Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 tác động đến nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.2 KB, 34 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2008 là một năm đầy khó khăn với tài chính thế giới. Khủng hoảng thanh
khoản trong hệ thống ngân hàng Mỹ là điểm khởi đầu cho cuộc khủng hoảng tài
chính thế giới. Hàng loạt định chế tài chính lớn, nhiều tổ chức tín dụng bị quốc hữu
hóa và sự sụt giảm trên thị trường chứng khoán trên khắp thế giới. Theo như các
nhà kinh tế, cuộc khủng hoảng này là cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ
Đại khủng hoảng những năm 30 thế kỷ trước. Khủng hoảng tài chính bùng phát tại
Mỹ và lan rộng ra toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài
chính khổng lồ, thị trường chứng khoán khuynh đảo. Năm 2008 là năm chứng kiến
nỗ lực chưa từng có của các nền kinh tế đương đầu chống chọi với khủng hoảng.
Khủng hoảng Mỹ xảy ra với sự bất ngờ lớn của thế giới. Không ai có thể ngờ rằng
một tượng đài, một đầu tàu Thế giới lại có thể suy sụp nhanh đến như vậy và kéo
theo nó là bao nhiêu khó khăn mà cả Thế giới phải gánh chịu. Vậy nguyên nhân của
cuộc khủng hoảng này là gì? Diễn biến của nó ra sao? Hậu quả gây ra như thế nào?
Chính phủ Mỹ đã có biện pháp gì và Việt Nam có tránh được cơn bão khủng hoảng
đó hay không…? Mặc dù thời gian đã qua khá lâu tuy nhiên chúng ta sẽ cùng nhau
nhìn nhận lại cuộc khủng hoảng đó để từ đó có một cách nhìn tổng quát về cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 và cách mà thế giới đã vượt qua khủng hoảng
để đi đến ngày hôm nay ra sao.


CHƯƠNG 1: Cơ sở lý thuyết về khủng hoảng tài chính
1. Khái niệm khủng hoảng
Trong học thuyết Kinh tế - chính trị của Mác – Leenin, Karl Marx đã đưa đến
cho người đọc về khái niệm của cuộc khủng hoảng kinh tế như sau: “Khủng hoảng
kinh tế là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái
trong chu kỳ kinh tế”. Theo đó, khủng hoảng kinh tế muốn nói đến quá rình tái sản
xuất tạm thời đang bị suy sụp. Trong khoảng thời gian này, những xung đột giữa
các tầng lớp nhân dân trong xã hội ngày càng trở nên căng thẳng, nhưng đồng thời
nó cũng chính là một sự tái khởi động của một quá trình tích tụ tư bản mới.
Ngoài ra, người ta còn có thể định nghĩa khủng hoảng kinh tế như sau: “Khủng


hoảng kinh tế là những hiện tượng kinh tế mất ổn định kéo dài mà không điều
chỉnh được của quá trình tái sản xuất trong nền kinh tế gây ra những chấn động và
hậu quả kinh tế xã hội trong quy mô rộng hoặc hẹp. Nó có thể diễn ra trong mọi
lĩnh vực của nền sản xuất xã hội: khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng dầu mỏ, khủng
hoảng bất động sản…
2. Dấu hiệu khủng hoảng
Theo một nghiên cứu của IMF dựa trên các cuộc khủng hoảng đã xảy ra trong
lịch sử về dấu hiệu, diễn biến và nguyên nhân, trước khi xảy ra khủng hoảng, các
dấu hiệu sau (hoặc cùng nhau hoặc một hay một số trong đó) thường xuất hiện:
Thứ nhất, tín dụng mở rộng quá mức và/hoặc giá tài sản tăng quá cao, dấu hiệu
này thường đi kèm với chính sách tiền tệ mở rộng, dòng vốn giá rẻ ồ ạt cung vào
thị trường qua hệ thống tài chính. Khi dòng vốn dễ dãi và rẻ được cung ứng ồ ạt,
2


tăng trưởng tín dụng tăng nhanh bất thường. Tăng trưởng tín dụng tăng thường đi
kèm với tăng trưởng kinh tế cũng bùng nổ theo. Nhưng hệ lụy là dòng tiền không
thể hấp thụ hết vào khu vực sản xuất sẽ chảy vào những khu vực có tỷ suất sinh lời
cao và rủi ro cũng cao như các thị trường tài sản (bất động sản, thị trường chứng
khoán), nhiều trong số đó mang tính đầu cơ ngắn hạn, tạo bong bóng tài sản.
Khủng hoảng sẽ xẩy ra khi dòng vốn giá rẻ đột ngột đảo chiều, thị trường tài sản đổ
vỡ (giảm giá mạnh, mất thanh khoản).
Thứ hai, hệ thống tài chính khó khăn hoặc mất khả năng cung cấp nguồn lực
tài chính cho các khu vực khác của nền kinh tế. Tình trạng này xảy ra khi hệ
thống tài chính mất khả năng thanh khoản, khả năng thanh toán hoặc mất mát niềm
tin khiến tín dụng không thể cung ra thị trường. Dấu hiệu này thường rõ nét ngay
trước khủng hoảng bùng nổ, cũng như trong và sau khủng hoảng.
Thứ ba, hỗ trợ của chính phủ ở quy mô lớn (như hỗ trợ thanh khoản, tái cấp
vốn). Đặc trưng của các hệ thống tài chính là rủi ro lây nhiễm cao, niềm tin dễ dàng
bị xói mòn khi thông tin bất cân xứng, có thể tạo nên tình trạng “hoảng loạn tập

thể” gây đổ vỡ hệ thống. Bởi vậy, Chính phủ thường hỗ trợ thanh khoản, tái cấp
vốn cho các định chế tài chính lớn đang gặp khó khăn hoặc rủi ro nếu sự đổ vỡ của
các định chế đó ảnh hưởng xấu tới hệ thống. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp,
mặc dù Chính phủ có hỗ trợ lớn nhưng đổ vỡ hệ thống vẫn diễn ra, tình trạng hỗn
loạn vẫn trầm trọng do rủi ro lây nhiễm đã lan quá rộng, ngoài năng lực hỗ trợ của
chính phủ. Chúng ta có thể thấy thực trạng này tại cuộc khủng hoảng gần đây nhất
năm 2007-2008, Chính phủ Mỹ và Chính phủ của một số nền kinh tế đều thực hiện
cứu trợ quy mô lớn nhưng vẫn không thể ngăn chặn đà tiến của cuộc khủng hoảng
đó.
Thứ tư, các bất cân đối lớn trên bảng cân đối tài khoản, cụ thể là bất cân đối giữa
NỢ và TÀI SẢN (của Chính phủ, doanh nghiệp, hộ gia đình, ngân hàng thương
3


mại (NHTM)…). Ví dụ, các khoản nợ quá lớn trên bảng cân đối tài sản của NHTM,
nằm ngoài khả năng kiểm soát an toàn của họ; hoặc các NHTM cho vay tập trung
tín dụng vào những ngành đang có khó khăn, rủi ro tín dụng lớn như BĐS, cho vay
đầu tư chứng khoán….; hoặc vay nợ quá lớn trên bảng cân đối của các doanh
nghiệp so với năng lực trả nợ và tiềm năng kinh doanh của họ; hay các khoản nợ
công ngày một lớn từ các Chính phủ trong khi nguồn thu để chi trả nợ công không
tương xứng hoặc thiếu bền vững.
Ngoài ra, còn có các dấu hiệu bất cân đối khác như sự phá giá tiền tệ mạnh và
đột ngột, suy giảm mạnh dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Trung ương (NHTW)
trong thời gian ngắn, thâm hụt cán cân thanh toán, cán cân thương mại nghiêm
trọng và kéo dài …
3. Phân loại khủng hoảng
a, Khủng hoảng thừa
Đó chính là khi cung lớn hơn cầu, hàng hóa sản xuất nhiều hơn mức nhu cầu
của con người và các hoạt động đầu cơ của các “ông chủ lớn” đã làm cho giá cả bị
đẩy lên mức quá cao, mức giá bong bóng bất hợp lý. Đến một thời điểm, bong bóng

bị vỡ và dẫn tới giá của các loại hàng hoa quay trở lại sụt giảm nghêm trọng, nhà
đầu tư mất tiền, người lao động thất nghiệp còn các doanh nghiệp bị phá sản
b,Khủng hoảng thiếu
Khủng hoảng thiếu xảy ra khi nguồn cung các sản phẩm hàng hóa bị sụt giảm
nghiêm trọng, trong khi nhu cầu tăng cao. Nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng thiếu
có thế kể đến như do tăng dân số, do thiên tai, thiếu kiệt nguồn tài nguyên và sự
hạn chế về năng lực sản xuất, công nghệ của các doanh nghiệp. Người dân chịu

4


ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các cuộc khủng hoảng thiếu bởi lúc này giá cả mọi mặt
hàng hóa sẽ bị đâye lên cao một mức khó chấp nhận được
c, Khủng hoảng nợ
Chính phủ ở một số nước hoặc trong phạm vi nhỏ hơn là các doanh nghiệp
không có khả năng trả được những món nợ đã mượn, lúc này người ta người ta gọi
đó là cuộc khủng hoảng nợ.
4. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng
a, Nguyên nhân bên ngoài
Hệ thống tài chính được coi như huyết mạch trong nền kinh tế . Khi nền kinh tế
suy thoái , tức là nền sản xuất hàng hóa giảm sút , không thu được lợi nhuận . Các
ngân hàng tổ chức tài chính sẽ phải đối mặt với một lượng tiền mặt lớn để trả cho
người gửi , dẫn đến nguy cơ phá sản . Trên thị trường chứng khoán lúc này giá trị
thực của các công ty niêm yết sẽ tự dốc làm xuất hiện tình trạng bán tháo cổ phiếu ,
trái phiếu . Các tài sản do các tổ chức định chế tài chính nằm giữ cũng bị mất giá
nghiêm trọng . Tính thanh khoản của thị trường theo đó cũng đi xuống . Tình trạng
làm ăn thua lỗ , phá sản của các công ty , tập đoàn sản xuất cũng kéo theo những
khoảng đển bù khổng lồ từ các công ty bảo hiểm làm cho các công ty này cũng bị
sụp đổ theo do không đủ khả năng chi trả . Suy thoái kinh tế là vấn để mang tính
chu kỳ do đó khung hoang tài chính bắt nguồn từ suy thoái kinh tế cũng mang tính

chu kỳ.
b, Nguyên nhân bên trong
Trên thị trường tài chính , khủng hoảng có thể do nguyên nhân từ hoạt động
bên trong của chính nền tài chính ấy. Trong nền tài chính của bất kỳ một quốc gia
nào dù phát triển đến đâu cũng phải đối mặt với những vấn để như thông tin không
cân xứng, chọn lựa đối nghịch, rủi ro đạo đức..
5. Một số khủng hoảng tài chính tiêu biểu
5


a. Cuộc khủng hoảng tín dụng năm 1772
Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ London và nhanh chóng lan sang phần còn
lại của châu Âu. Vào giữa những năm 1760 là thời kỳ mở rộng tín dụng nhanh
chóng của nhiều ngân hàng Anh. Cuộc khủng hoảng sau đó nhanh chóng lan sang
Scotland, Hà Lan, các khu vực khác của hâu Âu và các thuộc địa của Anh - Mỹ.
Các nhà sử học đã tuyên bố rằng hậu quả kinh tế của cuộc khủng hoảng này là một
trong những yếu tố then chốt làm bùng bổ cuộc biểu tình Tiệc trà Boston và Cách
mạng Mỹ.
b. Đại khủng hoảng 1929 – 1939
Đây là thảm họa tài chính và kinh tế tồi tệ nhất của thế kỷ 20. Nhiều người tin
rằng Đại khủng hoảng được châm ngòi bởi bởi vụ sụp đổ ở Phố Wall năm 1929, và
sau đó trở nên trầm trọng hơn bởi các quyết sách tồi tệ của chính phủ Mỹ. Khủng
hoảng kéo dài gần 10 năm và dẫn đến thất thoát một lượng thu nhập khổng lồ, tỷ lệ
thất nghiệp kỷ lục và đầu ra sản xuất giảm đáng kể, đặc biệt là ở các Quốc gia công
nghiệp hóa. Tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp đạt gần 25% vào lúc đỉnh điểm của cuộc
khủng hoảng năm 1933.
c. Cú sốc giá dầu OPEC năm 1973
Cuộc khủng hoảng này bắt đầu khi các nước thành viên của OPEC (Tổ chức
các nước xuất khẩu dầu mỏ) mà chủ yếu bao gồm các quốc gia thuộc tiểu vương
quốc Ả Rập, quyết định trả đũa Mỹ nhằm đáp trả việc cung cấp vũ khí cho Israel

trong Chiến tranh Ả Rập - Israel lần thứ tư.
Điều độc đáo về cuộc khủng hoảng sau đó là sự xuất hiện "đúng thời điểm" của
lạm phát cực cao (nguyên nhân là do sự tăng vọt của giá năng lượng) và sự đình trệ
kinh tế (do khủng hoảng kinh tế). Do đó, các nhà kinh tế đã đặt tên cho kỷ nguyên
6


là thời kỳ "stagflation", (thuật ngữ chỉ sự trì trệ kết hợp với lạm phát), và phải mất
vài năm để sản lượng phục hồi và tỷ lệ lạm phát giảm xuống mức trước đó.
d. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ Thái Lan vào năm 1997, đã nhanh chóng
lan sang phần còn lại của Đông Á và các đối tác thương mại.
Khi sự hoảng loạn bùng phát trên thị trường và các nhà đầu tư cảnh giác trước
những vụ phá sản có thể xảy ra của các chính phủ Đông Á, nỗi lo về một cuộc
khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới bắt đầu lan rộng. Phải mất nhiều năm để
mọi thứ trở lại bình thường. Quỹ tiền tệ Quốc tế đã phải can thiệp để tạo ra các gói
cứu trợ cho các nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề nhất nhằm giúp các Quốc gia này
thoát khỏi tình trạng vỡ nợ.
e. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007
Điều này đã gây ra cuộc Đại suy thoái, cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm
trọng nhất kể từ Đại khủng hoảng và nó đã tàn phá thị trường tài chính trên toàn thế
giới. Bị kích động bởi sự sụp đổ của bong bóng nhà đất ở Mỹ, cuộc khủng hoảng
đã dẫn đến sự sụp đổ của Lehman Brothers (một trong những ngân hàng đầu tư lớn
nhất thế giới), đưa nhiều tổ chức tài chính và doanh nghiệp quan trọng đến bờ vực
sụp đổ, buộc Chính phủ phải giải cứu với những tiền lệ chưa từng có. Hệ quả là mất
gần một thập kỷ để mọi thứ trở lại bình thường, nhưng trước đó nó đã kịp xóa sạch
hàng triệu việc làm và hàng tỷ USD thu nhập trong vỏn vẹn hơn một năm.

7



CHƯƠNG 2: Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008
1. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008
1.1 Nguyên nhân trực tiếp
a, Khủng hoảng dưới nợ chuẩn
Cho vay thế chấp dưới chuẩn là khoản cho vay chất lượng thấp với mức rủi ro
cao. Các khoản vay này không được xem xét kỹ lưỡng và thường được bảo đảm
bởi rất ít hoặc không có giấy tờ chứng minh khả năng tài chính của người đi vay .
Ở Mỹ , những người đi vay dưới chuẩn thường có điểm tín dụng thấp hơn 620 (
chiếm gần 25 % dân số Mỹ . Để bù đắp lại rủi ro cao , những khoản vay này là
những khoản vay với lãi suất cao hoặc người đi vay phải vay theo lãi suất ARM
( Adjustable rate Mortgages ) với lãi suất ban đầu thấp , sau đó được điều chỉnh dần
lên những mức cao hơn . Theo truyền thống , người mua thường muốn vay tiền
mua nhà với lãi suất cố định hơn là lãi suất linh hoạt , theo đó , họ sẽ phải thanh
toán hàng tháng tiền lãi với lãi suất cố định trong suốt 30 năm . Tuy nhiên , lãi suất
ARM lại rất thấp với thời hạn từ 3 đến 5 năm . Chính vì vậy , nó đã thu hút được
những người mua có thu nhập thấp . Tuy nhiên , các khoản tiền lãi phai tra hàng
tháng đã tăng dần theo thời gian do lãi suất cho vay được điều chỉnh lên những mức
cao hơn . Trong suốt năm 2005 , các khoản vay ARM trở nên phổ biến hơn . Thị
trường dưới chuẩn được hình thành phần lớn từ các khoản vay này , giúp cho
những người có khả năng tài chính kém dễ dàng hơn trong việc chi trả hàng tháng
nhưng chi phí tiềm ẩn của các khoản chi trả trong tương lai lại cao hơn rất nhiều
Việc giảm lãi suất xuống mức thấp kỉ lục của FED và sự bùng nổ của thị trường
nhà đất Mỹ đã kéo theo sự gia tăng mạnh của hoạt động cho vay cầm cố dưới
chuẩn .
8


Như vậy , hoạt động của toàn hệ thống được thúc đẩy bởi khối lượng tín | dụng
cao , tiêu chuẩn tín dụng thấp , lãi suất và phí cao . Hầu hết những người cho vay

không nhận ra cái bẫy họ đang bước vào . Đồng thời , nhiều người đi vay đã lợi
dụng sự dễ dãi của môi trường cho vay để đầu cơ . Họ không mua nhà để ở mà chỉ
để giữ một thời gian rồi bán lại cho người khác nhằm kiếm lời . Và khi ãi suất tăng
lên , giá cả bất động sản giảm nhanh chóng đã gây khó khăn cho hoạt động vay
cầm cố dưới chuẩn . Khủng hoảng trên thị trường cho vay cầm cố dưới chuẩn đã
xảy ra khi một loạt các vụ tịch thu tài sản trên thị trường này gia tăng ở Mỹ vào
năm 2006 , và lây lan thành cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vào tháng 7 /
2007 .
b, Tình trạng kinh doanh thua lỗ và sự sụp đổ hàng loạt theo dây chuyền của các tổ
chức tài chính hàng đầu.
Khi nền kinh tế bước vào thời kì suy thoái, kinh tế khó khăn, giá bất động sản
giảm mạnh, người đi vay đã không có khả năng trả được nợ lại cũng rất khó bán bất
động sản để trả nợ. Như vậy, các tổ chức tín dụng cho vay phải đối mặt với nguy cơ
mất vốn. Thêm vào đó, việc các hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm
cho các chứng khoán MBS là nợ khó đòi dẫn đến các chứng khoán MBS mất giá trị
trên thị trường, khiến cho cá ngân hàng, các nhà đầu tư nắm giữ những chứng
khoán này không những bị lỗ mà còn dần rơi vào tình trạng khó khăn về tính thanh
khoản. Đến một mức độ nhất định, các tổ chức tài chính không còn chịu đựng được
sức ép của tính thanh khoản và các khoản thua lỗ, nên đã buộc tìm sự cứu trợ từ tất
cả các nguồn và thậm chí là đệ đơn phá sản. Do sự liên quan, đầu tư qua lại thông
qua hình thức chứng khoán hóa đã dẫn đến tình trạng sụp đổ có hệ thống.
Đồng thời, các tổ chức tài chính và các công ty bảo hiểm phải hoàn trả tiền bảo
hiểm theo các hợp đồng bảo hiểm tiền gửi và tiền vay (CDS) do các tổ chức này
bán ra. Ước tính nước mỹ có khoảng 35000 tỷ USD tiền bảo hiểm và toàn thế giới
là khoảng 54600 tỷ USD (theo ước tính của “International Swap and Derivatives
9


association”). Tập đoàn tài chính hàng đầu thế giới AIG bị đổ vỡ, một phần là do
đầu tư vào MBS và phần lớn là các hợp đồng CDS. Nếu không có sự giải cứu kịp

thời đối với thị trường tài chính Mỹ thì các hợp đồng CDS sẽ tàn phá các ngân hàng
và các tổ chức tài chính khác.
Chỉ tính đến tháng 07/2008, các tổ chức tài chính đã báo cáo mất vốn trên 435
tỷ USD. Hơn nữa không một ai có thể chắc về giá trị đích thực của các khoản đầu
tư tài chính – bất động sản được ước tính là hàng ngàn tỷ đô la vẫn còn nằm trên sổ
sách của các tập đoàn tài chính – ngân hàng.
c, Lòng tham của thị trường
Các nhà đầu tư tập trung chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận đã không dừng lại ở
việc sáng tạo ra nhiều công cụ tài chính mới, mà không cần biết mức độ rủi ro như
thế nào và các sản phẩm này có phù hợp với nhu cầu của người dân hay không.Từ
những rủi ro và không quản lý chặt chẽ, chỉ chạy theo lợi nhuận. Đã dẫn đến bùng
nổ quả bóng đã căng hơi từ lâu.
1.2 Nguyên nhân gián tiếp
a, Bong bóng bất động sản
Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ tình trạng bong bóng của thị trường nhà đất ở
Mỹ ( diễn ra khoảng năm 2005-2006 ) với những khoản vay dưới chuẩn có nguy cơ
rủi ro cao và các khoản thế chấp có lãi suất điều chỉnh. Từ vài năm trước đó, giá
nhà tăng cao cùng với việc được phép vay với điều kiện rất đơn giản. Nhiều khách
hàng đã tranh thủ tiền của các ngân hàng đầu tư để đầu cơ vào bất động sản với hy
vọng kiếm được nhiều tiền từ các khoản mua bán chênh lệch.
b, Quản lý lỏng lẻo, thông tin thiếu minh bạch
Trong bối cảnh thực hiện các chính sách tự do hóa kinh tế, Chính phủ mỹ còn
thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ trong một thời gian dài. Để phục hồi nền kinh
tế Mỹ sau cuộc suy thoái kinh tế năm 2001, Cục Dữ trữ liên bang Mỹ (FED) đã liên
10


tiếp giảm lãi suất liên ngân hàng (từ 6,5% xuống còn 1,75%), theo đó, lãi suất cho
vay của tín dụng thứ cấp cũng giảm xuống thấp. Chính sách nới lỏng tiền tệ (chính
sách đồng đô la rẻ) đã kích thích người dân vay tiền mua nhà và các tổ chức tín

dụng thì sẵn sàng cho vay, đầu tư mạo hiểm. Tóm lại, sự buông lỏng quản lý nhà
nước và những sai lầm trong chính sách kinh tế của nhà nước là nguyên nhân sâu sa
hơn của cuộc khủng hoảng. Kinh tế thị trường Mỹ dựa chủ yếu trên sở hữu tư nhân,
lợi nhuận là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy các doanh nghiệp năng động, nhưng cũng
là nguyên nhân thúc đẩy các doanh nghiệp đầu cơ, thậm chí sẵn sàng vi phạm pháp
luật, vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội , phá vỡ những cân đối duy trì sự phát
triển ổn định của nền kinh tế, dẫn tới khủng hoảng.
c, Đòn bẩy tài chính quá cao
Đòn bẩy tài chính là việc doanh nghiệp sự dụng các nguồn tài trợ từ các khoản
vay thay cho vốn chủ sở hữu. Thông thường các doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài
chính khi mà nhu cầu về vốn đầu tư của doanh nghiệp khá cao, trong khi vốn chủ
sở hữu không đủ để tài trợ.
Việc nổ bong bóng bất động sản đã làm gia tăng tình trạng mất khả năng thanh
toán các khoản nợ . Các MBS theo đó bị mất giá trị và khiến các định chế tài chính
thiếu vốn vì mức đòn bẩy tài chính lúc này bị đẩy lên quá cao . Các định chế tài
chính trước sức ép đó buộc phai giam tỷ lệ đòn bẩy tài chính , điều này lại càng đấy
các con nợ vào tình trạng căng thăng . Bên cạnh đó , các định chế tài chính này lại
tìm cách hạ tỷ lệ đòn bẩy tài chính một phần thông qua việc bản thảo các MBS , và
hệ qua lại làm cho giá của các MBS giam sâu hơn nữa . Khi đó tỷ lệ đòn bẩy tài
chính thêm xấu đi , tăng thêm áp lực phai cai thiên tỷ lệ này . Đây chính là vòng
luẩn quẩn của bài toán giảm tỷ lệ đòn bẩy tài chính . Sự ra đi của các " đại gia "
Bear Steams . Freddie Mac và Fannie Mae , Lehman Brothers và Merrill
Lynch , . . . được coi như là ngôi nó của cuộc khủng hoảng , dẫn đến sự khủng
11


hoảng niềm tin của thị trường , dẫn đến sự hạ thấp tín nhiệm và sự ra đi của AIG ,
dẫn đến làn sóng rút tiền . gây ra khủng hoảng thanh khoản cho các ngân hàng
thương mại , đặc biệt là các ngân hàng liên quan đến cho vay BĐS như Wamu và
Wachovia .

d, Khủng hoảng niềm tin
Một nguyên nhân khác dẫn đến cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán ngày
càng sâu rộng là sự khủng hoảng niềm tin của người dân Mỹ đối với đội ngũ lãnh
đạo của đất nước này. Kế hoạch giải cứu tài chính tưởng chừng như được thông qua
khi hầu hết các lãnh đạo chính trị Mỹ đều ủng hộ thì đến phút cuối lại không được
Hạ viện thông qua. Ngay lập tức thị trường có những phản ứng tiêu cực với kết quả
này khi các chỉ số chính trên toàn thế giới đều giảm rất sâu. Một kế hoạch giải cứu
trị giá rất lớn như vậy mà khi đưa ra Hạ viện bỏ phiếu lại chưa chắc rằng liệu nó có
đạt được đủ số phiếu để thông qua hay không thì trong bất cứ trường hợp nào cũng
là một rủi ro đối với thị trường và đặc biệt trong tình trạng thị trường đang suy yếu.
Mặc dù vài ngày sau gói giải pháp này đã thông qua nhưng rõ ràng đã có sự không
nhất quán trong nội bộ các nhà lập pháp Mỹ về cách thức điều hành và quản lý thị
trường. Nhiều chính sách điều tiết thị trường đã không còn phù hợp và không theo
kịp được sự phát triển của thị trường. Vấn đề là khi lòng tin vào vai trò của chính
phủ đã bị giảm sút và những dấu hiệu của một cuộc đại khủng hoảng và suy thoái
trong dài hạn vẫn cong hiển hiện thì những giải pháp tài chính tức thời cũng khó
làm thay đổi được thị trường.
2. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008
2.1. Khủng hoảng tài chính tại Mỹ
Tháng 8 năm 2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century
Financial Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình
trạng cổ phiếu của mình mất giá mạnh như Countrywide Financial Corporation.
12


Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín dụng này đã lo sợ và đến rút tiền, gây ra hiện
tượng đột biến rút tiền gửi khiến cho các tổ chức đó càng thêm khó khăn. Nguy
cơ khan hiếm tín dụng hình thành. Cuộc khủng hoảng tài chính thực thụ chính thức
nổ ra. Trước tình hình đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã tiến hành các biện pháp
nhằm tăng mức độ thanh khoản của thị trường tín dụng chẳng hạn như thực

hiện nghiệp vụ thị trường mở mua vào các loại công trái Mỹ, trái phiếu cơ quan
chính phủ Mỹ đảm bảo theo tín dụng nhà ở.
Tháng Chín 2007, Cục Dự trữ Liên bang còn tiến hành giảm lãi suất cho vay
qua đêm liên ngân hàng (Fed fund rates) từ 5,25% xuống 4,75%. Tháng 12 năm
2007, cuộc khủng hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn khi những báo cáo kinh tế
cuối năm cho thấy sự điều chỉnh của thị trường bất động sản diễn ra lâu hơn dự tính
và quy mô của khủng hoảng cũng rộng hơn dự tính. Tình trạng đói tín dụng trở nên
rõ ràng. Hệ thống dự trữ liên bang cố gắng giảm mạnh lãi suất liên ngân hàng vào
tháng 12/2007 và tháng 2 năm 2008 nhưng không có hiệu quả như mong
đợi.Khủng hoảng càng lúc càng trầm trọng hơn,và hệ quả là hàng loạt tổ chức tín
dụng bị ảnh hưởng Một số đại gia lớn bị gặp nạn:
-Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi
và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial
-Ngày 16/3/2008,ngân hàng JP morgan chase đã mua lại Bearstearn.
-15/9/2008: Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ;
Merrill Lynch cũng bị Bank of America Corp thâu tóm
- Ngày 25/9: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng
lớn nhất Mỹ đã sụp đổ .Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã
đoạt quyền kiểm soát WaMu. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành
ngân hàng thương mại bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ.
-Ngày 7/9/2008 bộ tài chính Mỹ tuyên bố đặt hai công ty Fannie mae và
Fredie Mac dưới sự quản lý của chính phủ -Ngày 16/09 FED và bộ tài chính
13


quốc hữu hóa AIG bằng cách bơm 85 tỷ USD và sở hữu 79,9% cổ phần của
công ty này
2.2 Khủng hoảng tài chính trên thế giới
Khủng hoảng tài chính tại châu Âu
Các nền kinh tế châu Âu cũng ko thoát khỏi vòng xoáy khủng hoảng. Nhiều

ngân hàng,tổ chức tín dụng châu Âu cũng chịu chung số phận: Ngân hàng Northern
Rock bị Anh quốc hữu hóa. Deutsche Bank của Đức và UBS của Thụy Sĩ phải tăng
mức trích lập dự phòng do những thất thoát liên quan đến cuộc khủng hoảng cho
vay cầm cố.
Khủng hoảng tài chính tại châu Á
Các nước có nền kinh tế phát triển là những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ
cuộc khủng hoảng trên. Tại Nhật,tập đoàn bảo hiểm Yamato life insurance Co.
chính thức đệ đơn xin bảo hộ phá sản sau khi các khoản nợ vượt tài sản 11,5 tỷ
yen(tương đương 116 triệu USD) và trở thành mốc đánh dấu cuộc khủng hoảng đã
lan sang châu Á.Tại Hàn Quốc,kinh tế nằm trong tình trạng báo động đỏ khi đồng
won mất giá tới 40% chỉ trong 10 tháng năm
3. Tác động của cuộc khủng hoảng 2008 đến nền kinh tế Thế giới
Sự sụp đổ trong khu vực tài chính Mỹ nhanh chóng lan rộng sang các nước mà
trước tiên là các nước có liên quan nhiều tới tài sản tài chính có nguồn gốc từ
Mỹ.”Cơn bão khủng hoảng” tiếp tục lan rộng ra khắp thế giới sau khi
đã hạ gục những tên tuổi lừng lẫy của Mỹ. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ước tính,
thiệt hại của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ lên đến 1,3 nghìn tỷ USD. Tất cả các
nền kinh tế lớn của thế giới như Nga, EU, Trung Quốc, và Nhật Bản đều đang trở
thành nạn nhân của “cơn địa chấn tài chính” Mỹ.

14


3.1 Tác động đối với nền kinh tế toàn cầu
Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế
suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo hướng
xuất khẩu ở Đông Á . Đồng thời, do lo ngại về bất ổn định xảy ra đã làm cho nạn
đầu cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn tới giá lương thực tăng cao trong thời gian
cuối năm 2007 đầu năm 2008, tạo thành một cuộc khủng hoảng giá lương thực toàn
cầu. Một số nền kinh tế như Nhật Bản, Singapore ,Hong Kong và Đài Loan rơi vào

suy thoái. Các nền kinh tế khác đều tăng trưởng chậm lại. Kinh tế các khu vực trên
thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu mỏ cho sản xuất và tiêu dùng giảm
cũng như giá dầu mỏ giảm. Điều này lại làm cho các nước xuất khẩu dầu mỏ bị
thiệt hại.
- Giá vàng lập kỷ lục trên 1.000 đôla một ounce. Còn giá lương thực đắt đỏ lại tạo ra
căng thẳng thực sự tại nhiều nơi, thậm chí cả các quốc gia xuất khẩu lương thực.
Lạm phát từ đó cũng xảy ra tràn lan tại nhiều quốc gia.
- Giá dầu sau khi đạt đỉnh vào tháng 7/2008 bắt đầu lao dốc không phanh.
Các tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 – 2009 đã lan toả
vào tất cả các lĩnh vực kinh tế, đẩy các thị trường bước vào thời kỳ suy thoái
nghiêm trọng.
• Tăng trưởng kinh tế thế giới: Tốc độ tăng trưởng GDP của toàn thế giới năm
2008 giảm xuống còn 2,8% (bằng một nửa so với 2007) và rơi xuống trạng thái
tăng trưởng âm (-0,6%) năm 2009. Đây là lần đầu tiên kinh tế thế giới rơi vào tình
trạng suy thoái kể từ 1970 đến nay. Theo thống kê của IMF, trong năm 2009 đã có
88 trong tổng số 233 nước (chiếm gần 40%) có tăng trưởng âm.
• Thương mại và du lịch: Khủng hoảng tài chính làm rung chuyển nền kinh tế thế
giới, đặc biệt là điều kiện tín dụng thương mại giảm sút đã dẫn đến sự suy giảm lớn
nhất trong hoạt động ngoại thương trong hơm 70 năm trở lại đây.
• Đầu tư: Giai đoạn từ 2003 đến 2007, sự tăng trưởng kinh tế thế giới được thúc đẩy
bởi các luồng vốn đầu tư có quy mô lớn. Nhờ chính sách tiền tệ nới lỏng duy trì
15


mức lãi suất thấp tại các nền kinh tế lớn như Mỹ, Châu Âu, cùng với sự mở rộng
của thị trường chứng khoán và sự phát sinh cảu nhiều sản phẩm tài chính phái sinh
đã khiến cho dòng vốn lưu chuyển rất dễ dàng. Khi khủng hoảng bùng nổ, các dòng
vốn đầu tư nhanh chóng giảm sút. FDI là dòng vốn ít có sự biến động hơn so với
dòng vốn đầu tư gián tiếp cũng đã giảm gần một nửa trong thời gian khủng hoảng,
từ mức hơn 3 nghìn tỷ USD vào năm 2007, đến năm 2009 giảm xuống chỉ còn 1,14

nghìn tỷ USD.
• Kiều hối: Khủng hoảng tài chính kéo theo suy giảm kinh tế và tình trạng thất
nghiệp gia tăng tại các nước phát triển đã khiến cho xuất khẩu lao động từ các nước
đang phát triển giảm sút nhanh chóng. Kiều hối về các nước Mỹ La Tinh và Caribe
năm 2008 đạt 69,2 tỷ Usd, chỉ tăng 1% so với năm 2007. Tổng kiều hồi cảu toàn
thế giới năm 2009 đã giảm xuống còn 317 tỷ USD, giảm 21 tỷ so với năm 2007.
• Việc làm: Thất nghiệp gia tăng, sô lượng việc làm giảm sút khiến đời sống của
người lao động rơi vào tình trạng khó khăn là một trong những biểu hiện của thời
kỳ khủng hoảng, đồng thời cũng là trọng tâm trong các nỗ lực cứu vãn nền kinh tế
của các nước. Tỷ lê thất nghiệp toàn cầu đã tăng từ 5,6% năm 2007 lên mức 6.3%
năm 2009 và trong ngắn hạn có rất ít hi vọng để tỉ lệ này có thể trở lại mức trước
khủng hoảng. Hệ số tạo việc làm được tính bằng tỷ số giữa tổng số việc làm và
tổng số dân trong độ tuôi lao động đã giảm từ 61,7% năm 2007 xuống còn 61,2%
trong năm 2009. Năm 2009, năng suất lao động trung bình toàn thế giới giảm 1,4%
trong khi chỉ số này tăng tới 3,3% vào thời điểm trước khủng hoảng năm 2007. Số
lao động nghèo (với mức thu nhập dưới 1,23 USD/ngày) đã tăng lên hơn 40 triệu
người, tăng 1,6% so với trước khủng hoảng. Nếu tính số lao động có mức sống
dưới 2 USD/ngày thì con số lên tới 1,2 tỷ người, chiếm 39% lực lượng lao động
toàn cầu.
• Những rủi ro hậu khủng hoảng: Mặc dù không xuất phát trực tiếp từ khủng
hoảng nhưng sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu đã thúc đẩy những yếu kém vốn
tiềm ẩn trong nội tại nền kinh tế bùng phát thành những biến cố nghiêm trọng như
16


cuộc khủng hoảng nợ công tại Châu Âu, nguy cơ chiến tranh tiền tệ hay rủi ro lạm
phát tăng cao tại Châu Á tiếp tục gây ra những bất ổn trong nền kinh tế trong thời
kỳ hậu khủng hoảng.
3.2 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến hệ thống tài chính quốc tế
+


Ảnh hưởng lên thị trường tài chính

Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút trong các
hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như chi tiêu của người dân. Hệ quả của
tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ thất nghiệp tại nhiều quốc
gia tăng cao, chi tiêu và chỉ số lòng tin của người tiêu dùng rơi xuống mức thấp
nhất trong nhiều năm. Tình hình trên thị trường tài chính thế giới như sau:
+ Thị trường tiền tệ: Khi khủng hoảng tài chính nổ ra, các đồng vốn trên trường tiền
tệ thế giới bị ảnh hưởng đáng kể do các nhà đầu tư đều giảm hoặc tái cơ cấu lại
dòng vốn đầu tư. Dòng vốn quốc tế có giai đoạn tăng trưởng âm khi Lehman
Brothers bị sụp đổ. Quý III/2008 đến hết quý I/2009 là thời kỳ suy giảm mạnh nhất
của dòng vốn quốc tế, cũng là giai đoạn khủng hoảng sâu nhất. Bên cạnh đó, dòng
vốn trong hệ thống ngân hàng cũng trở thành dòng vốn bị ảnh hưởng nặng nề nhất
từ cuộc khừng hoảng tài chính, đặc biệt là ở các nước phát triển. Quy mô hoạt động
cho vay qua biên giới trong hệ thống ngân hàng toàn cầu giảm sút mạnh mẽ trong
suốt cuộc khủng hoảng. Giá trị của các khoản nợ phải đòi ở nước ngoài của các
ngân hàng đã giảm từ 59% GDP vào cuối năm 2007 xuống còn 51% vào tháng 12
năm 2009. Tại các nước phát triển dòng vốn qua ngân hàng vẫn tiếp tục giảm trong
thời kỳ phục hồi (cuối năm 2009) còn ở các nước đang phát triển dòng vốn này hầu
như không tăng mà chỉ có sự tăng trưởng mạnh mẽ trở lại của dòng vốn phi ngân
hàng.
+ Thị trường chứng khoán: Nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới suy giảm
mạnh. Các nhà đầu tư chuyển danh mục đầu tư của mình sang các đơn vị tiền tệ
17


mạnh như dollar Mỹ, yên Nhật, franc Thụy Sĩ đã khiến cho các đồng tiền này lên
giá so với nhiều đơn vị tiền tệ khác, gây khó khăn cho xuất khẩu của Mỹ, Nhật
Bản, Thụy Sĩ và gây rối loạn tiền tệ ở một số nước buộc họ phải xin trợ giúp của

IMF. Bong bóng thị trường chúng khoán tự giải quyết bằng cách xuống giá chứng
khoán nghiêm trọng. Trong năm 2008, thị trường chứng khoán toàn cầu mất
khoảng 17000 tỷ USD trong đó thị trường chứng khoán các nước mới nổi giảm
54,72%, thị trường các nước phát triển giảm 42,72%.

Biến động S&P 500 và giá vàng thế giới 2008-2012 (nguồn Vietstock)
+ Thị trường bất động sản: Cuộc khủng hoảng tài chính cho vay thế chấp bất động
sản tại Mỹ cũng đã lan rộng và làm điêu đứng nhiều ngân hàng lớn tại các quốc gia
ở Châu âu như tập đoàn cho vay bất động sản Hypo Real Estate, ngân hàng IKB,
SachsenLB, DZ BanK, Deutsche Bank của Đức; ngân hàng đứng thứ 2 Bradford &
Bingley (B&B) và thứ 5 Northen Rock của Anh bị quốc hữu hóa; ngân hàng Dexia
SA Pháp; ngân hàng Fortis của Bỉ; …

18


+ Ảnh hưởng đến các tổ chức tài chính: Nhiều tổ chức tài chính của các nước phát
triển, nhất là các nước Châu Âu, cũng tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ
cấp ở Hoa Kỳ. Chính vì vậy, bong bóng nhà ở của Hoa Kỳ bị vỡ cũng làm các tổ
chức tài chính này gặp nguy hiểm tương tự như các tổ chức tài chính của Hoa Kỳ.
Những nước châu Âu bị rối loạn tài chính nặng nề nhất là Anh, Iceland, Ireland, Bỉ
và Tây Ban Nha.
Cơn bão khủng hoảng tài chính do cho vay bất động sản dưới chuẩn tràn lan đã
nhấn chìm hệ thống ngân hàng của quốc gia từng có thu nhập đầu người cao nhất
thế giới. Chính phủ Iceland đã phải đóng cửa thị trường chứng khoán, và quốc hữu
hóa những ngân hàng hàng đầu. Từ đó, đồng nội tệ krona của nước này mất giá
trầm trọng và gần như bị xóa sổ.
4. Một số biện pháp của NHTW các nước trên thế giới đã sử dụng
Đối phó với sự suy giảm mạnh thanh khoản đôla Mỹ của các quỹ trên thế giới,
NHTW các nước đã hợp tác chặt chẽ và phối hợp cùng hành động. Sự phối hợp đầu

tiên giữa các NHTW là việc song song thực hiện chính sách giảm lãi suất nhằm
thúc đẩy nền kinh tế. Ngay từ ban đầu, FED đã sử dụng mạnh mẽ những công cụ
truyền thống của mình để quản lý các mức lãi suất ngắn hạn. Theo đó, FED đã
giảm lãi suất cơ bản từ mức 5,25% ở tháng 8/2007 xuống mức lãi suất thấp nhất
trong lịch sử là 0 đến 0,25% vào cuối năm 2008. Tuy nhiên, sự phối hợp của
NHTW các nước về giảm lãi suất cơ bản là rất ít, cho đến tháng 10/2008, FED đã
thành công trong nỗ lực kêu gọi 5 NHTW khác gồm Canada, Anh, châu Âu, Thụy
Điển và Thụy Sỹ cùng thực hiện chính sách giảm lãi suất. Rõ ràng, sự phối hợp
hành động này đã gửi một tín hiệu mạnh mẽ và tích cực đến thị trường tài chính về
ý định tập thể của các nhà hoạch định chính sách nhằm giảm thiểu tác động của
cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế của mình.

19


Trước tình hình căng thẳng trong thị trường tài chính và tình trạng thiếu thanh
khoản ngày càng trầm trọng, ngoài việc cắt giảm lãi suất, FED đã thực hiện các giải
pháp nhằm cung cấp thanh khoản cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài
chính khác. Tiếp theo đó, FED triển khai các chính sách hỗ trợ thanh toán tại các
thị trường thương phiếu và các quỹ đầu tư. Các chương trình hỗ trợ thanh khoản
này sẽ dần được hạn chế khi các thị trường tài chính đã cải thiện.
Tuy nhiên, khi FED và các NHTW khác đang tự mình giải quyết tình trạng
thiếu hụt thanh khoản trên thị trường nội địa, có một điều hiển nhiên rằng, như là
hệ quả của tình trạng toàn cầu hóa, các công ty đang ở giai đoạn thiếu hụt tài chính
không chỉ ở đồng nội tệ mà cả ngoại tệ. Cụ thể, việc hỗ trợ tài chính bằng đôla Mỹ
sẽ không chỉ bên trong nước Mỹ mà ở cả các nước khác trên thế giới, qua đó sẽ làm
trầm trọng thêm áp lực tài trợ thanh khoản cho các thị trường tại Mỹ. FED đã hỗ trợ
thanh khoản cho các công ty tài chính nước ngoài tại Mỹ thông qua nghiệp vụ chiết
khấu và các công cụ chính sách khác. Để giảm áp lực đối với việc hỗ trợ thanh toán
cho các thị trường và thúc đẩy tín dụng cho các hộ gia đình và doanh nghiệp Mỹ,

FED đã thông qua các thỏa thuận hoán đổi song phương với 14 ngân hàng trung
ương khác. Theo đó, các ngân hàng trung ương nói trên sẽ nhận đôla Mỹ từ FED và
quy đổi ra đồng nội tệ của mình và sau đó cho các tổ chức tín dụng trong nước vay
theo quy định hiện hành của nước mình. Như vậy, các thỏa thuận hoán đổi nêu trên
sẽ không tạo rủi ro cho FED vì khi các thỏa thuận kết thúc các ngân hàng trung
ương khác sẽ phải trả một khoản phí cho FED và thanh toán tiền vay với tỷ giá
đúng bằng tỷ giá ban đầu khi nhận đôla Mỹ từ FED, trong khi FED được nhận đảm
bảo bằng nguồn dự trữ ngoại tệ của NHTW khác.
Các thỏa thuận nêu trên đã có thành công bước đầu khi làm giảm áp lực thanh
khoản và lãi suất liên ngân hàng giảm là một minh chứng cho những lợi ích trong
hợp tác giữa các NHTW. Hơn thế nữa, các thỏa thuận cũng làm giảm lo ngại thị
20


trường khi không chỉ thực hiện vai trò ngăn ngừa mà cả vai trò chữa trị. Bốn
NHTW của Brazin, New Zealand, Singapore và Canada đã không chấm dứt chương
trình thỏa thuận này vào tháng 2/2010, nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng tại
châu Âu.
Với sự hỗ trợ từ các NHTW, vào giữa năm 2008, thị trường tài chính toàn cầu dần
dần lấy lại sự ổn định.
Tuy nhiên, kích hoạt bởi sự thất bại của Lehman Brothers, một trong những ngân
hàng hàng đầu tại Mỹ, trong mùa thu năm 2008, thị trường tài chính toàn cầu lại bị
rung động và nó lan rộng nhanh chóng trên thế giới, ảnh hưởng đến Nhật Bản và
các nền kinh tế đang nổi đang trong giai đoạn phát triển tốt. Đặc biệt là ở châu Âu
và các thị trường tài chính Mỹ, kể từ khi các tổ chức tài chính (thành viên tham gia
thị trường) gia tăng lo ngại về rủi ro không trả nợ của các đối tác, họ đã trở nên
thận trọng hơn trong việc cho vay đối với các tổ chức tài chính khác, tính thanh
khoản trở nên căng thẳng và lo ngại về hệ thống tài chính toàn cầu gia tăng. Ngoài
lo ngại về thanh khoản, các tổ chức tài chính và các nhà đầu tư lo ngại về sự thiếu
hụt vốn xuất phát từ thua lỗ chứng khoán và các sản phẩm tài chính khác.

Trước tình hình như vậy, NHTW đã thực hiện một số biện pháp, bao gồm: (i) hạ
thấp lãi suất cơ bản, (ii) cung cấp thanh khoản bằng đồng bản tệ và đôla Mỹ cho
các quỹ để đảm bảo sự ổn định của thị trường tài chính; (iii) mở rộng chương tình
mua tài sản của NHTW trên các thị trường tài chính của họ nhằm phục hồi chức
năng của các thị trường tài chính và chức năng trung gian của các tổ chức tài chính.
Tại nhiều nước, lãi suất đã được điều chỉnh giảm xuống gần như bằng không. Với
suy giảm kinh tế đáng kể, các NHTW phải đối mặt với những thách thức tiếp tục
nới lỏng chính sách tiền tệ. FED đã mở rộng bảng cân đối kế toán của mình thông
qua việc mua trái phiếu kho bạc dài hạn, các khoản nợ của các tổ chức, và cơ quan
21


thế chấp chứng khoán. Ý tưởng của chính sách này là tạo áp lực đối với lãi suất dài
hạn để thúc đẩy nhu cầu và cũng để khuyến khích một số cân đối lại danh mục đầu
tư đối với các tài sản rủi ro và cho vay các khu vực tư nhân. Trong khi đó các
NHTW khác đã cùng chia sẻ những thách thức và phản ứng theo những cách tương
tự mà FED đã thực hiện (như các chương trình mua tài sản) để mở rộng bảng cân
đối của họ. Ví dụ, NHTW Anh và Nhật Bản cũng mua một lượng lớn chứng khoán
chính phủ trung và dài hạn để kích thích kinh tế. Ngoài ra, một số NHTW nước
ngoài khác, bao gồm cả Canada và Nhật Bản, cũng tích cực sử dụng các nghiệp vụ
ngân hàng trung ương nhằm định hướng lãi suất trong dài hạn.
Tại Nhật Bản, đặc biệt là kể từ cú sốc Lehman, nó trở nên vô cùng khó khăn cho
việc phát hành trái phiếu công ty. Trong hoàn cảnh này, BOJ đã triển khai các biện
pháp khác nhau để hỗ trợ nền kinh tế Nhật Bản từ phía chính sách tiền tệ, bao gồm:
(i) BOJ hạ thấp lãi suất trong 2 giai đoạn (tháng 10 và 12/2008) về mức 0,1%; (ii)
BOJ thực hiện các biện pháp để đảm bảo sự ổn định của thị trường tài chính và (iii)
các biện pháp hỗ trợ tình hình tài chính cho các doanh nghiệp.
Ngoài việc sử dụng chính sách tiền tệ và các nghiệp vụ kế toán thông thường, các
NHTW còn sử dụng thông tin liên lạc như là một công cụ quan trọng để nâng cao
hiệu quả của chính sách. Mỗi khi kết thúc các cuộc họp, Thống đốc NHTW các

nước thường đưa ra thông cáo báo chí về các chính sách và lý do cho những hành
động chính sách.
Hợp tác trong việc giám sát và ban hành quy chế
Các NHTW trên toàn cầu không chỉ tập trung đối phó với cuộc khủng hoảng, mà
còn cùng phối hợp để giảm thiểu rủi ro của cuộc khủng hoảng trong tương lai bằng
cách cải thiện tính hợp lý và ổn định của khu vực tài chính. Thực tế, cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu đã nhấn mạnh tầm quan trọng của mục tiêu ổn định tài
22


chính của các NHTW. Do tính chất toàn cầu của các thị trường tài chính và các
định chế tài chính lớn, việc phối hợp và hợp tác giữa các NHTW, cơ quan giám sát
ngân hàng và nhà quản lý nói chung là rất quan trọng trong việc đạt được mục tiêu
này. Sau đây là một vài ví dụ cụ thể về những nỗ lực này.
Đầu tiên, cuộc khủng hoảng nêu bật những thiếu sót trong yêu cầu vốn và thanh
khoản. Các NHTW có trách nhiệm giám sát ngân hàng đã được tham gia sâu vào
việc xây dựng và thúc đẩy các quy định quốc tế để giải quyết những thiếu sót này.
Theo đó, các quy định mới về tăng cường vốn và thanh khoản được ra đời với tên
gọi Basel 3.
Cuối cùng, NHTW các nước đang tập trung vào "cách tiếp cận vĩ mô" đối với các
quy định bảo đảm ổn định hệ thống tài chính. Theo đó, hệ thống tài chính của mỗi
quốc gia cũng như toàn thế giới phải được coi như một tổng thể, ngoài các tổ chức
tài chính cá nhân và thị trường.

CHƯƠNG 3:Tác động của cuộc khủng hoảng tới nền kinh tế
Việt Nam
1. Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam
Theo Tổng cục Thống kê, kinh tế Việt Nam những năm đầu giải phóng tăng
trưởng thấp, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ bằng 80 - 90% nhu cầu sử dụng. Thời
kỳ này siêu lạm phát hoành hành. Suốt trong thời kỳ 1976-1985, chỉ số giá bán lẻ

hàng hóa năm sau so năm trước luôn tăng ở mức hai con số. Năm 1986, lạm phát
đạt đỉnh điểm với tốc độ tăng giá 774,7%. Đời sống nhân dân hết sức khó khăn
thiếu thốn. Sau quyết định mở cửa nền kinh tế năm 1986, kinh tế dần phục hồi và
ngày càng phát triển. Năm 1988, nước ta nhập hơn 450.000 tấn gạo thì đến năm
1990 đã đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu gạo sang các nước khác.
23


GDP Việt Nam cũng có những bước tăng trưởng vượt bậc. Nếu như giai đoạn
1976-1980, bình quân một năm tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4%, thu nhập quốc
dân tăng 0,4% thì sau đổi mới, GDP Việt Nam luôn tăng trưởng vượt bậc với 78%/năm.
Năm 2007, với việc gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tốc độ tăng
trưởng GDP lên tới gần 8,5%, đứng thứ 3 châu Á (sau Trung Quốc: 11,3% và Ấn
Độ khoảng 9%). Cũng trong năm này, kinh tế Việt Nam đạt nhiều thành tựu nổi bật.
Năm 2007, Việt Nam thực hiện quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn
(PNTR) với Hoa Kỳ. Do đó, thị trường xuất khẩu mở rộng, các rào cản thương mại
Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Kinh tế tăng
trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Tốc độ tăng trưởng
GDP cả 3 khu vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá. Nét mới trong năm 2007 là tỷ
trọng khu vực dịch vụ tăng cao và tốc độ tăng khá ổn định, quý sau cao hơn quý
trước, trong điều kiện có khó khăn nhiều mặt, nhất là dịch vụ vận tải, du lịch,
thương mại, tài chính ngân hàng trong bối cảnh hội nhập WTO.
Ngoài ra, thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục. Tổng số vốn FDI năm
2007 đạt mức gần bằng vốn đầu tư của 5 năm 1991 - 1995 là 17 tỉ USD và vượt qua
năm cao nhất 1996 là 10,1 tỉ USD. Vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào dịch vụ 63,7%
và công nghiệp 35,0%, ngành nông - lâm nghiệp thủy sản 1,3%.
Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam cũng trải qua nhiều khó khăn. Giá cả tăng cao,
không đạt được mục tiêu đề ra và nhập siêu lớn. Năm 2007, nhập siêu ước lên tới
trên 13,1 tỉ USD, bằng 27,5% kim ngạch xuất khẩu. Tốc độ giải ngân vốn ODA tuy
có tiến bộ, nhưng vẫn chậm so với yêu cầu. Trong 2 năm 2006 - 2007 cả nước mới

giải ngân đươc 3,9 tỉ USD, tương đương 32% tổng vốn ODA dự kiến giải ngân thời
kỳ 2006 - 2010.

24


2. Tác động của cuộc khủng hoảng nên nền kinh tế Việt Nam
2.1 Tác động tích cực
Thứ nhất, Việt Nam có cơ hội trong thu hút vốn đầu tư. Dòng vốn trên thế giới
sẽ tập trung vào những nơi có môi trường chính trị và kinh doanh ổn định, Việt
Nam có những lợi thế về điều này.
Thứ hai, nước ta tranh thủ được cơ hội tăng xuất khẩu các mặt hàng mà Việt
Nam có lợi thế so sánh. Ngoài ra, Việt Nam cũng tranh thủ nhập khẩu các mặt
hàng, công nghệ hiện đại mà các nước phát triển phải bán đi do kinh tế đi xuống.
2.2 Tác động tiêu cực
- Đối với hoạt động xuất nhập khẩu
Xuất khẩu chịu ảnh hưởng rõ nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Xuất
khẩu sang các thị trường như Mỹ và châu Âu chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch
xuất khẩ u. Tuy nhiên, những thị trường này đang bị khủng hoảng, do mức sinh
hoạt của người dân bị đảo lộn, đòi hỏi mọi người phải cắt giảm chi tiêu, thắt lưng
buột bụng, mức độ mua hàng giảm, nhu cầu thanh toán yếu … ảnh hưởng đến sản
phẩm của Việt nam. Theo Tổng cục Hải quan, giá xuất khẩu bình quân một số mặt
hàng chủ lực như dầu, cao su, gạo, cà phê, hạt điều, đậu đều đi xuống; nhiều đơn
hàng xuất khẩu vào Mỹ, EU, Nhật như dệt may, tiêu, điều, gỗ giảm 20 - 30%; việc
ký kết hợp đồng xuất khẩu mới gặp khó khăn; nhiều hợp đồng xuất khẩu bị hoãn
hoặc lùi sang năm 2009. Số liệu về kim ngạch xuất khẩu năm 2009 cho thấy một số
dấu hiệu tích cực nhưng về bản chất việc cải thiện này chỉ là vẻ bên ngoài, kim
ngạch xuất khẩu tăng chủ yếu do xuất khẩu vàng.
Nhập khẩu cũng chịu tác động của khủng hoảng do Việt Nam phải nhập từ 70 80% nguyên nhiên vật liệu để sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu. Xuất khẩu giảm
kéo theo nhập khẩu giảm, suy thoái kinh tế toàn cầu làm cho giá yếu tố đầu vào

như dầu mỏ, các sản phẩm hóa dầu, phôi thép và thép xây dựng, các thiết bị công
25


×