Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

tiểu luận môn công pháp quốc tế biên giới việt nam với các nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.98 KB, 26 trang )

I. Biên giới với các nước Lào, Cam-pu-chia, Trung Quốc
1. Lào
Việt Nam và Lào là hai quốc gia láng giềng của nhau. Đường biên giới giữa
Việt Nam và Lào dài khoảng 2.340 km, trải dài suốt 10 tỉnh của Việt Nam là: Điện
Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và Kon Tum; tiếp giáp với 10 tỉnh phía Lào là: Phỏng-sả-lỳ, Luổngpha-bang, Hủa-phăn, Xiêng-khoảng, Bô-ly-khăm-xay, Khăm-muồn, Sa-vắn-nạ-khệt,
Sả-lạ-văn, Sê-kông và Ắt-tạ-pư.
Thời Pháp thuộc, biên giới giữa Việt Nam - Lào được xác định bằng các nghị
định của Tồn quyền Đơng Dương (Nghị định năm 1893, Nghị định năm 1895, Nghị
định năm 1896; Nghị định năm 1900; Nghị định năm 1904; Nghị định năm 1916).
Đồng thời với việc điều chỉnh đất đai theo các nghị định của Tồn quyền Đơng Dương,
thực dân Pháp đã tiến hành điều chỉnh đường biên giới và thể hiện trên bản đồ Bonne
tỉ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương.
Sau năm 1975, hai nước nỗ lực đàm phán về biên giới lãnh thổ (02/1976) thống
nhất nguyên tắc lấy bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương in năm
1945 để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước; nơi nào không có bản đồ của Sở
Địa dư Đơng Dương năm 1945 thì dùng bản đồ in trước hay sau đó một vài năm.
Ngày 18/07/1977, Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã được đại diện
hai nhà nước Việt Nam và Lào ký tại thủ đô Viêng-chăn. Việc đàm phán thành công và
ký kết Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia là một thắng lợi to lớn của hai Đảng,
hai Chính phủ và nhân dân hai nước, đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình
xây dựng biên giới Việt Nam - Lào trở thành biên giới hồ bình, hữu nghị, ổn định và
hợp tác phát triển lâu dài.
Năm 1978, hai bên bắt đầu tiến hành phân giới, cắm mốc toàn bộ đường biên
giới Việt Nam - Lào và hồn thành cơng tác này vào năm 1987. Theo đó, trên tồn
tuyến biên giới Việt Nam - Lào đã xây dựng được một hệ thống mốc quốc giới với số
lượng 199 mốc. Đồng thời, trong giai đoạn này, hai nước đã giải quyết xong các vấn
đề phát sinh liên quan đến việc giải quyết biên giới giữa hai nước như chuyển giao đất,
bàn giao dân và tài sản giữa hai bên… phù hợp với luật pháp quốc tế, thông lệ quốc tế
và phản ánh đúng thực tế đường biên giới lịch sử hình thành giữa hai nước.
Các kết quả trên đã được hai bên ghi nhận trong Hiệp ước bổ sung Hiệp ước


Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và


nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (24/01/1986), Nghị định thư về việc phân giới
và cắm mốc toàn bộ đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (24/01/1986), Nghị định thư bổ
sung Nghị định thư về việc phân giới và cắm mốc toàn bộ đường biên giới quốc gia
Việt Nam và Lào (16/10/1987).
Sau khi hồn thành cơ bản cơng tác phân giới, cắm mốc trên thực địa vào năm
1987, hai bên đã ký Hiệp định về Quy chế biên giới ngày 01/03/1990 và Nghị định thư
bổ sung Hiệp định về Quy chế biên giới ngày 31/08/1997 nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy
đủ cho công tác bảo vệ và quản lý biên giới giữa hai nước.
Hệ thống mốc quốc giới lúc đó được xây dựng trong giai đoạn hai nước cịn
đang gặp nhiều khó khăn, kinh tế chưa phát triển, kỹ thuật hạn chế nên chưa đáp ứng
được yêu cầu của một hệ thống mốc chính quy, đảm bảo tính ổn định lâu dài. Mật độ
mốc quá thưa, bình quân trên 10 km một mốc (cá biệt có những nơi trên 40 km một
mốc). Vì vậy, đường biên giới trên thực địa ở một số nơi không rõ ràng, nên lực lượng
quản lý và nhân dân hai bên biên giới không biết rõ được đường biên giới.
Các mốc được thiết kế và xây dựng chưa phù hợp với điều kiện địa hình, địa
chất, khí hậu ở khu vực biên giới cũng như kích thước mốc nhỏ, chất lượng mốc chưa
cao…, nên hầu hết các mốc giới đã xuống cấp và hư hỏng. Trong những năm qua, hai
bên đã mở và nâng cấp nhiều cửa khẩu cùng với các cơng trình mới được xây dựng
khang trang, hiện đại, nhiều khu vực dân cư ở gần khu vực biên giới phát triển mạnh
mẽ nên hệ thống mốc cũ khơng cịn phù hợp, khơng thể hiện rõ đường biên giới trên
thực địa, nhất là ở các cửa khẩu, nơi đông dân cư nhiều người qua lại, gây khó khăn
cho cơng tác quản lý biên giới.
Xuất phát từ thực tế trên, nhằm phục vụ nhu cầu phối hợp quản lý biên giới ổn
định lâu dài, góp phần củng cố bền vững mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Từ
tháng 05/2008, Việt Nam và Lào chính thức triển khai Kế hoạch tổng thể thực hiện
công tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào nhằm mục đích

hồn thiện hệ thống mốc quốc giới giữa hai nước theo hướng chính xác, hiện đại, bền
vững và thống nhất trên toàn tuyến biên giới. Tổng số mốc tăng dày và tôn tạo gồm
792 cột mốc với 16 mốc đại, 190 mốc trung, 586 mốc tiểu. Thời gian thực hiện Kế
hoạch bắt đầu từ năm 2008, trong đó ưu tiên cắm mốc ở khu vực có cửa khẩu và khu
vực có đường giao thơng thuận lợi đi qua nhằm tăng cường hợp tác, giao lưu phát triển
kinh tế và ổn định trật tự an toàn xã hội vùng biên giới.


Ngày 18/01/2008, Việt Nam và Lào đã cùng với Căm-pu-chia cắm mốc ngã ba
biên giới và ngày 26/08/2008 tại Hà Nội, đã diễn ra Lễ ký Hiệp ước xác định giao
điểm đường biên giới giữa ba nước. Ngày 05/09/2008, tại cửa khẩu Lao Bảo - Đen-sạvẳn, hai bên đã long trọng tổ chức Lễ khánh thành mốc đôi 605. Đây là cột mốc đầu
tiên chính thức khởi động cho cơng tác tăng dày và tôn tạo mốc quốc giới giữa hai
nước. Tính đến tháng 02/2011, hai bên đã xác định được 462 vị trí mốc và đã xây dựng
333 vị trí mốc. Hai bên sẽ hồn thành cơng tác cắm mốc trên thực địa vào năm 2012,
và hoàn thành Nghị định thư, bản đồ ghi nhận kết quả vào năm 2014.
2. Campuchia
Biên giới giữa Việt Nam và Vương quốc Campuchia gồm hai phần: Phần đất
liền là một đường biên trên bộ dài 1245 km, Điểm khởi đầu của biên giới này là giao
điểm đường biên giới giữa ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào.Điểm kết thúc là vị trí
cuối cùng của đường biên giới đất liền trên bờ vịnh Thái Lan, tiếp giáp giữa tỉnh Kiên
Giang (Việt Nam) và tỉnh Kampot (Campuchia). Phần trên biển, tuy chưa được phân
định thành đường biên cụ thể giữa hai quốc gia, nhưng đã được hai bên Việt Nam và
Campuchia định nghĩa bằng một vùng nước lịch sử chung của hai nước theo chế độ
nội thủy, nằm trong vịnh Thái Lan. Về tương lai đường biên giới trên biển giữa hai
nước phải nằm trong vùng nước lịch sử này.
2.1. Lịch sử hình thành đường biên giới Việt nam – Cam-pu-chia
2.1.1. Biên giới Việt Nam-Campuchia trước khi Pháp xâm lược Đông Dương
Biên giới Việt Nam-Campuchia bắt đầu được hình thành từ thế kỷ XVII-XVIII,
dưới thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong (Cochinchine) của nước Đại Việt: ban đầu
bao quanh xứ Sài Gòn-Đồng Nai vào thế kỷ XVII, đến thế kỷ XVIII thêm đường bao

quanh xứ Hà Tiên ven bờ vịnh Thái Lan tới tận Vũng Thơm (Sihanoukville), Cần Vọt
(Kampot). Sang cuối thế kỷ XVIII quá trình Nam tiến của người Việt kết thúc, và tới
đầu thế kỷ XIX thời nhà Nguyễn, đường biên giới này đã được nối liền và định hình rõ
gồm chủ yếu biên giới giữa trấn Gia Định (1802-1808) hay Gia Định Thành (18081832), sau là Nam Kỳ Lục tỉnh (Basse Cochinchine) (1832-1867) của nước Đại
Nam (Việt Nam) với Vương quốc Cao Miên. Tuy nhiên, biên giới này không ổn định,
(đặc biệt là giai đoạn 1835-1840, phần lớn Cao Miên bị sáp nhập vào Đại Nam
thành Trấn Tây Thành (với cơ chế hành chính gần giống như Gia Định Thành)). Từ
giữa thế kỷ XIX (1841-1867), đến khi thực dân Pháp chiếm đóng Nam kỳ (1862-1867)
và áp đặt chế độ bảo hộ ở Cao Miên (1863), đường biên giới này khá ổn định, và được
cơng nhận quốc tế bởi hịa ước 3 bên Đại Nam-Cao Miên-Xiêm La (1845) .


 Cố nhiên, đây chưa phải là một “đường biên giới” theo đúng ý nghĩa đầy đủ của nó, nó
chỉ có ý nghĩa tương đối, chưa được phân vạch và cắm mốc.
2.1.2. Biên giới Việt Nam-Campuchia thời thuộc Pháp
Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ Nam Kỳ, Cao Miên và sau là tồn cõi Đơng
Dương, biên giới Việt Nam-Campuchia chỉ mang tính chất là đường ranh giới hành
chính giữa các xứ Việt Nam thuộc Pháp với xứ Campuchia thuộc Pháp đều nằm trong
Liên bang Đông Dương (1887-1954), bao gồm hai phần: Đoạn biên giới giữa Nam
Kỳ thuộc Pháp (CochinChina Franỗaise) v Campuchia c hoch nh bi tha c
Phỏp-Campuchia nm 1873, đã được phân giới cắm mốc nhưng đến nay cịn rất ít dấu
tích trên thực địa.
2.1.3. Biên giới Việt Nam-Campuchia 1954-đến nay
-

Biên giới Campuchia-Việt Nam Cộng hòa (1955-1975)
Đến khi Pháp rút khỏi Đơng Dương (1954), tồn bộ đường biên giới trên đất liền
giữa hai nước đã được thể hiện tương đối đầy đủ trên bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000 do
Sở Địa dư Đông Dương xuất bản
Trước năm 1964, quan điểm cơ bản của phía Campuchia về biên giới lãnh thổ

giữa hai nước là đòi Việt Nam trả lại cho Campuchia 6 tỉnh Nam Kỳ và đảo Phú Quốc.
Từ năm 1964 - 1967, Chính phủ Vương quốc Campuchia chính thức đề nghị Việt
Nam công nhận Campuchia trong đường biên giới hiện tại, cụ thể là đường biên giới
trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương thông dụng trước năm 1954
với 9 điểm sửa đổi, tổng diện tích khoảng 100km2. Trên biển, phía Campuchia đề nghị
các đảo phía Bắc đường do Tồn quyền Brévié vạch năm 1939 là thuộc Campuchia,
cộng thêm quần đảo Thổ Chu và nhóm phía Nam quần đảo Hải Tặc.
Trong năm 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam đã chính thức cơng nhận và cam kết tơn trọng tồn vẹn lãnh thổ
của Campuchia trong đường biên giới hiện tại (công hàm của Việt Nam khơng nói tới
vấn đề chủ quyền đối với các đảo trên biển và 9 điểm mà Campuchia đề nghị sửa đổi
về đường biên giới trên bộ)

-

Biên giới Campuchia-Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1976-1985)
Sau khi Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia ra đời, ngày 18/02/1979, hai
nước đã ký “Hiệp ước hịa bình, hữu nghị và hợp tác giữa nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia.”


Trên cơ sở Hiệp ước này, hai nước đã đàm phán và ký Hiệp ước về nguyên tắc
giải quyết các vấn đề về biên giới; Hiệp định về Quy chế biên giới giữa nước
CHXHCN Việt Nam và nước CHND Campuchia ngày 20/7/1983
Trên biển, ngày 7-7-1982 hai chính phủ ký Hiệp định thiết lập vùng nước lịch
sử chung giữa hai nước và thỏa thuận: sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp để
hoạch định đường biên giới trên biển, lấy đường gọi là đường Brévié được vạch ra
năm 1939 với tính chất là đường hành chính và cảnh sát làm đường phân chia đảo giữa
hai nước.
-


Biên giới Campuchia-Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1985 đến nay)
Ngày 27-12-1985, Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Campuchia đã ký Hiệp ước
hoạch định biên giới quốc gia trên cơ sở thỏa thuận năm 1967. Thi hành Hiệp ước, hai
bên đã tiến hành phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới từ tháng 4-1986 đến
tháng 12-1988 được 207 km/1137 km; tháng 1-1989 theo đề nghị của phía Campuchia,
hai bên tạm dừng việc phân giới cắm mốc vì một số lý do.
Từ năm 1999, đàm phán biên giới trên đất liền được nối lại và Ngày
10/10/2005, nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Cam-pu-chia Hun
Xen (Hun Sen), Việt Nam và Cam-pu-chia đã ký Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch
định biên giới quốc gia giữa hai nước năm 1985. Ngay sau khi Hiệp ước bổ sung được
ký kết, hai bên đã tích cực chuẩn bị cho cơng tác phân định phân giới cắm mốc và
ngày 25/9/2006, chưa đầy một năm sau khi ký Hiệp ước, hai bên đã tiến hành xây
dựng và khai trương cột mốc đầu tiên tại cửa khẩu Mộc Bài - Bà Vẹt.
Trong năm 2007, hai bên đã xác định được 49 vị trí cột mốc trên thực địa và
cắm mốc tại 4 trong 7 cửa khẩu quốc tế; rà soát chuyển vẽ 29/40 mảnh bản đồ; xác
định được vị trí 176/314 cột mốc trên bản đồ đã rà soát.
Năm 2013, hai bên thống nhất cắm bổ sung các mốc phụ, cọc dấu để làm rõ
hướng đi của đường biên giới trên thực địa.
Sáng ngày 5-10, nhân chuyến thăm Việt Nam chính thức của Thủ tướng
Campuchia Hun Sen tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng
Campuchia Hun Sen đã ký hai văn kiện pháp lý quan trọng tại Hà Nội, gồm Hiệp ước
bổ sung Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia năm 1985, Hiệp ước bổ sung năm
2005 giữa hai nước (gọi tắt là Hiệp ước bổ sung 2019) và Nghị định thư phân giới cắm
mốc biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Campuchia (gọi tắt là Nghị định thư phân
giới cắm mốc).


Lễ ký là tuyên bố mạnh mẽ với khu vực và thế giới của hai quốc gia độc lập, có
chủ quyền là Việt Nam và Campuchia về ý chí, quyết tâm hợp tác xây dựng đường

biên giới hồ bình, hữu nghị, hợp tác, cùng phát triển trên cơ sở tôn trọng tồn vẹn
lãnh thổ, lợi ích của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, vì hạnh phúc và phồn vinh của nhân
dân hai bên.
2.2. Một số vấn đề còn tồn tại giữa biên giới Việt Nam – Campuchia
2.2.1. Vấn đề biên giới trên biển giữa Việt Nam - Campuchia
Về phân định biên giới trên biển, giữa Việt Nam và Campuchia tập trung vào ba
vấn đề cốt lõi. Một là chủ quyền các đảo trong vùng nước lịch sử. Vấn đề này đã được
giải quyết rõ ràng và triệt để theo Hiệp định năm 1982. Hai là vấn đề phân định biên
giới trên biển trong vùng nước lịch sử. Ba là vấn đề phân định biên giới trên biển
ngoài vùng nước lịch sử. Hai vấn đề sau hiện nay vẫn tồn tại cần được giải quyết và là
mục tiêu chính của các cuộc hội đàm về biên giới lãnh thổ giữa hai nước.
Từ năm 1913, giữa chính quyền thuộc địa Nam Kỳ và chính quyền bảo hộ
Campuchia đã nảy sinh tranh chấp gay gắt về quyền thu thuế đánh cá và quyền đặc
nhượng khai thác tài nguyên ở các đảo ven bờ Campuchia nhưng thuộc Nam Kỳ. Để
tạm thời giải quyết vấn đề quản lý các đảo, và do khơng thể có đủ các thủ tục pháp lý
để giải quyết việc phân định chủ quyền trên một số đảo giữa hai bên, năm 1939, tồn
quyền Đơng Dương G. Brévié đã vạch một ranh giới mà lịch sử sau này gọi là đường
Brévié. Tồn quyền trao quyền hành chính và cảnh sát trên các đảo ở phía Tây Bắc
đường này cho phía Campuchia, cịn các đảo ở phía Đơng Nam đường này vẫn thuộc
quyền quản lý của Nam Kỳ. Sau năm 1954, Campuchia và Chính quyền Việt Nam
Cộng hịa đều cho rằng đường Brévié đã hết hiệu lực và bắt đầu tranh giành quyền
kiểm sốt lại các đảo. Tình hình này làm cho vùng biển vốn bất ổn lại càng trở nên
phức tạp hơn, đồng thời làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa hai nhà nước.
Trước những diễn biến phức tạp trên vùng biển từ năm 1954 đến 1980 do phía
Campuchia gây lên, ngày 07/7/1982, hai nước đã ký Hiệp định về Vùng nước lịch sử
giữa Việt Nam và Campuchia, nhằm thiết lập một cơ chế quản lý chung. Trong đó thoả
thuận lấy đường Brévié được vạch ra năm 1939 làm đường phân chia các đảo trong
khu vực này và sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp để hoạch định đường biên
giới biển giữa hai nước”. Đây là lần đầu tiên hai nước thừa nhận chủ quyền của các
bên đối với các đảo giữa hai nước

Tuy nhiên vấn đề tồn tại đang được giải quyết giữa Việt Nam và Campuchia
hiện nay chủ yếu xoay quanh tính pháp lý của đường Brévié trong phân định biên giới,


thời gian tới cần sự nỗ lực và hợp tác thiện chí của cả hai bên để sớm đạt được những
đồng thuận.
Tháng 3/1999, tại cuộc họp vòng 1 của Ủy ban liên hợp, phái đoàn của Việt
Nam đã đưa ra sơ đồ đường trung tuyến trong vùng nước lịch sử để hai bên lấy đường
này làm cơ sở đàm phán phân định, điều chỉnh làm đường phân định biên giới trên
biển giữa hai nước. Đây được xem là giải pháp hợp lý để hai bên tiếp tục làm cơ sở
đàm phán phân định biên giới trên biển.
Tuy vậy, đến tháng 8/1999, tại vòng 2 của cuộc họp Ủy ban liên hợp, về phía
Campuchia vẫn chưa nhất trí về đường trung tuyến mà Việt Nam đã vạch ra ở vòng 1,
đồng thời không đưa ra một giải pháp cụ thể nào. Quan điểm của Việt Nam trong đàm
phán phân định biển với Campuchia là vẫn kiên trì giải thích rõ hơn về tính hợp lý và
hy vọng đi tới một biện pháp phân định công bằng cho cả hai bên. Tuy nhiên, từ năm
1999 đến năm 2015, Campuchia vẫn chưa có một hành động cụ thể, hay động thái tích
cực nào trong đàm phán với Việt Nam để đi tới kết quả phân định biên giới trên biển
giữa hai nước một cách công bằng.
2.2.2. Vấn đề biên giới trên đất liền giữa Việt Nam - Campuchia
Trong gần nửa thế kỷ qua, Việt Nam và Campuchia đã tiến hành nhiều đợt đàm
phán, ký kết được nhiều văn kiện pháp lý để ghi nhận thành quả giải quyết biên giới giữa
hai nước.
Trước đây, một số điểm còn lại hai bên chưa thống nhất đã nảy sinh một số vấn
đề mới, nguyên nhân chủ yếu là do đảng đối lập Cứu nguy Dân tộc của Campuchia
kích động, đưa những thơng tin sai lệch vào nhận thức nhân dân Campuchia về mối
quan hệ hai nước dẫn đến những hiềm khích. Điển hình là vụ xơ xát giữa người Việt
Nam và Campuchia ở biên giới hai nước ngày 28/06/2015. Vụ việc xảy ra hôm 28/6
giữa gần 400 người trên vùng biên giới giáp ranh tỉnh Svay Rieng của Campuchia và
tỉnh Long An của Việt Nam. Hơn 200 người Campuchia tới biên giới vì nghi ngờ

chính quyền nước láng giềng lấn chiếm đất. Lực lượng chức năng Việt Nam và người
dân địa phương đã ngăn chặn, giải thích nhưng bị một số phần tử quá khích
Campuchia tấn cơng, khiến 7 người Việt Nam bị thương. Sau đó phía Campuchia cịn
cáo buộc Việt Nam đã đào trái phép 8 ao sâu bên trong vùng lãnh thổ đông bắc thuộc
tỉnh Ratanakiri. Ngoài ra, Phnom Penh cũng tố cáo Hà Nội cho xây dựng một đồn
quân sự tại khu vực biên giới chưa phân định nằm giữa tỉnh Kandal của Campuchia và
tỉnh An Giang của Việt Nam.


 Có thể nói, mối quan hệ giữa Việt Nam – Campuchia cũng như tình hình phân định
biên giới giữa hai nước cho đến thời điểm hiện tại tuy có khởi sắc hơn trước nhưng
vẫn còn chưa ổn định và còn tồn tại nhiều vấn đề phát sinh. Giữa hai bên đã có nhiều
cuộc gặp mặt về quản lý biên giới, hai bên phối hợp triển khai Hiệp định về quy chế
biên giới năm 1983 và Thơng cáo báo chí ngày 17/1/1995, kịp thời ngăn chặn, xử lý
các vụ việc xảy ra trong khu vực biên giới.
3. Trung Quốc
3.1. Vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc
Đường biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài 1.449,566 km (trong đó
đường biên giới đi theo sơng, suối là 383,914 km) tiếp giáp giữa 07 tỉnh của Việt Nam:
Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh với
tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang- Quảng Tây/Trung Quốc, giữa hai nước
hiện nay đã mở 9 cặp cửa khẩu.
3.1.1. Quá trình hoạch định
Đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được hình thành
qua quá trình lịch sử và tồn tại một cách tương đối ổn định kể từ khi Việt Nam thoát
khỏi ách Bắc thuộc từ thế kỷ thứ X. Tuy nhiên biên giới Việt Nam - Trung Quốc mang
khái niệm biên giới vùng, chưa phải là đường biên giới được phân giới cắm mốc, đánh
dấu bằng một hệ thống mốc giới chính xác.
Đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc lần đầu tiên được pháp lý hóa trên cơ
sở Cơng ước Pháp-Thanh 1887 và 1895.

Đường biên giới theo Công ước Pháp - Thanh đã được hoạch định và phân giới
cắm mốc và cụ thể hóa trên thực địa bằng một hệ thống mốc quốc giới (314 mốc) từ
Móng Cái đến tận biên giới Việt Nam - Trung Quốc - Lào. Đến trước khi Việt Nam
giành được độc lập năm 1945, hai bên Pháp - Thanh thực hiện quản lý theo đường biên
giới và hệ thống mốc giới theo Cơng ước 1887; 1895 và có tiến hành một số hoạt động
kiểm tra, sửa chữa mốc giới hoặc bổ sung một số mốc giới.
Trong những năm 70 của thế kỷ XX, ta và Trung Quốc đã tiến hành 03 lần đàm
phán giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền, sau đó đàm phán bị gián đoạn do những
biến cố của lịch sử. Cuộc đàm phán được nối lại ngay sau khi Việt Nam và Trung
Quốc bình thường hóa quan hệ năm 1991.
Tháng 10/1993, hai bên đã ký Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải
quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung Quốc. Theo đó, hai bên thỏa
thuận trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế hiệp thương hữu


nghị để giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc; lấy Công ước
Pháp - Thanh 1887 và 1895 và các văn kiện, bản đồ hoạch định, cắm mốc biên giới
kèm theo làm căn cứ để xác định lại đường biên giới Việt - Trung.
Ngày 30/12/1999, tại Hà Nội, hai bên ký Hiệp ước về biên giới đất liền Việt
Nam - Trung Quốc, đặt nền tảng cho việc xây dựng đường biên giới hịa bình, ổn định
lâu dài giữa hai nước. Ngay sau khi ký Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam
-Trung Quốc, hai bên đã thành lập Ủy ban liên hợp phân giới cắm mốc biên giới trên
đất liền Việt Nam - Trung Quốc; thỏa thuận chia đường biên giới Việt - Trung thành 12
đoạn, giao cho 12 Nhóm liên hợp phối hợp tiến hành công tác phân giới cắm mốc trên
thực địa.
Tháng 12/2001, hai bên tiến hành cắm cột mốc đầu tiên tại cửa khẩu Móng Cái
(Quảng Ninh - Việt Nam) - Đông Hưng (Quảng Tây - Trung Quốc).
Từ tháng 10/2002, hai bên đồng loạt triển khai phân giới cắm mốc trên toàn
tuyến biên giới Việt - Trung.
Ngày 31/12/2008, hai bên đã giải quyết dứt điểm toàn bộ các vấn đề cịn tồn tại,

hồn thành cơng tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới đất liền Việt Nam Trung Quốc.
Kết quả: Hai bên đã phân giới xong toàn bộ tuyến biên giới đất liền Việt - Trung
dài 1449,566km; cắm tổng số 1971 cột mốc(trong đó có 01 mốc ba Việt Nam - Trung
Quốc - Lào; 1548 cột mốc chính; 422 cột mốc phụ). Hệ thống mốc giới này đã được
đánh dấu, ghi nhận và mô tả phù hợp với địa hình thực tế một cách khách quan, khoa
học, chi tiết. Nếu so sánh với đường biên giới của các nước trên thế giới, đường biên
giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc được đánh giá là có mức độ cột mốc dầy đặc
và rõ ràng nhất, được xác định theo phương pháp hiện đại đảm bảo tính trung thực và
bền vững lâu dài.
3.1.2. Một số vấn đề biên giới lãnh thổ trên đất liền giữa Việt Nam – Trung
Quốc
Thời điểm sau khi hoàn thành phân giới cắm mốc vào 31/12/2008, các văn bản
pháp lý về đường biên giới Việt – Trung, Nghị định thư phân giới cắm mốc (PGCM),
Hiệp định về quy chế quản lý biên giới, Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa
khẩu, biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc đã chính thức có hiệu lực từ ngày
14/7/2010. Các văn kiện này đã tạo điều kiện cho hai nước đi vào một thời kỳ mới:
quản lý đường biên giới bằng các hiệp ước, hiệp đinh quốc tế do hai nước có chủ
quyền thỏa thuận.


Tuy nhiên, trước khoảng thời gian này, biên giới đất liền giữa Việt Nam – Trung
Quốc tồn tại khá nhiều tranh chấp, chủ yếu ở phía biên giới phía Bắc. Vào 30/12/1999,
Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền Việt -Trung được kí kết đã quy thuộc 114,9km
thuộc Việt Nam, 117,2km thuộc Trung Quốc. Tuy nhiên còn nhiều khu vực còn để
trắng, chưa cắm mốc, chưa được giải quyết triệt để như thác Bản Giốc, cửa sông Bắc
Luân, khu vực cửa khẩu Hữu Nghị - Lạng Sơn, Khu vực Núi Đất (Trung Quốc gọi là
Lão Sơn) nhiều mốc qua thời gian và chiến tranh đã bị hư hại, dịch chuyển, địa hình
tại thực địa nhiều nơi khơng phù hợp với bản đồ, gây khó khăn cho quản lý.
a. Khu vực Thác Bản Giốc
Trải qua thời gian dài do những biến động tự nhiên cũng như chiến tranh, ở khu

vực thác Bản Giốc, cột mốc biên giới từ thời Pháp - Thanh xác lập đã bị mất cột mốc
bên phía Việt Nam, chỉ cịn cột mốc bên phía Trung Quốc nên người dân có cảm giác
tồn bộ thác Bản Giốc thuộc về Việt Nam vì chỉ thấy cột mốc bên phía Trung Quốc.
Sự phức tạp ở đây không phải do thác Bản Giốc vì khơng hề có tranh chấp về thác, mà
chỉ tranh chấp về cồn Pò Thoong do tài liệu để lại không rõ ràng, hai bên phải đàm
phán giải quyết.
Cuối cùng, nguyên tắc giải quyết đường biên giới ở đây cũng được xác định:
“Đối với những đoạn biên giới đi theo sơng, suối, hai bên đồng ý sẽ tính đến mọi tình
hình và tham khảo tập quán quốc tế, thông qua thương lượng hữu nghị để giải quyết”
(Phần II, điểm 4, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới
Việt – Trung 19/10/1993). Kết quả sau phân định, Việt Nam được toàn bộ phần thác
phụ và ½ thác chính (nếu đúng ngun tắc chỉ được 1/3 vì dịng chảy sâu nhất nằm bên
phía Việt Nam).
Đối với cồn Pò Thoong đã thống nhất đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong,
3/4 thuộc về Trung Quốc và 1/4 thuộc về Việt Nam, trong đó Việt Nam giữ lại được
khu vực có dấu tích của trạm thuỷ văn.
b. Khu vực cửa sơng Bắc Ln (cịn gọi là sơng Ka Long, Móng Cái - Quảng Ninh):
Cuộc đàm phán giữa hai nước về phân định biên giới khu vực của sơng Bắc
Ln trở nên căng thẳng bởi có một số điểm tranh chấp gay gắt. Cuối cùng cũng đi đến
một thỏa thuận rất công phu và chi tiết nằm trong Hiệp ước hoạch định biên giới mới
ký năm 1999. Đường phân định ở cửa sông Bắc Luân trong Hiệp định phân định biên
giới 1999 gồm những đoạn cụ thể sau:


Biên giới quy thuộc ¾ bãi Tục Lãm và 1/3 bãi Dậu Gót cho Việt Nam, ¼ Tục
Lãm và 2/3 bãi Dậu Gót cho Trung Quốc, và thiết lập khu giao thông thủy tự do cho
nhân dân địa phương sử dụng luồng hai bên bãi Tục Lãm và Dậu Gót.
c. Khu vực cửa khẩu Hữu Nghị - Lạng Sơn:
Khi phân giới, hai bên đã cắm mốc số 18 để xác định đường biên giới và vị trí
của mốc này cũng được mô tả là nằm trên đường từ Nam Quan đến Đồng Đăng (mốc

này đã bị mất); còn trên bản đồ cắm mốc Pháp - Thanh năm 1895 thì địa danh Nam
Quan nằm ở phía Bắc đường biên giới. Như vậy, đường biên giới ln ln ở phía
Nam của Nam Quan, chứ khơng phải đi qua địa danh đó.
Về các mốc Pháp – Thanh, mốc 19 vẫn còn tồn tại và nằm đúng vị trí cũ. Mốc
18 đối diện với mốc 19, do yếu tố thời gian, hai bên đều khơng thể xác định được. Về
điểm nối ray, do có bị lệch về phía Việt Nam so với đường biên giới lịch sử, hai bên
đồng ý điều chỉnh. Kết quả là đường biên giới đi qua Km0 rồi đến mốc 19 cũ và đến
điểm cách điểm nối ray 148 mét về phía bắc (nếu theo điểm nối quy ước ta mới bị mất
đất)
d. Khu vực Núi Đất (Trung Quốc gọi là Lão Sơn):
Khu vực này có một mỏm cả hai bên đều ghi nhận là của Việt Nam, nhưng sau
các trận chiến ở thập kỷ 80, Trung Quốc đã xây nghĩa trang quân đội trên đó và họ chủ
trương là khu vực nghĩa trang là bất khả xâm phạm, mặc dù về pháp lý đường biên
giới mà hai bên đã xác định là phải đi qua khu vực nghĩa trang này. Tuy nhiên, phía
Trung Quốc đã đưa dân họ vào những vùng lãnh thổ Việt Nam để làm ruộng, làm
nương rồi định cư những người dân đó ở ln chỗ có ruộng nương, cuối cùng nhà cầm
quyền Trung Quốc ngang ngược coi những khu vực đó là lãnh thổ Trung Quốc.
Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979
Chiến tranh biên giới Việt - Trung bắt nguồn từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa
hai quốc gia, kéo dài trong khoảng một tháng với thiệt hại về người và tài sản cho cả
hai phía.
Cuộc chiến nổ ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đưa quân tấn
công Việt Nam trên tồn tuyến biên giới giữa 2 nước
Mục tiêu chính của Trung Quốc trong hành động quân sự lần này gồm: “Nhanh
chóng chiếm đóng vùng biên giới Việt-Trung, đặc biệt là các thị xã trọng yếu gồm
Lạng Sơn (chốt chặn nối Quốc lộ 1A của Việt Nam với Trung Quốc), Cao Bằng và


Lào Cai. Vùng chiếm đóng dự kiến với bề sâu chừng vài chục km sẽ được Trung Quốc
sử dụng làm bàn đạp cho các cuộc tấn công vào sâu nội địa Việt Nam’’.

Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc tuyên bố hoàn thành rút quân vào ngày 16
tháng 3 năm 1979 sau khi Chủ tịch Tơn Đức Thắng bên phía Việt Nam kí lệnh Tổng
động viên tồn dân và Trung Quốc đã đánh chiếm các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao
Bằng và một số thị trấn vùng biên. Cuộc chiến đi qua để lại những thiệt hại vô cùng
lớn những hệ lụy khôn lường cho Việt Nam.
3.2. Vấn đề biên giới trên biển Việt Nam - Trung Quốc
a. Khu vực ngồi cửa Vịnh Bắc Bộ
Trước 1993, tình trạng tranh chấp, xâm phạm vùng biển của nhau ở Vịnh Bắc
Bộ đã làm ảnh hưởng không tốt tới quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Theo đó, phạm vi phân định đã được hai bên chấp nhận đưa ra đàm phán là khu
vực biển nằm giữa bờ biển đảo của Việt Nam và bờ biển đảo Hải Nam Trung Quốc đối
diện nhau. Như vậy, theo quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, do bờ biển của
hai nước trong khu vực phân định nhỏ hơn 400 hải lý nên giữa hai nước chắc chắn sẽ
tồn tại vùng chồng lấn đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cần phân định
Theo Thỏa thuận về nguyên tắc cơ bản giải quyết tranh chấp mà Việt Nam và
Trung Quốc ký kết năm 1993, Việt Nam đã đề nghị phía Trung Quốc vận dụng những
quy định của UNCLOS làm cơ sở pháp lý để phân định vịnh Bắc Bộ. Việt Nam phê
chuẩn UNCLOS vào ngày 23/6/1994 và Trung Quốc phê chuẩn vào ngày 15/6/1996,
được xem là điều kiện thuận lợi để hai nước tiến hành đàm phán phân định vịnh Bắc
Bộ. Như vậy, cho đến năm 1996 khi cả hai nước đã là thành viên chính thức của
UNCLOS, thì UNCLOS mới thực sự trở thành cơ sở pháp lý chung, để hai nước vận
dụng vào quá trình đàm phán và giải quyết những vấn đề liên quan đến phân định vịnh
Bắc Bộ.
Việt Nam đề nghị dùng phương pháp đường trung tuyến có điều chỉnh (một
phương pháp khá phổ biến trong thực tiễn quốc tế, không vi phạm nguyên tắc của
UNCLOS).
Trải qua một thời gian dài thương lượng, hai bên đã đi đến thống nhất ký Hiệp
định phân định vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000.
Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ đã xác định đường biên giới lãnh hải giữa
Việt Nam và Trung Quốc ở khu vực ngồi cửa sơng Bắc Ln và phân định rõ ràng

phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và phạm vi thềm lục địa của hai nước ở Vịnh.


Vùng biển Việt Nam phía Đơng Bắc quần đảo Hồng Sa nằm ở khoảng vỹ
tuyến 18 độ Bắc xuống vỹ tuyến 17 độ Bắc, nằm ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, thực chất là
sự tiếp nối của khu vực ngoài cửa Vịnh. Vùng biển này liên quan đến 2 bên là Việt
Nam, Trung Quốc, và một bên là Đài Loan. Tuy nhiên vì có liên quan đến chủ quyền
của Việt Nam đối với Hoàng Sa nên việc phân định cần phải được khảo sát kỹ. Trước
khi tiến hành phân định vùng biển ở khu vực này, chúng ta cần phải tiến hành giới hạn
phạm vi phân định để không ảnh hưởng tới vùng nước thuộc các đảo nằm trong quần
đảo Hoàng Sa.
b. Khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Vùng biển giữa đảo Hoàng Sa và Trường Sa là khu vực kéo dài trong khoảng
vỹ tuyến 16 độ Bắc xuống vỹ tuyến 12 độ Bắc. Các nước có bờ biển bao quanh khu
vực này gồm Việt Nam, Trung Quốc và Philippines đều đã đưa ra các quy định để mở
rộng các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia mình. Qua việc
nghiên cứu, xem xét các yêu sách của các quốc gia bao quanh có thể thấy toàn bộ vùng
biển này đã bị bao phủ bởi đường “chín đoạn” của Trung Quốc. Tuy nhiên, yêu sách
quá đáng này của Trung Quốc khơng có đầy đủ cơ sở pháp lý, không được cộng đồng
quốc tế thừa nhận và không đáp ứng được các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế nên
không thể tồn tại vùng chồng lấn giữa đường yêu sách này với quyền được hưởng
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo quy định của Công ước Luật Biển năm
1982 của các quốc gia khác. Vì vậy, tại vùng biển này sẽ tồn tại một khu vực nằm
ngồi 200 hải lý tính từ đường cơ sở của Việt Nam, Trung Quốc và Philippines.
Theo các số liệu khoa học địa chất mà Việt Nam đã khảo sát nghiên cứu, rìa lục
địa của Việt Nam tại khu vực này mở rộng ra quá 200 hải lý, vì vậy, theo quy định của
Cơng ước Luật Biển năm 1982 Việt Nam có quyền mở rộng ranh giới ngồi thềm lục
địa của mình ra ngồi 200 hải lý. Việc mở rộng ranh giới ngoài thềm lục địa của Việt
Nam sẽ làm xuất hiện ba khả năng: (1) Xuất hiện vùng chồng lấn thềm lục địa ba bên
Việt Nam, Trung Quốc, Philippines trong trường hợp cả Trung Quốc và Philippines

đều có quyền mở rộng ranh giới thềm lục địa ra ngoài 200 hải lý; (2) Xuất hiện vùng
chồng lấn hai bên giữa Việt Nam và Trung Quốc trong trường hợp chỉ có Trung Quốc
được phép mở rộng thềm lục địa ra ngoài 200 hải lý; (3) Xuất hiện vùng chồng lấn hai
bên giữa Việt Nam và Philippines trong trường hợp chỉ có Philippines được mở rộng
thềm lục địa ra ngồi 200 hải lý. Cho nên, hiện tại vùng biển này vẫn còn chưa được
giải quyết bởi ba nước.
Ngày 10 tháng 9 năm 1975, phía Trung Quốc gửi cơng hàm cho Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Tây Sa và


Nam Sa (tức là Hoàng Sa và Trường Sa theo cách gọi của Trung Quốc). Tháng 9 năm
1975, trong chuyến viếng thăm Trung Quốc của Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ
Việt Nam do Lê Duẩn dẫn đầu, Tổng Bí thư Lê Duẩn nêu vấn đề Trung Quốc dùng vũ
lực chiếm Hồng Sa trong chuyến thăm, phía Việt Nam nêu vấn đề chủ quyền của
mình đối với hai quần đảo này. Trong cuộc gặp ngày 24 tháng 9 năm 1975, nhà lãnh
đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình tun bố phía Trung Quốc có đầy đủ chứng cứ để
khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Trung Quốc, nhưng cần theo
nguyên tắc hiệp thương hữu nghị để giải quyết bất đồng. Đặng Tiểu Bình cũng bày tỏ
hai bên có thể thương lượng để giải quyết vấn đề. Phản ứng không nhượng bộ của
Trung Quốc làm lãnh đạo Việt Nam khó chịu
Tháng 10 năm 1977, Việt Nam và Trung Quốc có cuộc họp đàm phán về biên
giới. Trưởng đoàn Việt Nam đề nghị đăng ký thảo luận về quần đảo Hoàng Sa đang bị
Trung Quốc chiếm giữ từ năm 1974, trưởng đoàn đàm phán Trung Quốc Hàn Niệm
Long từ chối.
Ngày 15 tháng 3 năm 1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Bị vong lục về
vấn đề biên giới Việt - Trung, trong đó lên án việc Trung Quốc đánh chiếm trái phép
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng, giới
thiệu 19 tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngồi ra, Chính quyền Trung Quốc cịn cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng

1958 là một trong những bằng chứng cho thấy chính quyền Việt Nam đã cơng nhận
chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa. Chính quyền
Việt Nam thì cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng không hề công nhận hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc vì trong cơng hàm khơng có chỗ nào nói
tới hai quần đảo này. Cũng theo chính quyền Việt Nam giá trị pháp lý của nó phải
được đánh giá theo bối cảnh lịch sử lúc đó khi Việt Nam Dân chủ Cộng hịa khơng
quản lý hai quần đảo này. Ngày 7 tháng 8 năm 1979, Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra Tuyên bố về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường
Sa, bác bỏ sự xuyên tạc của Trung Quốc trong việc công bố một số tài liệu của Việt
Nam liên quan đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định lại chủ quyền
của Việt Nam đối với 2 quần đảo này, nhắc lại lập trường của Việt Nam về việc giải
quyết sự tranh chấp về 2 quần đảo giữa hai nước bằng thương lượng hịa bình.Cho tới
thời điểm hiện tại, vấn đề tranh chấp Trường Sa Hồng sa vẫn cịn là những điểm nóng
về chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc.


II. Các nước có vùng biển tiếp giáp với Việt Nam
1. Indonesia
1.1. Tổng quát về Biên giới biển Việt Nam và Indonesia
Do quan điểm sử dụng nguyên tắc phân định biển và điểm cơ sở để tính chiều
rộng lãnh hải khác nhau, nên giữa Indonesia và Việt Nam có một vùng biển chồng lấn
rộng lớn. Chính vì vậy, từ năm 1978 đến năm 2003, hai nước Việt Nam và Indonesia
đã tiến hành đàm phán cấp chuyên viên để phân định thềm lục địa trong vùng biển
giáp ranh giữa hai nước. Trong quá trình đàm phán, lập trường pháp lý của Việt Nam
là theo nguyên tắc thoả thuận, công bằng, tôn trọng lợi ích của nhau, phù hợp với xu
thế phát triển của luật biển quốc tế. Giải pháp của Việt Nam đưa ra là lấy căn cứ thềm
lục địa, đó là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển, cho nên ranh giới là
rãnh ngầm phân chia thềm lục địa của hai nước nằm rất gần nhóm đảo Natuna phía
Bắc của Indonesia.
Trên thực tế cho thấy, đường đề nghị này tạo với đường yêu sách của Indonesia

thành một vùng biển có sự chồng lấn giữa hai bên khoảng 98.000 km 2. Bởi vậy, tháng
10/1991, nhân chuyến đi thăm Indonesia của Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt, hai
bên đã ký thỏa thuận chia đơi vùng cịn lại, song do tình hình nội bộ Indonesia lúc đó
khơng ổn định, không thống nhất phương pháp giải quyết phân định biển, nên thỏa
thuận không được thực hiện.
Do nhu cầu của hai bên mong muốn có một vùng biển hịa bình, ranh giới được
phân định rõ ràng, tạo điều kiện cho ngư dân của hai nước khai thác tốt nguồn hải sản,
ngày 11/6/2003, Hiệp định phân định thềm lục địa giữa Việt Nam và Indonesia đã
được ký kết. Đây là hiệp định đầu tiên giữa nước ta với các nước láng giềng chỉ giải
quyết một vấn đề là phân định thềm lục địa. Hiệp định có hiệu lực kể từ ngày
29/5/2007, sau khi hai nước trao đổi thư phê chuẩn. Hiệp định là kết quả của một quá
trình đàm phán lâu dài và khó khăn đã thể hiện nỗ lực, thiện chí và sự nhân nhượng từ
cả hai bên để đi đến kết quả thích hợp mà hai bên chấp nhận được. Hiệp định phân
định ranh giới thềm lục địa giữa Việt Nam – Indonesia đã tạo thuận lợi cho hai nước
thực hiện các quyền chủ quyền, quyền tài phán, quản lý và khai thác phần thềm lục địa
của mình.
Ngày 28/3/2016, Việt Nam và Indonesia đã tổ chức đàm phán vòng 8 cấp chuyên viên
về phân định vùng đặc quyền kinh tế viết tắt là EEZ giữa hai nước. Trong các buổi làm
việc, hai bên tiếp tục thảo luận các phương pháp phân định Vùng đặc quyền kinh tế
trên cơ sở các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và trao
đổi quan điểm về nguyên tắc còn tồn tại của dự thảo các nguyên tắc và hướng dẫn đàm
phán.


Như vậy, từ năm 2007 đến năm 2015 là giai đoạn mà Việt Nam và Indonesia
khẳng định cam kết tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Hiệp định, các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế và luật biển quốc tế. Tuy vậy, đàm phán về ranh giới biển
giữa hai nước vẫn chưa kết thúc, bởi vì vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn giữa hai
nước vẫn chưa được phân định. Từ khi hai nước ký kết Hiệp định phân định thềm lục
địa, có nhiều dấu hiệu tích cực như ngư dân của hai nước đã có một hành lang pháp lý

rõ ràng, do đó trong q trình khai thác hải sản trên vùng biển giáp ranh ít xảy ra vi
phạm. Đồng thời hai bên cũng tiếp tục đàm phán để phân định vùng đặc quyền kinh tế
dựa trên luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế và quy định của UNCLOS.
Phân định biển giữa Việt Nam và Indonesia đã đạt được kết quả khi hai nước
nhất trí ký Hiệp định phân định biển. Với nội dung của hiệp định phân định thềm lục
địa giữa hai nước đã bổ sung vào kinh nghiệm của thế giới và khu vực về đàm phán
phân định biển. Trong quá trình đàm phán có nhiều thuận lợi, do cả hai quốc gia đều là
thành viên của UNCLOS; thứ hai, trên thực tế Indonesia khơng chiếm đóng trái phép
đảo đá nào của Việt Nam tài quần đảo Trường Sa.
1.2. Hiệp định về phân định ranh giới thềm lục địa Việt Nam và Indonesia
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ nước Cộng hồ Indonesia về phân định ranh giới thềm lục địa được làm tại Hà
Nội vào ngày 26 tháng 6 năm 2003. Người đại diện ký kết của Việt Nam là Bộ trưởng
Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, đại diện cho chính phủ Indonesia là Bộ trưởng Ngoại
giao Hassan Wirajuda. Hiệp định có hiệu lực từ ngày 29 tháng 5 năm 2007.
Nội dung tóm tắt của Hiệp định cơ bản về đường ranh giới thềm lục địa giữa
Việt Nam và Indonesia được xác định bằng các đoạn thẳng nối tuần tự các điểm có toạ
độ như sau:
Điểm

Vĩ độ

Kinh độ

20

06o05’48’’ Bắc

105o49’12’’ Đông


H

06o15’00’’ Bắc

106o12’00’’ Đông

H1

06o15’00’’ Bắc

106o19’01’’ Đông

A4

06o20’59,88’’
Bắc

106o39’37,67’’ Đơng

X1

06o50’15’’ Bắc

109o17’13’’ Đơng

Tiếp đó, đường ranh giới này sẽ nối thẳng đến điểm có toạ độ là: vĩ độ
06o18’12’’ Bắc, kinh độ 109o38’36’’ Đông (Điểm 25).


Vào năm 2017, thông tin tọa độ các tàu cá Việt Nam bị phía Indonesia bắt mà Bộ

đội biên phịng gửi Bộ Ngoại giao cho thấy các ngư dân Việt Nam đang đánh cá trong
vùng biển nằm ở phía Việt Nam theo Hiệp định về phân định ranh giới thềm lục địa giữa
Indonesia và Việt Nam, và hiện nay là vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn theo yêu sách
của Indonesia. Vùng biển này hiện đang được đàm phán phân định.
Như vậy, việc Indonesia bắt và kết án các ngư dân Việt Nam là không đúng theo
quy định trong hiệp định về giải quyết những tranh chấp giữa hai nước liên quan tới giải
thích và thực hiện hiệp định một cách hịa bình thơng qua hiệp thương và đàm phán.
Hiện nay, do tính chất phức tạp của việc giải quyết tranh chấp về vùng đặc quyền kinh tế
giữa Việt Nam và Indonesia, Chính phủ Việt Nam đã triển khai rất nhiều biện pháp thực
địa để bảo vệ ngư dân, kể cả tăng cường đẩy nhanh tốc độ đàm phán cũng như thỏa thuận
với Indonesia để tuần tra tại khu vực gần khu vực tranh chấp để bảo vệ ngư dân và tuyên
truyền để ngư dân hiểu biết và tránh xa các khu vực có khả năng bị các lực lượng chức
năng của Indonesia bắt.
Ngồi ra, Việt Nam cịn rất tích cực triển khai các biện pháp bảo hộ ngư dân bị
bắt.
2. Thái Lan
- Vùng vịnh Thái Lan
Vịnh Thái Lan (còn gọi là vịnh Xiêm) là một biển nửa kín, với diện tích khoảng
300.000 km2, giới hạn bởi bờ biển của bốn nước Thái Lan (1.560km), Việt Nam
(230km), Malaysia (150km) và Campuchia (460km). Vịnh thơng ra Biển Đơng ở phía
Nam bằng một cửa duy nhất hợp bởi mũi Cà Mau và mũi Trenggranu cách nhau chừng
400 km. Vịnh có chiều dài khoảng 450 hải lý nhưng có diện tích nhỏ, chiều rộng trung
bình là 385km.
Căn cứ vào các quy định của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm
1982, Thái Lan và Việt Nam là hai nước có bờ biển đối diện, cùng có quyền mở rộng
vùng biển của mình, do đó đã tạo ra một vùng chồng lấn rộng khoảng 6.074 km2.
Trong Vịnh, Thái Lan là nước đầu tiên đã thăm dị và khai thác dầu khí. Ngày
18/5/1973, Thái Lan đơn phương vạch ranh giới ngoài của thềm lục địa Thái Lan trong
Vịnh và công bố các tọa độ của con đường này.
Trong giai đoạn 1986 – 1997, hai nước đã có nhiều tranh chấp và tiến hành đàm

phán phân định biên giới trên biển.


- Tháng 10 năm 1991, trong lần gặp đầu tiên tại Bangkok Thái Lan của Uỷ ban
hỗn hợp Việt – Thái về hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật, hai bên đã thông qua
biên bản liên quan đến vấn đề phân định các vùng biển như sau
a) Hai bên cần hợp tác xác định ranh giới các vùng biển còn tranh chấp của
hai nước;
b) Hai bên cần cố gắng phân định biên giới biển trong khu vực chồng lấn
giữa hai nước;
c) Chỉ phân định ranh giới biển giữa hai nước, không bao gồm các vùng
chồng lấn của bất kì bên thứ ba nào khác.
- Từ năm 1992 đến năm 1996, hai nước đã tiến hành đàm phán cấp chuyên viên
về phân định biển.
- Ngày 09/8/1997, hai nước đã ký Hiệp định về phân định ranh giới trên biển
giữa hai nước. Hiệp định cơng nhận đảo Thổ Chu có 32,5% hiệu lực, do đó Việt Nam
được hưởng 32,5% diện tích vùng chồng lấn.Thực tế cho thấy, đường phân định vừa là
ranh giới thềm lục địa, vừa là ranh giới vùng đặc quyền kinh tế của cả hai nước. Chính
vì vậy, hai bên thừa nhận quyền tài phán, quyền chủ quyền của mỗi nước, đối với thềm
lục địa và vùng đặc quyền kinh tế theo ranh giới năm 1997.
Hiệp định ngày 9/8/1997 đã mở ra một trang mới không chỉ trong lịch sử quan
hệ giữa Việt Nam – Thái Lan mà cả trong lịch sử phân định vịnh Thái Lan. Hiệp định
bao gồm những điểm nổi bật sau:
-

Đây là hiệp định phân định biển đầu tiên đạt được trong vịnh
Thái Lan. cũng là hiệp định về phân định biển đầu tiên được ký
kết tại khu vực Đông Nam Á sau khi Công ước của Liên Hợp
quốc về Luật biển năm 1982 có hiệu lực, đồng thời cũng là hiệp
định về phân định toàn bộ các vùng biển đầu tiên trong khu vực.


-

Cùng với việc ký kết Hiệp định về phân định, hai Chính phủ cịn
đạt được thoả thuận về hợp tác bảo đảm an ninh trên biển và bảo
vệ nguồn tài nguyên sinh vật trong vịnh thông qua việc tổ chức
tuần tra chung giữa Hải quan Thái Lan và lực lượng Cảnh sát
biển Việt Nam; tổ chức tuyên truyền, giáo dục ngư dân hai nước
tôn trọng quy định về đánh cá và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh
vật.

-

Đối với Việt Nam, đây là Hiệp định phân định biển đầu tiên đạt
được với các nước láng giềng. Việt Nam là nước có số lượng các


tranh chấp biển liên quan nhiều nhất trong số các tranh chấp biển
của khu vực. Hiệp định ngày 26/7/1997 có tác động nhất định
thúc đẩy các cuộc đàm phán giải quyết tranh chấp biển giữa Việt
Nam với các nước hữu quan trên tinh thần khoản 7, Tuyên bố
của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày
12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa Việt Nam.
-

Giai đoạn 1997 – 2015, Việt Nam và Thái Lan đã triển khai kế hoạch tổ chức tuần tra
chung trên biển. Hai nước đã thiết lập kênh liên lạc cảnh báo vi phạm đồng thời triển
khai hợp tác tổ chức điều tra nguồn lợi biển giữa hai nước, bắt đầu từ năm 2002, hai
nước đã thực hiện tuần tra chung trên biển. Bên cạnh đó, hai nước đã thành lập Ủy ban

hỗn hợp Việt Nam – Thái Lan về thiết lập trật tự trên biển, Ủy ban này đã họp nhiều
vịng và có những đóng góp nhất định trong việc giữ gìn mơi trường hịa bình trên
biển. Đồng thời hai bên đã thỏa thuận phối hợp trong việc giáo dục ngư dân của hai
nước không được xâm phạm vùng biển của nhau để đánh bắt hải sản trái phép. Tuy
nhiên, trên thực tế trong quá trình khai thác nguồn lợi thủy sản, vẫn diễn ra tình trạng
vi phạm của ngư dân hai nước vượt qua đường ranh giới để tiến hành khai thác hải sản
trái phép.
3. Malaysia
3.1. Tranh chấp về thềm lục địa
Malaysia và Việt Nam là hai quốc gia Đơng Nam Á có biên giới biển tiếp giáp
nhau nằm tại nơi giao nhau giữa vịnh Thái Lan và Biển Đông. Khu vực này rộng
khoảng 2.800 km2, với độ sau nhỏ, trung bình khoảng 50m, địa hình đáy biển tương
đối bằng phẳng. Cả hai nước đều tham gia vào Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển
1982 (UNCLOS), cho nên nguyên tắc chung để giải quyết phân định thềm lục địa và
vùng đặc quyền kinh tế là nguyên tắc công bằng đã được ghi nhận trong các Điều 74
và Điều 83 của UNCLOS. Yêu cầu của thực tế diễn ra đó là hai bên phải tuần tự đàm
phán, thu hẹp những bất đồng, nhằm tìm ra giải pháp cơng bằng mà hai bên có thể
chấp nhận.
Trên cơ sở hai nước đều là thành viên của UNCLOS, cho nên cả Việt Nam và
Malaysia đều chấp nhận áp dụng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và những quy
định của UNCLOS để giải quyết phân định biển. Đầu năm 1992, trong chuyến thăm
Kuala Lumpur của Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt, một thoả thuận về tiến hành
đàm phán phân định thềm lục địa giữa hai nước đã được thơng qua. Tiếp sau đó, từ
ngày 03 – 05/6/1992, tại Kuala Lumpur, vòng đàm phán đầu tiên giữa hai nước Việt


Nam và Malaysia đã diễn ra và thành công tốt đẹp. Trên cơ sở nội dung của vòng đàm
phán đầu tiên đó, hai nước đã từng bước nhất trí thỏa thuận áp dụng nguyên tắc dàn
xếp tạm thời được quy định trong Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS, đó là ranh giới
được vạch ra và ghi rõ trên hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định vị trí của nó, có

trường hợp việc vẽ ranh giới ngồi hay các đường hoạch định này có thể được thay thế
bằng các bản kê các tọa độ địa lý các điểm. Trên cơ sở đó hai bên nhanh chóng đi đến
thỏa thuận áp dụng mơ hình khai thác chung cho vùng xác định trên tinh thần hiểu biết
và hợp tác.
Dựa trên tinh thần đó, ngày 05/6/1992, hai nước đã chính thức ký Bản ghi nhớ
“Thỏa thuận hợp tác khai thác chung thềm lục địa chồng lấn”. Nội dung của Bản ghi
nhớ ngày 05/6/1992, đã quy định phạm vi vùng xác định, và hai bên phải cử đại diện
của mình để tiến hành các hoạt động thăm dò và khai thác trong vùng xác định và sự
hợp tác khai thác đó không làm phương hại đến kết quả hoạch định phân định biển
cuối cùng giữa hai nước. Qua việc ký kết Bản ghi nhớ ngày 05/6/1992, có thể thấy
Việt Nam ln là nước đi đầu trong việc áp dụng các quy định của các Điều 74 và
Điều 83 của UNCLOS, không chỉ trong phân định biển mà cả trong các biện pháp khai
thác chung nguồn tài nguyên biển trong vùng biển có sự chồng lấn. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy, Bản ghi nhớ cũng không giải quyết triệt để được vấn đề phân định biển giữa
hai nước Việt Nam và Malaysia. Thực tế cho thấy, hai bên cần phải tiếp tục đàm phán
hịa bình và dựa trên nội dung của UNCLOS và Bản ghi nhớ để phân định thềm lục địa
và vùng đặc quyền kinh tế.
Để thực hiện nội dung của Bản ghi nhớ, Việt Nam đã cử Petro Vietnam,
Malaysia cử Petronas hợp tác khai thác nguồn dầu khí ở vùng xác định. Ngày
29/7/1997, tấn dầu đầu tiên đã được khai thác tại mỏ Bunga kekwa, sự kiện này đã
đánh dấu thành công lớn cho cả hai bên trong quản lý, hợp tác khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên cũng như đóng góp kinh nghiệm quý báu để giải quyết các tranh
chấp khác. Do khoảng cách giữa bờ biển và các đảo của hai bên chưa tới 400 hải lý,
nằm trên một thềm lục địa thuần nhất và hơn nữa yêu sách của hai bên đều dựa trên
đường trung tuyến, tức là dựa trên tiêu chuẩn khoảng cách bờ biển của hai quốc gia,
cho nên có thể sử dụng một đường phân định đơn nhất làm ranh giới cho cả vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước.
Việc chia đơi thuần t diện tích vùng chồng lấn trên biển hiện có giữa hai bên
là một giải pháp phân định công bằng dễ chấp nhận. Sau một thời gian dài đàm phán,
ngày 06/5/2009, Việt Nam và Malaysia đã phối hợp trình Báo cáo chung về khu vực

thềm lục địa kéo dài liên quan đến hai nước lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của


Liên hợp quốc. Sự kiện này đã thể hiện tinh thần hịa bình giải quyết quan điểm những
bất đồng mâu thuẫn về vùng biển chồng lấn giữa hai nước và còn được xem là một
mẫu mực trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa các nước láng
giềng trong khu vực Biển Đông. Hợp tác phân định biển giữa Việt Nam và Malaysia
đã đóng góp vào kinh nghiệm thực tiễn của thế giới và khu vực về giải quyết những
bất đồng và tranh chấp trên biển.
3.2. Tranh chấp về chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam và
Malaysia
Quan điểm của Việt Nam: Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo
Trường Sa dựa trên các luận cứ về hành động chiếm hữu thực tế, quản lý liên tục và
hịa bình dưới các triều đại phong kiến đối với địa danh Hoàng Sa (nghĩa bao hàm
Trường Sa) và sau này là sự nối tiếp của thực dân Pháp cùng các nhà nước hiện đại
trên lãnh thổ Việt Nam. Ngồi ra, Việt Nam cịn trưng ra các sử liệu về sự công
nhận của các giáo sĩ, nhà hàng hải từ các quốc gia châu Âu, các quốc gia trên thế giới
về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này.
Quan điểm của Malaysia: Malaysia dựa trên hai luận điểm là thềm lục địa và
khai phá sớm nhất để tuyên bố chủ quyền/đòi hỏi đặc quyền đối với một khu vực biển
Đơng ở phía nam Trường Sa, trong đó có 12 thực thể địa lý nổi bật là đảo An Bang, đá
Công Đo, đá Én Ca, đá Hoa Lau, đá Kỳ Vân, đá Sác Lốt, đá Suối Cát, đá Thuyền
Chài, bãi Kiêu Ngựa, bãi Thám Hiểm (thuộc Trường Sa) cùng rạn vòng Louisa và cụm
bãi cạn Luconia (Bắc và Nam) (không thuộc Trường Sa). Malaysia đã chiếm đóng 5
điểm trên quần đảo Hồng Sa. Tuy nhiên, Malaysia không đưa ra được luận thuyết nào
minh chứng cho hành động của họ là dựa vào gần kề địa lý hay danh nghĩa lịch sử.
4. Philipines
- Tranh chấp về chủ quyền trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa
Philippines vốn là nước khơng có chủ quyền đối với hai quần đảo Hồng Sa và
Trường Sa của Việt Nam. Bởi vì, Hiệp định Paris ký năm 1898 giữa Mỹ và Tây Ban

Nha đã xác định phạm vi lãnh thổ quần đảo Philippines trên bản đồ kèm theo thì lãnh
thổ của Philippines không bao gồm một đảo nào nằm trong quần đảo Trường Sa. Bên
cạnh đó, trong suốt thời kỳ là thuộc địa của Tây Ban Nha và sau đó là Mỹ (từ thế kỷ
XVI đến năm 1946), chính quyền cai trị ở Philippines chưa bao giờ tuyên bố quần đảo
Trường Sa hay bất cứ bộ phận nào của quần đảo này thuộc chủ quyền của Philippines.
Tại Hội nghị San Francisco ngày 7 tháng 9 năm 1951, phái đoàn Philippines do Bộ
trưởng Ngoại giao Carlos Romulo đứng đầu đã khơng có phản ứng gì khi Thủ tướng
kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Hữu khẳng định hai quần


đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Cơ sở chiếm hữu của
Philippines đối với một phần của quần đảo Trường Sa mới chỉ thực sự bắt đầu với sự
kiện Tomas A. Cloma cùng 40 người khác đổ bộ lên một vài đảo nhỏ ở Trường Sa,
cắm cờ và đặt tên cho cho khu vực được họ chiếm đóng là Freedomland.
Giai đoạn 1970 – 1995: Năm 1971, tình hình khu vực có nhiều diễn biến phức
tạp khi Philippines đã bắt đầu bộc lộ âm mưu về việc chiếm đóng một cách hình thức
một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Ngày 10/7/1971, Tổng thống
Ferdinand Marcos chính thức tuyên bố chủ quyền đối với một phần của quần đảo
(Trường Sa). Tuyên bố của Tổng thống Marcos nhấn mạnh thêm rằng chính phủ
Philippines đã thực sự “chiếm đóng và kiểm sốt thực tế” đối với các đảo này, trong đó
bao gồm các đảo được cho là đã được nước này đã chiếm đóng vào năm 1968 như đảo
Thị Tứ (Pagasa - Thitu Island), đảo Vĩnh Viễn (Lawak - Nanshan Island) và đảo Bình
Nguyên (Patag - Flat Island).
Thực tế lịch sử cho thấy, trong lúc Việt Nam đang tập trung nhiệm vụ giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước, lợi dụng tình hình đó từ năm 1971 đến năm
1973 Philippines đã đưa quân chiếm trái phép năm đảo ở phía Bắc và phía Đơng Bắc
của quần đảo Trường Sa là: Vĩnh Viễn, Bình Nguyên, Loại Ta, Thị Tứ và Song Tử
Đông.
Tiến thêm một bước trong các nỗ lực tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo
Trường Sa, ngày 11 tháng 6 năm 1978, Tổng thống Ferdinand Marcos đã ký “Sắc lệnh

Tổng thống số 1596 - Tuyên bố một phần khu vực thực tế của lãnh thổ Philippines và
hình thành chính quyền và hành chính”. Sắc lệnh xác định rõ tọa độ của “Nhóm đảo
Kalayaan” ( là đơn vị hành chính của Philippines thiết lập tại một khu vực của quần
đảo Trường Sa) và khẳng định chúng có vai trò sống còn đối với an ninh và kinh tế của
Philippines.
Cho đến tháng 02/1979, Philippines đã chính thức đưa ra yêu sách chủ quyền
đối với nhóm đảo Kalayaan. Để củng cố yêu sách chủ quyền của mình, Philippines đã
tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên ở Kalayaan vào ngày 30 tháng 1 năm 1980.
Ngày 07/11/1995, hai Bộ Ngoại giao Việt Nam và Philippines đã bắt đầu tiến
hành đàm phán để giảm bớt tình trạng căng thẳng giữa hai nước. Kết quả đàm phán đã
đạt được thỏa thuận về 9 nguyên tắc ứng xử cơ bản đối với vùng biển đảo có tranh
chấp trong khu vực Biển Đơng. Những nội dung nêu trên, là cơ sở để hai bên tiếp tục
đàm phán và duy trì hịa bình trên vùng biển giáp ranh giữa hai nước.


Giai đoạn 1995 – 2007: Trên cơ sở đàm phán hịa bình Việt Nam và Philippines
đã tiến hành thực hiện bốn cuộc khảo sát và nghiên cứu khoa học chung về biển. Đây
là một hình mẫu về hợp tác nghiên cứu khoa học chung về biển đang được đề nghị mở
rộng thành phần và nâng lên thành một thiết chế thường xuyên. Tuy nhiên, do tình
hình phức tạp của khu vực Biển Đông, quan điểm chủ quyền về biển đảo giữa hai
nước cịn có những khác biệt nên từ năm 2008, Việt Nam và Philippines đã khơng thực
hiện chương trình nghiên cứu khoa học chung về biển, song hai nước vẫn cam kết duy
trì sự hồ bình và ổn định trong khu vực Biển Đơng.
Ngày 10/3/ 2009, chính phủ Philippines ban hành Đạo luật số 9522 – Đạo luật
sửa đổi các điều khoản của Đạo luật 3046, như đã được sửa đổi bởi Đạo luật 5446,
nhằm xác định đường cơ sở quần đảo của Philippines và nhằm các mục đích khác. Đạo
luật này đặt Kalayaan dưới “Chế độ quần đảo” theo Điều 121 của Công ước Liên hợp
quốc về luật biển (UNCLOS) như một bước đi nhằm nâng cấp vai trị hành chính của
Kalayaan để Philippines có cơ sở khẳng định chủ quyền khơng chỉ trong khu vực
Kalayaan mà cịn các khu vực khác ở quần đảo Trường Sa.

Tóm lại, từ năm 1995 đến năm 2015, hai bên đã thể hiện được quan điểm hịa
bình giải quyết các bất đồng về chủ quyền trên biển liên quan đến hai nước. Hai nước
Việt Nam và Philippines đã có những thỏa thuận ở các cấp Bộ trưởng Ngoại giao, cấp
Thủ tướng Chính phủ, cấp Tổng thống và Chủ tịch nước. Những thỏa thuận đó, đã góp
phần giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa hai nước bằng biện pháp hịa bình,
trên tinh thần hữu nghị, tin cậy lẫn nhau.
Ngày 11/10/2018 thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và tổng thống
Philippines Rodrigo Duterte đã có một cuộc tiếp xúc song phương. Nổi bật trong các
nội dung thảo luận là vấn đề phân định ranh giới trên biển giữa hai nước. Tuy nhiên, cả
hai nước đều đòi chủ quyền trên vùng quần đảo Trường Sa ở Biển Đơng, nơi
Philippines vẫn kiểm sốt một số thực thể mà Việt Nam đòi chủ quyền, chẳng hạn như
đảo Thị Tứ mà Philippines gọi là Pagasa đồng thời vấp phải đòi hỏi chủ quyền rộng
khắp của Trung Quốc, tự nhận họ là chủ của gần như toàn bộ Biển Đơng, cho nên q
trình đàm phán phân định biển giữa Việt Nam và Philippines vẫn còn gặp nhiều khó
khăn. Trên thực tế, hiện nay, nhiều nguồn tin cho rằng Philippines đang chiếm 8 đảo,
đảo thấp hoặc bãi đá trong quần đảo Trường Sa là: 1. Kota hay Loaita Island (Việt
Nam gọi là đảo Loại Ta); 2. Lawak hay Nansham Island (đảo Vĩnh Viễn); 3. Likas hay
West York Island (đảo Bến Lạc, đảo Dừa); 4. Panata hay Lamkiam Cay (Cồn San hô
Lan Can/cồn An Nhơn); 5. Pag-asa hay Thitu Island (đảo Thị Tứ); 6. Parola hay North
East Cay (đảo Song Tử Đơng); 7.Patag hay Flat (đảo Bình Ngun); và 8. Rizal hay


Commodore Reef (đá Cơng Đo).Ngồi ra, Philippines dù khơng có hiện diện quân sự
nhưng vẫn đang kiểm soát một số bãi đá ngầm và bãi cát ngầm ở quần đảo Trường Sa.
Mặc dù vậy, hai bên vẫn cam kết giải quyết những bất đồng mâu thuẫn bằng
biện pháp hịa bình, thông qua đàm phán, dựa trên những nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế, luật biển quốc tế, nhất là những quy định của UNCLOS.


KẾT LUẬN

Xây dựng biên giới hồ bình, hữu nghị, ổn định là vấn đề đặc biệt quan trọng của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà
nước ta. Quan điểm này phù hợp với lợi ích và luật pháp của Việt Nam, phù hợp với
công ước và luật pháp quốc tế, cũng như lợi ích của các quốc gia có liên quan. Đảng và
Nhà nước ta coi việc giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã
hội, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích
cao nhất của đất nước.
Trong giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ, biên giới, Đảng và Nhà nước ta
luôn nhất quán thực hiện quan điểm giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hồ
bình, tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau.
Về những vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên bộ, trên biển do lịch sử để
lại hoặc mới nẩy sinh, Đảng và Nhà nước ta khẳng định: “Việt Nam ln sẵn sàng
thương lượng hồ bình để giải quyết một cách có lí, có tình”. Việt Nam ủng hộ việc
giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng trong khu vực thơng qua đối thoại, thương lượng
hồ bình, khơng sử dụng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực. Nhưng Việt Nam cũng
sẵn sàng tự vệ chống lại mọi hành động xâm phạm lãnh thổ đất liền, vùng trời, vùng
biển và lợi ích quốc gia của Việt Nam.
Về vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, quan điểm nhất quán của Việt
Nam là: Việt Nam khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với vùng biển, đảo
của Việt Nam trên Biển Đơng, trong đó có hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa. Việt
Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lí về vấn đề này. Tuy nhiên, vì lợi ích
an ninh chung của các bên hữu quan, Việt Nam sẵn sàng đàm phán hồ bình để giải
quyết, trước mắt là đạt tới sự thoả thuận về “Bộ quy tắc ứng xử” trong khi tiếp tục tìm
kiếm giải pháp lâu dài cho vấn đề Biển Đông.
Việc thành lập cộng đồng các nước Đơng Nam Á – ASEAN đáng lẽ đã có thể
đảm bảo cho việc giải quyết một cách có hiệu quả các tranh chấp giữa các nước thành
viên với nhau hoặc giữa các nước thành viên với các nước khác, đặc biệt là các tranh
chấp liên quan đến biên giới giữa các quốc gia. Tuy nhiên, kể từ khi được thành lập
đến nay, ASEAN vẫn chưa phát huy được vai trò của mình trong việc giải quyết các
tranh chấp đã và đang tồn tại. Vì vậy, nếu xảy ra tranh chấp trong khu vực nói riêng và

trên thế giới nói chung, chúng ta có thể nhờ đến Tịa án Cơng lý Quốc tế (ICJ) như một
biện pháp khác để giải quyết các vấn đề gây xung đột lợi ích giữa các nước.


×