Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học trong bộ môn giáo dục công dân khối 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.77 KB, 26 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

-1-


PGD&ĐT-T P. TRÀ VINH

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG THCS

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

NGUYỄN THỊ MINH KHAI

PHIẾU NHẬN XÉT, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN CỦA
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC GIÁO DỤC
Tên sáng kiến : Phương pháp sử dụng đồ dung dạy học trong bộ môn môn giáo
dục công dân khối 6 và khối 7.
Thời gian thực hiện: Tháng 9 năm 2018 đến tháng 04 năm 2019
Tác giả: Lê Văn Có

- Chức vụ: Giáo viên

Đơn vị công tác: Trường THCS Nguyễn Thị Minh Khai.
TỔ CHUYÊN MÔN
Nhận xét:

HỘI ĐỒNG KHGD TRƯỜNG
Nhận xét:


………………………………………

…………………………………………

………………………………………

…………………………………………

………………………………………

…………………………………………

Xếp loại ………………………

Xếp loại :………………………..

Ngày…..tháng…..năm2019

Ngày…..tháng…..năm 2019

Tổ Trưởng

Hiệu Trưởng

PHÒNG GD & ĐT TP TRÀ VINH
Nhận xét:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………......
Xếp loại:…………………………………….


-2-


Ngày …..tháng ….năm 2019
Trưởng Phòng

MỤC LỤC
A. Đặt vấn đề
I. Lí do chọn đề tài:....................................................................................................1
1. Có lí luận...............................................................................................................2
2. Có thực tiễn.........................................................................................................2-3
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu..................................................................3
III. Giới hạn đề tài......................................................................................................4
IV. Kế hoạch thực hiện..............................................................................................4
B. Phần nội dung:
I. Cơ sở lý luận...........................................................................................................4
II.



sở

thực

tiễn.......................................................................................................5
III.

Thực


trạng



những

mâu

thuẫn...........................................................................6
IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề.....................................................................6-10
V. Hiệu quả áp dụng.................................................................................................11
C. Kết luận:
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác giảng dạy, học tập...................................11-12
II. Khả năng áp dụng................................................................................................12
III. Bài học kinh nghiệm và hướng phát triển.....................................................12-13
IV. Đề xuất kiến nghị...............................................................................................14
Tài liệu tham khảo
-3-


A. Phần mở đầu:
I. Lí do chọn đề tài:
Môn GDCD là môn xã hội với phương pháp nghiên cứu là đi từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng. Mọi kết luận của nó đều rút ra được nhờ thực tiễn
và kiểm chứng bằng quan sát đồ dùng trực quan. Chính vì vậy trong các giờ dạy
môn GDCD cần phải có đồ dùng dạy học. Muốn phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh thì một trong những yếu tố quan trọng của người thầy là sử dụng đồ
dùng dạy học.
Qua đó cho thấy việc giảng dạy môn GDCD trong các trường THCS phải
gắn kết chặt chẽ với việc sử dụng ĐDDH (đồ dùng dạy học). Mặt khác việc sử

dụng ĐDDH môn GDCD có tác dụng to lớn trong việc tạo ra trực quan sinh động
cho quá trình phát triển tư duy của học sinh. Từ khi thực hiện đổi mới chương trình,
sách giáo khoa kéo theo sự đổi mới dạy học, môn GDCD cần được đáp ứng tương
đối đầy đủ, đồng bộ đến từng tiết, từng bài mang tính chính xác hiện đại. Đứng
trước tình hình đó đòi hỏi người giáo viên phải có lòng say mê nghề nghiệp, có
trình độ nghịêp vụ cao, trình độ chuyên môn vững vàng đặc biệt là khả năng thao
tác, vận dụng và sử dụng đồ dùng dạy học thành thạo khoa học để tiết dạy đạt hiệu
-4-


quả, tạo hứng thú học tập cho học sinh, theo quan điểm:“ Học mà chơi, chơi để
học” đáp ứng yêu cầu phương pháp dạy học mới “ Thầy chủ đạo, trò chủ động”. Là
một giáo viên được đào tạo chuyên môn GDCD, đã tham gia giảng dạy nhiều năm
tại trường THCS, tôi luôn trăn trở việc sử dụng ĐDDH trong giảng dạy nhằm phát
huy hiệu quả nhận thức của học sinh bổ sung cho học sinh những kĩ năng vận dụng
trong thực tế cuộc sống diễn ra hằng ngày và rèn luyện kĩ năng thao tác cho người
học sinh. Qua quá trình giảng dạy tôi đã rút ra một số giải pháp khi sử dụng đồ
dùng dạy học trong môn GDCD cấp THCS để đạt hiệu quả cao nên tôi đã chọn
vấn đề này làm đề tài nghiên cứu.

-5-


1. Có lí luận:
Hiện nay, đất nước ta đang “Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, thực hiện cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát
triển theo con đường xã hội chủ nghĩa” (NQ -TW Đảng Khóa IX), cùng
với sự kiện trên, hệ thống giáo dục nói chung , từng bậc học nói riêng, ra sức
phấn đấu thực hiện có hiệu quả việc đổi mới chương trình sách giáo khoa , đổi
mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng giáo dục theo chủ trương của

Đảng và Nhà nước, nhằm mục đích nâng cao trình độ hiểu biết của học sinh về mọi
mặt, đáp ứng “ mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn
diện” (lt -GD).
Vì vậy, để phát huy tính tích cực của học sinh thì việc sử dụng có hiệu quả
đồ dùng dạy học là điều kiện hết sức quan trọng giúp học sinh chiếm lĩnh các giá trị
tri thức, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật thơng qua việc nắm tri thức, thực hành
và rèn luyện trong và ngồi giờ học. Đây là vấn đề quan trọng hết sức cấp bách của
nghành và của bộ mơn.
2. Có thực tiễn:
Mơn học giáo dục cơng dân cung cấp cho học sinh một hệ thống chuẩn mực
lối sống phù hợp với u cầu của xã hội ở mức độ phù hợp với lứa tuổi, giúp học
sinh biết sống hồ nhập với cuộc sống hiện tại với tư cách là một cơng dân tích cực
và năng động; góp phần quan trọng để hình thành những phẩm chất cần thiết về
nhân cách con người Việt Nam nhằm đáp ứng u cầu của sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước và tăng cường khả năng hội nhập trong xu thế phát triển và tiến bộ của
thời đại. Tuy nhiên có một số học sinh chưa ngoan có thói quen lười biếng, quay
cóp trong học tập, lừa dối cha mẹ, thầy cơ, dọa nạt bạn bè, hay trốn học và lảng
tránh các hoạt động tập thể.
Như vậy, mơn GDCD cần phải đảm bảo cung cấp cho học sinh những
phương thức ứng xử về đạo đức, pháp luật, văn hố trong cuộc sống, hình thành ở
-6-


mỗi học sinh sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, hướng học sinh vào việc
thực hành trong cuộc sống hàng ngày các chuẩn mực và mẫu mực hành vi tích cực
mà bài học đặt ra; khơi dậy trong học sinh ý chí thể hiện sự thống nhất đó.
Cùng với những môn học khác, môn GDCD góp phần đào tạo những người
công dân mới vừa có tri thức khoa học vừa có năng lực hoạt động thực tiễn, có ý
thức trách nhiệm với bản thân, gia đình và đất nước. Từ đó các em thấy rõ trách
nhiệm của mình: Luôn luôn có ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp , Pháp luật,

biết tự rèn luyện bản thân để trở thành người công dân hữu ích cho quê hương, đất
nước.
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu:
Môn giáo dục công dân, nhằm giáo dục học sinh ,các chuẩn mực đạo đức
phù hợp với quy định xã hội, qua đó hình thành nhân cách con người. Trong giảng
dạy, từng bước phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, học sinh
tham gia tích cực quá trình học tập, để tự phát hiện và chiếm lĩnh tri thức, hình
thành kĩ năng và thái độ của học sinh.
Giúp học sinh nhận thức được: “học đi đôi với hành”; “Lí luận gắn liền
với thực tiễn”, giúp học sinh hứng thú trong học tập môn giáo dục công dân .
Người giáo viên phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo học tập
của học sinh. Bao gồm phương pháp mới sử dụng đồ dùng dạy học kết hợp với
phương pháp cổ truyền.
Đưa ra được số liệu ,sự kiện, bài tập tình huống , Xây dựng các tình huống
sắm vai sát với thực tế cuộc sống,..Để tạo sự chú ý và thu hút học sinh, người
giáo viên phải thường xuyên cập nhật tin tức thời sự, nắm bắt những thông tin, sự
kiện đã diễn ra ở địa phương ,trong nước và cả trên thế giới … , sự đổi mới đi
lên của quê hương đất nước .
Áp dụng các trò chơi gây hứng thú học sinh trong tiết học như: Thực hiện
các trò chơi qua chương trình dạy. Với phương pháp dạy học phát huy tính tích
-7-


cực, lấy học sinh làm trung tâm là phương pháp phù hợp với mục tiêu giáo dục
nhân cách, giúp người học khi tiếp thu tri thức, không bao giờ thụ động nhồi nhét
tri thức, mà luôn tự mình suy nghĩ , tiếp cận tri thức, rèn luyện phẩm chất năng lực,
phát huy được tính năng động sáng tạo của học sinh.
III. Giới hạn của đề tài:
Đề tài này được nghiên cứu và ứng dụng trong phạm vi môn giáo dục công
dân lớp 6, 7 chương trình Trung học cơ sở tại Trường trung học cơ sở Nguyễn Thị

Minh Khai, thành phố Trà Vinh. Phần chưa nghiên cứu kĩ là công dân 8 và công
dân 9.
IV. Kế hoạch thực hiện:
Chọn đề tài, lên kế hoạch: Tháng 8 năm 2018.
Thực hiện nghiên cứu và triển khai: Từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 4 năm 2019
B. Phần nội dung:
I. Cơ sở lí luận:
Đáp ứng yêu cầu mục tiêu giáo dục của Đảng và Nhà nước, nâng cao chất
lượng giáo dục, đổi mới phương pháp dạy và học là nhiệm vụ trọng tâm của ngành.
Trong giảng dạy môn giáo dục công dân không chỉ đơn giản truyền thụ kiến thức
cho học sinh, mà phải tổ chức cho học sinh có nhiều hoạt động trong học tập tham
gia các trò chơi để tạo sự hứng thú cho các em.
Môn GDCD ở trường THCS trước đây thường bị coi là môn học phụ nên các
giờ học thường diễn ra một cách đơn điệu, khô khan, phương pháp chủ yếu là
phương pháp thuyết trình. Trong giờ học, học sinh được hoạt động ít, thụ động, giờ
học không gây hứng thú, đồ dùng dạy học ít được sử dụng hoặc sử dụng một cách
hình thức. Nên đó chưa phải là phương pháp tích cực vì học sinh chưa thực sự có
cơ hội để thể hiện thái độ, lập trường của cá nhân mình. Những giờ học như vậy,
học sinh ít có khả năng sáng tạo. Kiến thức học tập của học sinh ngày càng nặng
nề, việc dạy học không thu hút được học sinh học tập dẫn đến kết quả học tập giảm
-8-


sút. Sử dụng đồ dung dạy học giúp bài giảng sinh động, khắc sâu được kiến thức đã
học, các em tự do thể hiện năng lực hiểu biết của mình mà không bị gò bó. Các em
biết lên án những hành vi sai trái, noi theo những tấm gương tốt, thực hiện tốt đạo
đức và tuân theo pháp luật.
Rèn luyện kĩ năng giao tiếp, kĩ năng ứng xử và xử lí tình huống trong thực tế
cuộc sống.
II. Cơ sở thực tiễn:

Như chúng ta thấy, đạo đức xã hội đang bị xuống cấp, tội phạm của những
người chưa thành niên có chiều hướng gia tăng, một trong những nguyên nhân dẫn
đến các em có lối sống buông thả, thiếu văn hoá, phạm tội là thiếu hiểu biết về các
giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và sự hiểu biết của các em còn hạn
chế. Vì vậy giáo dục đạo đức, pháp luật trong nhà trường có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng góp phần quan trọng trong việc giáo dục và rèn luyện con người ý thức tuân
theo những chuẩn mực của đạo đức xã hội và tuân theo pháp luật là hết sức cần
thiết.
Trước đây, phần lớn giáo viên dạy bộ môn này là giáo viên chủ nhiệm hoặc
những giáo viên những bộ môn khác được phân công giảng dạy nên họ không có
điều kiện và ít quan tâm đến việc đầu tư cho bài giảng, chưa có kiến thức sâu rộng
và kinh nghiệm khai thác và sử dụng đồ dùng dạy các tiết học. Do đó hiệu quả giờ
dạy chưa cao, các em hiểu biết về các chuẩn mực đạo đức, pháp luật còn mơ hồ.
Những năm gần đây, phần lớn giáo viên dạy bộ môn này đã được đào tạo
chính qui nên họ rất quân tâm đến việc đầu tư cho từng tiết dạy, đặc biệt là họ rất
quan tâm đến việc sử dụng đồ dùng trực quan và áp dụng các phương tiện hiện đại
trong giảng dạy môn GDCD. Chính vì lẽ đó mà chất lượng và hiệu quả giờ dạy
được nâng cao hơn trước.
III. Thực trạng và những mâu thuẫn:

-9-


Học sinh trường THCS Nguyễn Thị Minh Khai, là con em dân tộc nên các
em còn hạn chế trong học tập. Nếu giáo viên không hướng dẫn cách học ở nhà
không dặn dò kĩ sau tiết dạy, thì chắc chắn trong tiết học sau học sinh sẽ thụ động,
chỉ tiếp thu những gì mà giáo viên chỉ truyền đạt, không tham gia tích cực trong các
hoạt động, không nêu lên được nhận xét, ý kiến của mình về những vấn đề trong
thực tiễn cuộc sống, những tình huống gặp trong thực tế, không đóng góp xây
dựng bài, dẫn đến tiết học không hứng thú sinh động. Do đó, việc giảng dạy và học

tập môn GDCD phải đạt được cái đích là nắm được chính xác kiến thức đã học đến
mức làm chủ được nó và sử dụng thành thạo vào trong hoạt động nhận thức cũng
như hoạt động thực tiễn. Chỉ có như thế mới đạt đến trình độ nắm vững trí thức
IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề:
+ Đồ dùng dạy học là gì ?
Được hiểu là những phương tiện, thiết bị vật chất được sử dụng trong quá
trình dạy học như Tư liệu, tranh, ảnh, bản đồ, biểu đồ, sơ đồ, bản thống kê, số liệu,
phim tình huống, phim tư liệu, trò chơi, phóng sự, sắm vai…Ngoài ra, ta có thể sử
dụng một số đồ dùng thông thường trong gia đình, trong sinh hoạt: Dùng để sắm
vai, chơi trò chơi.
+ Chức năng của đồ dùng dạy học:
Các kiểu và loại đồ dùng dạy học tuy có khác nhau nhưng chức năng của
chúng là tích hợp và nhận thức. Mỗi đồ dùng dạy học đều có thể thực hiện các chức
năng sau:
- Thông báo hay trình bày thông tin.
- Giới thiệu vào bài.
- Minh họa, giải thích, mô tả trực quan.
- Tổ chức và tiến hành các hoạt động.
- Kết thúc bài học và giáo dục học sinh.
+ Tác dụng của đồ dùng dạy học:
-10-


Làm tăng tính hấp dẫn đối với nội dung học tập, gây hứng thú học tập ở học
sinh.
Làm cho việc học trở nên dễ dàng hơn, thuận lợi hơn. Các đồ dùng dạy học
là nguồn cung cấp các chất liệu để học sinh khai thác nội dung học tập một cách
tích cực, tự giác. Trong dạy học đổi mới, học sinh hoạt động dưới sự hướng dẫn của
giáo viên, nếu không có đồ dùng, thiết bị dạy học thì việc tổ chức các hoạt động
của học sinh sẽ gặp rất nhiều khó khăn, do đó kết quả học tập không đạt yêu cầu

mong muốn.
+ Sử dụng đồ dùng dạy học môn GDCD theo hướng đổi mới:
Việc sử dụng đồ dùng dạy học bộ môn phải tuân theo những yêu cầu nhất
định. Để việc sử dụng có hiệu quả, tránh xu hướng lạm dụng hoặc sử dụng một
cách hình thức, trước hết đồ dùng và sử dụng đồ dùng phải gắn bó hữu hiệu với
phương pháp dạy học, như một thành tố của phương pháp dạy học. Mỗi hoạt động
dạy học được xây dựng trên cơ sở vận dụng một phương pháp dạy học cụ thể, có
phương tiện dạy học phù hợp để hỗ trợ cho hoạt động đó. Vì vậy sử dụng phương
tiện dạy học phải đúng lúc, đúng chỗ, kịp thời, tránh đưa ra một cách tuỳ tiện.
Một yêu cầu rất quan trọng là đồ dùng dạy học phải có tác dụng kích thích
học sinh tư duy, suy nghĩ, tìm tòi, không phải chỉ như một phương tiện minh hoạ
nội dung bài học. Khi sử dụng thiết bị, phương tiện dạy học là giáo viên cung cấp
cho học sinh những chất liệu cần thiết để học sinh tìm tòi, tự kiến tạo tri thức, kỹ
năng trên cơ sở làm việc với nguồn thông tin từ các phương tiện dạy học mà giáo
viên trình bày, giới thiệu, học sinh phải có ý kiến nhận xét, đánh giá về nội dung,
tính chất sự việc, rút ra kết luận bài học cần thiết.
Mặt khác đổi mới phương pháp dạy học không chỉ là đổi mới phương tiện và
không có nghĩa là dùng nhiều phương tiện dạy học, mà điều quan trọng là sử dụng
phương tiện dạy học một cách hợp lý, có hiệu quả, tránh lạm dụng hoặc sử dụng

-11-


một cách hình thức, cần tránh xu hướng sử dụng đồ dùng dạy học một cách tràn
lan, không có chủ đích, mà mỗi đồ dùng dạy học đưa ra cần được khai thác triệt để.
+ Các bước tiến hành sử dụng đồ dùng trực quan:
Đồ dùng trực quan trong các tiết dạy hiện nay rất đa dạng và phong phú,
trong giai đoạn hiện nay khi khoa học công nghệ đang phát triển, mạng Intenet
đang được sử dụng ngày càng rộng rãi. Vì vậy trong một tiết dạy giáo viên có thể
sử dụng nhiều hình thức trực quan khác nhau vào những mục đích khác nhau nhằm

làm cho bài giảng thêm hấp dẫn, đạt hiệu quả cao. Từ thực tiễn giảng dạy tôi thấy
có những hình thức trực quan như sau:
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học:
Để sử dụng đồ dùng trực quan đạt hiệu quả cao trong mỗi bài dạy học, người
giáo viên dạy GDCD phải chuẩn bị đồ dùng trực quan sử dụng trong tiết dạy. Do
những đồ dùng trực quan sử dụng trong các tiết dạy đạo đức, pháp luật ít có sẵn nên
việc chuẩn bị đồ dùng cho một tiết dạy khá công phu đòi hỏi giáo viên phải có sự
đầu tư về mặt thời gian, công sức, trí tuệ và lòng nhiệt tình.
Trước hết người giáo viên phải xác định xem trong tiết dạy này cần sử dụng
loại đồ dùng gì? bảng, phấn, giấy, bút, thước; tư liệu, tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ, sơ
đồ; phiếu học tập, bảng phụ…hay các loại phương tiện kỹ thuật nghe nhìn như máy
băng đĩa ghi âm, máy chiếu các bản in, máy băng đĩa hình, các phương tiện đa
chức năng như máy tính, máy chiếu, các phần mềm dạy học trên máy vi tính…
Khi đã xác định được bài dạy này cần sử dụng những loại đồ dùng nào thì người
giáo viên sẽ bắt tay vào công việc chuẩn bị.
Ví dụ1: Khi dạy tiết ngoại khóa : “An toàn giao thông” (GDCD 6), tôi thấy ở bài
này cần sử dụng những đồ dùng sau:
- Máy vi tính.
- Máy chiếu Projector.
- Hình vẽ các biển báo, đèn tín hiệu….
-12-


- Phiếu học tập, bảng phụ, bút dạ.
- Băng hình, tranh ảnh về các tình huống đi đường
- Thông tin, số liệu, hình ảnh về tình hình TTATGT.
Từng bài dạy giáo viên cần biết trong phòng thuyết bị của nhà trường đã có
những đồ dùng nào, nếu thiếu thì tiến hành làm và sưu tầm, cố gắng vận động học
sinh cùng tham gia: vẽ tranh, sưu tầm tranh ảnh, tìm số liệu, khi cần có thể tự quay
hoặc nhờ đồng nghiệp quay những đoạn phim tư liệu ngắn hoặc các tình huống.

- Nghiên cứu

Biển báo nguy hiểm

Biển báo cấm

Đi hàng ba, hàng tư

Biển báo chỉ dẫn

Đá bóng dưới lòng đường

-13-


Tuyên truyền An toàn giao thông

Cảnh sát giao thông làm nhiệm vụ

Khi đã có những đồ dùng cần sử dụng, giáo viên treo lần lượt từng đồ dùng
lên bảng đặt câu hỏi cho học sinh thảo luận nhóm và trả lời , các nhóm nhận xét bổ
sung cho nhau.Giáo viên chốt lại và nhận xét chung qua đó khi có đồ dùng dạy học
học sinh học rất tích cực.Để dạy tốt giáo viên nên tiến hành nghiên cứu thật kỹ từng
ký hiệu trên bản đồ, hình vẽ, tìm hiểu chi tiết nội dung, ý nghĩa của từng bức tranh,
hình vẽ, ý nghĩa của những số liệu để khi lên lớp giảng dạy được tốt. Trong quá
trình sưu tầm tư liệu tôi cố gắng tích lũy và sắp xếp chúng theo từng chủ đề khác
nhau như: chủ đề về An toàn giao thông, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng ngừa
lây nhiễm HIV/AIDS , Thanh niên, Hôn nhân gia đình, Hội nhập quốc tế, Bộ máy
Nhà nước, các chuẩn mực đạo đức. Trong từng chủ đề có các thể loại tư liệu khác
nhau: Phim tư liệu, tình huống, tranh ảnh, mẫu chuyện…những tư liệu này không

chỉ dạy học ở lớp 6,7 mà còn những lớp khác tùy theo chủ đề để lựa chọn. Việc sắp
xếp này cũng giúp cho giáo viên dễ dàng trong việc lấy đồ dùng khi cần thiết, giáo
viên có thể trình chiếu trực tiếp, thiết kế giáo án điện tử hoặc photo ra giấy để dạy.
Để làm được những điều đã trình bày thì người giáo viên phải có những am
hiểu tình hình chính trị xã hội của địa phương, đất nước, phải cập nhật thông tin
-14-


trên đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí, trên mạng Internet để kịp thời bổ sung
những tranh ảnh, bài viết, số liệu mới để đảm bảo tính chính xác, cập nhập của bài
giảng.
V. Hiệu quả áp dụng:
Học sinh có biểu hiện khá tốt , gặp thầy cô biết chào hỏi, Giảm tình trạng
vô lễ với thầy côâ,tình trạng học sinh gây gỗ đánh nhau, nói tục chửi thề giảm
hẳn. HS có ý thức tôn trọng kỉ luật, giữ gìn vệ sinh cá nhân, trương lớp, ăn quà
bánh biết bỏ vào thùng rác. Biết làm nhiều việc tốt nhặt được của rơi trả lại cho
người mất.
Bảng so sánh kết quả học tập của học sinh khối 6, khối 7
2019 kỳ I, năm học 2018-2019 học kỳ II.
Học lực
Giỏi
Khá
TB
SL % SL % SL %
Năm 18-2019 kỳ I
103 72.0 27 18.9 9
6.3
Khối 6 TS: 143 HS
Năm 2018-2019 kỳ II
108 75,5 33 23,1 2 1,4

Khối 6 TS: 143 HS
Năm 2018-2019 kỳ I Khối 7 89 59,3 45 30 12
8
TS: 150 HS
Năm 2018-2019 kỳ II Khối 96 64,0 47 31,3 7 4,7
7 TS: 150 HS

năm học 2018 –
Yếu
Kém
SL % SL %
3
2,1 1
0,7
0

0

0

0

3

2

1

0,7


0

0

0

0

Qua thống kê chất lượng bộ môn tôi nhận thấy việc sử dụng đồ dùng
trực quan trong các tiết dạy môn GDCD đặc biệt là dạy những bài pháp luật. Học
sinh rất say mê hứng thú khi tìm hiểu pháp luật. Các em hiểu bài nhanh và nắm bài
vững. Số học sinh hiểu và nắm được bài ngay tại lớp, các em yêu thích và say mê
bộ môn hơn, số học sinh giỏi và khá ngày càng tăng, số học sinh yếu cũng giảm
dần.
C. Kết luận:
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác giảng dạy, học tập:

-15-


Việc áp dụng phương pháp sử dụng đồ dùng trong tiết học sẽ giúp các em
học sinh hình thành các kỹ năng xã hội và các phẩm chất nhân cách cần thiết như:
Kỹ năng tổ chức, quan sát, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng hợp tác, có trách
nhiệm cao, tinh thần đồng đội, sự quan tâm và mối quan hệ khăng khít, sự ủng hộ
cá nhân và khuyến khích tinh thần học hỏi lẫn nhau.
Thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân chủ và nhân văn: sử dụng đồ dùng dạy
học sẽ tạo cơ hội bình đẳng cho mỗi cá nhân người học được khẳng định mình và
được phát triển. Nhóm làm việc sẽ khuyến khích học sinh giao tiếp với nhau và như
vậy sẽ giúp cho những trẻ em nhút nhát, thiếu tự tin, cô độc có nhiều cơ hội hòa
nhập với lớp học. Thêm vào đó, sử dụng đồ dung dạy học còn tạo ra môi trường

hoạt động mang bầu không khí thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ trên cơ
sở cố gắng hết sức và trách nhiệm cao của mỗi cá nhân. Học sinh có cơ hội được
tham gia tích cực vào hoạt động. Mọi ý kiến của các em đều được tôn trọng và có
giá trị như nhau, được xem xét, cân nhắc cẩn thận. Do đó, dạy và học theo phương
pháp này sẽ khắc phục tình trạng áp đặt.
II. Khả năng áp dụng:
- Sáng kiến được áp dụng cho đối tượng học sinh khối 6, 7 trường THCS
nguyễn thị minh Khai Thành Phố Trà Vinh từ tháng 9 năm học 2018 đến tháng 04
năm 2019
- Sáng kiến này cũng áp dụng được trong chương trình dạy học cấp THCS ở
các trường khác.
III. Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển:
Qua thời gian giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp ở trường và các trường bạn
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bản thân tôi đã rút ra những kinh nghiệm để có
thể sử dụng tốt đồ dùng dạy học và mang lại hiệu quả cao là:
Một là: Sử dụng phương tiện dạy học phải đúng lúc, đúng chỗ, kịp thời
tránh đưa ra một cách tuỳ tiện.
-16-


Hai là: Khi sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên phải suy nghĩ, tìm tòi đảm
bảo vừa phù hợp với lứa tuổi học sinh nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu sách giáo khoa,
tránh đưa những tư liệu hình ảnh phản cảm, thiếu tính giáo dục.
Ba là: Phải hiểu và biết tường tận những chi tiết cần thiết trong mỗi đồ dùng
trực quan để phát huy hết tác dụng của những đồ dùng, phương tiện trực quan đó.
Bốn là: Phải xem đồ dùng, phương tiện trực quan như một loại hình kiến
thức riêng biệt cần được nghiên cứu, khai thác, sử dụng chứ không phải là phương
tiện trực quan minh hoạ đơn thuần. Trên cơ sở làm việc với nguồn thông tin từ các
phương tiện dạy học giáo viên cung cấp cho học sinh những chất liệu cần thiết để
các em tìm tòi, tự kiến tạo tri thức, kĩ năng nhận xét, đánh giá về nội dung, tính

chất sự việc, rút ra kết luận, bài học cần thiết.
Năm là: Giáo viên không nên lạm dụng các phương tiện, đồ dùng trực quan.
Cần chọn những đồ dùng phù hợp, khai thác hiệu quả của nó, tránh tình trạng học
sinh mãi mê xem ảnh, xem phim mà quên mất nhiệm vụ của mình. Việc sử dụng
đồ dùng trực quan phải được kết hợp hài hoà với các phương pháp khác như thuyết
trình, đàm thoại, nêu vấn đề bằng cách đặt câu hỏi, giải thích, phân tích và so
sánh… có như vậy hiệu quả sử dụng đồ dùng, phương tiện dạy học mới đạt hiệu
quả cao.
Sáu là: Để sử dụng tốt và có được những đồ dùng trực quan có giá trị về
thẩm mĩ, nội dung, mang tính giáo dục cao, người giáo viên cần phải thường xuyên
đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, tìm hiểu những thông tin trên mạng Internet,
tìm hiểu tình hình địa phương để nắm bắt kịp thời những tin tức thời sự mới nhất,
chính xác nhất để đưa vào bài giảng hợp lí nhất và hay nhất. Bên cạnh những điều
đạt được bản thân cũng gặp phải một số khó khăn:
- Điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn, các thiết bị phục vụ cho giảng dạy
còn hạn chế như máy tính, máy chiếu, phòng chức năng…

-17-


- Việc chuẩn bị tốt cho 1 tiết dạy có sử dụng đồ dùng dạy học 1 cách hiệu
quả người giáo viên phải hao tốn rất nhiều thời gian, công sức, có khi cả tiền bạc.
- Kỹ năng sử dụng, nhận xét, đánh giá, rút ra bài học từ đồ dùng dạy học của
học sinh còn yếu.
- Số lượng giáo viên môn GDCD trong các nhà trường hạn chế nên việc học
tập rút kinh nghiệm lẫn nhau còn nhiều khó khăn.
- Đồ dùng dạy học và thiết bị hiện đại còn mới mẻ đối với nhiều giáo viên.
IV. Phần đề xuất, kiến nghị:
- Đầu tư thêm trang thiết bị dạy và học, nhất là các dụng cụ học tập trực
quang.

- Cần cung cấp thêm các dụng cụ như tranh ảnh, máy chiếu ...
- Giáo viên giảng dạy bộ môn GDCD cần có tủ sách kiến thức pháp luật.
- Tăng cường tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề theo mô hình liên trường,
cấp Thành Phố, để giáo viên có điều kiện giao lưu học hỏi lẫn nhau trong việc vận
dụng các phương pháp dạy học.
Phường 8, ngày 25 tháng 5 năm 2019
Người viết
Lê Văn có

-18-


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Thông tin sự kiện, phóng sự, truyền thanh, báo chí...
- Tranh ảnh về an toàn giao thông , tranh bảo vệ môi trường , phòng chống tệ nạn
-xã hội, tranh phòng cháy chữa cháy.
- Sách giáo khoa công dân 6, sách giáo viên công dân 6: Nhiều tác giả
- Sách giáo khoa công dân 7, sách giáo viên công dân7: Nhiều tác giả
- Sách giáo khoa công dân 8, sách giáo viên công dân 8: Nhiều tác giả
- Sách giáo khoa công dân 9, sách giáo viên công dân 9: Nhiều tác giả
-Sách Giáo viên GDCD 6,7,8,9 Nhiều tác giả
- Hướng dẫn thực hiện chuẩn kén thức, kỹ năng môn GDCD THCS Nhà xuất bản
GD Việt nam năm 2010
Thiết kế bài giảng GDCD 6,7,8,9: Tác giả: Hồ Thanh Diện
- Luật giáo dục....
- Văn kiện Đại Hội Đảng VIII, IX, X.

-19-



MỤC LỤC
A. Đặt vấn đề
I. Lí do chọn đề tài:....................................................................................................1
1. Có lí luận...............................................................................................................2
2. Có thực tiễn.........................................................................................................2-3
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu..................................................................3
III. Giới hạn đề tài......................................................................................................4
IV. Kế hoạch thực hiện..............................................................................................4
B. Phần nội dung:
I. Cơ sở lý luận...........................................................................................................4
II.



sở

thực

tiễn.......................................................................................................5
III.

Thực

trạng



những

mâu


thuẫn...........................................................................6
IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề.....................................................................6-10
V. Hiệu quả áp dụng.................................................................................................11
C. Kết luận:
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác giảng dạy, học tập...................................11-12
II. Khả năng áp dụng................................................................................................12
III. Bài học kinh nghiệm và hướng phát triển.....................................................12-13
IV. Đề xuất kiến nghị...............................................................................................14
Tài liệu tham khảo

-20-


-21-


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ TRÀ VINH
TRƯỜNG THCS NGUYỄN THỊ MINH KHAI
------------------------------------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học trong bộ môn giáo dục công dân khối 6
và khối 7.

Đề tài thuộc lĩnh vực chuyên môn: GDCD
Họ và tên người thực hiện: Lê Văn Có
Chức vụ: Giáo viên
Sinh hoạt tổ chuyên môn: Tổ :Văn, Sử, Địa,GDCD


Phường 8, tháng 05 năm 2019

-22-


PGD&ĐT-T P. TRÀ VINH

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG THCS

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

NGUYỄN THỊ MINH KHAI

PHIẾU NHẬN XÉT, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN CỦA
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC GIÁO DỤC
Tên sáng kiến : Phương pháp sử dụng đồ dung dạy học trong bộ môn môn giáo
dục công dân khối 6 và khối 7.
Thời gian thực hiện: Tháng 9 năm 2018 đến tháng 04 năm 2019
Tác giả: Lê Văn Có

- Chức vụ: Giáo viên

Đơn vị công tác: Trường THCS Nguyễn Thị Minh Khai.
TỔ CHUYÊN MÔN
Nhận xét:

HỘI ĐỒNG KHGD TRƯỜNG

Nhận xét:

………………………………………

…………………………………………

………………………………………

…………………………………………

………………………………………

…………………………………………

Xếp loại ………………………

Xếp loại :………………………..

Ngày…..tháng…..năm2019

Ngày…..tháng…..năm 2019

Tổ Trưởng

Hiệu Trưởng

PHÒNG GD & ĐT TP TRÀ VINH
Nhận xét:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………......
Xếp loại:…………………………………….
Ngày …..tháng ….năm 2019
Trưởng Phòng
-23-


BÁO CÁO TÓM TẮT
1.Tên sáng kiến: Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học trong bộ môn Giáo dục
công dân khối 6 và khối 7.
2.Mục tiêu của sáng kiến: Tìm ra tác dụng tích cực nhất của việc sử dụng đồ dùng
dạy học trong tiết học, đồng thời tìm cách hạn chế được những yếu tố chưa tích cực
trong giảng dạy để quá trình dạy học đạt hiệu quả cao.
3.Mô tả nội dung sáng kiến:
+ Đồ dùng dạy học là: được hiểu là những phương tiện, thiết bị vật chất được
sử dụng trong quá trình dạy học như Tư liệu, tranh, ảnh, bản đồ, biểu đồ
+ Tác dụng của đồ dùng dạy học:
Làm tăng tính hấp dẫn đối với nội dung học tập, gây hứng thú học tập ở học
sinh.
Làm cho việc học trở nên dễ dàng hơn, thuận lợi hơn. Các đồ dùng dạy học
là nguồn cung cấp các chất liệu để học sinh khai thác nội dung học tập một cách
tích cực, tự giác
+ Sử dụng đồ dùng dạy học môn giáo dục công dân theo hướng đổi mới
Việc sử dụng đồ dùng dạy học bộ môn phải tuân theo những yêu cầu nhất
định. Để việc sử dụng có hiệu quả, tránh xu hướng lạm dụng hoặc sử dụng một
cách hình thức
Trước hết người giáo viên phải xác định xem trong tiết dạy này cần sử dụng
loại đồ dùng gì? Bảng, phấn, giấy, bút, thước; tư liệu, tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ, sơ
đồ; phiếu học tập, bảng phụ…
Ví dụ: Khi dạy tiết ngoại khóa : “An toàn giao thông” Giáo dục công dân 6, tôi thấy

ở bài này cần sử dụng những đồ dùng sau:
- Máy vi tính.
- Máy chiếu Projector.
- Hình vẽ các biển báo, đèn tín hiệu….
-24-


- Phiếu học tập, bảng phụ, bút dạ.
- Băng hình, tranh ảnh về các tình huống đi đường
- Thông tin, số liệu, hình ảnh về tình hình trật tự an toàn giao thông.
Từng bài dạy giáo viên cần biết trong phòng thuyết bị của nhà trường đã có
những đồ dùng nào, nếu thiếu thì tiến hành làm và sưu tầm, cố gắng vận động học
sinh cùng tham gia: vẽ tranh, sưu tầm tranh ảnh, tìm số liệu, khi cần có thể tự quay
hoặc nhờ đồng nghiệp quay những đoạn phim tư liệu ngắn hoặc các tình huống.
- Nghiên cứu

Khi đã có những đồ dùng cần sử dụng, giáo viên treo lần lượt từng đồ dùng
lên bảng đặt câu hỏi cho học sinh thảo luận nhóm và trả lời , các nhóm nhận xét bổ
sung cho nhau.Giáo viên chốt lại và nhận xét chung qua đó khi có đồ dùng dạy học
học sinh học rất tích cực.Để dạy tốt giáo viên nên tiến hành nghiên cứu thật kỹ từng
ký hiệu trên bản đồ, hình vẽ, tìm hiểu chi tiết nội dung, ý nghĩa của từng bức tranh,
hình vẽ, ý nghĩa của những số liệu để khi lên lớp giảng dạy được tốt.
4.Phạm vi áp dụng: Giải pháp này được áp dụng tại trường THCS nơi tôi công tác.
5. Thời gian áp dụng:Sáng kiến được công nhận trong tổ chuyên môn và đã áp
dụng trong học kỳ II năm học 2018 - 2019
Thực hiện nghiên cứu và triển khai: Từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 4 năm 2019
6. Hiệu quả: Bảng so sánh kết quả học tập của học
2018 – 2019 kỳ I, năm học 2018-2019 học kỳ II.
Học lực
Giỏi

Khá
SL % SL %
Năm 18-2019 kỳ I
103 72.0 27 18.9
Khối 6 TS: 145 HS
-25-

sinh khối 6, khối 7 năm học
TB
SL %
9
6.3

Yếu
Kém
SL % SL %
3
2,1 1
0,7


×