Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Những tác động của toàn cầu hoá đối với kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.65 KB, 30 trang )

I. Khái quát chung về toàn cầu hóa kinh tế
1. Khái niệm
Toàn cầu hóa là quá trình gia tăng sự liên kết, hợp tác trên tất cả các lĩnh vực giữa
các quốc gia, dân tộc, các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trên quy mô toàn cầu.
Toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng mạnh mẽ các quan hệ kinh tế, là sự mở rộng về
quy mô và cường độ hợp tác kinh tế giữa các nước, các khu vực trên toàn cầu tiến tới
một nền kinh tế thế giới thống nhất và phát triển.
2. Những yếu tố thúc đẩy sự phát triển của toàn cầu hóa kinh tế
2.1. Sự phát triển của tiến bộ khoa học và công nghệ và năng suất.

Tiến bộ và phát triển của khoa học và công nghệ, năng suất, toàn cầu hóa kinh tế
cung cấp một nền tảng vững chắc, đặc biệt là trong cuộc cách mạng công nghệ thông
tin từ năm 1970, không chỉ đẩy nhanh tốc độ truyền tải thông tin, mà còn làm giảm
đáng kể chi phí chuyển giao thông tin, phá vỡ và thậm chí giới hạn địa lý khác nhau
của đất nước, cả thế giới bao giờ liên kết, để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của
toàn cầu hóa kinh tế.
2.2. Sự phát triển đa quốc gia.

Công ty đa quốc gia cung cấp một hình thức thích hợp tổ chức kinh doanh của
toàn cầu hóa kinh tế. Các công ty đa quốc gia trên toàn thế giới để tận dụng lợi thế của
sản xuất của đất nước, góp phần lớn vào các yếu tố sản xuất khác nhau trong thanh
khoản toàn cầu và sự phân chia lao động quốc tế, và do đó rất nhiều thúc đẩy quá trình
toàn cầu hóa kinh tế.
2.3. Cải cách hệ thống kinh tế.

Từ những năm 1990, các nước kinh tế kế hoạch truyền thống đã từ bỏ nền kinh tế
kế hoạch, chuyển sang nền kinh tế thị trường. Để thoát khỏi các nước tư bản phát triển
kinh tế trì trệ và suy yếu của nhà nước kiểm soát của nền kinh tế, mà còn để tăng
cường vai trò của cơ chế thị trường tự điểu chỉnh. Ở cấp quốc tế, với việc thành lập
WTO, các thành viên của quản lý thị trường quốc gia và khu vực thư giãn rất nhiều, tự
do hóa thương mại và tự do hóa đầu tư đang gia tăng. Tất cả trong số này là các dòng


vốn quốc tế, mở rộng thương mại quốc tế, sản xuất quy mô lớn quốc tế để cung cấp


một môi trường vật lí phù hợp và điều kiện chính sách cho sự phát triển của toàn cầu
hóa kinh tế.
II.Tác động tích cực của toàn cầu hóa kinh tế
1. Thúc đẩy sự hình thành các tổ chức liên kết kinh tế quốc tế
Toàn cầu hoá đã làm gia tăng nhanh chóng về số lượng và mở rộng về quy mô
của các tổ chức liên kết kinh tế quốc tế. Số lượng các liên kết kinh tế quốc tế tăng lên
nhanh chóng, nhất là từ đầu những năm 1980. Hình thức các liên kết đa dạng, quy mô
ngày càng lớn với mức độ liên kết ngày càng cao và có vai trò quan trọng trong nền
kinh tế thế giới.
Toàn cầu hóa làm cho phân công lao động quốc tế phát triển mạnh mẽ, dẫn đến
quá trình chuyên môn hóa và hợp tác hóa trên phạm vi quốc tế. Ngày nay, cùng với sự
phát triển của khoa học công nghệ chuyên môn hóa được áp dụng ngày càng cao trong
các doanh nghiệp của các quốc gia, nhờ đó năng suất lao động sẽ tăng lên nhanh
chóng. Sản phẩm tạo ra nhiều hơn, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và hơn nữa
là còn xuất khẩu. Vì thế, các quốc gia cần liên kết lại với nhau tạo một thị trường
chung ổn định cho việc buôn bán trao đổi hàng hóa.
Ngoài ra, toàn cầu hóa cũng đặt ra yêu cầu mở cửa hội nhập kinh tế đối với các
nước trên thế giới. Do đó, việc hình thành các liên kết kinh tế quốc tế là hoàn toàn
mang tính khách quan và phù hợp.
Trong các liên kết đó các nước thành viên bằng việc ký kết các Hiệp định thương
mại tự do (FTA) đã viên xác lập được khu vực mậu dịch tự do. Vì thế, việc buôn bán
trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia trở nên dễ dàng hơn bởi các nước cam kết dỡ bỏ
các rào cản thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá. Bên cạnh đó cũng áp dụng
mức thuế suất 0% đối với hầu hết các mặt hàng. Số lượng các FTA cũng tăng lên
nhanh chóng. Đến nay đã có hơn 200 FTA được ký kết và hơn 90 FTA đang được đàm
phán.


Nguồn: Thống kê của ARIC

2


/>fbclid=IwAR2zKIepVNN93MXLdPAEeEJMfJ8T0lwFQgfbg9NO3MYWlxhbfvI56iWOLkY

FTA ngày nay thường bao gồm cả nội dung tự do hoá thương mại dịch vụ, các
nước tham gia hiệp định cam kết mở cửa thị trường dịch vụ cho nhau. Các cam kết
cũng sẽ quy định dỡ bỏ rào cản đối với nhà đầu tư của nước đối tác, tạo điều kiện
thuận lợi cho họ ký kết đầu tư, ví dụ: bảo vệ các nhà đầu tư và hoạt động đầu tư, áp
dụng quy chế đối xử quốc gia đối với các chủ đầu tư và hoạt động đầu tư, cấm các biện
pháp cản trở đầu tư, đảm bảo bồi dưỡng thoả đáng trong trường hợp quốc hữu hoá,
đảm bảo tự do lưu chuyển thanh khoản…
Nhờ vào việc cam kết dỡ bỏ các rào cản thương mại, doanh nghiệp các nước thành
viên được phép tự do trao đổi mua bán hàng hoá, không bị đánh thuế, không bị áp hạn
ngạch hoặc phải thực hiện các thử tục xuất nhập khẩu rắc rối khác. Kim ngạch xuất
nhập khẩu từ đó cũng tăng lên kéo theo sự tăng trưởng về thu nhập và GDP của các
nước thành viên. FTA tạo ra một thị trường rộng lớn hơn với những cơ hội kinh doanh,
thúc đẩy gia tăng sản xuất và mua bán trao đổi giữa các nền kinh tế thành viên. Ngoài
ra các FTA cũng tạo ra hiệu ứng thúc đẩy đầu tư thể hiện qua việc tạo ra những tác
động tích cực đối với môi trường đầu tư và hành vi của nhà đầu tư, thúc đẩy dòng vốn
đầu tư nội địa và đầu tư nước ngoài, dòng vốn đầu tư giữa các nước thành viên cũng
như với bên ngoài các tổ chức liên kết đó. FTA thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh
doanh của các nhà đầu tư về mặt chất thông qua việc nâng cao hoạt động sản xuất kinh
doanh và giảm thiểu các méo mó của môi trường đầu tư. Đối với dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI), các FTA mang lại cơ hội tiếp cận thị trường rộng lớn hơn với
sức mua lớn hơn có tác dụng thu hút dòng FDI mới vào các nước thành viên.
2. Thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển
Rào cản thương mại quốc tế được cắt giảm theo các cam kết quốc tế khuyến khích

thương mại phát triển. Các luật lệ, nguyên tắc quan hệ quốc tế đảm bảo môi trường
kinh doanh thuận lợi hơn giữa các nước.

Nguồn: Thống kê của WTO

3


( />solution=WTO&path=/Dashboards/MAPS&file=Map.wcdf&bookmarkState=%7B%22impl
%22:%22client%22,%22params%22:%7B%22langParam%22:%22en%22%7D%7D)

Qua biểu đồ 2.1 có thể thấy giai đoạn 2000-2018:


Xuất khẩu hàng hoá thế giới tăng hơn 3 lần từ 6400 tỷ USD lên hơn 19000 tỷ



USD.
Nhập khẩu hàng hoá thế giới tăng gần 3 lần từ 6700 tỷ USD lên gần 20000 tỷ
USD

Do tác động của toàn cầu hoá kinh tế thương mại quốc tế có bước phát triển vượt bậc.
Thứ nhất, tự do hoá thương mại là xu thế chủ yếu chi phối sự phát triển của
thương mại quốc tế. Tự do hoá thương mại là quá trình cắt giảm và xoá bỏ các rào cản
thương mại, tạo môi trường thuận lợi nhằm thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển.
Những hàng rào nói trên có thể là thuế quan, giấy phép xuất nhập khẩu, quy định về
tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, yêu cầu kiểm dịch, phương pháp đánh thuế, v.v... Tự
do hóa thương mại là thúc đẩy ngày càng nhiều nước tham gia buôn bán, trao đổi hàng
hoá, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Thứ hai, khoa học công nghệ đang tác động sâu sắc đến sự phát triển của thương
mại quốc tế. Khoa học công nghệ làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển lên
tầm cao mới, đội ngũ cán bộ khoa học ngày càng được đào tạo chuyên sâu đáp ứng
nhu cầu của sự phát triển, số lượng các nhà khoa học tăng nhanh chủ yếu hoạt động
trong các ngành đòi hỏi trình độ chuyên môn cao như điện tử, công nghệ thông tin,
năng lượng…. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, năng xuất lao động tăng
cao một cách rõ rệt, khiến tăng trưởng kinh tế vượt bậc cụ thể tăng trưởng kinh tế thế
giới năm 2000 đã vượt quá mức tăng trưởng kinh tế của cả thế kỉ XIX đạt mức tăng
trưởng kinh tế 4,9%. Do năng xuất lao động xã hội ngày càng tăng cao đòi hỏi các
nước các nước phải mở rộng thị trường, trao đổi buôn bán với các nước khác do vậy
vô hình chung đã làm cho thương mại quốc tế ngày càng phát triển. Bên cạnh đó,
thông qua các hoạt động thương mại quốc tế quá trình chuyển giao công nghệ giữa các
quốc gia ngày càng được phát triển, nếu như trước đây chỉ có các nước có nền kinh tế
phát triển mới có đủ điều kiện ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản
xuất thì ngày nay thông qua hoạt động thương mại quốc tế quá trình chuyển giao công
4


nghệ diễn ra mạnh mẽ các nước đang phát triển cũng sớm được tiếp cận với những
thành tựu của khoa học công nghệ và ứng dụng rộng rãi vào sản xuất, điều này góp
phần rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia. Sự phát triển của thương mại
quốc tế không những thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ phát triển mà nó còn
thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu sắc điều này kéo
theo nó là sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong từng quốc gia và giữa các quốc gia
với nhau.
Thứ ba, do chính sách hội nhập của các nước thành viên. Khi hai đối tác có quan
hệ kinh tế, thương mại gần gũi hơn có thể làm tăng lòng tin giữa các bên từ đó làm
giảm bớt các xung đột và củng cố thêm quan hệ chính trị. Nhờ đó củng cố sự ổn định
và an ninh của một nhóm nước hay một khu vực, thậm chí toàn cầu. Các nước đẩy
mạnh quan hệ hợp tác song phương và đa phương-khu vực tạo môi trường hoà bình ổn

định, phát triển vững mạnh cả về kinh tế và chính trị góp phần thúc đẩy thương mại
quốc tế phát triển.
3. Thúc đẩy gia tăng dòng vốn đầu tư quốc tế
3.1. Thực trạng toàn cầu hóa và dòng vốn đầu tư quốc tế

Nguồn:( />Cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế, nguồn vốn đầu tư quốc tế tăng mạnh góp
phần điều hòa dòng vốn theo lợi thế so sánh tạo điều kiện cho các nước tiếp cận được
nguồn vốn và công nghệ từ bên ngoài, hình thành hệ thống phân công lao động quốc tế
có lợi cho cả bên đầu tư và bên nhận đầu tư.
3.2. Nguyên nhân thúc đẩy gia tăng dòng vốn đầu tư quốc tế

Môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế trong tiến trình
toàn cầu hoá kinh tế được điều chỉnh theo hướng tự do hơn. Trong xu hướng này,
nhiều thể chế kinh tế, thương mại, tài chính toàn cầu được hình thành mới, được kế
thừa từ một số tổ chức vốn trước đó chỉ mang tính khu vực. Các vòng đàm phán của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhằm đi đến những hiệp định đa phương trong
những lĩnh vực hoạt động kinh tế khác nhau, những điều chỉnh trong cơ chế và phương
5


thức hoạt động của Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), quy mô
mở rộng của các hiệp định thương mại và đầu tư đa phương và song phương... là
những biểu hiện rõ rệt của xu hướng này.
Bên cạnh đó, toàn cầu hóa giúp cho chính sách đầu tư và thương mại của từng
quốc gia riêng lẻ, những thoả thuận hợp tác trong một số lĩnh vực dịch vụ quan trọng
như thông tin liên lạc, giao thông, thanh toán, thương mại điện tử,... phát triển cũng tạo
điều kiện để thương mại và đầu tư thế giới trở nên tự do hơn, các thị trường gắn kết
với nhau hơn, cạnh tranh hơn và cũng phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn, việc đầu tư, thúc
đẩy dòng vốn trở lên dễ dàng hơn.
Hơn thế nữa, trong tiến trình toàn cầu hóa, môi trường FDI thuận lợi đã thúc đẩy

dòng đầu tư không chỉ giữa các nước phát triển mà cả giữa các nước phát triển và đang
phát triển và giữa các khu vực. Bên cạnh việc tạo môi trường đầu tư thuận lợi, nhiều
quốc gia cũng tích cực cải tiến các quy định về thương mại của mình trong những nỗ
lực đàm phán để tham gia WTO. Về các thể chế thương mại, ngoài việc WTO đóng vai
trò là một thể chế toàn cầu về thương mại, các quốc gia cũng hình thành những khu
vực thương mại tự do riêng nhằm tăng sức cạnh tranh của khu vực. Biểu hiện rõ nhất
của quá trình này là việc hàng loạt các Hiệp định về khu vực mậu dịch tự do (FTA)
song phương hoặc đa phương đã ra đời. NAFTA ở Bắc Mỹ, AFTA ở châu Á, hiệp định
thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc… là những ví dụ điển hình của xu hướng
này. Những diễn biến này tất yếu sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư quốc tế, giúp
dòng vốn đầu tư quốc tế gia tăng.
4. Góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế các nước
Năng lực cạnh tranh là khả năng dành chiến thắng trong sự ganh đua giữa các chủ
thể trong cùng một môi trường và khi cùng quan tâm tới một đối tượng. Trên giác độ
kinh tế, năng lực cạnh tranh được xem xét ở các cấp độ khác nhau như năng lực cạnh
tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế các nước được
thúc đẩy mạnh để bắt kịp với xu thế thế giới.
Đầu tiên, toàn cầu hóa kinh tế là nền tảng để chuyển giao công nghệ và vốn đầu tư
nhanh chóng giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ. Dưới tác động của quá trình toàn cầu
6


hóa, những thành tựu của khoa học – công nghệ được chuyển giao nhanh chóng và
ứng dụng rộng rãi tạo điều kiện cho các nước đi sau trong sự phát triển kinh tế có điều
kiện tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học – công nghệ để phát triển. Chính
việc tiếp thu khoa học - công nghệ hiện đại đã thúc đẩy việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Thứ hai, toàn cầu hóa kinh tế mở rộng và phát triển thị trường toàn cầu, thúc đẩy
thương mại quốc tế và cải cách sâu rộng nền kinh tế quốc gia cũng như sự hợp tác khu

vực. Một khi thương mại quốc tế phát triển, kéo theo áp lực phải thay đổi và cải cách
của nền kinh tế quốc gia để tìm chỗ đứng cho mình trên thị trường quốc tế.
Thứ ba, toàn cầu hóa giúp cơ hội kinh doanh mới rộng mở cho doanh nghiệp,
đồng thời cũng là cơ hội để người tiêu dùng tiếp cận những sản phẩm trên toàn thế
giới. Đây là một hệ quả của phát triển tự do thương mại thế giới, khi mà các sản phẩm
của một nước có thể xuất khẩu sang nhiều nước khác và ngược lại, ở tại một nước có
thể nhập khẩu và tiêu dùng hàng hóa của nhiều nước trên thế giới. Dưới sức ép của thị
trường cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh giữa hàng nội địa và hàng nhập khẩu, các
doanh nghiệp cần phải nâng cao năng lực sản xuất, sản phẩm ngày càng chất lượng
hơn, đồng thời giá thành cũng giảm. Để đối mắt với những khó khăn, thách thức của
toàn cầu hóa, các doanh nghiệp cần phải nâng cao năng lực sản xuất để cạnh tranh với
các mặt hàng nội địa và nhập khẩu, thêm vào đó phải cải tiến không ngừng để mặt
hàng của mình có thể cạnh tranh với mặt hàng của các quốc gia khác khi xuất khẩu.
Chính điều này đã làm thúc đẩy năng lực cạnh tranh giữa các quốc gia.
5. Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập của người dân trên
thế giới
5.1. Toàn cầu hóa ảnh hưởng như thế nào đến tăng trưởng kinh tế.
Về phương diện kinh tế, trước hết, toàn cầu hoá tạo ra một sự thay đổi căn bản
trong hoạt động kinh tế của con người, làm thay đổi tính chất và vị trí của thị trường.
Nếu như trước đây, thị trường mang tính quốc gia thì hiện nay, thị trường đã mang tính
quốc tế. Do quá trình toàn cầu hoá, các quốc gia nhanh chóng bị cuốn hút và trở thành
một bộ phận phụ thuộc của nền kinh tế thế giới hoặc quốc tế. Ngoài tính toàn cầu của
thị trường hàng hoá và dịch vụ, tài chính và tiền tệ cũng mang tính chất toàn cầu. Một
7


yếu tố khác không kém quan trọng làm cho thị trường có tính toàn cầu là công nghệ
điện tử mới của thông tin và viễn thông. Chính công nghệ mới đó không chỉ mang tính
kinh tế, mà còn mang tính chính trị và xã hội sâu sắc.
Nguồn: ( />end=2018&start=2000)


Bởi mức độ tăng trưởng kinh tế có thể đo được bằng tổng sản phẩm quốc nội GDP,
nên việc đánh giá trực quan số liệu về quy mô GDP thế giới qua các năm sẽ là minh
chứng rõ ràng nhất cho những ảnh hưởng to lớn của toàn cầu hóa kinh tế đối với nền
kinh tế thế giới trong 18 năm đầu thiên niên kỷ này.
● Như có thể thấy trong biểu đồ về quy mô GDP toàn cầu giai đoạn 2000-2018,

trong giai đoạn trước 2000 đến 2001, nền kinh tế thế giới có tăng trưởng đều
nhưng tốc độ tăng trưởng chậm và mức tăng trưởng không cao. Nguyên do là có
quá nhiều rào cản trong thương mại quốc tế, các quốc gia hoặc vì muốn bảo hộ
nền sản xuất trong nước, hoặc đóng cửa biên giới (Triều Tiên), hoặc bị cấm vận
sau chiến tranh (Nga, Trung Quốc) đã đặt ra vô số rào cản làm hàng hóa không
được tự do lưu thông, dẫn đến việc không có đủ cung để phát triển nền kinh tế
mỗi nước.
● Cho đến những năm 2000, với sự mở cửa giao lưu và hợp tác rộng rãi của các

nước mà tiêu biểu là sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO năm
1995 và việc ký kết hàng loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã mang
đến thời kỳ thịnh vượng cho thương mại quốc tế trong vòng 8 năm trước cuộc
Đại khủng hoảng. Cụ thể, bắt đầu từ năm 2002, GDP của thế giới đã tăng mạnh
từ 34,674 nghìn tỷ USD lên 63,612 nghìn tỷ USD trong năm 2008, tăng gần gấp
đôi chỉ trong vòng 6 năm, và đà tăng này luôn giữ ổn định trong thời kỳ 6 năm
đó.
● Mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề từ cuộc Suy trầm kinh tế toàn cầu năm 2008

nhưng chỉ 1 năm sau đó, nền kinh tế thế giới lại tiếp tục phát triển vượt bậc, đạt
66,051 nghìn tỷ USD trong năm 2010 và giữ được đà tăng trong 4 năm kế tiếp.
● Về cơ bản, toàn cầu hóa tác động đến tăng trưởng kinh tế thế giới tại 4 phương

diện: Nhân lực, tài nguyên, đầu tư và công nghệ.

8


− Về nhân lực: Toàn cầu hóa giúp lực lượng lao động dễ dàng luân chuyển

giữa các nước hơn. Các nước có dân số trẻ và đang phát triển như Việt
Nam có thể dễ dàng xuất khẩu lượng lao động dồi dào của mình sang các
nước có dân số già và phát triển hơn như Nhật. Theo bộ Tư pháp Nhật
Bản, trong năm 2018, số lượng lao động Việt tại Nhật ước tính vào
khoảng 262.405 người, trong khi năm 2010 mới vào khoảng hơn 36.860
người, tăng khoảng 7 lần trong vòng 8 năm. Lực lượng lao động này
đóng góp một phần không nhỏ vào GDP của thế giới. Hơn nữa, lực
lượng lao động này sẽ được tiếp thu những quy trình, kiến thức lao động
đến từ các quốc gia phát triển, và khi trở về quê hương là những quốc gia
đang phát triển, vốn kiến thức đó sẽ được tận dụng để phát triển đất
nước.
− Về tài nguyên thiên nhiên: Toàn cầu hóa đi kèm là những hiệp định

thương mại tự do FTA đã giúp cho nguồn tài nguyên thiên nhiên hay còn
gọi là nguyên liệu lao động được tự do trung chuyển giữa các nước. Điều
này không chỉ tác động đến thương mại hàng hóa mà còn làm tăng trình
độ chuyên môn hóa của các quốc gia, từ đó tăng năng suất và chất lượng
sản phẩm đầu ra. Việc gỡ bỏ dần những hàng rào thuế quan với việc xuất
nhập khẩu tài nguyên thiên nhiên tạo nên cơ hội phát triển rất lớn, nhất là
những quốc gia có ưu thế về kinh tế dựa trên tài nguyên thiên nhiên, ví
dụ như Nga với dầu mỏ.
− Về tư bản: Toàn cầu hóa là cơ hội cho các nhà đầu tư trong và ngoài

nước, tự do hóa thị trường tài chính toàn cầu gắn liền với tự do hóa đầu
tư mở cửa cho các dòng vốn lưu chuyển tự do từ quốc gia này đến quốc

gia khác. Việc tự do hóa thị trường tài chính tạo tiền đề cần thiết cho sự
hội nhập các thị trường tài chính quốc tế, tạo điều kiện cho các nguồn
vốn lớn chảy vào các nền kinh tế, làm tăng tốc độ và quy mô giao dịch
tài chính lên mức chưa từng thấy. Theo báo cáo đầu tư thế giới của
UNCTAD, đến năm 1996 các nước đang phát triển tiếp nhận 129 tỷ USD
FDI, đến năm 1999 đã tăng lên 198 tỷ. Và cũng theo báo cáo đầu tư thế
giới hằng năm của UNCTAD, trong năm 2018, lượng vốn đầu tư trực
9


tiếp nước ngoài (FDI) chảy vào các nền kinh tế đang phát triển đã tăng
lên con số 709 tỷ USD.
− Về công nghệ: Nhờ có mạng lưới thông tin rộng khắp mà giờ đây những

thành tựu về khoa học, kỹ thuật được áp dụng phổ biến và rộng rãi trên
phạm vi toàn thế giới. Những công nghệ mới ngày càng xuất hiện nhiều
hơn, không những cải thiện sản lượng và chất lượng thành phẩm mà còn
giảm bớt rất nhiều sức lao động của con người. Đây cũng là một trong
những nhân tố để phát triển nền văn minh tri thức trong tương lai.
5.2. Toàn cầu hóa làm tăng thu nhập của người dân trên thế giới
Nguồn: Ngân hàng thế giới (World Bank)
( />
Trên đây là bảng thống kê về thu nhập bình quân đầu người của toàn thế giới trong
giai đoạn 2000-2018. Ta có thể thấy các chỉ số đều có xu hướng tăng qua từng năm.
Trong giai đoạn 2000-2003 có sự tăng không đáng kể từ 5448 USD lên 5823 USD.
Nhưng trong 6 năm tiếp theo tăng đã tăng từ 5823 USD đến 8951 USD (Tăng khoảng
53%) và trong 7 năm tiếp theo đã tăng 22%. Điều này chứng tỏ mức sống của người
dân ngày càng được cải thiện, nhất là vào giai đoạn 2000-2008, trước khi khủng hoảng
diễn ra. Và mức tăng trưởng ấy có được là nhờ vào những chính sách kinh tế quốc tế
hợp lý trong bối cảnh toàn cầu hóa. Khi mà trình độ sản xuất được cải thiện, sức lao

động tối ưu, thị trường lao động và việc làm rộng mở thì đời sống của người dân được
cải thiện là điều tất yếu.

10


III. Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế
1. Gia tăng tình trạng phân hóa giàu nghèo và trình độ phát triển giữa các nước
phát triển và đang phát triển
1.1 Thực trạng toàn cầu hóa và vấn đề phân hóa giàu nghèo và chênh lệch
trình độ phát triển giữa các nước phát triển và đang phát triển
Toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, nhưng thực tế lại cho thấy,
hiện nay, thu nhập bình quân trên đầu người giữa các nước phát triển và đang phát
triển tuy cùng tăng lên nhưng khoảng cách đang ngày càng chênh lệch rõ rệt.
Nguồn: Quỹ tiền tệ thế giới (IMF)
( />CHN/THA/VNM/)

Từ biểu đồ 3.1, trong suốt 10 năm gần đây, sau khi toàn cầu hóa diễn ra ngày càng
mạnh mẽ, mức thu nhập bình quân theo đầu người của các nước nhìn chung đều có xu
hướng tăng trừ Nhật Bản, tuy nhiên mức độ gia tăng lại rất khác nhau ở các nước.


Mỹ có mức thu nhập tăng mạnh từ hơn 48000 USD (2010) đến gần 63000



USD (2018).
Nhật Bản giảm nhẹ từ gần 45000 USD xuống gần 40000 USD ở Nhật Bản

(2018).

• Trong khi đó các nước thuộc nhóm nước đang phát triển như Việt Nam, Thái
Lan chỉ tăng chậm ở mức 1 - 3 nghìn USD, và chỉ đạt mức gần 7500 USD ở
Thái Lan và hơn 2500 USD ở Việt Nam qua gần 10 năm.
Xét trong năm 2019 vừa qua, mức thu nhập bình quân trên đầu người cũng nhấn
mạnh khoảng cách ngày càng lớn giữa các nhóm nước nói chung và các nước trên thế
giới nói riêng. Rất nhiều quốc gia có mức thu nhập trên 25000 USD, điển hình là các
nền kinh tế hàng đầu như Mỹ với 65,11 nghìn USD; Nhật Bản là 40,85 nghìn USD; …
Chỉ tính riêng khu vực Đông Nam Á cũng đã có mức độ chênh lệch rất lớn như
Singapore với gần 64000 USD, Thái Lan gần 8000 USD, trong khi đó Philippines,
Việt Nam, Myanmar lần lượt chỉ ở mức 3,29; 2,74 và 1,24 nghìn USD. (xem biểu đồ
3.2)

11


Nguồn: Quỹ tiền tệ thế giới (IMF)
/>HN/THA/VNM/IND/FRA/PHL/SGP/AUS

=> Toàn cầu hóa đã và đang gây ra sự phân hóa giàu nghèo kéo giãn khoảng cách về
trình độ giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển.
1.2 Tác động của toàn cầu hóa đến tình trạng phân hóa giàu nghèo và trình
độ phát triển giữa các nước phát triển và đang phát triển
Toàn cầu hóa kinh tế làm gia tăng tình trạng phân hóa giàu nghèo và trình độ phát
triển giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển trên thế giới do:
• Toàn cầu hóa dẫn đến sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các nước phát

triển và các nước đang phát triển.
Trước khi toàn cầu hóa kinh tế diễn ra, thị trường trong một quốc gia chỉ có các
doanh nghiệp, thương hiệu nội địa cạnh tranh với nhau. Nhưng khi xu hướng toàn cầu
hóa kinh tế, đặc biệt tự do hóa thương mại mở rộng, nhiều khu vực mậu dịch tự do và

các hiệp định mậu dịch tự do (FTA) song phương, đa phương ra đời, hàng rào thuế
quan, phi thuế quan được nhận mức ưu đãi hoặc được bãi bỏ, giá thành của hàng hóa
trong nước và hàng nhập khẩu không có chênh lệch nhiều gây nên sự cạnh tranh gay
gắt về sản phẩm hàng hóa, đặc biệt là ở thị trường các quốc gia đang phát triển bởi:
− Các nước phát triển có rất nhiều lợi thế trong cạnh tranh quốc tế: hầu hết các nước này

đã hoàn thành quá trình công nghiệp hóa, họ có tiềm lực về kinh tế, tài chính, trình độ
khoa học công nghệ tiên tiến, hơn thế, nhiều doanh nghiệp ở các quốc gia này đã xây
dựng được thương hiệu, danh tiếng lớn trên toàn cầu nên sản phẩm, hàng hóa của họ
thường có chất lượng tốt, độ tín nhiệm cao, giúp họ có nhiều cơ hội tiếp cận thị trường
mới.

− Ngược lại, các nước đang phát triển đều vẫn đang trải qua quá trình công nghiệp hóa

với nhiều vấn đề bất cập, khó khăn phải giải quyết; tiềm lực kinh tế, tài chính, vị trí,
tiếng nói trên trường quốc tế còn hạn chế; đa số ở các nước này là doanh nghiệp vừa
và nhỏ, trình độ khoa học kĩ thuật, công nghệ chưa phát triển; năng suất lao động còn
thấp, trình độ lao động chưa cao; do đó các sản phẩm, hàng hóa chất lượng chưa cao,
chưa đảm bảo được tiêu chuẩn của thị trường quốc tế; thậm chí nhiều nơi an ninh,
chính trị không ổn định…
12


=> Do đó để cạnh tranh được với các mặt hàng nhập khẩu trong nước hay ở thị
trường nước ngoài, đòi hỏi các doanh nghiệp ở các quốc gia đang phát triển phải
cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, cải tiến thiết kế,
mẫu mã, dịch vụ chăm sóc khách hàng… Như vậy, sức ép cạnh tranh đối với các
quốc gia đang phát triển là rất lớn, nếu không vượt qua được thì thị trường nội địa
sẽ dễ bị các thương hiệu nước ngoài chiếm lĩnh; trong khi ở thị trường quốc tế –
đặc biệt là các nước phát triển, tiên tiến, các doanh nghiệp này cũng bị loại ra khỏi

bởi các thương hiệu đến từ nội địa cũng như các thương hiệu lớn từ các quốc gia
phát triển khác.
• Toàn cầu hóa cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ làm cho lợi thế
kinh tế của các nước đang phát triển bị mất dần:
Khi toàn cầu hóa diễn ra, rất nhiều doanh nghiệp ở các nước phát triển thuê nhân
công ở các nước đang phát triển vì các nước đang phát triển vốn có lực lượng lao động
dồi dào, giá nhân công rẻ, trong khi ngược lại với các nước phát triển lại đang có xu
hướng già hóa dân số. Mặc dù vậy, trong vài năm trở lại đây, khi thế giới bước vào
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0: trí tuệ nhân tạo và vạn vật kết nối. Vị trí của máy
móc đang ngày càng được nâng cao, các hệ thống, dây chuyền sản xuất sẽ tiến tới
được tự động hóa, do đó, lực lượng lao động nhân công từ các nước đang phát triển có
thể sẽ không còn là lợi thế của nhóm các nước này nữa. Trong tương lai, máy móc có
thể dần thay thế con người, nền kinh tế để phát triển sẽ chỉ cần lao động trình độ cao,
vì thế lượng lao động ở các nước đang phát triển nếu không thể cải thiện chất lượng,
trình độ thì sẽ là nhân tố kìm hãm sự phát triển của quốc gia.
• Toàn cầu hóa và hiện tượng “chảy máu chất xám” từ các nước đang phát triển

sang các nước phát triển càng làm tăng sự chênh lệch về trình độ phát triển
giữa hai nhóm quốc gia này:
Toàn cầu hóa đã tạo cơ hội cho mọi người được tiếp cận với môi trường làm việc
cũng như các nền giáo dục hàng đầu thế giới, vì thế rất nhiều công dân nước đang phát
triển lại lựa chọn định cư và làm việc tại các nước phát triển họ đã theo học. Điều này
dẫn đến một tình trạng phổ biến ở các nước đang phát triển: thiếu trầm trọng các lao
động trình độ cao để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, tiếp thu
những tinh hoa, thành tựu khoa học – công nghệ hiện đại. Do đó trình độ phát triển
13


giữa nhóm nước đang phát triển với nhóm các nước phát triển lại càng có sự chênh
lệch nhất định.

• Chênh lệch về trình độ phát triển giúp các nước phát triển luôn giành được lợi

ích nhiều hơn trong quan hệ kinh tế quốc tế:
− Chuỗi giá trị toàn cầu: Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, chuỗi giá trị toàn cầu nảy
sinh đang tạo ra chuyển biến của thương mại toàn cầu và nhiều lợi ích mới cho các
nước đang phát triển. Chuỗi giá trị toàn cầu làm gia tăng sự tham gia của các nước này
trên thị trường toàn cầu và giúp đa dạng hóa xuất khẩu. Tuy nhiên, đánh giá về lợi ích,
sự phân phối là không đồng đều khi các nước phát triển nắm lợi ích nhiều hơn các
nước đang phát triển. Các nước đang phát triển do trình độ còn hạn chế nên chỉ được
hưởng lợi ích từ giai đoạn có giá trị thấp, hàm lượng chất xám không cao – gia công,
hoặc nhập nguyên liệu, linh kiện về lắp ráp. Trong khi đó, các doanh nghiệp ở các
nước phát triển, không chỉ nắm giữ các giai đoạn còn lại và lợi nhuận trực tiếp từ các
sản phẩm bán ra mà còn tiết kiệm chi phí, tăng thêm lợi nhuận khi thuê nhân công giá
rẻ ở các nước đang phát triển.
− Trong các hiệp định về tự do hóa thương mại: đối với các nước đang phát triển, việc sử
dụng hàng rào bảo hộ kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn, còn việc áp dụng hàng rào kỹ
thuật thì các quốc gia này lại không có lợi thế do trình độ công nghệ thấp. Ngược lại
với các nước phát triển, họ thường xuyên áp dụng các hàng rào phi thuế quan, tạo ra
không ít trở ngại cho các nước đang phát triển. Không những vậy, khi quyền lợi của
các doanh nghiệp ở các nước phát triển bị xâm hại, họ còn trực tiếp áp dụng các biện
pháp phòng vệ thương mại với các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển như biện
pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp với mức thuế suất rất cao, gây nhiều khó khăn
cho các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển. Như vậy, trong quan hệ kinh tế quốc
tế, các nước phát triển luôn giành được lợi ích nhiều hơn.
2. Cạnh tranh gay gắt hơn dẫn đến nhiều thách thức trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội đối với các nước đang phát triển
2.1. Toàn cầu hóa và hiện tượng “Chảy máu chất xám”.

Toàn cầu hóa tạo điều kiện cho các nước đang phát triển được tiếp thu, học hỏi
những thành tựu công nghệ hiện đại của nước phát triển. Sự mở cửa của các quốc gia

trên đà đẩy mạnh toàn cầu hóa, cùng với các chính sách đãi ngộ, thu hút nguồn lao
14


động chất lượng cao từ những nước đang phát triển về làm việc ở những nước phát
triển. Trong khi đó, những yếu tố nội tại của một quốc gia đang phát triển còn nhiều
bất cập: còn nghèo đói, lạc hậu, không tạo ra nhiều công ăn việc làm đảm bảo cho
người dân, không tạo được cơ hội để người tài được phát huy khả năng của mình. Do
đó, rất nhiều công dân là các học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh,… ở các nước đang
phát triển đến với các nước phát triển, nơi có những nền giáo dục tiên tiến hàng đầu và
môi trường làm việc năng động, với mức lương hậu hĩnh. Chính bởi sự phát triển, các
chính sách đãi ngộ tốt, thu hút nhân tài, nhiều người đã chọn định cư lâu dài ở các
nước phát triển.
Một nghiên cứu gần đây của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cho thấy, số người
nhập cư có trình độ đại học rời quê hương đến làm việc ở các nước giàu hơn trong
nhóm Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã tăng 66% trong thập niên
2010-2011 lên 2.8 triệu người. Theo thống kê của Bloomberg, lượng người nhập cư từ
các nước Đông Nam Á đến các nước OECD tiếp tục tăng trong 2 năm từ 2000 – 2011.
(biểu đồ 3.4)

Nguồn : />
Điều này dẫn đến một thách thức rất lớn cho các nước đang phát triển, khi để phát
triển đất nước cần phải nâng cao trình độ lao động trong nước. Thế nhưng, khi hiện
tượng “Chảy máu chất xám” tiếp tục trở nên phổ biến, các quốc gia đang phát triển sẽ
đánh mất đi lực lượng lao động trình độ cao – một nhân tố quan trọng trong việc tiếp
thu, ứng dụng các thành tựu của thế giới, đặc biệt là trong thời đại cách mạng công
nghiệp 4.0. Nếu không thể giải quyết được bài toán này, các nước đang phát triển sẽ
không thể tận dụng các cơ hội thuận lợi mà toàn cầu hóa kinh tế mang lại để đẩy
nhanh quá trình phát triển. Mức độ thua kém của quốc gia về mọi phương diện phát
triển (xã hội, kĩ thuật, đồng lương và năng suất) càng ngày càng tăng so với thế giới.

Tóm lại, hậu quả tiêu cực của chảy máu chất xám khiến các quốc gia nghèo và lạc hậu
không thể tiến triển nhanh để bắt kịp đà văn minh của nhân loại, vì thế càng ngày càng
tụt hậu và đang là một vấn đề quan tâm của toàn thế giới vì chính những khu vực đói
15


nghèo, lạc hậu này là nguyên nhân của sự bất ổn có thể lan tràn ảnh hưởng lên toàn
cầu.
2.2. Sự phụ thuộc của các nước đang phát triển vào nền kinh tế của các nước phát

triển
Hiện nay, trong xu thế đẩy mạnh toàn cầu hóa kinh tế, đã làm cho nền kinh tế của
các nước đang phát triển phụ thuộc nhiều vào kinh tế của các nước phát triển.
− Nền kinh tế của các nước đang phát triển phụ thuộc rất lớn vào việc xuất

khẩu hàng hóa nông, thủy sản vào thị trường các nước phát triển, bởi những
thị trường này đều là những thị trường lớn nhất của các nước đang phát
triển.
− Việc tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài từ các nước phát triển vào các nước

đang phát triển:

Nguồn: />Biểu đồ 3.4 cho thấy, xu hướng chung của dòng vốn FDI vẫn là chảy về các
khu vực kém hoặc đang phát triển như Châu Phi, Châu Á và các nền kinh tế đang
phát triển khác. Trong khi đó, những tiềm lực về tài chính của các quốc gia này đều
hạn chế, luôn cần phải thu hút các dòng vốn quốc tế cho các hoạt động trong nước.
Do đó, với việc các dòng vốn FDI đang tập trung chủ yếu ở khu vực các quốc gia
kém và đang phát triển, mức độ phụ thuộc của nền kinh tế lại càng gia tăng.
Khi sự phụ thuộc giữa các nền kinh tế càng lớn, sự tăng trưởng của nền kinh tế
toàn cầu cũng như của từng quốc gia đều có những rủi ro nhất định, bởi những động

thái, thay đổi từ các nước tiên tiến hàng đầu đã có thể tạo ra ảnh hưởng lớn. Điển
hình như cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đã chi phối mạnh mẽ đến nền
kinh tế thế giới trong năm qua. Theo nghiên cứu của Bloomberg Economics ước
tính 1% trong hoạt động kinh tế toàn cầu được quyết định bởi thương mại hàng hóa
và dịch vụ giữa Trung Quốc và Mỹ. Khoảng 4% sản lượng hàng hóa của Trung
Quốc được xuất khẩu sang Mỹ, trong đó bất kỳ một tác động tiêu cực nào đối với
16


nhà sản xuất Trung Quốc đều sẽ gây ảnh hưởng lớn đến khắp các chuỗi cung ứng
trong khu vực, đe dọa đến nhiều nền kinh tế như Đài Loan, Hàn Quốc,…
2.3. Xu hướng chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch

Trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa, các nước đang phát triển cạnh tranh gay
gắt trong lĩnh vực xuất khẩu vào thị trường các nước phát triển, dẫn đến các nước phát
triển có xu hướng sử dụng biện pháp bảo hộ mậu dịch.

Nguồn : />
Bảo hộ mậu dịch (bảo hộ thương mại) là việc áp đặt một số tiêu chuẩn thuộc các
lĩnh vực như chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi trường, xuất xứ, v.v... hay việc
áp đặt thuế suất nhập khẩu cao đối với một số mặt hàng nhập khẩu nào đó để bảo vệ
ngành sản xuất các mặt hàng tương tự (hay dịch vụ) trong một quốc gia nào đó.
Bảo hộ mậu dịch tạo nên nhiều ảnh hưởng tiêu cực: làm cho các nhà sản xuất
trong nước có cơ hội đầu cơ trên giá bán hàng (hay cung cấp dịch vụ) ở mức có lợi
nhất cho họ hoặc không có các biện pháp nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản
phẩm. Điều này đem lại thiệt hại cho người tiêu dùng xét theo mục tiêu dài hạn.
Trong xuất khẩu, nếu phát hiện chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu thì sản lượng
xuất khẩu giảm từ đó dòng đầu tư nước ngoài có xu hướng chuyển hướng thương mại
từ nước này sang nước khác khiến cho dòng vốn từ nước ngoài bất ổn định gây ảnh
hưởng đến kinh tế, xã hội.

3. Toàn cầu hóa kinh tế làm tăng thêm những thách thức có tính toàn cầu
3.1. Ô nhiễm môi trường.
Toàn cầu hóa kinh tế đã và đang gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, làm
gia tăng tình trạng ô nhiễm trên toàn cầu.
 Toàn cầu hóa trong nông nghiệp:

17


Nguồn: />Hiện nay, theo xu hướng toàn cầu hóa, nhiều nước đang phát triển có xu hướng
đẩy mạnh xuất khẩu các nông sản. Thế nhưng, ngành nông nghiệp cũng đang tạo ra
ảnh hưởng rộng rãi đến môi trường, khi các quốc gia đang phát triển mới chỉ chú trọng
đến sản lượng xuất khẩu, chưa quan tâm triệt để đến các vấn đề môi trường.
Biểu đồ 3.6 cho thấy, hiện tại sản xuất lương thực chiếm 26% khí thải nhà kính
toàn cầu, một nửa diện tích đất đã khai thác là đất nông nghiệp, 70% lượng nước sạch
toàn cầu được sử dụng cho nông nghiệp, 78% đại dương và các nguồn nước ngọt đã bị
ô nhiễm là do nông nghiệp.
Hơn thế, nguồn đất còn bị ô nhiễm dưới các tác động hóa học và phóng xạ, ví dụ
như những hóa chất được sử dụng trong nông nghiệp như thuốc trừ sâu, phân bón hóa
học,… Chúng tích tụ dưới lòng đất trong lâu dài và dần làm biến dạng cơ cấu sinh học
của vùng đất đó, đồng thời gây ô nhiễm cả những mạch nước ngầm. Hay những tác hại
gây thoái hóa đất đến từ việc tưới tiêu không hợp lý, nước thải và khí thải chưa qua xử
lý chặt chẽ từ các chuồng trại gia súc.
 Toàn cầu hóa trong công nghiệp, đô thị hóa:
− Toàn cầu hóa kinh tế giúp cho các nước đang phát triển thu hút được vốn đầu tư từ

nước ngoài, nhưng đồng thời vì thế mà các nước này phải đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa và đô thị hóa.
− Toàn cầu hóa đồng nghĩa với việc cho ra đời nhiều nhà máy sản xuất hơn:


+ Việc sản xuất các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu con người cũng đồng nghĩa
với việc thải ra hàng loạt các loại chất thải công nghiệp nguy hiểm với môi trường
như các kim loại nặng (Crom, Niken), các chất hóa học như axit, monoxit và nhất
là rác thải là chất dẻo - thủ phạm số 1 gây ra ô nhiễm môi trường và hiện tượng
nóng lên toàn cầu.
Nguồn: />
Nhìn vào biểu đồ 3.7 ta có thể thấy, một lượng rác thải là nhựa khổng lồ đang trôi
nổi trên bề mặt các đại dương (268.950 tấn), gây hại không nhỏ đến môi trường
sống của các sinh vật biển, Hơn nữa, chất dẻo trôi nổi trên đại dương đã ngăn cản
18


quá trình thoát nhiệt của bề mặt trái đất, là một trong những nhân tố gây nên hiện
tượng nóng lên toàn cầu.
+ Khí thải, chất thải từ các nhà máy, xí nghiệp cũng gây ô nhiễm nặng nề đến
môi trường không khí và môi trường nước. Vì thế, các quốc gia phát triển có xu
hướng dần chuyển dịch các nhà máy, xí nghiệp của mình sang các nước đang phát
triển nhằm tận dụng tài nguyên khoáng sản và nguồn nhân lực của những đất nước
này, nhưng đồng thời cũng mang lại những gánh nặng như trên cho môi trường
những quốc gia đó. Điển hình là năm 2016, nhà máy của Công ty Formosa của
doanh nghiệp Trung Quốc đã làm chết hàng loạt sinh vật biển ở vùng biển xung
quanh bốn tỉnh miền Trung vì nước thải có chứa độc tố phenol xyanua chưa được
xử lý đạt chuẩn ra môi trường.
− Tốc độ đô thị hóa cao càng làm gia tăng tình trạng ô nhiễm tiếng ồn và ô nhiễm không
khí đến từ các phương tiện xe cơ giới.
− Trong quá trình toàn cầu hóa, hàng loạt công nghệ cũng được chuyển giao từ những
nước đã phát triển sang các nước đang phát triển. Điều này đã thúc đẩy quá trình tiến
bộ của các nước đó. Nhưng mặt trái của nó là khiến cho các nước đang phát triển trở
thành “bãi rác công nghệ” của thế giới, bởi rất nhiều các công nghệ lỗi thời, lạc hậu
được chuyển giao đến các quốc gia đang phát triển. Những thứ mà các quốc gia phát

triển thải ra: rác thải công nghiệp, y tế, sinh hoạt… thì việc tái chế hay tiêu hủy trở nên
đắt đỏ và ô nhiễm. Vì vậy, có xu thế xuất khẩu những thứ này sang các quốc gia đang
phát triển, biến những nơi này thành bãi rác, nơi tái chế và vùng ô nhiễm khổng lồ. Rất
nhiều luồng hàng hóa, công nghệ cũ được nhập khẩu về các nước đang phát triển mà
chưa có biện pháp kiểm soát chặt chẽ và triệt để.
− Toàn cầu hóa đồng nghĩa với việc lượng nhiên liệu cần thiết cho vận hành máy móc,
thiết bị ngày một tăng cao. Vì thế, hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ
tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn
các chất thải khác nhau như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp
làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng. Điều này đã gây ra biến
đổi khí hậu, thúc đẩy quá trình nóng lên của Trái Đất diễn ra nhanh chóng.
 Toàn cầu hóa và các hoạt động vận tải:
− Một trong các nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm nước là các hoạt động khai thác dầu
khí, vận tải hàng hải. Toàn cầu hóa đã làm tăng nhanh các hoạt động trung chuyển
hàng hóa bằng đường biển. Điều này dẫn đến một lượng lớn dầu thải trong quá trình
vận chuyển bị xả trực tiếp ra đại dương, làm ô nhiễm mảng lớn những vùng biển đẹp,
19


gây ra cái chết hàng loạt cho các động vật biển, rác thải sinh hoạt từ đất liền trôi dạt ra
biển và rác thải của tàu thuyền đã ngăn trở sự phát triển của hệ thực, động vật biển,
thậm chí gây ra sự hủy diệt cho một vài loài như san hô. Thêm vào đó việc ô nhiễm
biển cũng góp phần làm tan nhanh băng ở 2 cực khiến nước biển dâng cao. Điều này
ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con người ở những quốc gia có vùng biển dài.
3.2. Xói mòn bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc.
− Bên cạnh những thành quả to lớn mang lại về kinh tế, văn hóa, xã hội, quá trình hội
nhập nhanh và rộng của các quốc gia trong hơn 30 năm qua cũng dẫn đến nhiều hệ lụy
không chỉ cho văn hóa, xã hội mà cả kinh tế, môi trường và con người ở những quốc
gia đó. Đó là sự hình thành ngành công nghiệp văn hóa, thị trường sản phẩm văn hóa
mà chưa có mô hình quản lý thích hợp, theo kịp, gây ảnh hưởng không nhỏ tới thị hiếu

thẩm mỹ Á Đông, nhất là sự khủng hoảng về đạo đức và lối sống.
− Toàn cầu hóa khiến cho thông tin, việc liên lạc trên thế giới ngày càng thông suốt.
Điều này tạo thuận lợi lớn cho việc hội nhập, giao lưu giữa các nền văn hóa. Chúng ta
có thể dễ dàng tiếp cận với những nét đẹp và độc đáo của nền văn hóa nước ngoài,
đồng thời học hỏi những tinh túy tốt đẹp của nền văn hóa ấy. Tuy nhiên, việc hội nhập
văn hóa cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với việc duy trì văn hóa bản địa,
bản sắc dân tộc. Lối sống thiên về hưởng thụ, sống gấp đang huỷ hoại dần nhân cách
của nhiều người dẫn đến nhiều giá trị truyền thống dần trở nên mai một. Trong khi đó,
khủng hoảng niềm tin cũng đang là một trở ngại lớn đối với việc thiết lập các quan hệ
xã hội và thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị. Điều tra giá trị châu Á năm 2008
của Viện Nghiên cứu con người cho biết: có tới 58,5% người Việt Nam cho rằng
không thể tin vào bất kỳ ai mới tiếp xúc.
3.3. Chủ nghĩa khủng bố - nguy cơ toàn cầu
 Những con số đáng báo động về tình trạng khủng bố toàn cầu
• Trong thế kỷ này, khủng bố đã giết trung bình 21 ngàn người mỗi năm.
• Năm 2017, chủ nghĩa khủng bố là nguyên nhân của 0,05% cái chết trên toàn thế
giới
• Chủ nghĩa khủng bố có xu hướng tập trung về mặt địa lý, 95% số ca tử vong về
khủng bố xuất hiện ở Trung Đông, Châu Phi hoặc Nam Á.

Nguồn: Global Terrorism Database
( />20


Trên biểu đồ 3.8 cho thấy, tình trạng leo thang đáng báo động về số ca tử vong có
nguyên do là khủng bố đã tăn từ chỉ 4,403 năm 2000 lên đến 26,445 ca trong năm
2017, thậm chí đã đạt đỉnh 44,490 trong năm 2014. Đặc biệt là quá trình phát triển này
của chủ nghĩa khủng bố lại trùng khớp với đường phát triển đi lên của toàn cầu hóa.
 Toàn cầu hóa và sự gia tăng nguy cơ khủng bố
− Chủ nghĩa khủng bố hiện đại bắt đầu trở thành một vấn đề an ninh quốc tế quan trọng


vào cuối những năm 60 của thế kỷ 20, với hàng loạt vụ tấn công đẫm máu xảy ra nhiều
nơi trên thế giới, rất nhiều trong số đó liên quan đến xung đột Israel-Arab. Sau sự kiện
11-9-2001, có thể nói chủ nghĩa khủng bố đã trở thành vấn đề toàn cầu then chốt và là
một trong những mối đe dọa lớn nhất cho các quốc gia.
− Toàn cầu hóa được coi là một nguyên nhân khiến chủ nghĩa khủng bố bùng phát. Cùng

với sự phát triển thương mại, đầu tư tài chính theo chiều hướng “xóa nhòa biên giới
quốc gia” là sự bùng nổ khoa học kỹ thuật, phương thức vận chuyển và thông tin
xuyên biên giới. Chính những yếu tố này vô tình trở thành đồng minh của chủ nghĩa
khủng bố quốc tế, tạo điều kiện cho những hoạt động khủng bố diễn ra thuận lợi hơn
bao giờ hết. Một vụ đánh bom tự sát tại Iraq có thể gây chấn động thế giới chỉ trong
vòng vài phút, và như thế, tâm lý sợ hãi sẽ nhanh chóng lan rộng. Đây chính là những
gì mà kẻ khủng bố mong muốn. Kèm theo đó, toàn cầu hóa dễ làm xóa mờ bản sắc văn
hóa dân tộc, tôn giáo… và một số kẻ lợi dụng điều này để kích động tâm lý, tuyên
truyền trong dân chúng, tạo nên những hành động phản kháng chính quyền.
Nhìn chung, khủng bố là một hiểm họa toàn cầu và luôn song hành cùng với tốc
độ phát triển của toàn cầu hóa, đây là một thách thức lớn đối với nhà cầm quyền của
tất cả các quốc gia trên thế giới, nhất là đối với các nước đã phát triển.
3.4. Tạo điều kiện cho những cuộc bùng phát dịch bệnh trên phạm vi toàn cầu
 Điểm qua một vài đại dịch toàn cầu:
• Bệnh dịch hạch
• Bệnh sởi
• Bệnh sốt rét
• Bệnh lao
• HIV/AIDS
• Ebola virus
• New Corona Virus 2019: Khởi nguồn từ một chợ gia cầm của thành phố
Vũ Hán Trung Quốc, và tính đến ngày 2/3/2019, toàn thế giới đã có
80.083 ca nhiễm với tổng 3.057 ca tử vong đã được xác nhận.

 Toàn cầu hóa với nguy cơ bùng phát những đại dịch toàn cầu
21


− Toàn cầu hóa – một dòng chảy về thông tin, vốn, hàng hóa và con người trên toàn cầu,

đã mang đến những lợi ích cho xã hội loài người vượt qua những ranh giới về chính trị
hoặc địa lý. Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, thế giới phụ thuộc lẫn nhau nhiều
hơn bất kỳ lúc nào khác. Sự thuận lợi của giao thương hàng hóa bằng đường biển
khiến cho thương mại nông sản của thế giới trở nên dễ dàng, và trong đó, khi một sản
vật mang mầm bệnh của vùng đất này được mang đến một vùng đất xa xôi nhưng có
khí hậu thuận lợi hơn, nó sẽ bùng phát thành đại dịch, và sinh vật trực tiếp chịu sự ảnh
hưởng của nguy cơ này là con người.
− Trong thời đại Khai thác (Age of Exploration), hàng trăm ngàn thương đội chậu Âu đã
dong buồm tiến về các vùng đất xa xôi của châu Á, châu Phi… nhằm tìm kiếm lợi
nhuận và đặt nền móng cho con đường của toàn cầu hóa sau này, và điều đó cũng dẫn
đến việc hàng trăm loại bệnh vốn đã bị ức chế ở 2 châu Á, Phi nay có dịp được mang
đến châu Âu và trở thành đại thảm họa.
− Trong thời đại hiện tại, khi mà sự mở cửa giữa các nước đã gần đạt ngưỡng tối đa, việc

di chuyển giữa các nước trong khu vực trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Nhất là trong
khối liên minh EU, thì việc tìm ra cách để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh là vô
cùng khó khăn. Nó đòi hỏi sự chung tay và hợp tác của cộng đồng các nước mà không
phải chỉ riêng bất cứ tổ chức nào.

IV.

22



KẾT LUẬN
Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế tất yếu của thời đại hiện nay mà không một quốc gia
nào có thể bỏ qua được trong tiến trình phát triển của mình. Bởi lẽ toàn cầu hóa kinh tế
vẫn đang tác động sâu rộng đến nhiều lĩnh vực của từng quốc gia, không chỉ là kinh tế
mà còn kéo theo cả chính trị, quân sự, văn hóa, giáo dục,… Đặc biệt đối với các nước
đang phát triển như Việt Nam, toàn cầu hóa kinh tế là “thời cơ vàng” để rút ngắn
khoảng cách với các nước phát triển tiên tiến, hiện đại, giúp các nước đang phát triển
hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Thực tế đã cho thấy những ảnh hưởng tích cực đối
với nền kinh tế của mỗi quốc gia từ toàn cầu hóa trong nhiều năm trở lại đây. Mặc dù
vậy, bên cạnh tạo ra những cơ hội, thuận lợi trong quan hệ kinh tế quốc tế, toàn cầu
hóa cũng có những mặt trái không thể tránh khỏi. Do đó, mỗi quốc gia cần phải nhìn
nhận khách quan, toàn diện về xu thế này, khai thác và tận dụng tốt những cơ hội,
đồng thời phải chủ động đối mặt, giải quyết, hạn chế những thách thức, tiêu cực từ
toàn cầu hóa mang lại, để từ đó tạo nên những bước tiến quan trọng, cần thiết cho sự
phát triển của mình.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Bùi Thị Lý, Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà
Nội, 2009.

2. Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương, Toàn cầu hóa kinh tế và những vấn
đề liên quan tới chính sách và pháp luật cạnh tranh, Bản tin cạnh tranh và
người tiêu dùng, số 45 – 2014.

II. WEBSITE
1. />2. />3. />

a-/112341.html
4. />5. />6. />7. />_And_Impacts_Of_Water_Pollution_Of_Buriganga_River_A_Critical_Study
8. />
24



×