thực hiện, tuyên truyền, vận động, tổng kết, đánh giá, khen thưởng; xây dựng

13


chế độ, định mức, phương thức trợ cấp dụng cụ chỉnh hình và phương tiện
trợ giúp; thực hiện hợp tác quốc tế về người có công; thực hiện công tác
thống kê về người có công.
c. Tính pháp lý, khoa học, hợp lý trong thực hiện chính sách. Yêu cầu
này đòi hỏi hệ thống bộ máy quản lý nhà nước phải gọn nhẹ đủ năng lực tổ
chức thực hiện chính sách đối với người có công theo một quy trình chặt chẽ
và khoa học. Tổ chức thực hiện chính sách đối với người có công phải tuân
thủ các nguyên tắc, pháp lý là để đảm bảo tính tập trung thống nhất trong
chấp hành chính sách. Tính pháp lý được thể hiện trong tổ chức thực hiện
chính sách là việc chấp hành các chế định về thực hiện chính sách như: trách

nhiệm, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân được giao thực hiện chính sách,
thủ tục giải quyết các mối quan hệ trong thực hiện chính sách, cưỡng chế
thực hiện chính sách trong những điều kiện cần thiết. Tính khoa học thể hiện
trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách là việc phối hợp nhịp nhàng
giữa các cơ quan quản lý chính sách, việc thu hút các nguồn lực hướng mạnh
vào việc thực hiện mục tiêu chính sách, hình thành các chương trình, dự án
để thực hiện có hiệu quả chính sách đối với người có công.
d. Lợi ích cho các đối tượng thụ hưởng chính sách. Thực hiện chính
sách đối với người có công phải quy định cụ thể mức trợ cấp, chế định bảo
đảm việc làm, chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần đối với từng đối tượng
và thân nhân của họ. Để các khoản trợ cấp có ý nghĩa cần phải lưu ý những
điểm sau: trợ cấp không đơn thuần chỉ là tiền mà còn là sự biểu hiện tình
cảm, lòng biết ơn sâu sắc của Nhà nước, là truyền thống “Uống nước nhớ
nguồn” của dân tộc ta đối với người có công với cách mạng. Vì vậy, không
thể lợi dụng vấn đề trợ cấp như là một sự “ban ơn” của cá nhân người này,
người kia với đối tượng. Trợ cấp cho người có công phải có ý nghĩa thực tế
chứ không phải là một khoản tiền tượng trưng, cho nên cần thiết phải có sự
điều chỉnh để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn

14


nhất định. Cần chú ý đến việc bảo toàn giá trị của tiền trợ cấp cho người có
công.
Thực hiện chính sách đối với người có công cần quy định chế định bảo
đảm việc làm cho người có công. Giải quyết việc làm cho người có công là
vấn đề không chỉ có ý nghĩa kinh tế thuần túy mà còn có ý nghĩa xã hội và
nhân văn sâu sắc. Chính sách ưu đãi này nhằm bảo đảm quyền lợi và nghĩa
vụ cho đối tượng người có công với tư cách là người lao động, một công dân
của đất nước. Giải quyết tốt vấn đề việc làm là phát huy khả năng và tiềm lực

của họ, là sử dụng hợp lý lực lượng lao động, góp phần tạo ra của cải vật
chất cho xã hội. Nhưng điều có ý nghĩa hơn cả là tạo điều kiện cho đối tượng
người có công khẳng định được mình trong giai đoạn mới của đất nước, góp
phần giảm bớt những khó khăn trong cuộc sống, tự hòa nhập cộng đồng.
Thực hiện chính sách đối với người có công phải quy định việc chăm
sóc sức khỏe cho người có công. Trong bối cảnh của cơ chế thị trường, vấn
đề đảm bảo sức khỏe cho người có công cần thiết phải được xem xét và được
điều chỉnh bằng chính sách ưu đãi xã hội, có như vậy việc chăm sóc sức
khỏe cho các đối tượng này mới được đảm bảo, khả năng lao động của họ
mới được phục hồi và nâng lên. Trong công tác chăm sóc sức khỏe cho
người có công, nhất là các đối tượng thương binh, bệnh binh thì các Bệnh
viện/Trung tâm chỉnh hình và phục hồi chức năng, các Trung tâm điều dưỡng
tập trung luân phiên cho người có công có vai trò rất quan trọng. Nhà nước
cần phải có định hướng để quy hoạch các cơ sở này đủ về số lượng, đảm bảo
về chất lượng để chăm sóc tốt sức khỏe cho các đối tượng người có công.
Trong đời sống, con người không những có nhu cầu về vật chất mà còn
có nhu cầu về tinh thần. Đó là nhu cầu khách quan mà nhà nước và xã hội
cần phải quan tâm, đáp ứng. Đối với người có công cũng vậy, họ cần phải
được bảo đảm về đời sống tinh thần, đặc biệt những người đã bị thương tổn
về mặt thể chất như thương binh, bệnh binh thì họ cần và rất cần sự chăm

15


sóc, động viên về tinh thần nhằm thoát khỏi sự tự ti vì thương tật, bệnh tật, vì
sức khỏe, giúp họ vươn trong cuộc sống, hòa nhập cộng đồng.
Các chế độ ưu đãi về ruộng đất, vốn, thuế... cũng cần được thực hiện
với tinh thần ưu đãi. Đồng thời, cần quy định những chính sách ưu đãi cho
con thương binh, bệnh binh nặng, con liệt sĩ, con người hoạt động kháng
chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm khả năng lao động nặng trong thời

gian đi học, như: ưu tiên trong tuyển sinh, hỗ trợ kinh phí và cả trong việc
tạo điều kiện giải quyết việc làm sau khi ra trường.
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đối
với người có công với cách mạng
Kế tục truyền thống của cha ông ta, ngay từ khi đất nước mới giành
được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã sớm ban hành chính sách ưu đãi xã
hội, đặc biệt là chính sách ưu đãi người có công với đất nước trong sự nghiệp
xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc .
Giai đoạn từ 1945 đến 1954: Sau khi giành được chính quyền, nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng phải bắt tay ngay vào cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Thời kỳ này đất nước gặp muôn vàn khó khăn, nhưng
Đảng, Chính phủ sớm thiết lập một số văn bản pháp luật ưu đãi một số đối
tượng có công như: thương binh, gia đình liệt sĩ, đồng thời động viên toàn
dân lấy lên phong trào toàn dân chăm sóc giúp đỡ các đối tượng này.
Ngày 16/2/1947 Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký Sắc
lệnh số 20/SL “Về chế độ hưu bổng, thương tật đối với thương binh, tử sĩ”.
Sau đó được sửa đổi, bổ sung bằng Sắc lệnh 242/SL ngày 12/10/1948 về
“Hưu bổng thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ”, qui định về tiêu
chuẩn xác nhận thương binh, truy tặng tử sĩ, thực hiện chế độ lương hưu
thương tật đối với thương binh, chế độ tiền tuất đối với gia đình tử sĩ. Đây là
văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa qui
định về những ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Sau đó Đảng –

16


Nhà nước ta còn ban hành nhiều chính sách, văn bản có liên quan quy định
những vấn đề về thương binh, tử sĩ…và những ưu đãi dành cho họ. Đồng
thời, Đảng – Nhà nước cũng khuyến khích, động viên toàn dân dấy lên
phong trào giúp đỡ, chăm sóc đối tượng này như phong trào đón thương binh

về làng, giúp binh sĩ tử nạn, lập quỹ tình nghĩa…Nghị định số 51/TB-NĐ
ngày 27/7/1949 và Nghị định số 367/TB-NĐ ngày 30/08/1950 thì Nhà nước
sẽ tổ chức các trại an dưỡng để thu nhận và chăm sóc thương binh, bệnh
binh.
Giai đoạn từ 1955 đến 1975: Trong các văn bản ban hành trong thời kỳ
này đáng chú ý nhất là Nghị định số 16/CP ngày 30/10/1964 kèm theo bản
Điều lệ tạm thời về chế độ đãi ngộ với quân nhân, thanh niên xung phong,
dân quân du kích với việc qui định chế độ thương tật mới là 8 hạng, mức
khởi điểm là 21%. Quy định chế độ tiền tuất mới gồm tuất hàng tháng và tuất
một lần đối với gia đình và thân nhân liệt sĩ. Đồng thời, để phù hợp với tình
hình thực tế của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đánh giá đúng và
động viên kịp thời sự đóng góp của nhân dân, pháp luật ưu đãi người có công
đã bổ sung các đối tượng mới đó là :
- Chế độ đối với dân công thời chiến (nghị định số 77/CP ngày
26/04/1966).
- Chế độ ưu đãi đối với lực lượng vận tải nhân dân (theo Quyết định số
84/CP ngày 04/5/1966).
- Chế độ cán bộ y tế làm nhiệm vụ cấp cứu phòng không (Nghị định số
111/CP ngày 28/6/1973).
Tóm lại, chính sách ưu đãi người có công thời kỳ này đã phát triển
tương đối toàn diện các nội dung ưu đãi cả vật chất và tinh thần đối với
người có công, góp phần to lớn vào việc thực hiện chính sách hậu phương
quân đội, củng cố và tăng cường tiềm lực kháng chiến.

17


Giai đoạn từ 1976 đến 1985: Sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước
đã ban hành hàng trăm văn bản chính sách ưu đãi người có công, bổ sung đối
tượng, tiêu chuẩn xác nhận thương binh, bệnh binh, liệt sĩ trong công cuộc

xây dựng bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Trên cơ sở đó, chính sách
ưu đãi người có công trong giai đoạn này đã khắc phục được một số bất hợp
lý, hình thành hệ thống văn bản pháp quy có hiệu lực thống nhất trong cả
nước. Tuy nhiên, còn tản mạn, chắp vá, nội dung còn rườm rà, phức tạp, hạn
chế trong việc giải quyết các vấn đề mang tính cơ bản, lâu dài của chế độ ưu
đãi người có công.
Giai đoạn từ 1986 đến 1994: Đây là giai đoạn có ý nghĩa đối với sự
phát triển của chế độ ưu đãi xã hội nước ta. Trong bối cảnh lịch sử đất nước
ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, chế độ ưu đãi
đối với người có công đã có những thay đổi rất quan trọng, đáp ứng nhu cầu
điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực ưu đãi xã hội theo cơ chế mới.
Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản chính sách về chế độ ưu đãi, đánh
dấu bước chuyển biến quan trọng quyết định đến mọi đời sống của người có
công thông qua các văn bản quy phạm pháp luật. Đáng chú ý là nghị định số
236/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng bổ sung, xóa bỏ sự khác
biệt trong các qui định ưu đãi do lịch sử để lại. Cùng với sự chuyển đổi này,
việc điều chỉnh bằng pháp luật các mối quan hệ xã hội cũng được thay đổi
cho phù hợp với cơ chế mới. Chính sách ưu đãi người có công theo đó cũng
được thay đổi, bổ sung cho hợp lý hơn (Quyết định số 79/HĐBT ngày
05/7/1989, Quyết định số 8/HĐBT ngày 05/01/1990, Nghị định số 27/CP
ngày 23/04/1993…).
Những năm cuối của giai đoạn này, đất nước đã dần ổn định, nền kinh
tế đã có sự phát triển, những mâu thuẫn xã hội của nền kinh tế thị trường trở
nên mạnh mẽ, đòi hỏi Nhà nước phải có sự quan tâm hơn nữa đến chính sách
người có công. Nổi bật nhất là vào ngày 29/8/1994 Ủy ban Thường vụ Quốc

18


hội đã ban hành 02 văn bản rất quan trọng đối với chính sách người có công,

đó là Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ,
thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ
cách mạng; và Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt
Nam anh hùng”. Tiếp theo đó Nhà nước đã ban hành một số Nghị định,
Thông tư… để hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh trên cũng như hoàn thiện hơn
những quy định về ưu đãi người có công. Hai quy định này đã đánh dấu cho
sự phát triển, tiến bộ của pháp luật ưu đãi người có công trong hệ thống các
chính sách, pháp luật.
Giai đoạn từ 1995 đến nay: Từ năm 1995 đến nay, công cuộc đổi mới
đất nước đạt nhiều thành tựu. Tuy còn nhiều khó khăn nhưng nhìn chung đất
nước ta đang phát triển nhanh chóng về mọi mặt. Đảng, Nhà nước đã có sự
quan tâm sâu sắc đến mọi mặt đời sống của nhân dân, hệ thống chính sách,
pháp luật đang ngày dần hoàn thiện. Chính sách mở cửa, hội nhập đem lại
chính sách đối với người có công nâng cao đời sống của người dân ngày
càng tốt hơn.
Trong giai đoạn này có một số điểm nổi bật, đánh dấu sự phát triển của
pháp luật ưu đãi người có công. Ngày 29/6/2005 Ủy ban thường vụ Quốc hội
đã ban hành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng số 26/2005/PLUBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01
tháng 10 năm 2005 (thay thế cho Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách
mạng năm 1994 - được sửa đổi năm 2000 và năm 2002). Pháp lệnh này đã
mở rộng thêm một số đối tượng được hưởng ưu đãi (từ 7 lên đến 11 nhóm
với 11 đối tượng, không chỉ bao gồm những người có công với cách mạng
mà còn bao gồm cả thân nhân của họ); Trong công cuộc đổi mới đất nước,
song song với việc phát triển Nhà nước ta cũng đã quan tâm đặc biệt đối với
đối tượng chính sách và cũng đã tiếp tục ban hành: Pháp lệnh số 04/2012/PLUBTVQH13 ngày 16/7/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ

19


sung một số điều của Pháp Lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, có

hiệu lực kể từ ngày 01/09/2012; Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng
4 năm 2013 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh
ưu đãi người có công với cách mạng; Thông số 05/2013/TT-BLĐTBXH
ngày 15 tháng 5 năm 2013 hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ,
thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân.
Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung một số điều và điều chỉnh mức trợ cấp
cho phù hợp cho tình hình thực tế. bao gồm:
a. Người có công với cách mạng:
- Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945;
- Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945;
- Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
- Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân;
- Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến;
- Liệt sĩ;
- Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh;
- Bệnh binh;
- Người có công giúp đỡ cách mạng;
- Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học;
- Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế;
- Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày.
b. Thân nhân người có công với cách mạng được quy định tại khoản 1
Điều này.
Trong phạm vi của luận văn, chỉ nêu những đối tượng có công được
quy định điều kiện, tiêu chuẩn trong Pháp lệnh Ưu đãi người có công, bao
gồm [Error! Reference source not found.]:

20



+ Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945, là
người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận đã tham gia tổ chức
cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945.
+ Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến
ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, là người được cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền công nhận đứng đầu một tổ chức quần chúng cách mạng cấp xã
hoặc thoát ly hoạt động cách mạng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến
ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Liệt sĩ, là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của
nhân dân được Nhà nước truy tặng Bằng "Tổ quốc ghi công" thuộc một trong
các trường hợp sau đây: Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; trực
tiếp đấu tranh chính trị, đấu tranh binh vận có tổ chức với địch; hoạt động
cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất
phục, kiên quyết đấu tranh hoặc thực hiện chủ trương vượt tù, vượt ngục mà
hy sinh; làm nghĩa vụ quốc tế; đấu tranh chống tội phạm; dũng cảm thực hiện
công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh; dũng cảm cứu
người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân; do ốm đau, tai nạn khi đang
làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn;thương binh hoặc người hưởng chính sách như thương binh
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 19 của Pháp lệnh này chết vì vết
thương tái phát. Khi đang trực tiếp làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt
liệt sĩ do cơ quan có thẩm quyền giao; trực tiếp làm nhiệm vụ huấn luyện
chiến đấu hoặc diễn tập phục vụ quốc phòng, an ninh có tính chất nguy hiểm.
+ Bà mẹ Việt Nam anh hùng, là những Bà mẹ có chồng, con hoặc bản
thân đã công hiến hy sinh vì sự nghiệp giải phóng Dân tộc, bảo vệ Tổ quốc
và làm nghĩa vụ Quốc tế.

21



+ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động trong
thời kỳ kháng chiến bao gồm: Người được Nhà nước tặng hoặc truy tặng
danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” theo quy định của pháp
luật; người được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lao động vì đã có thành
tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, sản xuất phục vụ kháng chiến.
+ Thương binh, là quân nhân, công an nhân dân bị thương làm suy
giảm khả năng lao động từ 21% trở lên, được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền
cấp “Giấy chứng nhận thương binh” và “Huy hiệu thương binh”.
+ Người hưởng chính sách như thương binh, là người không phải là
quân nhân, công an nhân dân, bị thương làm suy giảm khả năng lao động từ
21% trở lên thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này
được cơ quan có thẩm quyền cấp "Giấy chứng nhận người hưởng chính sách
như thương binh".
+ Bệnh binh, là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm
khả năng lao động từ 61% trở lên khi xuất ngũ về gia đình được cơ quan,
đơn vị có thẩm quyền cấp "Giấy chứng nhận bệnh binh".
Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, là người
được cơ quan có thẩm quyền công nhận đã tham gia công tác, chiến đấu,
phục vụ chiến đấu từ tháng 8 năm 1961 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại
các vùng mà quân đội Mỹ sử dụng chất độc hóa học và do nhiễm chất độc
hóa học dẫn đến một trong các trường hợp sau đây: Mắc bệnh làm suy giảm
khả năng lao động từ 21% trở lên; vô sinh; sinh con dị dạng, dị tật.
+ Người họat động cách mạng hoặc họat động kháng chiến bị địch
bắt tù, đày là người được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền công nhận
trong thời gian bị tù, đày không khai báo có hại cho cách mạng, cho kháng
chiến, không làm tay sai cho địch.

22



+ Người họat động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ Quốc tế, là người tham gia kháng chiến được Nhà nước tặng
Huân chương kháng chiến, Huy chương kháng chiến.
+ Người có công giúp đỡ cách mạng, là người đã có thành tích giúp
đỡ cách mạng trong lúc khó khăn, nguy hiểm, bao gồm: Người được tặng Kỷ
niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước"; người
trong gia đình được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng
"Có công với nước" trước cách mạng tháng Tám năm 1945; người được tặng
Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến; người trong gia
đình được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến.
Tóm lại, dù ở bất kỳ thời kỳ, chế độ nào thì tiêu chí cơ bản để xác định
người có công đó là những cống hiến xuất sắc của họ không chỉ trong cuộc
đấu tranh bảo vệ, gìn giữ đất nước mà còn cả trong công cuộc xây dựng, đổi
mới và phát triển đất nước. Những người có công có cống hiến, hy sinh, có
công lao to lớn đối với đất nước đều được ghi nhận, tôn vinh và thể hiện sự
biết ơn thông qua những chính sách trợ cấp, ưu đãi về vật chất lẫn tinh thần.
Chính sách ưu đãi về chính trị, kinh tế, xã hội mà nhân văn sâu sắc. Nó là sự
thể hiện truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ ngàn đời nay.
Nó giáo dục cho thế hệ trẻ ý thức, trách nhiệm, lòng dũng cảm và tinh thần
phần đấu rèn luyện không ngừng để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước. Với chức năng của mình, Nhà nước ban hành chính sách
Ưu đãi xã hội và triển khai thực hiện chúng một cách tốt nhất, hiệu quả nhất.
Nhà nước đóng vai trò vừa là người lãnh đạo, thực hiện vừa là người định
hướng cho việc triển khai pháp luật, chính sách về ưu đãi xã hội, huy động
tối đa nguồn lực từ cộng đồng, xã hội để giúp đảm bảo cho người có công
được hưởng những quyền lợi của mình, cải thiện cuộc sống của họ, giúp họ
vượt qua khó khăn vươn lên và tiếp tục cống hiến cho đất nước trong công
cuộc đổi mới xây dựng tổ quốc.


23


1.3. Nội dung các bước thực hiện chính sách người có công
Để tổ chức thực hiện chính sách có hiệu quả cần phải tuân thủ một quy
trình chặt chẽ thống nhất về quy trình nhằm phản ánh các bước trong việc tổ
chức triển khai và thực hiện chính sách. Quy trình các bước đều có nhiệm vụ
rõ ràng phải có hiệu quả để tác động qua lại, nhằm đạt được mục tiêu tốt nhất
trong việc thực hiện chính sách, gồm các bước sau [Error! Reference source
not found.]:
1.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách người có
công với cách mạng
Để đạt được kết quả tốt và có hiệu quả trong tổ chức thực hiện chính
sách người có công với cách mạng, trước tiên cần phải tiến hành xây dựng kế
hoạch triển khai thực hiện một cách chi tiết, cụ thể, rõ ràng từ kế hoạch tổ
chức điều hành, kế hoạch về các nguồn lực, kế hoạch thời gian triển khai, kế
hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách phù hợp với tình hình thực tế của
địa phương; đồng thời phải đảm bảo tuân thủ theo đúng quan điểm, mục tiêu,
yêu cầu của chủ thể ban hành. Khi xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách
người có công với cách mạng cần quy định những nội dung cơ bản sau:
- Kế hoạch tổ chức điều hành: Dự kiến cơ quan chủ trì phải phân công
rõ trách nhiệm cho từng cơ quan, tổ chức, từng cán bộ, công chức trong thực
thi chính sách, tránh chồng chéo nhiệm vụ giữa cơ quan này với cơ quan
khác, cán bộ này với cán bộ khác.
- Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực: Dự kiến về cơ sở vật chất, các
công cụ, phương tiện kỹ thuật phục vụ tổ chức thực hiện, đảm bảo cung cấp
đủ nguồn lực tài chính, con người nhằm đảm bảo việc triển khai thực hiện
diễn ra được thuận lợi, mang lại hiệu quả.
- Kế hoạch thời gian thực hiện: Dự trù thời gian duy trì chính sách, thời

gian của các bước thực hiện chính sách từ phổ biến, tuyên truyền chính sách

24


×