Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận môn tài chính quốc tế Khủng hoảng Đông Nam Á năm 1997

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.56 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG
TP HỒ CHÍ MINH

Đề tài: Khủng hoảng Đông Nam Á năm 1997
Danh sách thành viên nhóm 6
1. Nguyễn Tiến Cường
2. Nguyễn Nghĩa Đăng
3. Bùi Thị Ngọc Hiền
4. Trần Thị Thanh Lam
5. Trần Thị Ngọc Lý
6. Huỳnh Diễm My
7. Tống Hoàng Nguyên
8. Đỗ Hoàng Phượng
9. Phan Hoàng Sang
10.Nguyễn Thị Thơm
11.Nguyễn Huỳnh Anh Thư
12.Nguyễn Thị Minh Trúc
GVHD:PGS.TS.Lê Phan Thị Diệu Thảo
TP. Chí Minh, ngày 3 tháng 4 năm 2013
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG 1
LỜI MỞ ĐẦU 4
NỘI DUNG 5
1. QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 5
1.1. Khái niệm về khủng hoảng tài chính 5
1.2. Phân loại khủng hoảng tài chính 5
1.2.1. Khủng hoảng ngân hàng: 5
1.2.2. Khủng hoảng trên thị trường tài chính: 6
1.2.3. Khủng hoảng tài chính thế giới 6
1.2.4. Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn kinh tế 6
2. TỔNG QUAN VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐÔNG NAM Á 6


2.1. Thực trạng cuộc khủng hoảng 6
2.1.1. GDP tăng cao liên tục, xuất khẩu phát triển 6
2.1.2. Dấu hiệu trượt dốc của nền kinh tế 8
2.1.3. Nợ nước ngoài ngày càng tăng cao 8
2.1.4. Tình hình châu Á năm 1997 9
2.1.5. Diễn biến 11
2.1.5.1. Tại Thái Lan 11
2.1.5.1. Malaysia 13
2.1.5.2. Philippines 13
2.2. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng 14
2.2.1. Những nguyên nhân chủ quan 14
2.2.2. Những nguyên nhân khách quan 16
3. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ ĐÔNG NAM Á 18
3.1. Tác động tích cực của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ Đông Nam Á 18
3.2. Tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ Đông Nam Á 19
3.3. Kinh tế Việt Nam với khủng hoảng 21
2
3.3.1. Những ảnh hưởng đến Việt Nam 22
3.4. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á 25
4. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THOÁT KHỎI CUỘC KHỦNG HOẢNG 26
4.1. Ở cấp độ quốc tế: 27
4.2. Ở cấp độ khu vực: 27
4.3. Ở cấp độ quốc gia: 31
LỜI KẾT 33
3
LỜI MỞ ĐẦU
Bên cạnh những nền kinh tế lớn, có tên tuổi như: khối cộng đồng chung Châu
Âu (EEC), khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Nhật Bản…. Đông Nam Á nổi
lên với tư cách là một nền kinh tế đầy triển vọng. Trong vài thập kỷ gần đây, Đông
Nam Á đã có những bước đi dài, đó thực sự là những thành tựu đáng ghi nhận đối với

những quốc gia đang phát triển này. Song sự phát triển thần kỳ ấy không được bao lâu
khi chứng kiến một sự thay đổi nguy hiểm của những con rồng Châu Á, mà Thái Lan
là nước châm ngòi đầu tiên và nổ ra vào ngày 2/7/1997 làm thiệt hại cho Châu lục hàng
trăm tỷ USD.
Hơn thế, do tính chất toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế các nước ngày càng
sâu sắc, nên cuộc khủng hoảng đã vượt ra khỏi phạm vi một nước, lan nhanh sang các
nước khác và ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế thế giới.
Vậy đằng sau cuộc khủng hoảng đó là gì? Ảnh hưởng của nó như thế nào đến
nền kinh tế khu vực và thế giới? Bài tiểu luận của nhóm sẽ giúp các bạn hiểu thêm về
cuộc khủng hoảng này.
Bài tiểu luận gồm 4 phần:
1. Quan điểm chung về khủng hoảng tài chính tiền tệ.
2. Tổng quan về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á.
3. Tác động của cuộc khủng hoảng tới khu vực, thế giới và Việt Nam.
4 .Các giải pháp để thoát khỏi khủng hoảng.
Mong là những thông tin mà nhóm cung cấp sẽ giúp cho các bạn có thêm nhiều
kiến thức bổ ích vầ tình hình kinh tế của Đông Nam Á 1997.Trong quá trình tìm hiểu,
không tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được sự góp ý của cô và các bạn.
Tập thể nhóm xin chân thành cảm ơn!.
4
NỘI DUNG
1. QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
1.1. Khái niệm về khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng nói chung và khủng hoảng tài chính nói riêng không phải là vấn
đề mới trong kinh tế học mà đã được nhiều chuyên gia nghiên cứu vì vậy có nhiều khái
niệm cũng như các giả thuyết, lí thuyết về khủng hoảng tài chính đã và đang được
khám phá.
Theo Concise Oxford Dictionary, 2006. Khủng hoảng tài chính là khủng hoảng
trong lĩnh vực tài chính và thị trường tài chính.
Theo nhà kinh tế học người Mĩ Federic Mishkin, khủng hoảng tài chính là sự đổ

vỡ thị trường tài chính làm cho thị trường không có khả năng định hướng một cách
hiệu quả các quỹ đến những người có cơ hội đầu tư hiệu quả nhất.
Nói tóm lại: Khủng hoảng tài chính là sự mất khả năng thanh khoản của các tập
đoàn tài chính lớn do những lựa chọn bất lợi và tâm lí hoang mang dẫn tới sự sụp đổ
và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính.
1.2. Phân loại khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính có nhiều loại, song có các loại hình chính sau đây:
1.2.1. Khủng hoảng ngân hàng:
Như ta đã biết, ngân hàng là một hệ thống mở: vừa là người đi vay vừa là người
cho vay, và do hầu hết các ngân hàng đều cho vay phần lớn khoản tiền gửi mà nó nhận
được. Nên khi xảy ra tình trạng rút vốn đột ngột ngân hàng không thể ngay lập tức
hoàn trả lại cho khách hàng, tình trạng này càng làm cho khách hàng rút tiền ồ ạt hơn.
Và kết quả là sự tháo chạy về tiền gửi đã đặt ngân hàng vào tình trạng phá sản. Tình
huống mà sự tháo chạy ngân hàng lan rộng tạo nên khủng hoảng ngân hàng mang tính
hệ thống.
5
1.2.2. Khủng hoảng trên thị trường tài chính:
a). Do chính sách nhà nước: khi thâm hụt ngân sách, Nhà nước phát hành tiền
để trang trải gây ảnh hưởng đến tỷ giá cố định, người dân sẽ mất lòng tin vào nội tệ và
chuyển sang sử dụng ngoại tệ, khi đó dự trữ dự trữ ngoại tệ của nhà nước sẽ cạn dần và
làm tỷ giá tăng lên.
b). Do sự tồn tại của các bong bóng đầu cơ: khi hầu hết những người tham gia
thị trường đều đổ xô mua một loại hàng hóa nào đó trên thị trường tài chính nhưng
không dùng để đầu tư mà dùng để tích trữ với hy vọng sẽ bán ra với giá cao hơn nhằm
thu lợi trong tương lai, hành động này xảy ra theo xu hướng chung của thị trường hay
nói cách khác là “tâm lí bầy đàn”, nên đã làm cho giá hàng hóa tăng cao hơn so với giá
trị thực của nó, kéo theo nguy cơ đổ vỡ trên thị trường tài chính.
1.2.3. Khủng hoảng tài chính thế giới
Khi một quốc gia đang duy trì tỷ giá cố định thì buộc phải phá giá tiền tệ do bị
tấn công đầu cơ, đây được gọi là khủng hoảng tiền tệ hay khủng hoảng cán cân thanh

toán. Hay Chính Phủ của một quốc gia thất bại trong việc hoàn trả các khoản nợ quốc
gia được gọi là vỡ nợ quốc gia.
1.2.4. Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn kinh tế
Do các kế hoạch đầu tư không đúng đắn, không thu hồi được vốn đầu tư dẫn tới
việc không thanh khoản được các khoản vay và phá sản.
Do bị hiệu ứng dây chuyền từ cuộc khủng hoảng chung dẫn đến không vay được
vốn để đầu tư hay không thu hồi được vốn đầu tư.
2. TỔNG QUAN VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐÔNG NAM
Á
2.1. Thực trạng cuộc khủng hoảng.
2.1.1. GDP tăng cao liên tục, xuất khẩu phát triển.
Giới Khoa học – Chính trị ở nhiều nước đã từng cho rằng tốc độ phát triển kinh
tế từ 7%-9% một năm và kéo dài liên tục của một số nước: Trung Quốc, Malaysia,
Indonexia, Malaysia, Hàn Quốc là sự phát triển thần kì của châu Á. Từ năm 1961, Thái
6
Lan bắt đầu thời kì công nghiệp hóa đất nước, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong
một thời gian dài.
Bảng 1: Tỷ lệ tăng trưởng GDP của Thái Lan từ thập niên 60 đến thập niên 80.
Thập niên
% tăng trưởng
GDP/năm
60 8
70 7
80 8
Thu nhập bình quân đầu người tăng gần 7 lần: từ 440 USD (1955) lên 3012
USD (1996). Nông nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng giảm: 39% năm 1961 còn 10,4%
năm 1996, thay vào đó là sự gia tăng tỷ trọng trong khối ngành xuất - nhập khẩu công
nghiệp, dịch vụ.
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng sản xuất bình quân một năm của Thái Lan qua các
năm

Giai đoạn Tốc độ tăng trưởng
1986-1990 28%
1992-1993 13%
1994-1995 20%
1996 3,4% so với năm 1995
Giá trị xuất khẩu theo đầu người tăng gần gấp đôi chỉ trong một thời gian ngắn:
từ 630 USD năm 1991 lên 1117 USD năm 1996. Qua các yếu tố trên cho thấy được tốc
độ tăng trưởng của Thái Lan khá cao, vì được duy trì trong một thời gian liên tục và
kéo dài nên đã tạo tâm lý tin tưởng cho các nhà đầu tư, thể hiện đây là nền tảng vững
mạnh của nền kinh tế Thái Lan.
7
Nhưng GDP chỉ thể hiện một phần hiện thực của Thái Lan. Nó chỉ cho ta thấy
sự tăng trưởng của đầu ra, trong khi đó một yếu tố khác cũng không kém phần quan
trọng đó là nguồn đầu tư, đầu tư thực sự có hiệu quả khi đầu tư cao nhưng chi phí thấp.
Trong những năm từ 1991 đến 1996 đầu tư hằng năm vào Thái Lan chiếm 40% GDP,
nhưng chưa thật sự có hiệu quả, theo như hệ số ICOR của nền kinh tế Thái lan là 5,22
có nghĩa là đầu tư 5,22 Baht thì GDP mới tăng 1 Baht.
2.1.2. Dấu hiệu trượt dốc của nền kinh tế
Nền kinh tế phát triển mạnh trong nhiều năm liền cộng thêm lãi suất cao so với
nước ngoài ((16,3%) trong khi Mỹ là (7,6%)), tỷ giá hối đoái gần như cố định đã tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, đặc biệt là đầu tư tài
chính, cho vay ngắn hạn, tín dụng thương mại… Và đây cũng chính là lý do thúc đẩy
các doanh nghiệp vay nợ từ nước ngoài (họ sẽ được lợi gấp đôi so với vay trong nước).
Đặc biệt trong giai đoạn này, đầu tư trực tiếp chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với đầu tư gián
tiếp, cụ thể là: trong giai đoạn 1991 đầu tư trực tiếp chiếm 10,36% ( 8,8 tỷ USD), đầu
tư gián tiếp 19,3% (16,4 tỷ USD), tín dụng ngắn hạn chiếm 70,4% (60,045 tỷ USD).
Việc đầu tư ngắn hạn chiếm tỷ trọng khá cao trong nguồn vốn nước ngoài đã gây sức
ép cho các doanh nghiệp sản xuất khi phải trả nợ thường xuyên và bằng ngoại tệ (đối
với tín dụng ngắn hạn), hơn thế là tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng cao khi các nhà đầu tư
đồng loạt rút vốn. Trong khi đó ROA (tỷ suất lợi nhuận ròng trên tài sản) của các doanh

nghiệp giảm khá mạnh (từ 8% năm 1991 xuống còn 1% năm 1996), và lãi suất cho vay
là 16,3%. Đứng trước tình hình đó, các ngân hàng cũng như tổ chức tín dụng tích cực
đi vay nợ nước ngoài để tài trợ cho doanh nghiệp trong nước, đến giai đoạn này tổng
nợ nước ngoài đã vượt 523% tổng tài sản mà hệ thống ngân hàng có.
2.1.3. Nợ nước ngoài ngày càng tăng cao.
Trong thời gian này (1991-1996), đồng Baht bị đánh giá là cao hơn so với đồng
USD. Xuất khẩu bị kìm hãm, thay vào đó là nhập khẩu tăng cao, cán cân thương mại
liên tục thâm hụt (36,26 tỷ USD). Để bù đắp thâm hụt thương mại và có tiền đầu tư,
Chính Phủ tăng cường vay nợ làm cho nợ nước ngoài tăng liên tục 35,99 tỷ USD (năm
8
1991) lên 81 tỷ (năm 1996) gần gấp 2 lần chỉ trong 5 năm.
Từ những biểu hiện trên cho thấy Thái Lan đang mất dần khả năng thanh toán ,
khủng hoảng có dấu hiệu bùng nổ từ năm 1996.
2.1.4. Tình hình châu Á năm 1997
Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á bắt nguồn từ Thái Lan vào tháng 7/1997 rồi
liên tục ảnh hưởng đến các thị trường tài chính của vài nước châu Á.
Ngay khi đồng Baht tuyên bố thả nổi, nó đã mất giá 20%. Đến tháng 1/1998 tỷ giá hối
đoái đạt mức 53 Baht/USD.
Ngày 11/7/1997, Philippines tuyên bố thả nổi đồng Peso.
Ngày 11/8/1997, Malaysia tuyên bố không can thiệp vào thị trường hối đoái (thực chất
là thả nổi đồng Ringgit).
Ngày 14/8/1997, Indonesia tuyên bố thả nổi đồng Rupiah.
Năm 1996, tỷ giá bình quân đồng Won của Hàn Quốc là 884.2 Won/USD thì ngày
30.9.1997 là 914.8 Won/USD, ngày 14.12.1997 đồng Won được thả nổi.
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc
khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia,Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt
giá bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị
ảnh hưởng. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền
kinh tế Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.
Biểu đồ: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa chính thức (nội tệ/USD)


Thái Lan (Baht) Indonesia (Rupiah) Hàn Quốc (Won)
Malaysia (Ringgit) Philippines (Peso) Singapore (S-dollar)
9

Chỉ số tỷ giá hối đoái với USD
Dòng vốn ngắn hạn đã chảy vào các nước Đông Á, giờ ồ ạt chảy ra. Các nhà
đầu tư đều muốn chuyển vốn ra. Ngân hàng đòi lại vốn cho vay, từ chối đảo nợ và
ngưng cho vay mới.
Các nhà đầu tư chứng khoán thì bán chứng khoán, đổi ra ngoại tệ và chuyển ra
ngoài. Riêng trong năm 1997, hơn 20 tỷ USD ròng được đưa ra khỏi 5 nước Đông Á
chịu khủng hoảng, trong khi trong năm 1996 vẫn còn nhận được gần 66 tỷ USD.
Thị trường bất động sản tại Thái Lan, Malaysia, Indonesia sụp đổ.
10

(Nguồn: Marcus Miller và Pongsak Luangaram (1998))
Hình 8: Chỉ số giá cao ốc văn phòng tại Thái Lan và Indonesia
Mặc dù được gọi là cuộc khủng hoảng "Đông Nam Á" bởi vì nó bắt nguồn từ
Đông Nam Á, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng
hoảng tài chính trên khắp thế giới với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước
như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.
2.1.5. Diễn biến
2.1.5.1. Tại Thái Lan
Từ năm 1980-1990: Thái Lan nổi lên như một nền kinh tế năng động nhất Châu
Á. Từ 1985 đến 1995, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan đạt 9% hàng năm, mức
độ lạm phát trung bình hàng năm 5% (so sánh trong cùng thời kỳ kinh tế Mỹ tăng
trưởng 1,3% và lạm phát 3,2%). Tăng trưởng kinh tế rất nóng do sự bùng nổ đầu tư vào
kinh doanh nhà xưởng, bất động sản, cơ sở hạ tầng, du lịch.
Nhu cầu về bất động sản tăng rất nhanh tại Bangkok, văn phòng làm việc và các
tòa nhà chọc trời mọc lên khắp nơi trên thành phố.Các tổ chức tài chính tiếp tục cho

các công ty kinh doanh bất động sản vay vốn vì giá bất động sản liên tục tăng.
Đầu 1997:Sự bùng nổ về xây dựng nhà ở và văn phòng kinh doanh đã lên tới
đỉnh điểm khi lượng cung vượt quá cầu. Ước tính 365.000 căn hộ bỏ trống ở Bangkok
vào cuối năm 1996, cùng với 100.000 căn hộ khác sẽ được đưa vào sử dụng năm 1997
đã làm cho cung vượt xa cầu trên thị trường bất động sản. Bùng nổ đầu tư của Thái Lan
vào cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp, khu thương mại…làm tăng lượng hàng nhập khẩu
với tỷ lệ cao chưa từng thấy. Để xây dựng Thái Lan phải nhập các thiết bị đắc tiền,vật
liệu từ Mỹ, châu Âu, Nhật. Kết quả tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán thâm
hụt mạnh trong suốt giữa những năm 90. Trong giai đoạn này xuất khẩu tăng nhưng
nhập khẩu càng tăng nhanh hơn . Trong năm 1995 thâm hụt cán cân thanh toán là 8,1%
so với GDP.
11
Ngày 2/7/1997,cơ quan tiền tệ Thái Lan tuyên bố họ không có khả năng giữ giá
đồng Baht theo đồng Đôla Mỹ nữa. Thông báo này tương đương với việc Thái Lan
chủ trương phá giá đồng Baht trong suốt 13 năm. Thực ra, không bỗng dưng mà Thái
lan lại phá giá đồng bản tệ của mình để cho nền kinh tế lâm vào tình trạng khó khăn
nghiêm trọng. Từ giữa năm 1996, tỉ giá giữa đồng Baht và Đôla Mỹ không ngừng tăng
lên, đến tháng 5/1997, các ngân hàng trung ương trong khu vực đã dùng mọi lỗ lực để
cố giữ giá đồng Baht nhưng do khoản thâm hụt ngoại tệ quá lớn (15 tỷ USD) nên số
phận đồng Baht bị thả nổi là không thể tránh khỏi. Ngay trong ngày Thái Lan tuyên bố
phá giá, đồng Baht ngay lập tức giảm giá 16% và trong khoảng thời gian tiếp theo vẫn
bị giảm giá liên tục. Sau một tháng đồng Baht mất giá hơn 30% so với ngày 2/7/1997
và cùng với nó thì chỉ số thị trường chính khoán Bangkok cũng mất giá trị tương
đương.
Ngày 14/5 -15/5 năm 1997, đồng Baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn.
Ngày 30/ 6/1997, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không
phá giá Baht, song rốt cục lại thả nổi Baht vào ngày 2/7/1997. Do vậy đồng Baht ngay
lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 60 Baht = 1
USD. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995
xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5

tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD.
Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản.
Ngày 11/8/1998, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ Dollar
Mỹ cho Thái Lan.
Ngày 20/8/1998, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ Dollar.
2.1.5.2. Indonesia- hiệu ứng lan truyền của cuộc khủng hoảng.
Ngày 21/7/1997 đồng Rupia đã bị mất giá 6,87% từ 2475 Rupia/1 Dollar xuống
còn 2645 Rupia/1 Dollar. Những ngày tiếp theo, đồng Rupia được phục hồi nhưng dao
động ở mức thấp từ 2585 đến 2614 Rupia/1 Dollar. Từ tuần đầu tháng 8/1997, đồng
Rupia lại lâm vào tình trạng chao đảo mới. Chỉ trong hai ngày liên tiếp 20 và
21/8/1997 đồng Rupia đã giảm từ 2652 đến 2800 Rupia /1 Dollar, giảm 5,5 %. Trong
ngày 7/1, đồng Rupia đã tụt giá xuống mức thấp kỷ lục với 8400 Rupia /1 Dollar.
Ngày 14/8/1997 Inđônêxia tuyên bố thả nổi đồng Rupiah.
IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ
Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu
Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng
khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc
12
biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình
đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội
tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài khóa thắt chặt theo yêu cầu của IMF
khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng
lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có
tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn
tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1.
Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của

Indonesia đã giảm đi.
2.1.5.1. Malaysia
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (2/7/1997), đồng Ringgit của
Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh.
Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần
lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường
tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng
Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sự giảm giá của đồng
Ringgit trong tương lai.
Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn
chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào Quí II và III
năm 1997.
2.1.5.2. Philippines
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3/7/1997, Ngân hàng trung
ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng Peso
bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn ( lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Tuy
nhiên đồng Peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 Peso/USD xuống còn 38 Peso/USD
vào năm 2000 và còn 40 Peso/USD vào cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan
tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm
2001, chỉ số tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn
khoàng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi 1997, kéo theo việc đồng Peso
mất giá. Giá trị đồng Peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm
13
tổng thống.
2.2. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng
2.2.1. Những nguyên nhân chủ quan
Thâm hụt tài khoản vãng lai (THTKVL), nền kinh tế phát triển mất cân đối, nền
tảng kinh tế vĩ mô yếu kém.
Xét về mức độ, tuy có khác nhau nhưng nhìn chung kinh tế Thái Lan và một số

nước Đông Nam Á, tăng trưởng nóng tạo nên tốc độ
phát triển kinh tế cao trung bình từ 7,5-8% trong những
năm qua đã ngấm ngầm báo hiệu những sự mất cân đối
dẫn đến khủng hoảng tài chính.
Trước hết, thể hiện sự mất cân đối bên trong đó
là mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng quá nhanh tạo
nên sức ép đối với giá cả do chi phí sản xuất kinh
doanh ngày một tăng. Đối với Thái Lan chỉ số giá tiêu
dùng tăng nhanh, đạt mức 5,6% năm 1996 so với 3,4%
năm 1993. Chính phủ vì thế phải tăng mức lương tối
thiểu, trung bình 8,5%/năm, trong khi đố năng suất lao
động chỉ tăng trung bình 3%. Đặc điểm này diễn ra
tương tự như ở Malaysia, Indonesia và Philippines.
Mặt khác các nước phải tăng vốn vay từ bên ngoài để bù đắp cho việc thiếu hụt trong
nước nhằm đẩy nhanh tốc độ hiện đại hóa sản xuất, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng.
Bên cạnh đó, trừ Indonesia phần nào dựa vào nguồn dầu mỏ xuất khẩu, còn Thái
Lan, Malaysia rơi vào tình trạng THTKVL ở mức báo động. Theo phân tích của IMF,
nếu thâm hụt trên mức 5% so với GDP sẽ đẩy nước này vào tình trạng khủng hoảng.
THTKVL còn có nghĩa là kinh tế Đông Nam Á đã mất cân đối nghiêm trọng đối với
bên ngoài. Từ năm 1995 trở lại đây, THTKVL ở Thái Lan là 8,1% GDP năm 1995 và
8,2% GDP năm1996. Tương tự, ở Malaysia là 9,7% GDP năm 1996. Đây là mức độ
thâm hụt bằng với mức mà Mexico gặp phải khi bùng nổ khủng hoảng 1994. Trong khi
đó thâm hụt ở Indonesia là 4% và Philippin là 3,2% GDP năm 1996.
Các nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng thâm hụt đó là:
+ Do kim ngạch xuất khẩu của các nước từ năm 1995 đến nay giảm mạnh.
+ Do THTKVL và thâm hụt cán cân thanh toán ngày càng nghiêm trọng đã buộc
các nước trong khu vực phải vay nóng từ các khoản vay ngắn hạn của nước ngoài
để bù đắp cho những khoản chi tiêu trong nước.
+ Các dòng vốn nước ngoài kéo vào.
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản

cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nên cao quá mức. Các
nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài
sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu
14
Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn
ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước
châu Á.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính
phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bất chấp mạo
hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bất chấp mạo hiểm để đi vay nước
ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng
thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức.)
- Tỷ giá hối đoái dồn nén một cách miễn cưỡng.
Nếu vấn đề nêu trên là những nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng thì các
chính sách “neo giá” giữa các đồng tiền khu vực với đồng USD, tạo nên một hệ thống
tỷ giá khiên cưỡng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc phá giá hàng loạt các đồng tiền
khu vực. Mặc dù khởi phát từ việc thả nổi đồng Baht Thái Lan dẫn đến hiệu ứng lan
tỏa sang các đồng Peso, Ringgit và Rupiah, nhưng trong thực tế trong chừng mực nào
đó, các đồng nội tệ này đã bị giảm giá trước xu hướng ngày càng tăng của đồng USD.
Xét về phương diện lý thuyết, chế độ tỷ giá hối đoái cố định theo hệ thống
Bretton Woods, có ý nghĩa tích cực trong việc ổn định hóa đồng tiền nội tệ và hỗ trợ
cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu lạm dụng quá nhiều vào tỷ giá cố
định trong điều kiện đồng nội tệ trên thực tế bị giảm giá so với đồng tiền mạnh khác
cũng như cơ cấu kinh tế mất cân đối lớn dẫn đến nguy cơ khủng hoảng. Đáng lẽ ngay
từ năm 1996, khi những triệu chứng thâm hụt tài khoản vãng lai xuất hiện, Thái Lan và
các nước Đông Nam Á khác phải thực hiện chính sách thả nổi đồng nội tệ, trả lại giá
đích thực của nó, kết hợp với chính sách thắt chặt tài chính, chắc chắn nguy cơ khủng
hoảng bị dập tắp. Thay vì chính chính sách kìm giữ một cách giả tạo đồng nội tệ để thu
hút vốn nước ngoài nhằm bù đắp lỗ hỏng của tài khoản vãng lai và kiềm chế lạm phát.
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà

kinh tế gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền
của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản
vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập
niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng
trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền
tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp
dụng để chống lạm phát vô hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
- Hệ thống tài chính yếu kém và vấn đề niềm tin bị tổn thương
Bài học đắt giá nhất cho kinh tế mỗi nước là nếu chỉ quan tâm đến tăng trưởng
nóng mà không chú ý kiện toàn hệ thống tài chính, hệ quả tất yếu là ngân sách nhà
nước bị thâm hụt, lạm phát tăng, nền kinh tế sớm muộn gì cũng lâm vào khủng hoảng.
Hệ thống ngân hàng tài chính là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và chứa đựng nhiều rủi
ro, chỉ cần một tổn thương nhỏ cũng gây nên những xáo trộn lớn trong quá trình điều
tiết kinh tế. Việc duy trì quá lâu tỷ giá hối đoái cố định đã tạo nên kẽ hở trong hệ thống
15
ngân hàng của các nước này. Hệ thống ngân hàng hoạt động yếu kém dấn đến kẽ hở
cho nhà đấu cơ tiền tệ vay vốn để mua ngoại tệ kiếm lời. Sự tăng giá của đồng Yên
Nhật so với USD khiến cho các ngân hàng đổ xô nhau mua sau đó bán lại để mua USD
hưởng chênh lệch giá.
Hiện tượng thất thoát vốn do đầu cơ tiền tệ ngày càng trở nên nghiêm trọng. Để
duy trì tốc độ tăng trưởng và tỷ giá hối đoái cố định ngân hàng tiếp tục vay nóng ngân
hàng nước ngoài dẫn đến giới hạn nguy hiểm khi tỷ lệ nợ vượt xa dự trữ ngoại tệ trong
nước. Các chuyên gia IMF cho biết tỷ lệ nợ/dự trữ ngoại hối ở Thái Lan, Indonêsia xấp
xỉ 3 lần, Philippin gấp 4 lần, hấp nhất là Malaysia là 10 tỷ USD. Nguy hiểm hơn khi
nhà đầu tư nước ngoài khẩn trương rút vốn khi thấy có sự bất ổn.
Do thất thoát và đọng vốn ở thị trường bất động sản dẫn đến hàng loạt ngân
hàng trong khu vực tuyên bố vỡ nợ. Điển hình như ở Thái Lan, 10 ngân hàng lớn nhất
đứng trước nguy cơ phá sản. Các nhà đầu tư trong và ngoài nước bắt đầu có hội chứng
mất dần niềm tin, hàng loạt khách hàng rút vốn ra khỏi ngân hàng - tài chính đã làm
suy giảm thị trường chứng khoán ở các nước này.

Sau lời tuyên bố từ chức của Bộ trưởng Tài chính A. Vinavan vào cuối tháng
6/1997 khi khủng hoảng xảy ra, giới kinh doanh đầu tư mất niềm tin làm thị trường
chứng khoán Bangkok giảm xuống ở mức thấp nhất với chỉ số 482,97 điểm, giảm
14,75 điểm so với giữa tháng 6/1997. Các nhà đầu cơ bán hạ giá các cổ phiếu và
chuyển tiền ra nước ngoài để mua USD.
2.2.2. Những nguyên nhân khách quan
- Thị trường thương mại toàn cầu giảm sút, những thay đổi bất lợi của kinh tế
thế giới.
Từ năm 1995 trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước công nghiệp
phát triển giảm sút dẫn đến lượng cầu cũng suy giảm. Đặc biệt, những nước này là bạn
hàng chủ yếu, là đối tác kích thích quá trình tăng trưởng nóng hướng về xuất khẩu của
các nước Đông Nam Á. Những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của khu vực (điện tử, sợi,
dệt) đang đứng trước nguy cơ bão hòa của thị trường thế giới. Năm 1996, thị trường
bán dẫn quốc tế suy thoái mạnh, giá vi mạch giảm hơn 80%. Các mặt hàng điện tử dân
dụng của Nhật, các nước NICs Đông Nam Á giảm lượng bán hơn 40% trên thị trường
thế giới. Mặt khác tính hấp dẫn của thị trường Đông Nam Á trước các đối tác Mỹ và
Tây Âu đã giảm sút trước thị trường Trung Quốc, SNG-Đông Âu và Mỹ Litinh. Nhật
Bản củng đang lúng túng về những đồng vốn cho vay quá lớn trước những biến động
xấu của thị trường tài chính khu vực. Theo báo cáo của ngân hàng D. M. Green Fell thì
hơn một nửa số 70 tỷ USD Thái Lan nợ ngân hàng là của Nhật Bản và chủ yếu là do
vay nóng.
Do vậy, khi lãi suất tăng thì không chỉ chi phí vay nợ tăng mà đồng vốn vào
Thái Lan cũng sẽ giảm đi hoặc đổi chiều và dẫn đến khủng hoảng về thanh khoản của
Thái Lan đồng thời gây áp lực với đồng Peso và Rupiah.
Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á
16
bị trì trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với Dollar Mỹ từ
năm 1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so
với hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang
được khôi phục lại sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên

bang Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để
ngăn chặn lạm phát. Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn
so với các nước ở Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông
qua lãi suất ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng Đô La Mỹ. Và do đồng tiền của các
nước Đông Nam Á được neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các nước này trở nên
kém cạnh tranh. Từ mùa Xuân năm 1996, tăng trưởng trong xuất khẩu của Đông Nam
Á giảm xuống một cách nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản vãng lai của họ.
- Hoạt động tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt.
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những
cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á. Khi phát hiện
những dấu hiệu suy thoái của hệ thống ngân hàng - tài chính khu vực, nhiều nhà đầu cơ
nước ngoài đã tăng cường họat động đầu cơ tiền tệ. Theo nguồn tin nước ngoài thì rất
nhiều nhà đầu cơ trong tổng số 2300 quỹ tín dụng tư nhân ở Mỹ, với tài sản trên 100 tỷ
USD đã nhảy vào thị trường khu vực này trong 2 tháng 7-8/1997. Ngoài các quỹ do
Soros kiểm soát còn có các quỹ tín dụng lớn như Tiger, Orbis, Pumar, Panther và
Jaguar. Họ mua đồng Baht sau đó Peso, Ringgit, Rupiah kể cả SGD ước tính 10-15 tỷ
USD để đầu cơ, cả dự trữ ngoại hối nhà nước cạn kiệt càng làm cho tấn công đầu cơ
thêm kéo dài.
Thị trường bất động sản của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản.
Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi
phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một
số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước
ngoài đồng loạt rút vốn ra.
Ngoại trưởng 10 nước ASEAN lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống tiền tệ
chặt chẽ là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền kinh tế ASEAN.
Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại Subang Jaya, Malaysia đã thông
quan một Tuyên bố chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997 nêu rõ mối quan ngại sâu sắc
và kêu gọi các nước ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ và tăng cường lợi
ích của ASEAN trong giai đoạn này. Ngẫu nhiên là trong cùng ngày này, các Ngân
hàng Trung ương của hầu hết các nước chịu tác động của khủng hoảng đã gặp nhau tại

Thượng Hải trong Hội nghị cấp cao Đông Á Thái Bình dương EMEAP, và thất bại
trong việc đưa ra một biện pháp Dàn xếp cho vay mới. Trước đó một năm, Bộ trưởng
Tài chính của các nước này cũng đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC lần
thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, và theo như Tuyên bố
chung, các bên đã không thể nhân đôi được Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp định
chung về cho vay và Cơ chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, cuộc khủng
hoảng có thể xem như một thất bại trong việc xây dựng năng lực phù hợp kịp thời, thất
17
bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo tiền tệ.
Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp
dụng ở các nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng.
3. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
ĐÔNG NAM Á
3.1. Tác động tích cực của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ Đông Nam Á.
- Khi chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt, các chính phủ của các nước giảm
được hàng chục tỷ USD để giữ giá bản tệ như thời gian trước, giúp tăng dự trữ quốc
gia và phát triển bền vững. với đồng bản tệ rẻ, sẽ khuyến khích và tăng khả năng cạnh
tranh xuất khẩu, từ đó cải thiện thâm hụt cán cân thương mại. Xuất khẩu tăng sẽ lại là
tiền đề để các đồng tiền Đông Nam Á ổn định và vững lên một cách lý tưởng. Do đó
dù với tốc độ chậm nhưng các nước Đông Nam Á vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh như
đã từng phát triển trong hơn ba thập kỷ qua.
- Các nước bị ảnh hưởng lớn như: Thái Lan, Inđônêxia, Hàn Quốc,
Philippines sẽ nhận được lượng tín dụng quốc tế chính thức với khối lượng lớn để cải
cách và phát triển kinh tế (tất nhiên có kèm theo những điều kiện ngặt nghèo và lãi
suất khá cao).
- Cuộc khủng hoảng cũng giúp định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, đặc
biệt là làm lành mạnh hoá hơn nữa nền tài chính quốc gia.
+Các khoản chi kém hiệu quả sẽ bị điều chỉnh, cắt giảm, nhất là những doanh
nghệp nhà nước thường được bao cấp trước đây.
+Các dự án tư nhân sẽ được khuyến khích, quá trình tư nhân hoá được thúc đẩy,

giảm thiểu khu vực nhà nước và sự độc quyền, thúc đẩy việc xuất hiện những sản
phẩm chủ lực có sức cạnh tranh xuất khẩu cao hơn có. Toàn bộ nền kinh tế định hướng
thị trường nhiều hơn, sâu sắc và hoàn thiện hơn.
+Cuộc khủng hoảng cũng là dịp để chính phủ và nhân dân mỗi nước thuộc khu
vực cũng như các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế xem lại mình và sửa chữa những
thiếu sót cả về chính sách thể chế lẫn yếu tố con người. Quá trình tự do hoá toàn cầu sẽ
được đẩy lên một nấc mới hoàn thiện hơn.
- Cuộc khủng hoảng còn làm chuyển dịch nhất định vai trò và vị thế kinh tế
chính trị truyền thống của các cường quốc như Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, Châu âu
và các nước ASEAN. Vì khi đó nước nào vượt qua được cuộc khủng hoảng này sẽ
giúp thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh hơn ngoài ra tạo điều kiện để giúp các nước
chưa phục hồi được dần vượt qua khó khăn, từ đó tạo được niềm tin của các nước,
nâng cao vị thế chính trị của mình.
18
3.2. Tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ Đông Nam Á
Thứ nhất: Sau khi Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng Baht, cuộc khủng hoảng
không chỉ tác động tiêu cực đến nền kinh tế Thái Lan mà nó còn gây ra một cuộc
khủng hoảng tài chính lan truyền sang tất cả các nước Đông Nam Á khác. Không chỉ
đồng Baht mà cả đồng Peso (Philippines), đồng Ringit (Malaysia), đồng Đô la
(Singapore) và đồng Rupiah (Indonesia) cũng đều bị sức ép phải giảm giá so với đồng
USD.
Khi đồng Baht bị thả nổi, các qũi đầu tư cũng như các nhà đầu cơ đã không bỏ lỡ cơ
hội hưởng chênh lệch giá, họ không chỉ tấn công vào đồng Baht mà còn cả vào đồng
Peso (Philippines) và đồng Rupiah (Indonesia). Sau khi các đồng tiền này lần lượt bị
phá giá, giới đầu cơ đã quay sang tấn công vào đồng Đô la (Singapore) và đồng Ringit
(Malaysia).
Mặc dù có đủ khả năng để nâng đỡ đồng tiền của mình nhưng chính phủ Malaysia và
Singapore cũng khó mà có thể nâng giá vì nếu họ can thiệp để ổn định đồng nội tệ của
mình thì giá trị của các đồng tiền này sẽ quá cao so với các đồng tiền khác trong khu
vực và do vậy đã làm giảm khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu.

Chính vì thế, cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Nam Á đã làm cho các nhà đầu tư
của Mỹ và châu Âu rút vốn của họ để chuyển sang các vùng ngoài châu Á.
Thứ hai :Do các đồng tiền bị phá giá nên mức giá của các hàng hoá nhu yếu
phẩm sẽ tăng lên và lạm phát có thể xảy ra ở mức cao hơn bình thường ở tất cả các
nước Đông Nam Á. Giá lương thực và các nhu yếu phẩm khác tăng từ 0,3% đến 1,56%
trong khi đó mức tăng của những mặt hàng như nước giải khát đóng chai, xăng dầu,
điện thoại di động, hàng điện tử, xe máy, băng video, sơn và thép thanh có thể tăng từ
2,72 đến 5%. Một số mặt hàng khác như sữa, dầu ăn, cá, ô tô chở khách có thể tăng
từ 5,5 đến 13,7%.
Ngành sản xuất thép bị ảnh hưởng mạnh vì phần lớn ngành này ở các nước Đông Nam
Á phải nhập khẩu tới 50% nguyên liệu, với mức giá nhập cao tương đối, do đó sẽ đẩy
giá thành sản xuất thép tăng lên.
Đối với sản xuất nông nghiệp, do giá nhập khẩu các nguyên liệu sản xuất như phân hoá
học, thuốc trừ sâu, giống cây, công cụ sản xuất xăng dầu, giá vận chuyển, giá nhân
công đều tăng nên đòi hỏi người nông dân phải có nhiều vốn hơn để đầu tư sản xuất.
Thêm vào đó, lãi xuất ngân hàng cao từ 30% đến 50% một tháng khiến chi phí cho đầu
tư sản xuất và xuất khẩu càng cao. Ngoài ra, những nhà hoạt động xuất khẩu dễ gặp
phải rủi ro vì tỷ giá hối đoái không ổn định.
Thứ ba:Các nhà kinh tế đều nhận định rằng tất cả các nước Đông Nam Á hiện
đang lâm vào cuộc khủng hoảng tiền tệ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hơn
đặc biệt trong 2 năm 1997 và 1998. Tổng sản phẩm quốc nội của Malaysia tăng
19
khoảng 7,7% (1997) và 7,6% (1998) so với năm 1996 là 8,3%. GDP của Thái Lan tăng
khoảng 2.3% trong năm 1997 và trong năm 1996 là 7,2%. Trong khi đó GDP của
Philippines ở mức tăng xấp xỉ mức tăng 5,8% (1996) đạt 5,6% (1997) và 5,8% (1998).
Mức tăng trưởng GDP của Indonesia cũng ít bị ảnh hưởng và có mức tăng tương tự
như năm 1996 cho hai năm 1997 và 1998 là vào khoảng 7,5%. Còn mức tăng GDP của
Singapore so với năm 1996 (8,0%), thì trong năm 1997 có thấp hơn chút ít đạt 7,5%.
Vậy tại sao sự phá giá tiền tệ lại có ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng ? Đó chính là vì
trước đây các nước Đông Nam Á đã thi hành chính sách tiền tệ nới lỏng, khối lượng

tiền tệ tăng rất nhanh do chính phủ chi rất nhiều tiền cho các công trình đầu tư công
cộng, chẳng hạn ở Malaysia, lượng cung ứng tiền tệ cả năm 1996 vẫn tăng vượt chỉ
tiêu 20% do ngân hàng Trung ương đề ra. Điều đó dẫn tới bội chi ngân sách và để bù
đắp khoản bội chi thì các nước này đã phải tiến hành vay nợ nước ngoài. Tỷ lệ nợ nước
ngoài so với GDP của Indonesia, Philippines và Thái Lan trong năm 1996 còn lớn hơn
cả của Mehico khi xảy ra khủng hoảng vào năm 1994. Tới khi khủng hoảng xảy ra các
nước này phải thực hiện triệt để chính sách thắt chặt tiền tệ, giảm chi tiêu cho đầu tư
công cộng. Đồng thời để giảm bớt tốc độ phá giá, các nước này đã nâng lãi suất cho
vay lên cao trên 30% /tháng, điều đó hạn chế đầu tư tư nhân. Do đó đã làm tốc độ tăng
trưởng tổng sản phẩm quốc nội giảm xuống.
Thứ tư:Cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam Á chắc chắn sẽ có tác động tới
đồng tiền của các khu vực khác ở châu Á như tác động tới các đồng Won của Hàn
Quốc, Nhân dân tệ của Trung Quốc, Rupi của Ấn Độ và đô la của Hồng Kông. Vì nền
kinh tế của các khu vực này sẽ phải tự động điều chỉnh giá trị các đồng tiền của mình
để có thể cạnh tranh được với các nước xuất khẩu khác ở châu Á. Tuy nhiên, mức độ
điều chỉnh giá trị của các đồng tiền ở các khu vực khác nhau đến đâu lại phụ thuộc vào
tiềm lực và sức mạnh kinh tế của từng nước.
+ Ở Trung Quốc, tỷ giá của đồng Nhân dân tệ (NDT) trong tháng 6/1997 là 8,2923
NDT/USD, thì bước sang tháng 7, khi cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam Á bắt
đầu bùng nổ thì tỷ giá của NDT so với đô la Mỹ đã tăng lên 8,2907 NDT/USD, rồi sau
đó đạt 8,2903 NDT/USD và vào ngày 1/8/1997 đạt 8,2855 NDT/USD. Vậy tại sao giá
trị đồng NDT không bị giảm giá do tác động của khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam Á?
Người ta đưa ra ba lý do sau đây:
Một là, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc tiếp tục cao, đạt khoảng 120 tỷ USD vào cuối
tháng 6/1997 và dự kiến sẽ tăng lên 135 tỷ USD vào cuối năm 1997.
Hai là, thặng dư thương mại của Trung Quốc vẫn tăng mạnh, ước tính vào cuối 6 tháng
đầu năm 1997 thặng dư mậu dịch của Trung Quốc đạt 17,7 tỷ USD so với 12 tỷ USD
của cả năm 1996.
Ba là, Trung Quốc quản lý rất chặt chẽ và có hiệu quả luồng vốn đầu tư và nợ nước
ngoài. Trung Quốc là quốc gia thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài, nhưng phần lớn là

vốn đầu tư trực tiếp và dài hạn, cho nên các nhà đầu tư không thể đột ngột chuyển một
lượng tiền lớn ra khỏi Trung Quốc để có thể châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tiền tệ
20
và phá giá đồng tiền nước này. Nợ nước ngoài của Trung Quốc chủ yếu là các khoản
nợ trung và dài hạn nên khó có thể gây sức ép đầu cơ, phá giá tiền tệ.
+ Ở Hồng Kông, hiện nay đồng đô la Hồng Kông vẫn chưa bị ảnh hưởng bởi cuộc
khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam Á nhưng theo các nhà phân tích tiền tệ, thì đồng
HKD chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng vì :
Thứ nhất, thị trường chứng khoán Hồng Kông rất nhạy cảm. Do trong năm 1997, tỷ giá
giữa đồng USD và HKD tương đối ổn định, điều đó đã kích thích các nhà đầu tư mua
chứng khoán bằng HKD, khiến tổng vốn chứng khoán tăng 20% so với cùng kỳ năm
ngoái, con số vào khoảng 100 tỷ HKD. Nếu người ta có cảm nhận là đồng HKD sẽ
xuống giá thì khi đó các nhà đầu tư sẽ ngay lập tức quyết định đổi tiền của họ sang một
đồng tiền khác ổn định hơn, khi đó đồng HKD sẽ phải chịu một áp lực lớn. Và nếu tình
hình nghiêm trọng hơn nữa, thì Trung Quốc sẽ phải can thiệp để duy trì sự ổn định của
đồng HKD như họ đã cam kết. Số dự trữ ngoại hối của Trung Quốc cùng với dự trữ
của Hồng Kông đủ để đảm bảo duy trì được sự ổn định của HKD.
Thứ hai, do các đồng tiền Đông Nam Á bị mất giá so với đồng USD, nên hiện nay
người Mỹ và người nước ngoài có thể mua bán và đầu tư với giá rẻ hơn nhiều tại các
nước này. Thế nhưng chính giá rẻ tại các nước Đông Nam Á đã khiến cho Hồng Kông
khó có thể cạnh tranh về giá với các nước này. Chính vì thế Hồng Kông sẽ phải chịu
mức thâm hụt cán cân thương mại lớn và điều đó sẽ gây áp lực buộc đồng HKD phải
giảm giá để tăng sức cạnh tranh của mình. Chẳng hạn, hiện nay, Hồng Kông đang bị
mất dần khách du lịch vì họ nhận thấy nơi đây không những đắt đỏ mà không còn hấp
dẫn như trước nữa. Tuy nhiên, vì lý do kinh tế và chính trị, Hồng Kông sẽ cố giữ không
phá giá đồng tiền của mình.
+ Ở Hàn Quốc và Ấn Độ, cả hai đồng Won và Rupi đều đã bị ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tiền tệ Đông Nam Á và bị xuống giá, tuy nhiên ngân hàng trung ương của
Hàn Quốc và Ấn Độ đã định ra tuyên bố là sẽ theo đuổi các chính sách để đảm bảo ổn
định được thị trường tài chính trong nước. Chẳng hạn, ngân hàng Trung ương cả hai

nước đã bỏ ra nhiều tỷ đô la Mỹ để mua đồng nội tệ vào nhằm duy trì tỷ giá trị đồng
nội tệ của mình.
Tóm lại cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông Nam Á bắt nguồn từ Thái Lan đã có ảnh
hưởng tới toàn khu vực Đông Nam Á nói riêng và với châu Á nói chung, nhưng nó chỉ
gây ra bất ổn định tài chính ở những nơi có những mất cân đối nghiêm trọng trong nền
kinh tế và làm các nhà lãnh đạo của các quốc gia tỏ ra mất bình tĩnh khi cuộc khủng
hoảng xảy ra.
3.3. Kinh tế Việt Nam với khủng hoảng
3.3.1. Nhận định chung về tình hình Việt Nam đối với cuộc khủng hoảng.
Trước hết phải thừa nhận Việt nam là một nước đang phát triển với mức độ tự
do hoá chưa cao. Vì thế cuộc khủng hoảng này chưa có gì ảnh hưởng lớn tới thị trường
21
tiền tệ cũng như nền kinh tế Việt Nam:
- Về xuất khẩu: kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN, Hàn
Quốc, Nhật Bản năm 1997 đạt 42,4% kim ngạch xuất khẩu giảm không đáng kể.
Các mặt hàng như: dệt, may mặc, giày dép, hải sản được thị trường EU ưu đãi nên
sức cạnh tranh của hàng Việt Nam tăng.
- Về nhập khẩu: chúng ta vẫn nhập khẩu khoảng 40% tổng kim ngạch và thực
hiện các biện pháp chống gian lận thương mại và buôn lậu qua biên giới. Việt Nam
còn quản lý theo định lượng và giấy phép nhập khẩu nên hàng hoá thế giới có xuống
thấp cũng khó tràn vào nước ta.
- Về vốn ODA: Nhật Bản dẫn đầu trong các nước hỗ trợ Việt Nam và dù khó
khăn vẫn hứa giữ nguyên số lượng vốn vay và các khoản tài trợ đã cam kết.
3.3.1. Những ảnh hưởng đến Việt Nam
Trong cuộc khủng hoảng tài chính 1997 ở Thái Lan, Việt Nam tuy không chịu
tác động mạnh như các nước Philippin, Malaysia, nhưng vẫn chịu một số ảnh hưởng
trong các hoạt động sau:
Hoạt động thương mại
Theo các số liệu ước tính thì khoảng 70% kim ngạch mậu dịch của Việt Nam là với
các nước Đông Á, và chủ yếu được thanh toán bằng USD hoặc vàng. Nhưng khi đồng

tiền ở Đông Á bị phá giá mạnh sẽ tác động xấu tới các doanh nghiệp có quan hệ làm ăn
với các nước Đông Á. Ngoại trừ đồng đô la Singapore và đồng Yên Nhật mới bị mất
giá trên dưới 20%, còn các đồng tiền khác trong khu vực đã bị phá giá từ 80% đến
250% so với đồng USD. Trong khi đó đồng tiền Việt Nam mới chỉ mất giá chút ít,
khoảng trên 10% so với đồng USD. Điều đó sẽ làm cho hàng nhập khẩu từ các nước
Đông Á vào Việt Nam với mức rẻ gần như tương ứng với mức phá giá của đồng tiền
các nước. Do đó hàng nhập từ Đông Á sẽ lấn át hàng nội của chúng ta ngay tại thị
trường Việt Nam. Chính điều này đã khuyến khích các nhà xuất khẩu của Đông Á tăng
lượng hàng bán sang Việt Nam, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam
22
nhập hàng từ Đông Á do giá rẻ hơn bằng cả hai con đường chính ngạch và tiểu ngạch
(buôn lậu qua biên giới). Hiện nay, các doanh nghiệp trong cả nước ta còn tồn kho
nhiều hàng của Đông Á sẽ bị lỗ nặng vì giá các hàng hoá này giảm nghiêm trọng.
Đồng thời, do các đồng tiền Đông Á bị phá giá ở mức cao, đã tạo sức ép đối với
hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Đông Á phải giảm giá, nếu không họ sẽ
không nhập hàng của ta. Do vậy nguồn thu vì xuất khẩu sẽ giảm do :
+ Thứ nhất, giá xuất khẩu hạ thì doanh nghiệp nhỏ sản xuất hàng xuất khẩu có
thể phải ngừng sản xuất vì doanh thu không đủ trang trải cho các yếu tố đầu vào.
+Thứ hai, những doanh nghiệp lớn có thể tìm được thị trường khác khi bị ép
giá, nhưng lượng xuất khẩu giảm đi, đồng thời doanh thu cũng giảm xuống do giá xuất
khẩu hạ.
Riêng sáu tháng cuối năm 1997, lợi tức của Việt Nam chỉ tính từ xuất khẩu của
mặt hàng nông sản đã bị mất khoảng 500 triệu USD. Đồng thời, do giá cả dịch vụ, sinh
hoạt hiện nay ở Việt Nam đã cao tương đối,nên lượng khách du lịch vào Việt Nam
cũng bị giảm mạnh. Do đó, hệ số sử dụng phòng khách sạn chỉ đạt xấp xỉ 50%, kể cả
các khách sạn cao cấp cũng trong tình trạng như vậy.
Bảng : Tình hình phá giá của các đồng tiền Đông Nam Á
Đồng
Tỷ giá so với USD Mức độ
phá giá

Ngày 1/7 ngày 6/10
Baht / USD 25,65 36,37 42%
Rupi / USD 24,75 38,65 56%
Peso / USD 26,37 34,92 32%
MR / USD 2,5 3,38 35%
SGD / USD 1,43 1,548 8,3%
(Nguồn : Tin kinh tế Việt Nam ngày 6/8/97, Đài BBC 6/10/97)
23
Tình trạng đầu cơ
Do các đồng tiền Đông Á bị phá giá với tỉ lệ lớn, nên đã tạo ra tình trạng đầu cơ,
giam giữ ngoại tệ ở nước ta dù việc quản lý nguồn ngoại tệ ra, vào của Việt Nam tuơng
đối chặt chẽ cũng tạo nên một lực cản đáng kể, giảm áp lực của các nguồn ngoại tệ
chảy ra nước ngoài hoặc những hoạt động đầu cơ tích trữ này ở trong nước. Tỷ giá giao
dịch của các ngân hàng thương mại luôn muốn vượt trần gây sức ép phá giá đồng tiền
Việt Nam. Tình trạng mua bán USD chuyển khoản theo tỷ giá vượt trần đã xảy ra.
Đồng thời, khủng hoảng đã làm cho lượng tiền gửi bằng đồng Việt Nam tăng chậm,
tiền gửi bằng ngoại tệ tăng nhanh kể cả tiền gửi tiết kiệm của dân chúng. Trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại hối nói chung cầu luôn luôn cao hơn
cung, do đó có lúc thị trường gần như đóng băng, doanh số mua bán ngoại tệ giảm
mạnh. Ngoại tệ có nguy cơ tăng giá bất ngờ đã làm tăng nhu cầu vay vốn bằng đồng
Việt Nam để tránh rủi ro về tỷ giá và do vậy làm tăng lãi suất đồng Việt Nam. Ngoại tệ
tăng giá mạnh đã làm cho nhiều doanh nghiệp không mua được USD hoặc phải mua
với giá cao chịu lỗ nặng.
Do ảnh hưởng của khủng hoảng nên lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
vào Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng. Năm 1997, FDI chỉ bằng 70% so với năm
1996. Đó là do 70% FDI vào Việt Nam hiện nay là từ các nền kinh tế Đông Á, là
những nước đang bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng. Cho nên cũng giống
như đối với Trung Quốc, họ không muốn đầu tư vào nước ta vì nhu cầu khắc phục kinh
tế của bản thân nước họ.
Sự giảm sút của FDI cùng với nguy cơ phá sản đối với các công ty của Việt

Nam do khả năng xuất khẩu giảm hoặc do chi phí đầu vào tăng vì lãi suất vay vốn tăng
và do giá hàng nhập tăng đã tạo ra nguy cơ thất nghiệp tăng ở nước ta. Chỉ tính trong 3
tháng cuối năm 1997, riêng các xí nghiệp liên doanh ở thành phố Hồ Chí Minh đã sa
thải 4000 công nhân vì họ phải thu hẹp các hoạt động hoặc bị giải thể do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng. Năm 1997, cả nước có 47 dự án với nước ngoài bị giải thể, tăng
162% so với năm 1996.
24
Về vấn đề nợ nước ngoài: khủng hoảng khiến đồng Việt Nam mất giá 10%, và
như vậy cứ 1 tỷ USD nợ thì nay phải bỏ ra thêm 1200 tỷđồng Việt Nam để trả do yếu
tố tỷ giá. Đây là gánh nặng lớn cho chính phủ, doanh nghiệp trong việc thanh toán nợ
khi đồng nội tệ bị mất giá. Sự kiện trên sẽ làm giảm uy tín và gây ảnh hưởng tiêu cực
đến môi trường đầu tư của toàn khu vực, trong đó có Việt Nam.
3.4. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ Đông Nam Á.
Bài học 1: Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế quốc
gia là cơ sở quan trọng nhất đảm bảo cho phát triển bền vững và trở thành một mục
tiêu và chỉ tiêu của quản lý kinh tế đất nước, quản lý ngành và mỗi doanh nghiệp.
Để khắc phục sự thiếu chú ý đúng mức đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và
phát triển, cần đưa vào hệ thống chỉ tiêu kinh tế báo cáo hàng năm của mỗi địa phương,
mỗi ngành và cả nước các chỉ tiêu như tỉ suất lợi nhuận và tỉ suất giá trị gia tăng trên
vốn riêng của doanh nghiệp theo các ngành, theo thành phần kinh tế và theo các địa
phương trong cả nước, đồng thời theo dõi chặt chẽ sự biến động của chỉ số ICOR ở
từng địa phương và cả nước.
Bài học 2: Để các doanh nghiệp và nền kinh tế đất nước phát triển bền vững thì
lãi suất vốn vay để đầu tư phải tương đương với hoặc nhỏ hơn khả năng sinh lời của
doanh nghiệp.
Như vậy, để phát triển bền vững, lãi suất tín dụng chủ yếu phải hình thành qua
quan hệ cung cầu vốn trên thị trường, chứ không phải dựa vào ý chí của Nhà nước.
Nếu lãi suất tín dụng nhỏ hơn khả năng sinh lời của doanh nghiệp có tính cạnh tranh
cao, thì doanh nghiệp có thể sẽ càng phát triển nhanh và hiệu quả kinh doanh cao, nếu

càng vay được nhiều vốn. Tức là vay vốn mà lại phát triển bền vững.
25

×