Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

ĐẶC điểm NGỮ NGHĨA và kết TRỊ của NHÓM TÍNH từ CHỈ đặc điểm về LƯỢNG của sự vật TRONG TIẾNG VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.84 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG

ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA VÀ KẾT TRỊ
CỦA NHÓM TÍNH TỪ CHỈ ĐẶC ĐIỂM VỀ LƯỢNG
CỦA SỰ VẬT TRONG TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9.22.90.20

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ

HÀ NỘI - 2020


Luận án được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS LÊ THỊ LAN ANH
2. GS.TS NGUYỄN VĂN HIỆP

Phản biện 1: GS.TS Đinh Văn Đức
Trường ĐHKHXH&NV - ĐHQG Hà Nội
Phản biện 2: GS.TS Nguyễn Văn Khang
Viện Ngôn ngữ học
Phản biện 3: GS.TS Đỗ Việt Hùng
Trường ĐHSP Hà Nội



Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường tại:
Vào hồi .......... giờ ......phút, ngày .... tháng .... năm 2020

Có thể tìm hiểu Luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Hà Nội
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
I. ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nghiên cứu kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng trong tiếng Việt,
(2016), Đề tài NCKH Cấp Cơ sở, Trường Đại học Hồng Đức.
II. CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC
1. Nguyễn Thị Thanh Hương (2013), Đặc điểm tính từ chỉ lượng trong Truyện Kiều
của Nguyễn Du, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống số 8 /2013, tr 43-46.
2. Nguyễn Thị Thanh Hương (2016), Kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về
lượng của sự vật trong Truyện Kiều – Nguyễn Du, Tạp chí Khoa học Trường
Đại học Hồng Đức, số 31, tr. 125-134.
3. Nguyễn Thị Thanh Hương (2017), Sự chuyển nghĩa và thay đổi kết trị của nhóm
tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật trong Truyện Kiều – Nguyễn Du, Tạp chí
Khoa học Trường Đại học Hồng Đức - số đặc biệt, tr.124-131.
4. Nguyễn Thị Thanh Hương (2017), Kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về
lượng của sự vật trong tiếng Việt, Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 4
(48), tr. 54 - 60.
5. Nguyễn Thị Thanh Hương (2017), Kết trị và sự thay đổi kết trị của nhóm tính
từ chỉ đặc điểm về lượng trong tiếng Việt, Tạp chí Từ điển học & Bách khoa
thư, số 6 (50), tr. 21- 27.
6. Nguyễn Thị Thanh Hương (2019), Sự chuyển nghĩa của nhóm tính từ chỉ đặc

điểm về lượng của sự vật trong tiếng Việt, Hội thảo ngữ học toàn quốc 2019,
tr.287-296.


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cũng như ở các ngôn ngữ khác, tính từ là từ loại có số lượng lớn và chiếm
vị trí quan trọng trong tiếng Việt. Ngoài những tiểu loại tính từ chỉ đặc điểm khác,
nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật đóng một vai trò không nhỏ làm nên
sự phong phú và đa dạng của tính từ nói riêng và từ loại tiếng Việt nói chung.
1.2. Lí thuyết kết trị là một trong những lí thuyết quan trọng về ngữ pháp của ngôn
ngữ học hiện đại. Lí thuyết này đem đến một hướng tiếp cận mới, tiếp cận cú pháp theo
đường hướng ngữ nghĩa, chức năng. Nó góp phần giải quyết những vấn đề cần yếu đối
với ngữ pháp tiếng Việt, đặc biệt là mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và ngữ pháp trong sự
hiện thực hóa ngôn ngữ.
1.3. Sau khi ra đời, lí thuyết kết trị đã được phát triển và ứng dụng rộng rãi trong
nghiên cứu ngữ pháp, nghiên cứu đặc điểm từ loại của nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Trên thế giới đã có khá nhiều công trình vận dụng lí thuyết kết trị nghiên cứu một
cách có kết quả hệ thống từ loại mà đầu tiên và trước hết là động từ. Nằm trong trào
lưu chung của ngôn ngữ học thế giới, ở Việt Nam, những năm gần đây lí thuyết kết trị
đã nhanh chóng được vận dụng trong một số công trình nghiên cứu. Nhưng với nhóm
TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt dưới ánh sáng của lí thuyết kết trị thì chưa có
một công trình khoa học chuyên sâu nào nghiên cứu đầy đủ và toàn diện.
Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề: Đặc điểm ngữ nghĩa và kết trị
của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật trong tiếng Việt làm đề tài
nghiên cứu trong luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ đặc điểm ngữ nghĩa và kết trị của nhóm TTCĐĐVL của sự vật trong

tiếng Việt, từ đó khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa ngữ nghĩa và kết trị của nhóm
tính từ này trong sự hiện thực hóa ngôn ngữ.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Xây dựng khung lí thuyết làm cơ sở cho việc triển khai đề tài: Lí thuyết kết trị,
lí thuyết ngữ nghĩa và lí thuyết về TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt.
- Phân tích và mô tả đặc điểm ngữ nghĩa và kết trị của nhóm TTCĐĐVL của sự
vật trong tiếng Việt khi dùng với nghĩa gốc.
- Phân tích và mô tả sự phát triển nghĩa và thay đổi kết trị của nhóm TTCĐĐVL
trong tiếng Việt.


2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và phạm vi nguồn ngữ liệu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đặc điểm ngữ nghĩa và kết trị của
TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt trong 55 nguồn ngữ liệu ở hai loại hình văn
bản thuộc hai phong cách khác nhau: khoa học và nghệ thuật.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án áp dụng một số phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau: Phương pháp
miêu tả kết hợp với phương pháp phân tích cú pháp; thủ pháp mô hình hóa, so sánh
và thống kê, phân loại.
5. Đóng góp của luận án
5.1. Về mặt lí luận
Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về ngữ nghĩa và kết trị của nhóm
TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt. Thông qua việc nghiên cứu, luận án thêm một bước
làm rõ hơn lí thuyết về kết trị và ngữ nghĩa trong sự tương tác lẫn nhau. Đồng thời, kết quả
nghiên cứu của luận án cũng góp thêm tiếng nói minh chứng cho sự tiến bộ của đường
hướng nghiên cứu ngữ pháp hiện đại: ngữ pháp gắn liền với ngữ nghĩa.
5.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu sẽ là những đóng góp thiết thực trong công việc nghiên cứu
và học tiếng Việt, cụ thể như: giúp những người nghiên cứu về cú pháp và ngữ

nghĩa có được cái nhìn sâu sắc hơn về tính từ; góp phần vào việc phân tích, giải
thích ngữ nghĩa của tính từ trong việc biên soạn từ điển, sách dạy tiếng Việt cho
người Việt Nam và người nước ngoài.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và nguồn ngữ liệu khảo sát luận
án gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan tính hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết;
Chương 2: Đặc điểm ngữ nghĩa và kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của
sự vật trong tiếng Việt khi dùng với nghĩa gốc; Chương 3: Sự phát triển ngữ nghĩa và
thay đổi kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật trong tiếng Việt.


3
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và kết trị của từ
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu về nghĩa của từ
Trên thế giới, việc nghiên cứu nghĩa của từ đã được các nhà ngôn ngữ học đặc biệt
quan tâm. Người đầu tiên phải kể đến là Michel Bréal - với công trình: “Essai de
Sémantique (Science des signification, 1877), tiếp đến F.de Saussure (1916), C.K.
Ogden và I.A. Richards (1923), G. Stern (1931), V.A. Zveginxev (1957), S. Ullmann
(1962), John Lyons (1977).... Bên cạnh đó, G. Lakoff, M. Johnson, M. Turner, C.
Fillmore, V. Evans, M. Green ... cũng quan tâm và nghiên cứu nghĩa dưới góc độ ngôn
ngữ học tri nhận.
Ở Việt Nam, các nhà ngôn ngữ học đã tiếp thu chọn lọc những thành tựu nghiên
cứu về nghĩa của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới. Ở góc độ ngôn ngữ học truyền
thống, người nghiên cứu sớm nhất và có nhiều công trình về lí thuyết nghĩa của từ là
Đỗ Hữu Châu (1998), tiếp đó là Nguyễn Thiện Giáp (2005), Lê Quang Thiêm (2008),
Đỗ Việt Hùng (2014)… Ở góc độ ngôn ngữ học tri nhận, các tác giả như: Nguyễn
Đức Tồn, Lý Toàn Thắng, Trần Văn Cơ, Nguyễn Văn Hiệp… cũng nghiên cứu về

nghĩa của từ, đặc biệt sự chuyển nghĩa của từ. Dù dưới góc độ khác nhau song về cơ
bản các nhà nghiên cứu đều đưa ra quan niệm về nghĩa của từ, các thành phần nghĩa
của từ, hiện tượng chuyển nghĩa của từ…
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu về kết trị của từ
Trên thế giới, lí thuyết kết trị được nghiên cứu trên nhiều cấp độ với nhiều quan
điểm khác nhau. Đầu tiên phải kể đến L. Tesnière với cuốn Elément de Syntax
structurale (Các yếu tố của cấu trúc cú pháp) (1969) đã đưa ra cách hiểu về kết trị
của động từ và phân biệt chu tố và diễn tố. Tiếp đến S.D. Kasnelson (1973) đã làm rõ
cách hiểu kết trị và phân biệt kết trị với khả năng tham gia vào các mối quan hệ cú pháp.
N.I. Tjapkina (1980) và A.M. Mukhin (1987) đã mở rộng khái niệm kết trị của động
từ hơn. M.D. Stepanova (1988) lại mở rộng khái niệm kết trị từ cấp độ từ sang các
cấp độ và các bình diện khác của ngôn ngữ. ….
Ở Việt Nam, các nhà Việt ngữ học nhanh chóng vận dụng lý thuyết kết trị vào
nghiên cứu tiếng Việt. Đầu tiên phải kể đến Cao Xuân Hạo (2006) với công trình “Tiếng
Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng”. Một trong những người tiên phong vận dụng linh
hoạt lí thuyết kết trị của L. Tesnière vào nghiên cứu ngôn ngữ ở Việt Nam là Nguyễn


4
Văn Lộc (1995). Đinh Văn Đức (2015) đã đặt vấn đề nghiên cứu từ loại tiếng Việt theo
đường hướng nghiên cứu của Chức năng luận và quan tâm trước nhất đến lí thuyết kết
trị. Bên cạnh đó phải kể đến: Nguyễn Thị Quy (1995), Nguyễn Văn Hiệp và Lâm Quang
Đông (2008), Lê Thị Lan Anh (2014), Nguyễn Mạnh Tiến (2016) …
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và kết trị của tính từ tiếng Việt
Tính từ là một từ loại cơ bản của tiếng Việt. Vì vậy, tính từ chủ yếu được xem
xet dưới góc nhìn ngữ pháp về các phương diện: ý nghĩa ngữ pháp, khả năng kết hợp,
chức vụ ngữ pháp. Tuy nhiên, cũng có những công trình đề cập đến ngữ nghĩa của
tính từ; mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và kết trị của một số nhóm tính từ cụ thể như:
Chu Bích Thu (1996), Nguyễn Thị Dự (2004), Lê Xuân Bình (2009), Nguyễn Quỳnh
Thu (2013), Trần Ái Chin (2014), Nuyễn Thị Huyền (2018)…

Qua tổng quan tình hình nghiên cứu về nghĩa và kết trị của từ nói chung và tính
từ tiếng Việt nói riêng, có thể thấy ngữ nghĩa và kết trị của từ và tính từ đã giành
được nhiều sự quan tâm của các nhà ngôn ngữ học. Tuy nhiên, nghiên cứu nhóm
TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt trên bình diện ngữ nghĩa và kết trị có lẽ chưa
có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ nhất.
1.2. Cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài
1.2.1. Khái quát về nghĩa của từ
1.2.1.1. Nghĩa của từ và sự phát triển ngữ nghĩa của từ từ góc độ cấu trúc luận
a. Quan niệm về nghĩa của từ
Khái niệm “nghĩa của từ” là một trong những khái niệm quan trọng của ngôn
ngữ và được các nhà nghiên cứu quan tâm.
Có rất nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về nghĩa của từ, tuy nhiên, tựu
trung lại, có thể đề cập đến ba nhóm quan trọng. Ở luận án này, chúng tôi tán thành
nhóm quan niệm coi nghĩa của từ là một thực thể tinh thần. Đó là sự hiểu biết của con
người về những sự vật, hiện tượng … mà từ biểu thị.
b. Các thành phần nghĩa của từ
Khi nói đến ý nghĩa của từ, chúng ta cần phải hiểu đó là một tập hợp những
thành phần nghĩa sau: Ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa biểu niệm, ý nghĩa biểu thái và ý
nghĩa ngữ pháp. Đây là những ý nghĩa của từ trong hệ thống - vốn có tính ổn định,
lập thành nghĩa hạt nhân của từ. Còn trong hoạt động hành chức, từ luôn gây ra
những ý nghĩa khác, không có tính ổn định là nghĩa liên hội.
c. Hiện tượng nhiều nghĩa và chuyển nghĩa của từ
Hiện tượng nhiều nghĩa là hiện tượng ngữ nghĩa trong đó một từ (một vỏ ngữ
âm) có chứa từ hai nghĩa trở lên và mỗi nghĩa tương ứng với một hoặc một số sự vật,
hiện tượng trong thực tế khách quan.


5
Hiện tượng chuyển nghĩa của từ là việc một nghĩa của từ được hình thành dựa trên
một nghĩa đã có của từ đó. Việc chuyển nghĩa của từ luôn được thực hiện qua phương

thức chuyển nghĩa. Theo một số nhà nghiên cứu, có hai phương thức chuyển nghĩa
của từ: ẩn dụ và hoán dụ.
1.2.1.2. Một số khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận liên quan đến nghĩa
và sự phát triển ngữ nghĩa của từ
a. Ý niệm, ý niệm hóa, ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm
Ý niệm là kết quả, là sản phẩm của hoạt động tri nhận của con người về thế giới
xung quanh cũng như chính bản thân mình qua tương tác với thế giới. Ý niệm có thể
được biểu hiện bằng ngôn từ cũng có thể không. Ý niệm hóa là hoạt động tri nhận để
hình thành nên những ý niệm, gồm nhiều quá trình tinh thần khác nhau.
Ẩn dụ ý niệm là các ánh xạ có tính hệ thống giữa hai miền ý niệm: miền nguồn
và miền đích. Bản chất của ẩn dụ ý niệm là ở sự cấu trúc hóa và cảm nhận những hiện
tượng loại này trong cách diễn giải của các hiện tượng loại khác. Nó có tính một
chiều, là động lực thúc đẩy cho miền đích và miền nguồn mang lại những ý nghĩa (tri
thức) bổ sung đôi khi khá chi tiết và gây ấn tượng. Hoán dụ ý niệm là một quá trình
tri nhận trong đó một thực thể ý niệm (phương tiện) cung cấp sự tiếp nhận tinh thần
đến một thực thể ý niệm khác (đích) trong cùng một miền hoặc cùng một mô hình tri
nhận lý tưởng.
b. Phạm trù và phạm trù hóa
Phạm trù là khái niệm khoa học phản ánh những thuộc tính và mối quan hệ
chung, cơ bản nhất của các hiện tượng. Trong ngôn ngữ học tri nhận, phạm trù là
một trong những hình thái nhận thức của tư duy con người, cho phép khái quát hóa
kinh nghiệm để phân loại các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Phạm trù
hóa là một quá trình tinh thần phức tạp nhằm phân loại các sự vật hiện tượng mà sản
phẩm của nó là các phạm trù tri nhận.
c. Miền, miền nguồn và miền đích
Miền là một thực thể ý niệm được sử dụng trong lí thuyết ẩn dụ ý niệm và những
hướng tiếp cận liên quan tới chiếu xạ ý niệm. Miền ý niệm có cấu trúc tri thức tương
đối phức tạp có liên quan đến các phương diện thống nhất trong kinh nghiệm, là tập
hợp các ý niệm có mối quan hệ gắn bó với nhau.
Miền nguồn bao gồm một tập hợp các thực thể ngôn từ, các thuộc tính, các quá

trình và các quan hệ, được liên kết ngữ nghĩa và dường như được lưu trữ cùng nhau
trong tâm trí. Miền đích có xu hướng trừu tượng và rút ra cấu trúc của mình từ miền
nguồn thông qua liên kết ẩn dụ hay “ẩn dụ ý niệm”.


6
1.2.2. Khái quát về kết trị của từ
1.2.2.1. Khái niệm kết trị
Dựa trên quan điểm về khái niệm kết trị của các nhà ngôn ngữ học trong và
ngoài nước, kết trị là khả năng của từ kết hợp vào mình những thành tố cú pháp
giúp hiện thực hóa đặc trưng ngữ nghĩa của từ.
1.2.2.2. Khái niệm tham tố và phân loại tham tố
a. Khái niệm tham tố
Tham tố là những thành tố hiện thực hóa đặc trưng ngữ nghĩa của từ trung tâm,
có thể đảm đương một chức vụ ngữ pháp nhất định trong câu.
b. Phân loại tham tố
Trong luận án này, chúng tôi dùng cặp thuật ngữ: tham tố bắt buộc và tham tố
không bắt buộc. Tham tố bắt buộc là loại tham tố cần thiết để cho từ có được mức độ
hoàn chỉnh tối thiểu về nghĩa mà không cần có sự hỗ trợ của ngữ cảnh. Tham tố này
chịu sự chi phối chặt chẽ vào đặc trưng ngữ nghĩa - ngữ pháp của từ, thường chỉ có
mặt ở từng loại từ nhất định. Sự xuất hiện của tham tố bắt buộc là do nghĩa của từ
trung tâm đòi hỏi. Tham tố không bắt buộc là loại tham tố có thể có mặt hay vắng mặt
cạnh từ trung tâm nhưng vẫn phải do từ trung tâm cho phép. Đặc điểm ngữ nghĩa ngữ pháp của tham tố này vẫn chịu sự chi phối của từ trung tâm.
1.2.2.3. Nguyên tắc và thủ pháp xác định kết trị
a. Nguyên tắc xác định kết trị
Các tham tố với tư cách là đơn vị ngữ pháp được đặc trưng bởi hai mặt: mặt ý nghĩa
và hình thức ngữ pháp. Vì vậy, kết trị nói chung và tham tố nói riêng sẽ được xác định
cả về mặt nội dung (chức năng nghĩa) và cả về mặt hình thức (ngữ pháp) của từ.
b. Thủ pháp xác định kết trị
Khi xác định kết trị của từ, có nhiều thủ pháp nhưng một thủ pháp đơn giản

nhưng hữu hiệu nhất là thủ pháp đặt câu hỏi. Đây là thủ pháp dựa vào cấu trúc ngữ
nghĩa của từ trung tâm đặt câu hỏi để tìm ra các tham tố xoay quanh từ đó. Hay nói
cách khác, chúng ta dùng chính từ trung tâm để đặt câu hỏi tìm ra các tham tố. Như
vậy, từ trung tâm sẽ có mặt ở tất cả các câu hỏi tìm tham tố. Câu trả lời cho các câu
hỏi đó chính là các tham tố của từ. Mỗi câu hỏi sẽ giúp chúng ta xác định một ô trống
cần hoặc có thể lấp đầy, tương đương với một tham tố.
1.2.2.4. Mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và kết trị của từ
Ngữ nghĩa và thuộc tính kết trị của từ luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong đó, ngữ nghĩa luôn giữ vai trò chi phối kết trị, tức ngữ nghĩa của từ quy định sự
hiện thực hóa kết trị của từ trong hoạt động hành chức. Ngược lại, thông qua mô hình


7
kết trị thuộc tính ngữ nghĩa vốn có của từ được bộc lộ. Đây chính là căn cứ để khẳng
định rằng ở mọi ngôn ngữ, cơ sở cuối cùng của sự liên kết cú pháp là nhân tố ngữ
nghĩa. Tính quy định của mặt nghĩa đối với kết trị thể hiện ở chỗ mỗi kiểu kết trị
thường chỉ gắn với kiểu ý nghĩa từ vựng - ngữ pháp của từ. Vì kết trị phụ thuộc chặt
chẽ vào nghĩa của từ nên sự thay đổi nghĩa từ vựng - ngữ pháp của từ luôn kéo theo
sự thay đổi kết trị của nó.
Tiểu kết
Nhóm TTCĐĐVL của sự vật là một trong những nhóm từ trung tâm, cơ bản của
mọi ngôn ngữ. Đây là nhóm từ có nhiều đặc điểm phức tạp đã thu hút được sự quan
tâm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi đã xác lập
một số khái niệm lí thuyết cơ bản về ngữ nghĩa, kết trị. Những vấn đề lí thuyết này sẽ
được vận dụng để làm sáng tỏ đặc điểm ngữ nghĩa và kết trị của nhóm TTCĐĐVL
của sự vật trong tiếng Việt khi dùng với nghĩa gốc và phát triển nghĩa.
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA VÀ KẾT TRỊ CỦA NHÓM TÍNH
TỪ CHỈ ĐẶC ĐIỂM VỀ LƯỢNG CỦA SỰ VẬT TRONG TIẾNG VIỆT
KHI DÙNG VỚI NGHĨA GỐC

2.1. Khái quát về tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật trong tiếng Việt
2.1.1. Quan niệm về tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật trong tiếng Việt
Dựa trên những quan niệm của các nhà nghiên cứu, trong luận án này, chúng
tôi quan niệm: TTCĐĐVL là những tính từ định lượng sự vật (dài, ngắn, cao, thấp,
nông, sâu…) và biểu thị số lượng sự vật (đông, vắng, nhiều, ít, đầy, đủ…).
2.1.2. Tiêu chí nhận diện
Từ quan niệm về TTCĐĐVL của luận án và tiêu chuẩn phân định từ loại,
chúng tôi đưa ra bộ tiêu chí để nhận diện nhóm tính từ này như sau:
2.1.2.1. Về ý nghĩa
Nhóm TTCĐĐVL có ý nghĩa định lượng sự vật về kích thước, trọng lượng,
khoảng cách, nhiệt lượng và biểu thị số lượng sự vật trong thực tế khách quan. Đây
là ý nghĩa ngữ pháp khái quát và là một tiêu chí quan trọng chi phối những đặc điểm
trong hoạt động ngữ pháp của nhóm tính từ này.
2.1.2.2. Về khả năng kết hợp
Giống như các nhóm tính từ khác, TTCĐĐVL có khả năng làm thành tố trung
tâm trong cụm từ chính phụ. Thành tố phụ trước của TTCĐĐVL thường là các phụ


8
từ chỉ mức độ. Thành tố phụ sau của TTCĐĐVL rất đa dạng về cấu tạo, từ loại, ý
nghĩa …. Trong đó, thành tố phụ sau chỉ lượng xuất hiện sau TTCĐĐVL là dấu hiệu
đặc trưng nhất giúp phân biệt nhóm tính từ này với các nhóm tính từ khác.
2.1.2.3. Về chức vụ ngữ pháp
Là một tiểu nhóm nằm trong tính từ nên TTCĐĐVL cơ bản có chức vụ ngữ
pháp trong câu giống như tính từ nói chung. Chúng có khả năng làm vị ngữ trực
tiếp, làm định ngữ (mở rộng, bổ sung nghĩa cho danh từ).
2.1.3. Phân loại tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật trong tiếng Việt
Luận án cho rằng: TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt gồm hai nhóm: Nhóm tính
từ định lượng sự vật (định lượng về kích thước, trọng lượng, khoảng cách, nhiệt lượng …)
như: nặng, nhẹ, dài, ngắn, rộng, hẹp, nông, sâu, cao, thấp, nóng, lạnh, xa, gần .... và

nhóm tính từ biểu thị số lượng sự vật như: nhiều, ít, đông, vắng, đầy, thưa…
2.1.4. Danh sách tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật trong tiếng Việt
Luận án đã khảo sát 55 nguồn ngữ liệu với 2045 câu trong hai loại văn bản:
VBKH và VBNT. Chúng tôi thấy: Tiếng Việt có 31 TTCĐĐVL của sự vật (cao,
rộng, dài, ngắn, dày, mỏng, nhiều, ít, thưa, vắng, đông, đủ….). Dựa vào đặc điểm
cấu tạo, chúng đều là từ đơn và có bản chất từ vựng – ngữ pháp quy định những yếu
tố có tính chất bắt buộc tạo thành kết trị.
2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật
khi dùng với nghĩa gốc
Dựa trên những gợi ý quan trọng của các nhà nghiên cứu và kết quả khảo sát 55
nguồn ngữ liệu, đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt
sẽ được chúng tôi xem xét theo hai nhóm: nhóm định lượng sự vật (định lượng kích
thước, trọng lượng, nhiệt lượng, khoảng cách…) và nhóm biểu thị số lượng sự vật.
2.2.1. Ngữ nghĩa nhóm tính từ định lượng sự vật
2.2.1.1. Ngữ nghĩa nhóm tính từ định lượng kích thước sự vật
Kích thước là toàn thể nói chung những đại lượng (như chiều dài, chiều rộng,
chiều cao, chiều sâu …) xác định độ lớn của một vật. Vì vậy, nhóm tính từ định lượng
kích thước sự vật theo các chiều kích khác nhau như: chiều cao, chiều rộng, chiều
dài, chiều sâu, chiều dày … Ngữ nghĩa chung của nhóm tính từ này là biểu thị chiều
cao, chiều rộng, chiều dài, chiều sâu… của sự vật. Tiêu biểu là các tính từ cơ bản sau:
cao, thấp, ngắn, dài, rộng, nông, sâu, cao vút, sâu hoắm, dài ngoẵng, thâm thấp.... Ví
dụ:
Tấm ván dài 2 mét, rộng 1 mét, dày 5 centimét. (Hoàng Phê – Từ điển tiếng Việt)


9
2.2.1.2. Ngữ nghĩa nhóm tính từ định lượng trọng lượng sự vật
Trọng lượng là từ dùng để chỉ khối lượng của một vật cụ thể nào đó. Với cách
hiểu như vậy: nặng, nhẹ, nhẹ bỗng, nhè nhẹ, nhẹ nhẹ, nặng trĩu, nặng trịch, nặng
nề… là các tính từ định lượng trọng lượng sự vật. Ngữ nghĩa của nhóm tính từ này là

biểu thị khối lượng của sự vật. Ví dụ:
Nhìn từ xa, cầu Long Biên như một dải lụa uốn lượn vắt ngang sông Hồng,
nhưng thực ra “dải lụa” ấy nặng tới 17 nghìn tấn. (Nguyễn Khắc Phi - Ngữ văn 6)
2.2.1.3. Ngữ nghĩa nhóm tính từ định lượng nhiệt lượng sự vật
Nhiệt lượng là số lượng nhiệt năng, thường được tính bằng calori. Tiêu biểu cho
nhóm tính từ này là các tính từ: nóng, lạnh, ấm, mát, nóng ran, lành lạnh, lạnh ngắt,
âm ấm, man mát, nong nóng, lạnh buốt … Trong đó, cặp tính từ nóng và lạnh đại
diện nhóm và xuất hiện với tần số cao. Ngữ nghĩa của nhóm tính từ là biểu thị nhiệt
lượng của sự vật. Ví dụ:
Lượng trở lại vùng rừng miền Tây Quảng trị lần này vào giữa tháng mưa to
nhất, không khí bao giờ cũng lạnh xuống đến mười độ.
(Nguyễn Minh Châu – Dấu chân người lính)
2.2.1.4. Ngữ nghĩa nhóm tính từ định lượng khoảng cách sự vật
Khoảng cách là khoảng chia cách giữa hai vật. Tiêu biểu là các tính từ: xa, gần,
xa xa, xa tít, xa tắp, xa xôi, xa lắc, xa thẳm, gần gần… Trong đó, cặp tính từ xa và
gần xuất hiện nhiều và đại diện cho nhóm. Ngữ nghĩa của nhóm tính từ này là biểu
thị khoảng cách của sự vật. Ví dụ:
Con ngựa phi rất nhanh, nếu đường xá tốt có thể phi tới hơn trăm cây số một giờ,
bước nhảy của nó xa tới 4 mét. (Nguyễn Huy Thiệp – Tuyển tập truyện ngắn)
2.2.2. Ngữ nghĩa nhóm tính từ biểu thị số lượng sự vật
Bên cạnh ngữ nghĩa nhóm tính từ định lượng sự vật, TTCĐĐVL còn có nhóm
ngữ nghĩa thứ hai biểu thị số lượng của sự vật. Số lượng là con số biểu thị có nhiều
hay có ít. Tiêu biểu cho nhóm tính từ này là các tính từ: đầy, vơi, đủ, thiếu, ít, nhiều,
đông, vắng, thưa, to, nhỏ, thưa thớt, đông đủ, vơi vơi, nho nhỏ…. Chúng có nghĩa
chung là biểu thị số lượng sự vật. Tuy nhiên, các sự vật được nói đến ở đây là các sự
vật tồn tại trong một tập hợp không phải là các sự vật tồn tại cá thể. Ví dụ:
Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như
kém sang hơn. (Tuyển tập Tự lực văn đoàn, tập 3)



10
TTCĐĐVL

Định lượng

Định
lượng
kích
thước

Định
lượng
trọng
lượng

Biểu thị số lượng

Định
lượng
khoảng
cách

Định
lượng
nhiệt
lượng

Hình 2.1. Sơ đồ ngữ nghĩa của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật trong
tiếng Việt khi dùng với nghĩa gốc
2.3. Đặc điểm kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật

khi dùng với nghĩa gốc
2.3.1. Mô hình kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật khi
dùng với nghĩa gốc
Dựa trên những nguyên tắc và thủ pháp xác định kết trị, chúng tôi xác định mô
hình kết trị của nhóm TTCĐĐVL của sự vật như sau:
Tham tố chỉ
lượng

Tham tố chỉ sự
vật mang đặc
điểm về lượng

TTCĐĐVL

Tham tố chỉ
mức độ, sắc
thái của đặc
điểm

Tham tố chỉ
sự so sánh

Hình 2.2. Mô hình kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật trong
tiếng Việt khi dùng với nghĩa gốc


11
Khi dùng với nghĩa gốc, mô hình kết trị của nhóm TTCĐĐVL gồm bốn tham tố
xoay quanh tính từ hạt nhân: (1) Tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm về lượng, (2) Tham
tố chỉ lượng, (3) Tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc điểm, (4) Tham tố chỉ sự so sánh.

Trong đó, tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm về lượng là tham tố bắt buộc, ba tham tố
còn lại là tham tố không bắt buộc.
2.3.2. Đặc điểm các tham tố của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự
vật khi dùng với nghĩa gốc
2.3.2.1. Tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm về lượng
a. Về nội dung
Loại tham tố này bổ sung, hiện thực hóa ý nghĩa chỉ sự vật mang đặc điểm về
lượng do TTCĐĐVL biểu thị. Đó là những sự vật ở dạng vật chất mà con người có
thể tri giác được. Qua khảo sát 2045 câu, trong đó 1224 câu có chứa TTCĐĐVL được
dùng với nghĩa gốc từ 55 nguồn ngữ liệu, kết quả như sau:

Stt
1

Tham tố chỉ sự
vật mang đặc
điểm về lượng
Đồ vật hoặc
các vật thể
nhân tạo

Ví dụ

Số
lần
xuất
hiện

Tỷ lệ
%


Căn phòng rộng 12 mét vuông, cửa ở
giữa, hai bên kê hai cái giường nhỏ, đầu
giường mỗi người có một cái tủ đựng sách 381
31%
vở, quần áo. (Nguyễn Huy Thiệp - Tuyển
tập truyện ngắn)
2 Các hiện
Vực sâu khoảng hơn trăm mét, dưới
tượng tự nhiên lòng vực là một con suối cạn khô. (Nguyễn 326
27%
Huy Thiệp - Tuyển tập truyện ngắn)
3
Con người
Con nặng ba cân hai anh ạ.
218
18%
(Lê Lựu - Hai nhà)
4 Động vật
Con bạch tuộc này dài 18m (kể cả tua
miệng), mắt có đường kính 30cm, giác ở
162
13%
tua miệng to bằng chiếc mũ …
(Nguyễn Quang Vinh - Sinh học 7)
5 Thực vật
Cỏ cao hơn thước liễu gầy vài phân.
137
11%
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)

Bảng 2.1. Thống kê tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm về lượng khi nhóm tính từ chỉ
đặc điểm về lượng của sự vật dùng với nghĩa gốc
b. Về hình thức


12
* Vị trí
Khi được hiện thực hóa trong câu, vị trí của tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm về
lượng thường là vị trí đứng trước TTCĐĐVL, đây có thể coi là vị trí phổ biến của nó.
Khảo sát trên ngữ liệu, chúng tôi không ghi nhận có trường hợp nào tham tố này thay
đổi vị trí.
Tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm về lượng

TTCĐĐVL

* Từ loại
Tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm về lượng có thể do danh từ, đại từ biểu hiện.
* Cấu tạo
Tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm về lượng có thể được cấu tạo từ một từ hoặc một
ngữ danh từ.
2.3.2.2. Tham tố chỉ lượng
a. Về nội dung
Tham tố chỉ lượng tạo nên ý nghĩa về số lượng cụ thể cho TTCĐĐVL của sự
vật. Nhờ nó mà đặc điểm về lượng của sự vật trong thực tế khách quan có thể “lượng
hóa”. Ví dụ:
Vạc Phổ Minh: Đúc bằng đồng vào thời Trần Nhân Tông, đặt tại sân chùa
Phổ Minh (Tức Mạc, ngoại thành Nam Định). Vạc sâu 4 thước
thước (

1,6 m), rộng 10


nặng trên 7 tấn. (Trần Ngọc Thêm – Cơ sở văn hóa Việt Nam)

b. Về hình thức
* Vị trí:
Vị trí phổ biến của tham tố chỉ lượng có thể đứng trước hoặc đứng sau TTCĐĐVL.
Trong đó, vị trí đứng sau là cơ bản, xuất hiện với tần số cao.
Tham tố chỉ sự vật mang đặc
TTCĐĐVL
Tham tố chỉ lượng
điểm về lượng
* Từ loại
Tham tố chỉ lượng do số từ chỉ số lượng xác định, số từ chỉ số lượng phỏng định,
không chính xác, danh từ đơn vị biểu hiện.
* Cấu tạo
Tham tố chỉ lượng được cấu tạo từ một từ kết hợp với danh từ đơn vị (khoa
hoc, dân gian, tự nhiên), một tổ hợp số từ cụ thể (nhóm số từ): phụ từ + số từ +
danh từ đơn vị khoa học.
2.3.2.3. Tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc điểm


13
a. Về nội dung
Tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc điểm bổ sung ý nghĩa mức độ, sắc thái cho
TTCĐĐVL của sự vật, giúp cho lượng của sự vật được thể hiện cụ thể hơn, có tính
gợi hình, gợi tả hơn. Ví dụ:
Khi triều lên, lòng sông rộng mênh mông đến hàng nghìn mét, sâu hơn chục
mét. (Phan Ngọc Liên - Lịch sử 6)
b. Về hình thức
* Vị trí:

Với tư cách là bổ sung ý nghĩa cho tính từ, tham tố chỉ tố chỉ mức độ, sắc thái
của đặc điểm thường đứng trước và sau tính từ, kết hợp trực tiếp với tính từ trung
tâm. Trong đó, vị trí đứng sau là cơ bản và phổ biến.
Tham tố chỉ sự vật mang đặc
TTCĐĐVL
Tham tố chỉ mức độ, sắc thái
điểm về lượng
của đặc điểm
* Từ loại
Hình thức cơ bản của tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc điểm do tính từ biểu hiện.
* Cấu tạo
Hầu hết, tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc điểm thường được cấu tạo từ một từ
láy hoặc một từ ghép.
2.3.2.4. Tham tố chỉ sự so sánh
a. Về nội dung
Tham tố chỉ sự so sánh bổ sung ý nghĩa mức độ, sắc thái hoặc tăng thêm thông
tin chi tiết cho tính từ hạt nhân. Ví dụ:
Đầu nặng và nóng như chõ xôi. (Hà Minh Đức - Tuyển tập Tô Hoài, tập 1)
b. Về hình thức
* Vị trí
Với tư cách là bổ ngữ, bổ sung ý nghĩa cho tính từ nên vị trí phổ biến của tham tố
chỉ sự so sánh luôn đứng sau tính từ, kết hợp gián tiếp với tính từ trung tâm bằng các từ
chỉ quan hệ so sánh: như, bằng, hơn, là….
Tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm
về lượng

TTCĐĐVL

Tham tố chỉ sự so sánh


* Từ loại
Tham tố chỉ sự so sánh do một danh từ hoặc một ngữ danh từ biểu hiện.
* Cấu tạo


14
Xét về cấu tạo, tham tố chỉ sự so sánh có dạng cấu tạo sau: một từ, một cụm từ.
2.3.3. Khả năng hiện diện của các tham tố trong câu
2.3.3.1. Khả năng hiện diện đầy đủ
Khả năng hiện diện đầy đủ là trường hợp tất cả các tham tố trong cấu trúc kết trị
của nhóm TTCĐĐVL của sự vật khi dùng nghĩa gốc đều được hiện thực hóa trong
câu. Thực tế khảo sát 55 nguồn ngữ liệu cho thấy, trong 1224 câu chứa TTCĐĐVL khi
dùng nghĩa gốc, khả năng các tham tố hiện diện đầy đủ không xuất hiện.
2.3.3.2. Khả năng hiện diện không đầy đủ
Khả năng hiện diện không đầy đủ là trường hợp khuyết một hoặc một số tham tố
trong cấu trúc kết trị.
a. Khuyết tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm về lượng
Về mặt lí thuyết, đây là tham tố bắt buộc phải hiện diện trong câu. Tuy nhiên,
dưới sự chi phối của ngữ cảnh, vẫn có trường hợp tham tố này bị khuyết nhằm những
dụng ý nhất định, thường diễn ra ở văn bản nghệ thuật. Ví dụ:
Tôi bắn được con gấu này ở trong Xốp Cốp.

Nặng 137 cân.

(Nguyễn Huy Thiệp - Tuyển tập truyện ngắn)
b. Khuyết tham tố chỉ lượng
Vì đây là tham tố không bắt buộc nên chúng có thể không xuất hiện trong câu.
Ví dụ: Trên khoáy, chùm tóc hoa roi dài

lòng thòng như cái đuôi đỏ của con ngựa


bạch. (Hà Minh Đức - Tuyển tập Tô Hoài, tập 1)
c. Khuyết tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc điểm và tham tố chỉ sự so sánh
Nếu như hiện tượng vắng khuyết tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm về lượng là rất
ít và không phổ biến thì hiện tượng vắng khuyết tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc
điểm và tham tố chỉ sự so sánh diễn ra khá phổ biến, nhằm những mục đích nhất định.
Ví dụ: Sáng ngày mắt thầy Phó trũng sâu và râu thì dài ra đến một xăng ti mét
(Nhiều tác giả - Truyện ngắn hay)
d. Khuyết tham tố chỉ lượng; tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc điểm và tham tố
chỉ sự so sánh
Trong những trường hợp này, các tham tố không bắt buộc không xuất hiện chỉ
duy nhất tham tố bắt buộc là tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm về lượng xuất hiện
cùng với tính từ trung tâm. Hiện tượng này diễn ra khá phổ biến. Ví dụ:
Bây chừ biển rộng

trời cao

(Tố Hữu - Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chi Minh)


15
Tiểu kết
Qua khảo sát 55 nguồn ngữ liệu, chúng tôi thấy: Tiếng Việt có 31 TTCĐĐVL
của sự vật. Chúng đều là từ đơn, vừa mang những đặc điểm của tính từ nói chung
vừa mang những đặc điểm riêng có tính khu biệt. Về ngữ nghĩa, nhóm TTCĐĐVL
có ý nghĩa định lượng sự vật và biểu thị số lượng sự vật trong thực tế khách quan.
Về kết trị, do sự chi phối của đặc trưng ngữ nghĩa, nhóm TTCĐĐVL của sự vật
luôn đòi hỏi có 4 tham tố. Mỗi loại tham tố đều mang những đặc điểm nội dung và
hình thức khác nhau. Sự hiện diện của các tham tố trong câu diễn ra linh hoạt và
hết sức đa dạng.

Chương 3
SỰ PHÁT TRIỂN NGỮ NGHĨA VÀ THAY ĐỔI KẾT TRỊ CỦA NHÓM
TÍNH TỪ CHỈ ĐẶC ĐIỂM VỀ LƯỢNG CỦA SỰ VẬT TRONG
TIẾNG VIỆT
3.1. Sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự
vật trong tiếng Việt
3.1.1. Khát quát về sự phát triển ngữ nghĩa theo quan niệm của ngôn ngữ học
tri nhận
Sự phát triển nghĩa của từ là hiện tượng mang tính phổ quát ở mọi ngôn ngữ,
xuất phát từ chính nhu cầu giao tiếp của con người và có động lực từ con người. Bản
chất của sự phát triển nghĩa chính là sự phát triển ý niệm, gắn với quá trình ý niệm
hóa, là sự phóng chiếu từ miền ý niệm này sang miền ý niệm khác và cấu trúc ngữ
nghĩa thực chất là sự ngoại hiện của cấu trúc ý niệm.
Quá trình phát triển nghĩa của từ có thể diễn ra theo nhiều phương thức khác
nhau. Qua khảo sát 55 nguồn ngữ liệu, chúng tôi thấy: Sự phát triển ngữ nghĩa của
nhóm TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt trước hết là sự chuyển nghĩa theo
phương thức ẩn dụ ý niệm và hơn nữa là sự mở rộng phạm trù.
Từ kết quả khảo sát 821/2045 câu chứa TTCĐĐVL được dùng với nghĩa
chuyển, luận án sẽ trình bày các hướng phát triển ngữ nghĩa của nhóm TTCĐĐVL
của sự vật trong tiếng Việt như sau:
3.1.2. Các hướng phát triển ngữ nghĩa của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về
lượng của sự vật trong tiếng Việt
3.1.2.1. Nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng chuyển sang biểu thị con người
a. Nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng chuyển sang biểu thị tính cách của con người


16
Theo quan niệm của người Việt, tính cách con người là phạm trù trừu tượng, vô
hình nên người Việt thường dùng đặc điểm về lượng để tri nhận tính cách của mình.
Dựa trên ẩn dụ ý niệm TÍNH CÁCH LÀ MỘT VẬT THỂ CÓ ĐẶC ĐIỂM VỀ

LƯỢNG, nhóm TTCĐĐVL phát triển nghĩa biểu thị tính cách của con người. Ví dụ:
Giọng ông bác sĩ vẫn lạnh như kem: - Tùy gia đình.
(Nhiều tác giả - Truyện ngắn hay)
b. Nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng chuyển sang biểu thị trí tuệ, sự hiểu biết
và tài năng của con người
Dựa trên ẩn dụ TRÍ TUỆ, SỰ HIỂU BIẾT VÀ TÀI NĂNG LÀ VẬT THỂ CÓ
ĐẶC ĐIỂM VỀ LƯỢNG, nhóm TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt có khả năng
phát triển nghĩa biểu thị các khái niệm thuộc về hoạt động tư duy, trí tuệ, hiểu biết
của con người. Đây đều là những khái niệm mang tính trừu tượng. Ví dụ:
Mưu cao chẳng bằng chí dày.
(Tục ngữ - Ca dao Việt Nam)
c. Nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng chuyển sang biểu thị đặc điểm tâm lí tình cảm của con người
Dựa trên ẩn dụ ý niệm TÌNH CẢM LÀ MỘT VẬT THỂ CÓ ĐẶC ĐIỂM VỀ
LƯỢNG, nhóm TTCĐĐVL của sự vật được mở rộng nghĩa vượt khỏi giới hạn chỉ
đặc điểm về lượng của sự vật chuyển sang diễn tả cung bậc tình cảm, đời sống tinh
thần, đời sống nội tâm bên trong của con người. Đây là một sự chuyển di khá xa và
khác biệt về bản chất (từ phạm trù vật chất sang phạm trù tinh thần), là nghĩa chuyển
phong phú nhất và chiếm ưu thế với số lượng lớn. Ví dụ:
Tình sâu nghĩa nặng trời xuân thắm.
(Nguyễn Bính - Nguyễn Bính toàn tập)
d. Nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng chuyển sang biểu thị cuộc đời, số phận
của con người
Cũng như thời gian, suy nghĩa và tình cảm, CUỘC ĐỜI VÀ SỐ PHẬN NHƯ MỘT
VẬT THỂ CÓ ĐẶC ĐIỂM VỀ LƯỢNG. Dựa trên ẩn dụ ĐỜI NGƯỜI NHƯ MỘT VẬT
THỂ CÓ CHIỀU KÍCH, nhóm TTCĐĐVL phát triển nghĩa để biểu thị cuộc đời, số phận
của con người. Ví dụ:
Cún đã chết. Cuộc đời thật ngắn ngủi, cuộc đời của kẻ chưa được thành người.
(Nguyễn Huy Thiệp - Tuyển tập truyện ngắn)
3.1.2.2. Nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng chuyển sang biểu thị thời gian
Bởi hiệu lực của ẩn dụ THỜI GIAN LÀ MỘT VẬT THỂ CÓ ĐẶC ĐIỂM

VỀ LƯỢNG nên nhóm TTCĐĐVL của sự vật có khả năng phát triển nghĩa để


17
biểu thị thời gian, từ không gian chuyển sang thời gian, từ cụ thể chuyển sang
trừu tượng. Ví dụ:
Quá khứ dài là mái tóc em đen.
(Xuân Quỳnh - Thơ Xuân Quỳnh)
3.1.2.3. Nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng chuyển sang biểu thị tính
cách, tâm trạng của vật thể, hiện tượng tự nhiên
Trong ý niệm VẬT THỂ, HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN LÀ THỰC THỂ CÓ
TÍNH CÁCH, TÂM TRẠNG, các thuộc tính của miền nguồn đặc điểm về lượng
được dùng để tri nhận về miền đích tính cách, tâm trạng. Theo đó, nhân cách hóa
được cho là một loại ẩn dụ ý niệm. Ví dụ:
Rừng vô tình, vô cảm, thản nhiên, lạnh lùng, tàn nhẫn. Rừng muôn đời là thế.
Thiên nhiên muôn đời là thế: vô tình, vô cảm, thản nhiên, lạnh lùng, tàn nhẫn.
(Nguyễn Huy Thiệp - Tuyển tập truyện ngắn)
Con người

Thời gian
TTCĐĐVL

Tính cách, tâm trạng
của vật thể, hiện tượng tự nhiên
Hình 3.1. Sơ đồ các hướng phát triển ngữ nghĩa của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về
lượng của sự vật trong tiếng Việt
3.2. Sự thay đổi kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật
trong tiếng Việt
3.2.1. Sự thay đổi mô hình kết trị
Khảo sát 55 nguồn ngữ liệu, chúng tôi thấy: mô hình kết trị của nhóm

TTCĐĐVL thay đổi và nội dung ý nghĩa, hình thức của mỗi loại tham tố cũng có
sự biến đổi nhất định.


18

Tham tố chỉ
sự vật mang
đặc điểm

Tham tố chỉ
mức độ, sắc
thái của đặc
điểm

TTCĐĐVL

Tham tố chỉ
sự so sánh

Hình 3.2. Mô hình kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật
trong tiếng Việt khi phát triển nghĩa
Bộ ba tham tố xoay quanh tính từ: (1) tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm, (2) tham
tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc điểm (3) tham tố chỉ sự so sánh. Tham tố chỉ lượng
không xuất hiện. Trong đó, tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm vẫn là tham tố bắt buộc
còn tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc điểm và tham tố chỉ sự so sánh là tham tố
không bắt buộc.
3.2.2. Sự thay đổi các tham tố
3.2.2.1. Sự thay đổi của tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm
a. Về nội dung

Tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm vẫn bổ sung, hiện thực hóa ý nghĩa chỉ sự vật
mang đặc điểm do tính từ biểu thị. Tuy nhiên, điểm khác biệt là, tham tố chỉ sự vật mang
đặc điểm về lượng chuyển thành tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm và được mở rộng
phạm vi nghĩa biểu thị. Lúc này, TTCĐĐVL có khả năng kết hợp được cả những sự vật
vật chất và những sự vật phi vật chất, thuộc các trường nghĩa khác nhau diễn tả những sắc
thái ý nghĩa khác nhau.
Luận án đã khảo sát 821 câu chứa TTCĐĐVL khi phát triển nghĩa trong 55
nguồn ngữ liệu, kết quả như sau:


19

ST
T
1

2

3

4
5

Tham tố chỉ sự vật
mang đặc điểm
Trạng thái cảm
xúc, đời sống tinh
thần của con
người


Ví dụ
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật.
(Tuyển tập Tự lực văn đoàn, tập 3)

Mùa thu ngắn quá, tiếp theo đến
Thời gian
mùa đông dài và buồn.
(Nguyên Hồng - Tác phẩm chọn lọc)
Hoạt động tư duy, Tài cao học rộng phúc lành duyên may.
trí tuệ, hiểu biết (Nguyễn Bính - Nguyễn Bính toàn tập)
của con người
Số còn nặng nghiệp má đào.
Cuộc đời, số phận
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)
Sự vật, hiện tượng
tự nhiên

Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.
(Xuân Diệu - Thơ và đời)

Số
lần Tỷ lệ
xuất
%
hiện
339

41%

252


31%

85

10%

48

6%

97

12%

Bảng 3.1. Thống kê tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm khi nhóm tính từ chỉ đặc điểm về
lượng phát triển nghĩa
b. Về hình thức
* Vị trí
Tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm vẫn có thể đứng ở cả hai vị trí trước và sau tính
từ. Vị trí đứng trước vẫn là cơ bản.
Tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm
TTCĐĐVL
Nhìn chung, so với các tham tố khác, khi TTCĐĐVL dùng với cả nghĩa gốc và khi
phát triển nghĩa, tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm có vị trí tương đối ổn định.
* Từ loại
Tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm thường kết hợp trực tiếp hoặc gián tiếp với
các tính từ và có thể là danh từ, cụm danh từ, đại từ nghi vấn. Đặc biệt, khi tham tố
này do một danh từ được danh hóa bằng cách thêm các yếu tố danh hóa vào trước và
thường có số từ "một" kèm theo biểu hiện.

* Cấu tạo
Tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm có những dạng cấu tạo từ một từ, một ngữ.


20
3.2.2.2. Sự thay đổi của tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc điểm
Mặc dù vẫn tham gia mô hình kết trị nhưng tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc
điểm xuất hiện tương đối ít và ít có sự thay đổi về nội dung và hình thức.
a. Về nội dung
Tham tố này vẫn bổ sung ý nghĩa mức độ, sắc thái cho tính từ. Chúng vừa cho biết
thông tin về bản chất sự vật, vừa cho ta biết mối quan hệ giữa sự vật với chủ thể . Ví dụ:
Tình xa lăng lắc dưới chăn bông.
(Nguyễn Bính - Nguyễn Bính toàn tập)
b. Về hình thức
* Vị trí:
Với tư cách là bổ sung ý nghĩa cho tính từ, tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc
điểm thường vẫn đứng sau tính từ, kết hợp trực tiếp với tính từ.
Tham tố chỉ sự vật
mang đặc điểm

TTCĐĐVL

Tham tố chỉ mức độ,
sắc thái của đặc
điểm

* Từ loại
Hình thức biểu hiện cơ bản của tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc điểm vẫn do các
tính từ.
* Cấu tạo

Xét về cấu tạo, tham tố chỉ chỉ mức độ, sắc thái chỉ đặc điểm thường được cấu
tạo từ một từ phức.
3.2.2.3. Sự thay đổi của tham tố chỉ sự so sánh
Khác với khi nhóm TTCĐĐVL dùng với nghĩa gốc, khi nhóm tính từ phát triển
nghĩa, tham tố này xuất hiện với tần số thấp hơn và mang những đặc điểm sau:
a. Về nội dung
Tham tố chỉ sự so sánh vẫn bổ sung ý nghĩa mức độ, sắc thái hoặc tăng thêm
thông tin chi tiết cho tính từ hạt nhân. Tham tố này có thể là những sự vật, hiện tượng
phi vật chất, mang tính trừu tượng. Ví dụ:
Ngày dài như nỗi nhớ.
(Xuân Quỳnh – Thơ Xuân Quỳnh)
b. Về hình thức
* Vị trí
Vị trí phổ biến của tham tố chỉ sự so sánh vẫn luôn đứng sau tính từ, kết hợp gián
tiếp với tính từ trung tâm bằng các từ chỉ quan hệ so sánh: như, bằng, hơn, là….


21
Tham tố chỉ sự vật mang

TTCĐĐVL

Tham tố chỉ sự so sánh

đặc điểm

* Từ loại
Cũng giống như khi tính từ dùng với nghĩa gốc, hình thức biểu hiện cơ bản của
tham tố chỉ sự so sánh thường do một danh từ hoặc một cụm danh từ biểu hiện.
* Cấu tạo

Xét về cấu tạo, tham tố chỉ sự so sánh có thể được cấu tạo từ một từ, một cụm từ.
3.2.3. Khả năng hiện diện của các tham tố trong câu
3.2.3.1. Khả năng hiện diện đầy đủ
Khảo sát 55 nguồn ngữ liệu, trong 821 câu chứa TTCĐĐVL được dùng khi
nhóm TTCĐĐVL phát triển nghĩa, không có trường hợp nào bộ ba tham tố hiện diện
đầy đủ. Điều này chứng tỏ, khi nhóm TTCĐĐVL được dùng với nghĩa gốc hay phát
triển nghĩa thì khả năng hiện diện đầy đủ của bộ tham tố trong mô hình kết trị đều
không xảy ra.
3.2.3.2. Khả năng hiện diện không đầy đủ
a. Khuyết tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm
Giống như khi nhóm tính từ dùng với nghĩa gốc, dưới sự chi phối của ngữ
cảnh, tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm vẫn bị khuyết nhằm những dụng ý nhất
định như: tránh lặp từ, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các đơn vị ngôn ngữ, tạo nhịp
điệu, hướng người đọc tới phần thông tin mới, tiêu điểm của thông báo. Ví dụ:
Rộng như lòng mẹ đưa nôi
Lại say đắm mãi như người tình nhân.
(Xuân Diệu – Thơ và đời)
b. Khuyết tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc điểm
Do sự chi phối của các yếu tố ngữ dụng, tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc
điểm có thể bị tỉnh lược. Hiện tượng này diễn ra phổ biến khi tham tố chỉ sự so sánh
xuất hiện. Dụng ý của người viết nhằm tránh lặp lại thông tin để người nghe tập trung
chú ý vào thông tin mới. Ví dụ:
Một nỗi buồn xa

như sóng vỗ.

(Huy Cận - Tuyển tập Huy Cận II)
c. Khuyết tham tố chỉ sự so sánh



22
Tham tố chỉ sự so sánh bị tỉnh lược khi tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc
điểm xuất hiện nhằm tăng sự chú ý cho thông tin của tham tố khác và tránh lặp lại
thông tin cũ. Nếu sự tỉnh lược tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm xảy ra không phổ
biến thì sự tỉnh lược tham tố này diễn ra khá phổ biến. Ví dụ:
Xót con lòng nặng chề chề .
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)
d. Khuyết tham tố chỉ mức độ, sắc thái của đặc điểm và tham tố chỉ sự so sánh
Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ dưới, trường hợp khuyết tham tố chỉ mức độ, sắc
thái của đặc điểm và tham tố chỉ sự so sánh lại diễn ra rất phổ biến. Lúc này, chỉ còn lại
một tham tố duy nhất xoay quanh tính từ - tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm. Ví dụ:
Tình sâu

nghĩa nặng

ơn dày xiết bao.

(Nguyễn Bính - Nguyễn Bính toàn tập)
Tiểu kết
Nhóm TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt có sự phát triển nghĩa rất phong
phú, từ chỗ chỉ những thuộc tính vật chất về lượng của các sự vật trong thế giới khách
quan đã chuyển sang thể hiện các nội dung liên quan đến mọi lĩnh vực trong đời sống
tinh thần của con người. Dựa trên quan điểm của Ngôn ngữ học tri nhận về các loại
ẩn dụ ý niệm, luận án đã chỉ ra sự phát triển ngữ nghĩa theo hướng ẩn dụ ý niệm của
nhóm TTCĐĐVL, đó là: chuyển sang biểu thị con người, thời gian và vật thể, hiện
tượng tự nhiên. Bên cạnh đó, nhóm tính từ này đã mở rộng phạm trù nghĩa. Khi ngữ
nghĩa thay đổi thì hệ luận là sự thay đổi kết trị. Mô hình kết trị chung thay đổi và nội
dung ý nghĩa, hình thức của mỗi tham tố cũng có sự biến đổi nhất định. Hiện tượng
vắng khuyết các tham tố trong câu cũng diễn ra.
KẾT LUẬN

TTCĐĐVL là một trong những nhóm từ trung tâm, cơ bản của mọi ngôn ngữ.
Đây là nhóm tính từ đã thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu.
Vận dụng lí thuyết về nghĩa và kết trị để giải quyết một đối tượng cụ thể - nhóm
TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt - thực sự là một hướng tiếp cận khá mới mẻ.
Qua 3 chương nghiên cứu của luận án được thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
1. Dựa trên 55 nguồn ngữ liệu với 2045 câu, luận án đã thống kê trong tiếng Việt
có 31 tính từ chỉ đặc điểm về lượng. Chúng đều là những từ đơn có bản chất từ vựng ngữ pháp quy định những yếu tố có tính chất bắt buộc tạo thành kết trị. Bên cạnh đó,


×