Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tiểu luận pháp luật KDQTKinh nghiệm về việc tham gia các FTA thế hệ mới (FTA new generation) của trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.28 KB, 25 trang )

1. Giới thiệu chung
Khi mà WTO đã trở thành sân chơi chung cho 170 quốc gia, lợi ích của các
thành viên đã trở nên bão hòa cũng là lúc FTA được hình thành giữa các nhóm nhỏ
tương đồng, hướng tới khu vực hóa. Sự bùng nổ của các FTA với những ưu đãi thuế
quan đem lại cho các thành viên sự phát triển tiềm tàng, kim ngạch xuất khẩu, đầu tư,
năng xuất lao động, thu nhập quốc dân …. đều tăng. Tuy nhiên, FTA chỉ dừng lại ở
vấn đề cắt giảm thuế quan và một số chính sách khác, vẫn chưa tác động được đến
những hàng rào phi thế quan của nhiều nước, và lĩnh vực phi thế quan khác như lao
động, môi trường. Đó chính là lí do dẫn đến sự ra đời của các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới. Để có những bước đi đúng đắn, và có thể tận dụng lợi ích của FTA thế
hệ mới với nền kinh tế Việt Nam, chúng ta nên học hỏi kinh nghiệm của các nền kinh
tế khác trong tiến trình này, một trong số đó là nền kinh tế láng giếng có nhiều nét
tương đồng với Việt Nam – Trung Quốc.
1.1. FTA (Free Trade Agreement): Hiệp định thương mại tự do
FTA là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhằm
mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó bằng việc
cắt giảm thuế quan, có các quy định tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ và
đầu tư giữa các thành viên
Nội dung chính của FTA:
• Quy định về cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan
• Quy định danh mục mặt hàng đưa vào cắt giảm thuế quan
• Quy định lộ trình cắt giảm thuế quan
• Quy định về nguyên tắc xuất xứ và các quy định khác
Các loại hình FTA:
• FTA khu vực: khu vực mậu dịch tự do ASEAN
• FTA song phương: FTA giữa Trung Quốc và Singapore
• FTA đa phương: Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP
• FTA được kí giữa một tổ chức với một nước: FTA giữa Trung Quốc và Asean
Các lý do chính hình thành các FTA:
Thứ nhất là vòng đàm phán Doha kéo dài lâm vào bế tắc; trong khi đó các quốc gia
ngày càng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu


1


tư, tăng cường quan hệ ngoại giao… nên họ muốn ký với nhau FTA để thúc đẩy nhanh
hơn tiến trình tự do hóa thương mại.
Thứ hai là các quốc gia không tự nguyện đơn phương giảm các rào cản thương mại mà
phải thỏa thuận cùng nhau cắt giảm các rào cản tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển.
Quá trình thúc đẩy tự do hóa thương mại này dẫn đến việc thành lập các FTA.
1.2. FTA thế hệ mới
FTA “thế hệ mới” là các FTA có phạm vi toàn diện, vượt ra ngoài khuôn khổ tự
do hóa thương mại hàng hóa, như: FTA Việt Nam-EU (EVFTA); Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP); Hiệp định Đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại
Tây Dương (T-TIP);các hiệp định thành lập EU; FTA Bắc Mỹ (NAFTA); Thị trường
chung Nam Mỹ (MERCOSUR); các FTA ASEAN+1; FTA Australia-Hoa Kỳ
(AUSFTA); …
Các FTA nói trên được coi là “mới” vì 3 lý do sau đây:
Một số FTA “thế hệ mới” nêu trên bao gồm cả các nội dung vốn được coi là“phi
thương mại” như: lao động, môi trường, cam kết phát triển bền vững và quản trị tốt, .

Các FTA “thế hệ mới” bao gồm các nội dung mới hơn so với các FTA trước đây
và các hiệp định của WTO như: đầu tư, cạnh tranh, mua sắm công, thương mại điện tử,
khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ kỹ thuật cho các nước
đang phát triển cũng như dành thời gian chuyển đổi hợp lý để nước đi sau có thể điều
chỉnh chính sách theo lộ trình phù hợp với trình độ phát triển của mình, …
Các nội dung đã có trong các FTA trước đây và các hiệp định của WTO, nay
được xử lí sâu sắc hơn trong các FTA “thế hệ mới”, như: thương mại hàng hóa, bảo vệ
sức khỏe động vật và thực vật trong thương mại quốc tế, thương mại dịch vụ, quyền sở
hữu trí tuệ (IPR) (với “TRIPS cộng” và “TRIPS siêu cộng”), tự vệ thương mại, quy tắc
xuất xứ, minh bạch hóa và chống tham nhũng, giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ
nước tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài (ISDS), …Ví dụ: trong các FTA “thế

hệ mới”, về thương mại hàng hóa, phần lớn hàng nhập khẩu sẽ được loại bỏ thuế quan;
về thương mại dịch vụ và đầu tư, các cam kết đều cao hơn so với cam kết WTO.
Như vậy, nếu so sánh với các hiệp định của WTO, thì các FTA “thế hệ mới”
chính là các hiệp định “WTO cộng”, với những nội dung trước đây từng bị từ chối, thì
nay lại cần thiết phải chấp nhận, bởi bối cảnh thương mại quốc tế đã thay đổi
2


1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc với FTA thế hệ mới
Hiện nay, Trung Quốc có 16 hiệp định thương mại đã được kí kết và thực hiện:
Hiệp định Trung Quốc với Hồng Kông ( tháng 6 năm 2003), Macao( tháng 10 năm
2003), ASEAN( tháng 11 2004), Chile( tháng 11/2005), Pakistan( tháng 4 /2009),
Singapore( tháng 10/2008), Costa Rica( tháng 2/ 2010), Đài Loan( tháng 6/2010),
Iceland, Úc, Na Uy, và Hàn Quốc và 24 hiệp định đang trong quá trình đàm phán và
xem xét như Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện RCEP, Hiệp định ba bên Trung quốcNhật Bản- Hàn quốc, Hiệp ước vùng vịnh(GCC),…
Trung Quốc đã có nhiều biện pháp để tận dụng được những lợi ích mà FTA
mang lại. Khi tham gia ký kết thương mại tự do với Trung Quốc, hàng hóa của các
nước không dễ dàng được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi từ quốc gia này, một mặt
Trung Quốc thực hiện dỡ bỏ hàng rào thuế quan nhưng mặt khác cũng dựng những
hàng rào phi thuế quan để bảo hộ hàng trong nước. Không những vậy, quy trình để
hoàn thiện hồ sơ theo nguyên tắc xuất xứ còn phức tạp cũng như mức chênh lệch ưu
đãi không cao và nhận thức của các doanh nghiệp về các lợi ích của hiệp định thương
mại còn ở mức hạn chế.
Bên cạnh đó để triển khai tự do hoá thương mại Trung Quốc đã thành lập khu
mậu dịch tự do Thượng Hải, Thiên Tân, Quảng Đông, Phúc Kiến. Đây là nơi để thử
nghiệm những cải cách kinh tế của Chính phủ Trung Quốc và mở cửa nền kinh tế, như
bãi bỏ những hạn chế về đầu tư nước ngoài cũng như cho phép tự do chuyển đổi đồng
Nhân dân tệ nhằm đưa tỷ giá về sát với giá trị thực. Tại khu mậu dịch tự do này, Trung
Quốc lần đầu thử nghiệm cho phép tự do hoá lãi suất.
Hơn nữa, Trung Quốc đã mở cửa toàn diện với doanh nghiệp tư nhân trong

nước, cho phép hoạt động của tư nhân vào các ngành độc quyền của Nhà nước, tăng
tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp
Nhà nước, khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài liên doanh với các doanh nghiệp trong
nước, thúc đẩy sự phát triển dịch vụ trong nướcbằng cách hỗ trợ vốn, kĩ thật, giảm
thuế.
Tương tự với những gì đã làm được khi tham gia FTA, nền kinh tế thứ hai thế
giới chắc chắn có nhiều bước đi và sự chuẩn bị cho cuộc chơi mới FTA thế hệ mới.

3


2. Việc tham gia của Trung Quốc vào đàm phán các hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới.
2.1 Cách tiếp cận của Trung Quốc đối với các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới
Trong nhiều năm qua, quan hệ hợp tác hay căng thẳng giữa thương mại Trung
Quốc đối với các nước khác luôn tốn nhiều bút mực của giới chuyên gia. Tiêu biểu
nhất trong những ngày gần đây, ngày 6/7/2018, cuộc chiến thương mại- Trade Wargiữa Mỹ và Trung Quốc chính thức bắt đầu sau khi các qui định áp thuế trị giá 34 tỷ
USD của Mỹ nhằm vào hàng hóa Trung Quốc có hiệu lực. Nhưng Trung Quốc có cách
nhìn nhận thế nào về vấn đề này? Phía sau chính phủ Trung Quốc, người dân Trung
Hoa tin rằng Trung Quốc sẽ là người chiến thắng sau cùng trong cuộc chiến thương
mại. Một trong những nền tảng cơ bản nhất của niềm tin sắt đá đó là cách tiếp cận của
Trung Quốc đối với các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới- FTA thế hệ mới. Đầu
tiên, hãy nhìn lại chặng đường mà thương mại Trung Quốc đã và đang trải qua để thấy
được cách nhìn nhận, cách tiếp cận của Trung Quốc đối với các FTA thế hệ mới như
thế nào.
Trong chính sách thương mại của Trung Quốc, các Hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới luôn đóng vai trò hết sức to lớn. Chính phủ Trung Quốc cũng rất đề cao
FTA thế hệ mới nên vô cùng chú trọng. Bài tiểu luận xin trình bày cách tiếp cận của
Trung Quốc đối với một số FTA thế hệ mới tiêu biểu nhất, có ảnh hưởng không nhỏ,

và có thể nói là ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển hay thụt lùi của Thương mại
Trung Quốc.
2.1.1 Hiệp định thương mại tự do ASEAN- Trung Quốc (ACFTA- tháng 7 năm
2005 )
ASEAN vốn là một khu vực quan trọng trong chính sách ngoại giao của Trung
Quốc. Thái độ mềm dẻo đột ngột kết thúc vào năm 2009 khi Trung Quốc ngày càng có
các hành động cứng rắn trong các vấn đề ở khu vực. Tuy nhiên, bất chấp tình trạng
“chính trị lạnh”, quan hệ kinh tế Trung Quốc và ASEAN vẫn phát triển rất nồng ấm,
đặc biệt kể từ khi Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) có hiệu
lực từ tháng 7-2005.
Như vậy, Trung Quốc luôn có cái nhìn đề cao và luôn muốn tận dụng ACFTA
để đẩy mạnh sự phát triển của thương mại Trung Quốc nói riêng và sự phát triển ngày
4


càng khởi sắc của nền kinh tế nói chung. Thái độ tích cực đó đã được phản ánh rất rõ
trong số liệu thống kê về thành quả mà ACFTA đã mang lại sau đây:
“Đến cuối năm 2016, kim ngạch thương mại hai chiều Trung Quốc - ASEAN đã
đạt 452,2 tỉ đô la Mỹ, đưa Trung Quốc thành đối tác thương mại lớn nhất và thị trường
xuất khẩu lớn thứ tư của ASEAN. Mặc dù đối với Việt Nam, ACFTA có hiệu lực muộn
hơn nhưng Trung Quốc hiện cũng là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Năm
2016, xuất khẩu sang Trung Quốc đạt gần 22 tỉ đô la Mỹ (chiếm 12,4% tổng kim
ngạch xuất khẩu), Trung Quốc trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam
chỉ sau Mỹ (chiếm 21,78%) và EU (chiếm 19,2%). Trong khi đó, năm 2016, nhập khẩu
từ Trung Quốc của Việt Nam đạt 49,8 tỉ đô la Mỹ (chiếm 28,7% tổng kim ngạch nhập
khẩu).”
Nguồn: TS. Phạm Sỹ Thành (Giám đốc Chương trình Nghiên cứu kinh tế
Trung Quốc (VCES) của Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR)), FTA
ASEAN-Trung Quốc và Hồng Kông, theo thời báo kinh tế Sài Gòn-online,
Thứ Bảy, 23/12/2017, 12:11 .

2.1.2. Hiệp định thương mại tự do Trung Quốc – Nhật Bản – Hàn Quốc ( FTA
Trung – Nhật – Hàn )
Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc được gọi đến với tên gọi ba con hổ kinh tế
của vùng Đông Bắc Á. Khi ba con hổ đó liên minh, vùng kinh tế Đông Bắc Á vốn đã
sáng càng sáng hơn nữa. Không chỉ có ảnh hưởng to lớn đến nền kinh tế khu vực, nền
kinh tế của mỗi nước cũng có sự phát triển không nhỏ.
Trung Quốc-Nhật Bản-Hàn Quốc đã theo đuổi tiến trình đàm phán FTA ba bên
suốt gần 10 năm qua, kể từ khi Bắc Kinh đề xuất sáng kiến thành lập khu vực thương
mại tự do vào cuối năm 2002.
Trong một thập kỷ qua, kim ngạch thương mại giữa ba nước đã tăng hơn năm lần và
hiện đã vượt quá 690 tỷ USD. Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của
Nhật Bản và Hàn Quốc, trong khi Nhật Bản và Hàn Quốc chiếm vị trí thứ tư và thứ
sáu trong số các đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc.
FTA Trung-Nhật-Hàn có thể sẽ có tầm quan trọng vô cùng to lớn về mặt kinh tế
không chỉ đối với các nước này mà còn đối với cả toàn cầu. Thủ tướng Trung Quốc Ôn
Gia Bảo nhận định việc ba nền kinh tế lớn ở một khu vực sôi động nhất thế giới như

5


Đông Bắc Á ký kết hiệp định thương mại tự do sẽ tạo ra sinh lực cho khu vực và thúc
đẩy mạnh mẽ tiến trình hội nhập.
Một hiệp định như vậy có thể nâng GDP của Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn
Quốc thêm các mức tương ứng là 2,9%, 0,5% và 3,1%.
Lãnh đạo ba nước đã nhất trí sẽ khởi động đàm phán Hiệp định thương mại tự
do (FTA) ba bên. FTA này nếu đạt được sẽ mang lại những lợi ích to lớn đối với cả ba
nước.
Tuy nhiên, đối với bất kì một hiệp định tự do thương mại nào, các nhà chức
trách Trung Quốc luôn tỏ ra phân tích rất rõ ràng những lợi thế và thách thức đối với
sự phát triển của Thương mại Trung Quốc. Bộ phận dự báo, phân tích và tư vấn rủi ro

(EIU) thuộc Tập đoàn Nhà kinh tế (Anh) cho rằng bất kể những lợi ích tiềm tàng vô
cùng lớn, một FTA ba bên như vậy sẽ đòi hỏi phải có các cuộc đàm phán kéo dài với
nhiều chướng ngại, không chỉ là sự va chạm lợi ích kinh tế, chính trị giữa bản thân các
nước mà phần nào còn là sự ngăn cản từ phía Mỹ. Sự cạnh tranh khá lớn giữa ba nền
kinh tế chính là trở ngại đầu tiên đối với quá trình đàm phán FTA. Theo ông Đinh Nhất
Phàn, Phó Giám đốc bộ phận nghiên cứu phát triển thế giới thuộc Trung tâm nghiên
cứu phát triển của Chính phủ Trung Quốc, khó khăn trong đàm phán FTA giữa ba nước
sẽ xuất hiện trong vấn đề hàng nông sản. Việc hàng nông sản Trung Quốc có chất
lượng và sức cạnh tranh tốt khiến cả Nhật Bản và Hàn Quốc hết sức e ngại. Hàng nông
sản của Trung Quốc sẽ là đòn tấn công mạnh đối với thị trường Nhật Bản và Hàn
Quốc, trong khi các sản phẩm chế tạo như xe hơi, hợp kim từ Nhật Bản và Hàn Quốc
cũng sẽ có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của các ngành nghề liên quan của
Trung Quốc. Ngoài ra, Mỹ là một nhân tố không thể xem nhẹ bởi Mỹ không hề mong
muốn ba nước Trung - Nhật - Hàn xích lại quá gần nhau.
Trong khuôn khổ các quan hệ đồng minh Mỹ-Nhật và Mỹ-Hàn, chiến lược FTA
của Nhật Bản và Hàn Quốc tất yếu sẽ phải chịu sự kìm hãm của Mỹ. Khi sự dịch
chuyển trọng tâm chiến lược của Mỹ sang phía Đông đã làm gia tăng sự phức tạp
trong quan hệ hợp tác ở khu vực Đông Á thì tiến trình xây dựng FTA Trung-Nhật-Hàn
sẽ đối mặt với càng nhiều nhân tố không rõ ràng. Trong khi đó, thái độ cảnh giác trước
thực tế là Nhật Bản và Mỹ nắm vai trò chủ đạo trong việc thiết lập các quy tắc kinh tế
ở châu Á là một trong những nguyên nhân khiến Trung Quốc thúc đẩy FTA TrungNhật-Hàn, nhằm lôi kéo Nhật Bản và kiềm chế Mỹ. Giới quan sát cho hay, động thái
6


đẩy mạnh các bước khởi động FTA giữa ba cường quốc kinh tế Đông Bắc Á cho thấy
các bên đã gác lại những bất đồng chính trị và cùng nhau khai thác lợi ích cốt lõi.
Với 1,3 tỷ dân, Trung Quốc đang trở thành thị trường tiêu thụ rộng lớn cho các
tập đoàn công nghiệp của Nhật Bản, Hàn Quốc và ý đồ mở rộng kinh doanh của những
ông chủ tư bản. Qua FTA ba bên, Trung Quốc cũng hy vọng sẽ tận hưởng được luồng
vốn của các nước đối tác. Ngược lại, khi đã trở thành nước xuất khẩu với tỷ giá thấp,

Trung Quốc đang gia tăng khả năng xuất khẩu của mình và xâm nhập ngày càng lớn
vào các thị trường.
Theo đánh giá của các chuyên gia, trong sân chơi FTA, Trung Quốc là đối tác được
hưởng lợi nhiều cả về thị trường cũng như thu hút đầu tư. Năm 2013, nước này trong
quan hệ thương mại, Nhật Bản là đối tác nhập siêu từ Trung Quốc với thâm hụt khoản
5.000 tỷ Yên. Nhật xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu là máy móc công nghệ trong
khi nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu và linh phụ kiện.
2.1.3. Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương ( TPP)
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) là hiệp định thương mại tự do
(FTA) đa phương với mục tiêu tự do hóa các nền kinh tế trong khu vực châu Á-Thái
Bình Dương. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của chương trình TPP đã khiến
Trung Quốc lo lắng.
Ngày 12/11/2011, các nhà lãnh đạo của chín nước đối tác TPP (Brunei, Chile,
New Zealand và Singapore, Úc, Malaysia, Peru, Mỹ và Việt Nam) đã công bố những
nét chính của hiệp định TPP mở rộng: thúc đẩy sự đổi mới, nâng cao tăng trưởng kinh
tế và phát triển, và hỗ trợ việc tạo ra và duy trì công ăn việc làm của chín nền kinh tế
năng động trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Trung Quốc tích cực thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực Đông Á và sự hội nhập
này phụ thuộc rất nhiều vào nền kinh tế của các nước láng giềng ở bên ngoài khu vực.
Chương trình TPP được nhiều nhà hoạch định chính sách và các học giả Trung Quốc
nhìn nhận như một nhân tố có thể ngăn cản hội nhập kinh tế khu vực Đông Á. Hơn
nữa, có tiếng nói mạnh mẽ trong giới học thuật và chính sách của Trung Quốc cho
rằng lý do chính đằng sau sự hậu thuẫn của chính quyền Obama đối với chương trình
TPP là mong muốn sử dụng TPP như một công cụ kiềm chế về mặt kinh tế đối với sự
trỗi dậy của Trung Quốc.

7


Trung Quốc đã không quan tâm nhiều đến TPP khi những nước đầu tiên ký hiệp

định này vào năm 2005. Tuy nhiên, khi Washington quyết định tham gia vào các cuộc
đàm phán thì mối quan tâm của Bắc Kinh tăng dần. Khi Mỹ đưa ra đề nghị chính thức
về chương trình đàm phán TPP –điều này cho thấy chương trình TPP đã phát triển từ
một ý tưởng thành một sáng kiến chính sách quan trọng – tại Hội nghị Thượng đỉnh
APEC tổ chức tại Hawaii năm 2011, cộng đồng học giả Trung Quốc đã phản ứng lại.
Các học giả đã tiến hành một đánh giá toàn diện về ý định của Mỹ trong việc thúc đẩy
đàm phán TPP, cũng như ảnh hưởng có thể có của hiệp định này đối với Trung Quốc.
Đánh giá ảnh hưởng về mặt lý thuyết của TPP đối với Trung Quốc, hầu hết các
học giả Trung Quốc đều cho rằng thực hiện thành công TPP sẽ có tác động tiêu cực đối
với Trung Quốc. Tác động tiêu cực này bao gồm “chệch hướng thương mại”, khi FTA
chuyển hướng thương mại từ một nước xuất khẩu hiệu quả hơn sang một nước kém
hiệu quả hơn. Do một số nước thành viên TPP là các nước đang phát triển, xuất khẩu
của họ cũng tương tự như của Trung Quốc nhưng với giá thấp hơn. Điều này gây nên
sự cạnh tranh xuất khẩu giữa Trung Quốc và các nước đang phát triển này. Trong
những trường hợp như vậy, TPP sẽ tạo ra mối đe dọa nghiêm trọng cho hàng xuất khẩu
của Trung Quốc sang Mỹ.
Những năm gần đây, Mỹ đã trở lại châu Á, chủ xướng và vận động các nước
Đông Á tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), một sân chơi mà
Trung Quốc bị gạt ra ngoài.
Trên đây là sơ lược những gì cách tiệp cận và đánh giá của Trung Quốc đối với
TPP và các hiệp định thương mại tự do tiêu biểu, có sức ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế
của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đặc biệt là ngành thương mại.
2.2 . Sự chuẩn bị cho đàm phán các FTA thế hệ mới
2.2.1. Xác định thẩm quyền đàm phán
Thẩm quyền là tư cách, quyền hạn chính thức được thừa nhận trong việc có ý
kiến, xem xét để kết luận và định đoạt về một vấn đề nào đó. Trong việc đàm phán về
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Trung Quốc cũng như các nước tham gia thỏa
thuận các hiệp định này đều có thẩm quyền như nhau trong quá trình đàm phán để đưa
ra những thống nhất cuối cùng, cùng có lợi cho tất cả các bên tham gia. Về phía mình,
Trung Quốc tham gia vào việc đàm phán với cương vị là nền kinh tế đứng thứ 2 trên

8


thế giới, có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều phương diện về kinh tế, chính trị toàn
cầu. Vì vậy, quá trình đàm phán cũng như đi đến thỏa thuận sẽ đòi hỏi sự tranh luận,
phân tích từ nhiều bên tham gia vì mục tiêu có lợi nhất.
2.2.2. Xác định đối tác đàm phán
Việc xác định đối tác hợp tác tùy thuộc vào từng hoàn cảnh và thời điểm cụ thể khiến
việc thỏa thuận các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mang lại lợi ích trên nhiều
khía cạnh cho Trung Quốc.
Việc thúc đẩy Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) trở nên quan
trọng hơn khi số lượng các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương ngày càng tăng đang trở
nên phụ thuộc vào kinh tế ở Trung Quốc, bao gồm các đồng minh truyền thống của
Mỹ như Úc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Điều này làm cho TPP trở thành một phần không
thể tách rời của chính sách của Hoa Kì để khống chế Trung Quốc.
Bị tách trừ khỏi TPP, Trung Quốc đã phản ứng bằng cách tham gia vào việc
thành lập Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), và một Hiệp định
đầu tư ba bên với Nhật Bản và Hàn Quốc. Trung Quốc cũng tham gia bảy Hiêp định
thương mại tự do (FTA) và ba hiệp định thương mại đặc biệt. Trung Quốc đã ký kết
thỏa thuận với Hồng Kông (tháng 6 năm 2003), Macao (tháng 10 năm 2003), ASEAN
(tháng 11 năm 2004), Chile (tháng 11 năm 2005), Pakistan (tháng 11 năm 2006), New
Zealand (tháng 4 năm 2008), Singapore (tháng 10 năm 2008), Peru (Tháng 4 năm
2009), Costa Rica (tháng 2 năm 2010) và Đài Loan (tháng 6 năm 2010). Trung Quốc
cũng đang đàm phán các hiệp định thương mại tự do với Iceland, Australia, Na Uy,
Liên minh Hải quan Nam Phi, Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (GCC) và gần đây nhất là
Hàn Quốc. Sau khi ký kết Hiệp định đầu tư ba bên giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn
Quốc vào tháng 5 năm 2012, ba nước đã công bố việc ra mắt FTA ba bên vào ngày 20
tháng 11 năm 2012 tại Campuchia, cùng ngày với sự ra mắt của RCEP. Mặc dù FTA ba
bên đề xuất giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc được dự đoán là khó khăn cho
một số lĩnh vực nhạy cảm như nông nghiệp, đòi hỏi quá trình đàm phán tinh tế và kéo

dài, không còn nghi ngờ gì nữa các cuộc đàm phán khi hoàn thành sẽ củng cố quan hệ
đối tác kinh tế toàn diện khu vực mà Trung Quốc là thành viên sáng lập. Ngày 16
tháng 12 năm 2011, Tuyên bố của Ủy ban nghiên cứu chung cho một hiệp định
thương mại tự do giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc (CJK) đã được xuất bản,
với kết luận rằng FTA CJK là khả thi và có thể mang lại lợi ích cho cả ba quốc gia. Họ
9


cũng đã thông báo rằng Báo cáo nghiên cứu chung, tài liệu cơ bản để hướng dẫn các
nội dung đàm phán của FTA CJK, đã được hoàn thành và phát hành. Trong đó, thảo
luận về FTA CJK nên được bắt đầu giữa các quan chức chính phủ của ba nước. Tương
ứng, các bên đồng ý khởi động các cuộc đàm phán FTA CJK tại Hội nghị thượng đỉnh
lần thứ 5. Bước đầu tiên, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đã ký một thỏa thuận
quan trọng về bảo vệ đầu tư. Là văn bản pháp lý đầu tiên và sự sắp xếp thể chế giữa ba
nước để thúc đẩy và bảo vệ các hoạt động đầu tư trong CJK, nó được coi là một cột
mốc quan trọng trong hợp tác kinh tế CJK. Sau đó, các cuộc đàm phán FTA CJK chính
thức tiến hành và vòng bắt đầu của đàm phán FTA ba bên đã được tổ chức vào đầu
năm 2013. Cho đến nay, tám vòng đàm phán bao gồm nhiều vấn đề như Thương mại
hàng hóa, Thương mại dịch vụ, Chính sách cạnh tranh, Đầu tư, Sở hữu trí tuệ đã được
tiến hành.
2.2.3. Xây dựng chiến lược đàm phán
Mục đích tìm kiếm nguồn năng lượng, nguyên liệu thô và an ninh lương thực đã
thúc đẩy Trung Quốc tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Được mệnh
danh là nhà máy của thế giới, thành công trong việc theo đuổi các mục tiêu thông qua
các chiến lược chính sách mềm của về “láng giềng tốt” và “tăng trưởng hòa bình” đã
khiến Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và là một siêu quyền lực
toàn cầu.
Trung Quốc đã nỗ lực xây dựng quan hệ khu vực và niềm tin chính trị với các
nước láng giềng, sẵn sàng khám phá mặt bằng chung và lợi ích chung để đóng góp vào
sự hợp tác và ổn định trong khu vực. Những hành động như vậy đã được các nước

chào đón. Ví dụ, quyết định của Trung Quốc không làm giảm giá trị tiền tệ trong cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á năm 1998 đã giành được nhiều lời khen ngợi từ các
nước. Quan trọng hơn, bằng việc ký Hiệp định Khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện
Trung Quốc -ASEAN vào tháng 11/2002, Trung Quốc đã tiến xa hơn vào khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương. Chính sách “láng giềng tốt” không chỉ giúp Trung quốc
giành được sự tin tưởng chính trị từ các nước láng giềng, mà còn giành được nhiều sự
khen ngợi. Ví dụ, một số nước láng giềng đã bắt đầu tìm đến Bắc Kinh và có sự quan
tâm nhất định đến Bắc Kinh. Tương tự như vậy, với chính sách “ tăng trưởng hòa
bình” của mình, Trung Quốc đã làm rõ tại Diễn đàn châu Á năm 2003 rằng sẽ áp dụng
một quá trình tăng trưởng hòa bình ở châu Á - Thái Bình Dương thay vì chỉ củng cố
10


sức mạnh kinh tế của mình. Thông qua hai chiến lược này, Trung Quốc thể hiện mình
không chỉ là một lực lượng hòa bình và ổn định trong khu vực nói riêng mà trên cả thế
giới nói chung và đặc biệt, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có thể hưởng lợi từ sự
tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, tăng sức ảnh hưởng và quyền lực.
Một mục tiêu khác của Trung Quốc là xây dựng một "Trung Quốc Đại lục"
thông qua việc thống nhất với Hồng Kông, Macao và Đài Loan. Thông qua chính sách
này, ý định của Trung Quốc là củng cố vị thế của mình trong khu vực và qua đó tăng
cường an ninh khu vực theo lợi ích của mình.
2.2.4. Những sự chuẩn bị khác
Ảnh hưởng mở rộng của Trung Quốc đang bị phản đối bởi sự quan tâm của Mỹ
trong khu vực. Trong khi cả hai quốc gia đều thấy lợi ích trong mối quan hệ và hợp
tác kinh doanh của họ, Trung Quốc đồng thời không chỉ là đối thủ cạnh tranh thương
mại mà còn là đối thủ chính trị cạnh tranh với Hoa Kỳ về kiểm soát trong khu vực. Do
đó, Hoa Kỳ đã cố gắng tái khẳng định quyền bá chủ của mình trong khu vực thông qua
quyết định ''tái tập trung''. Việc định hướng lại chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối
với tương lai kinh tế và chính trị của Thái Bình Dương sẽ là dẫn đến căng thẳng với
Trung Quốc trong khu vực. Khi đối mặt với các vụ phản đối của Mỹ, Trung Quốc sẽ

phải hợp tác với các cường quốc quan trọng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Đồng thời Trung quốc cần có những sự chuẩn bị cho mình về tiềm lực kinh tế, củng cố
thêm hệ thống chính trị, quân sự mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước để xây
dựng vị thế, tạo sự thuận lợi cho các hiệp định thương mại tự do trên con đường phát
triển trở thành một cường quốc.
2.3 Thực tiễn đàm phán một số FTA thế hệ mới của Trung Quốc
Các FTA “thế hệ mới” là các hiệp định có mức độ cam kết mở cửa thị trường
cao hơn cam kết trong WTO và các FTA đã ký trước đây. Chúng được coi là các hiệp
định “WTO cộng” vốn trước đây đã từng bị từ chối, nay lại được chấp nhận. Các FTA
“thế hệ mới” nuôi tham vọng xử lý cả những vấn đề thương mại ở sau biên giới, như:
đầu tư, lao động, môi trường, minh bạch chính sách, cải cách thể chế,... nên sẽ tạo ra
sức ép to lớn để hội nhập. Các FTAs “thế hệ mới” được đánh giá là đang đặt ra rất
nhiều thách thức cho các thành viên FTA cũng như trật tự thương mại toàn cầu. Tuy

11


nhiên, trong kinh doanh, “không rủi ro thì không lợi nhuận”, và không phải mọi thách
thức đều đến từ FTA, mà đến từ chính bản thân mỗi thành viên.
Nhà bác học Charles Darwin đã từng nói: “Không phải các loài mạnh nhất sẽ
sống sót và cũng không phải các loài thông minh nhất sẽ sống sót. Mà loài thích nghi
tốt nhất với sự thay đổi sẽ sống sót.” Các nước trên thế giới, các doanh nghiệp đều cần
phải học cách “thích nghi tốt nhất với sự thay đổi” để sinh tồn.
Trong mỗi khu vực, Trung Quốc thường chọn một đối tác thương mại để bắt
đầu các cuộc đàm phán. Bằng cách này, Trung Quốc có tiềm năng khai thác các thị
trường lớn hơn được tạo ra bởi sự “chồng chéo” các FTA. Đây là một cách khai thác
các thị trường mới rất hiệu quả của Trung Quốc.
2.3.1 Thực tiễn đàm phán FTA Trung – Nhật – Hàn.
Hiệp định thương mại tự do FTA Trung – Nhật – Hàn luôn được đánh giá là cú
đòn cân sức của Trung Quốc đối với TPP. Trước sự uy hiếp của Mỹ tại TPP, Trung

Quốc luôn tìm cơ hội để có thể đẩy mạnh tiến trình đàm phán và nâng cao hơn nữa,
xúc tiến hơn nữa mối quan hệ Trung – Nhật – Hàn ba bên. Chính vì lẽ đó, ngày
23/3/21018, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản đã tổ chức vòng đàm phán thương
mại mới tại thủ đô Seoul nhằm giải quyết những bất đồng về một thỏa thuận thương
mại tự do (FTA) ba bên. Theo Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn
Quốc, các quan chức của ba nước sẽ thảo luận những phương thức giảm thuế, tự do
hóa thị trường dịch vụ và những vấn đề thương mại toàn cầu khác. Cuộc đàm phán
trên diễn ra sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump thông qua kế hoạch áp đặt mức
thuế 25% và 10% đối với các sản phẩm thép và nhôm nhập khẩu hồi đầu tháng này.
Mới đây nhất vào ngày 22/3/2018, Tổng thống Trump đã ký sắc lệnh áp thuế đối với
hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc có trị giá lên tới 60 tỷ USD, nhằm hạn chế các
hoạt động đầu tư của quốc gia này vào Mỹ, qua đó làm dấy lên những lo ngại về một
cuộc chiến thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nhà đàm phán của Hàn
Quốc Kim Young-sam bày tỏ hy vọng ba quốc gia châu Á sẽ nỗ lực thúc đẩy các cuộc
đàm phán thương mại tự do ba bên với mục tiêu tăng cường hội nhập kinh tế Đông
Bắc Á. Bên cạnh đó, ba nước cũng đang tham gia vào bàn thảo để thực thi Hiệp định
Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) – một thỏa thuận tự do thương mại khu vực
được đề xuất vào năm 2013. Ngoài ra, cuộc gặp giữa ba bên cũng diễn ra song song
với cuộc đàm phán kéo dài hai ngày giữa Seoul và Bắc Kinh. Các vòng đàm phán về
12


FTA ba bên đã được Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc khởi động từ năm 2012
nhằm thúc đẩy một thỏa thuận toàn diện và có chất lượng để bảo đảm tăng cường sự
luân chuyển hàng hóa và dịch vụ giữa ba nền kinh tế hàng đầu trong khu vực.
Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản đã lần lượt tổ chức các vòng đàm phán ba
bên kể từ năm 2013 để tăng cường thương mại và đầu tư giữa các nước, nhưng 12
vòng đàm phán đã diễn ra mà các bên vẫn chưa đạt được bất cứ tiến triển đáng kể nào.
Tuy vậy, vẫn không thể phủ nhận được tác động mạnh mẽ và to lớn của FTA Trung
Nhật – Hàn đối với thương mại Trung Quốc. FTA Trung – Nhật – Hàn thành công sẽ

đánh dấu mức vươn lên thần kỳ, ngoạn mục của các con hổ thương mại vùng Đông
Bắc Á, đặc biệt là Trung Quốc với vị trí nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới như hiện
nay. Thiết nghĩ, việc lo lắng của Mỹ đứng trước sự lớn mạnh của Trung Quốc tại Châu
Á nói riêng và trên phạm vi nền kinh tế thế giới nói chung, âu cũng là điều cần thiết.
2.3.2 Thực tiễn đàm phán FTA giữa ASEAN – Trung Quốc
Ngay từ những ngày đầu cho đến những ngày cuối cùng kết thúc đàm phán
FTA ASEAN – Hồng Kông( Trung Quốc) chúng ta luôn thấy những biểu hiện tốt đẹp
mặc dù diễn ra trên những bình diện chính trị phức tạp và chưa ổn định ở biển Đông.
Trung Quốc là một trong những quốc gia tích cực nhất khi tham gia thỏa thuận thương
mại với các đối tác và cũng là nước có nhiều chương trình đàm phán Hiệp định tự do
thương mại (FTA) nhất khu vực châu Á. Trong số các đối tác ký kết hiệp định thương
mại với Trung Quốc, ASEAN được đánh giá là đối tác quan trọng nhất bởi ASEAN là
khu vực duy nhất để Trung Quốc thực hiện chiến lược ngoại giao kinh tế. ASEAN có
lợi thế kinh tế quan trọng không chỉ đối với Trung Quốc và còn với cả Mỹ và Nhật
Bản. Vì vậy, Đông Nam Á là nơi cạnh tranh chiến lược của các nước lớn. Sự quan tâm
của Trung Quốc đối với khu vực Châu Á toàn diện bao gồm cả chính trị, kinh tế, an
ninh và thậm chí cả lĩnh vực văn hóa. Trung Quốc luôn coi Đông Nam Á là hướng
trọng tâm trong triển khai chiến lược cuả mình, là “bàn đạp” để Trung Quốc hướng ra
thế giới
Ngày 26/8/ 2014, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc
đã nhất trí đàm phán về việc nâng cấp Khu vực Tự do thương mại ASEAN-Trung
Quốc (ACFTA), nhằm đảm bảo duy trì tính năng động và hoạt động thương mại hiệu
quả. Thông tin trên được đưa ra trong tuyên bố chung của các phiên tham vấn giữa các
13


Bộ trưởng Kinh tế ASEAN và Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc (AEM-MOFCOM),
diễn ra tại thủ đô Nay Pyi Taw (Myanmar) trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Kinh
tế ASEAN lần thứ 46. Các bộ trưởng nhấn mạnh thỏa thuận nâng cấp ACFTA là bằng
chứng cho thấy mối quan hệ thật sự tích cực giữa ASEAN và Trung Quốc, đồng thời

làm sâu sắc hợp tác kinh tế song phương theo hướng đôi bên cùng có lợi.
Trải qua quá trình đàm phán nhằm ngày càng nâng cấp hơn nữa, ACFTA đã
chính thức đàm phán thành công và kết thức bằng hiệp định thương mại tư do kí kết
giữa ASEAN và Hồng Kong năm 2017.
“Các nước ASEAN và Hong Kong (Trung Quốc) đã kết thúc đàm phán Hiệp
định thương mại tự do (FTA).”
Kết quả này được chính thức công bố tại cuộc họp Tham vấn giữa các Bộ
trưởng Kinh tế ASEAN và người đứng đầu Cơ quan Thương mại và phát triển kinh tế
Hong Kong (Trung Quốc) trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần
thứ 49. Theo thông báo sau cuộc họp, Hiệp định Tự do thương mại ASEAN- Hong
Kong (Trung Quốc) bao gồm các nội dung về thương mại hàng hóa và các vấn đề liên
quan như thuế quan, quy định về nguồn gốc xuất xứ. Cả hai bên đều đánh giá cao hiệp
định vừa đạt được, vì cho rằng nó sẽ mang lại lợi ích chung. Các cuộc đàm phán Hiệp
định thương mại tự do ASEAN – Hong Kong (Trung Quốc) khởi động vào tháng 7
năm 2014, sau khi các bên chính thức chấp thuận Điều khoản tham chiếu, cũng như
phạm vi và thoả thuận cho các cuộc đàm phán. Với việc ký kết Hiệp định thương mại
tự do này, các nước ASEAN kỳ vọng sẽ đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa vào Hong
Kong (Trung Quốc) cũng như có điều kiện hơn trong việc tiếp cận vốn đầu tư khi
Hong Kong (Trung Quốc) là một trung tâm thương mại, tài chính hàng đầu trên thế
giới. Cũng tận dụng những lợi ích đa phương đó, hiện nay thương mại Trung Quốc
đang ngày càng vươn lên, cùng với sự kết hợp các FTA mới trong thời gian vừa qua
mà Trung Quốc đã nỗ lực kí kết để hướng tới phát triển nền kinh tế, tạo đà và động lực
to lớn trên đấu trường kinh tế giữa Hoa Kì và Trung Quốc.
2.3.3. Thực tiễn đàm phán TPP của Trung Quốc
Tính đến nay, Trung Quốc vẫn chưa chính thức bước chân vào sân chơi TPP.
Những đánh giá của chính phủ Trung Quốc và tầm nhìn của họ về TPP đã được thảo
luận ở trên ( mục 2.1) nên trong phần này, bài tiểu luận xin chú ý đến hai FTA thế hệ
mới quan trọng nhất, có sức ảnh hưởng lớn đối với thương mại và kinh tế Trung Quốc.
14



Trong khi ACFTA đã đàm phán kết thúc thắng lợi thì FTA Trung – Nhật – Hàn vẫn còn
đang trong quá trình đàm phán, hứa hẹn một kì đàm phán với sự ảnh hưởng sâu rộng
của các cường quốc kinh tế này.
3. Những nội dung quan trọng trong các FTA của Trung Quốc.
Các cam kết trong hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có nội dung vượt
ra khỏi phạm vi về giảm thiểu hàng rào thuế quan trong hoạt động thương mại giữa
hai hay nhiều quốc gia. Những cam kết bổ sung này được biết đến dưới dạng
những điều khoản WTO+ (WTO plus) hoặc WTO-X (WTO-extra). Tổng quan,
những điều khoản WTO+ đưa ra các cam kết mạnh mẽ hơn so với các cam kết
tương ứng trong WTO trong khi những điều khoản WTO-X liên quan tới các cam
kết nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của các hiệp định trong khuôn khổ WTO. Cụ
thể, WTO+ thường điều chỉnh thuế liên quan tới các sản phẩm công nghiệp và
nông nghiệp, sau này điều chỉnh thêm về những tiêu chuẩn hàng rào thương mại,
dịch vụ, sở hữu trí tuệ và biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại. WTO-X
thường quy định những nội dung về chính sách cạnh tranh, đầu tư và di chuyển
nguồn vốn cũng như pháp luật môi trường, thị trường lao động và những quy định,
biện pháp liên quan tới visa và tị nạn chính trị.
3.1. Quy định WTO+.
3.1.1. Thương mại hàng hóa.
Là một dạng của hiệp định thương mại tự do nên nội dung về thương mại
hàng hóa vẫn là một trong những nội dung quan trọng, nền tảng của hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới với mục đích giúp các bên tham gia hiện thực hóa
mục tiêu mở rộng thị trường, tạo thuận lợi cho hàng xuất khẩu. Các nội dung chính
về thương mại hàng hóa thường được thỏa thuận bao gồm:
* Thuế quan
Mức độ cắt giảm thuế quan theo hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
thường sâu hơn, tức mức thuế suất lúc này được đưa về 0%, đồng thời cắt giảm
nhanh hơn cam kết trong khuôn khổ của WTO. Căn cứ vào Điều XXIV.8 của
GATT 1994, các bên tham gia hiệp định thương mại tự do nói chung phải cam kết

xóa bỏ thuế quan đối với phần lớn thương mại giữa các bên (substantial all the
trade). Hiện nay, các Thành viên WTO đều chưa đạt được một thỏa thuận chung
giải thích thuật ngữ “phần lớn thương mại”. Tuy nhiên, theo cách hiểu thông
15


thường (không chính thức) thì hiệp định thương mại tự do cần quy định xóa bỏ
thuế quan đối với ít nhất 90% giá trị thương mại và số dòng thuế trong vòng 10
năm. Các dòng thuế không cam kết hoặc có cam kết nhưng không đưa về 0%
thường là các sản phẩm nhạy cảm hoặc đặc biệt nhạy cảm đối với các bên như
dược phẩm, xăng dầu, thuốc lá điếu. Các nước kém phát triển nhất hoặc đang phát
triển có thể được hưởng linh hoạt về lộ trình hoặc diện cam kết.
* Phi thuế quan
Bên cạnh thuế quan, các bên tham gia một hiệp định thương mại tự do cũng
có thể đưa ra cam kết về hạn ngạch thuế quan, đặc biệt đối với các nông sản nhạy
cảm. Thông thường, nhập khẩu trong hạn ngạch từ các đối tác trong cùng hiệp định
sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi, nhập khẩu ngoài hạn ngạch sẽ phải chịu thuế suất
ngoài hạn ngạch (trong nhiều trường hợp là thuế suất ngoài hạn ngạch theo cam kết
WTO). Bên cạnh thuế nhập khẩu, trong một số hiệp định, các đối tác có thể thảo
luận, cam kết cả thuế xuất khẩu, căn cứ vào mục tiêu chính sách của các bên.
Theo hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-Trung Quốc,
“bên cạnh chương trình thu hoạch sớm (điều 6 của hiệp định này), và với quan
điểm thúc đẩy thương mại hàng hóa, các bên đồng ý sẽ tiến hành đàm phán loại bỏ
thuế quan và dỡ bỏ các quy định khác hạn chế thương mại đối với hầu hết các
thương mại hàng hóa giữa các bên (ngoại trừ các mặt hàng cần thiết phù hợp với
quy định của điều 24(8)b của hiệp định chung về thương mại và thuế quan của
WTO)”
Trung Quốc muốn ký kết nhiều FTA với những đối tác thương mại của mình
nhằm hạ thấp thuế nhập khẩu và giành được quyền tiếp cận thị trường nhằm nâng
cao khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu. Hơn một thập kỷ qua, việc giảm thuế

xuất nhập khẩu cùng với việc miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thô và nhiều
nguyên liệu đầu vào khác góp phần quan trọng đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc
như là một trung tâm của mạng lưới sản xuất toàn cầu. FTA giúp nâng cao vị thế
của Trung Quốc trong mạng lưới sản xuất, nên nó đang là một động lực để Bắc
Kinh theo đuổi nhiều thỏa thuận thương mại với các quốc gia khác.
Theo số liệu thống kê, kim ngạch thương mại Trung Quốc - ASEAN đã tăng
9 lần, từ 54,8 tỷ USD (2002) lên 480,4 tỷ USD (2014). Trong khi đó, tổng vốn đầu
tư của Trung Quốc và ASEAN vào các thị trường của hai bên đã tăng lên trên 150
16


tỷ USD. Điều đáng ghi nhận là FTA Trung Quốc – ASEAN đối mặt với ít sự phản
đối hơn so với Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA) và khu vực kinh tế
châu Âu (EEA-European Economic Area) bởi vì mức thuế tương đối thấp và ít
khả năng diễn ra sự thay đổi cơ bản các mô hình thương mại. Sở dĩ mức thuế ưu
đãi thấp như vậy là vì: Một mặt, Trung Quốc thực hiện dỡ bỏ hàng rào thuế quan;
Mặt khác, Trung Quốc dựng những hàng rào phi thuế quan để bảo hộ hàng trong
nước.
3.1.2. Thương mại dịch vụ
Tương tự như thương mại hàng hóa, tại Điều V.1 Hiệp định chung về
Thương mại dịch vụ (General Agreement on Trade in Services – GATS) đề ra điều
kiện về cam kết dịch vụ trong các hiệp định thương mại tự do như sau: (i) hiệp
định cần có phạm vi đáng kể, (ii) loại bỏ phần lớn các biện pháp phân biệt đối xử
hiện có, (iii) không đưa ra các biện pháp phân biệt đối xử mới.
Trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, các cam kết về dịch vụ
thường không chỉ gồm thương mại hàng hóa, mà còn gồm những nội dung khác
như đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử và chính sách cạnh tranh.
Với quan điểm mở rộng thương mại dịch vụ, các bên đồng ý sẽ tiến hành đàm
phán để tự do hóa tích cực thương mại dịch vụ về cơ bản hầu hết các lĩnh vực. các
vòng đàm phán sẽ được bàn trực tiếp tới các vấn đề:

+) Cơ bản loại bỏ tích cực sự phân biệt đối xử giữa các bên, và nghiêm cấm
tạo ra các sự phân biệt đối xử mới liên quan đến thương mại dịch vụ giữa các bên,
ngoại trừ các biện pháp được phép theo điều khoản V(1)b của hiệp định chung về
thương mại và dịch vụ (GATS) của WTO.
+) Phát triển theo chiều sâu và mở rộng phạm vi tự do hóa thương mại dịch
vụ theo hướng các nước ASEAN và Trung Quốc cam kết trong khuôn khổ GATS.
+) Hợp tác dịch vụ được mở rộng giữa các bên nhằm cải thiện tính hiệu quả,
tính cạnh tranh cũng như làm phong phú nguồn cung cấp và phân phối dịch vụ của
các bên.
Hiệp định FTA Trung Quốc –Thụy Sĩ và Trung Quốc –Iceland có quy mô
rộng lớn, mức độ mở cửa cao, chính sách ưu đãi nhiều và là một trong những hiệp
định thương mại tự do toàn diện nhất, mức độ cao nhất của Trung Quốc. Đáng chú
ý, FTA Trung Quốc-Thụy Sĩ đề cập đến các quy tắc mới và các vấn đề mới như thu
17


mua của chính phủ, môi trường, hợp tác lao động và việc làm, quyền sở hữu trí tuệ,
quy định rõ những quyền lợi và nghĩa vụ cụ thể đối với việc bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ. Các ngành như đồng hồ, máy đo đạc của Thụy Sĩ rất có uy tín ở thị trường
Trung Quốc, thị trường du lịch cũng có triển vọng. Iceland – quốc gia đất rộng
người thưa, nên tính bổ sung lẫn nhau và tiềm năng hợp tác với Trung Quốc tương
đối lớn, FTA Trung Quốc – Iceland có thể giảm bớt những trở ngại về chế độ ở
mức độ cao nhất, nâng cao hiệu quả hợp tác giữa hai bên.
Năm 2015, Hiệp định FTA Trung Quốc – Úc chính thức có hiệu lực, tạo lợi
thế cạnh tranh cho các nhà xuất khẩu và đầu tư. So với các FTA đang có hiệu lực,
FTA Trung Quốc-Úc toàn diện hơn và có mức độ tự do hóa thương mại và đầu tư
cao hơn. Việc ký kết FTA Trung Quốc – Úc không chỉ tạo ra một bước nhảy vọt
mới trong mối quan hệ thương mại giữa hai nước mà còn mang đến cho người dân
hai nước những lợi ích thiết thực. Xuất khẩu nông nghiệp của Úc bao gồm thịt bò,
các loại ngũ cốc và hải sản sẽ dần giảm xuống còn 0% đến năm 2021.

Hiệp định FTA Trung Quốc-Hàn Quốc chính thức ký kết (2015) là một bước
tiến nữa hướng đến việc thực hiện thỏa thuận thương mại lớn và cùng có lợi. Trao
đổi thương mại giữa Trung Quốc và Hàn Quốc đã liên tục tăng lên tới 235,4 tỷ
USD (2014) từ 6,4 tỷ USD (1992) khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao.
Năm 2016, Trung Quốc đàm phán về Hiệp định tự do thương mại với Liên
minh kinh tế Á-Âu(EAEU- Euro-Asian Economic Union). Dự kiến thỏa thuận sẽ
đạt được năm 2018. Nga và Kazakhstan, hai nền kinh tế lớn nhất trong EAEU, chủ
yếu cung cấp các hàng hóa như dầu mỏ và kim loại cho Trung Quốc và nhập khẩu
các hàng hóa như sợi, xe hơi và đồ điện tử. Giao dịch thương mại nội khối EAEU
đạt mức 45 tỷ USD trong năm 2015. Thương mại giữa Nga và Trung Quốc đạt 64
tỉ USD (2015) so với tổng kim ngạch thương mại của Trung Quốc là 3.800 tỉ USD.
Năm 2016, Trung Quốc thảo luận với Anh về các vấn đề để đạt FTA song
phương, quy mô lên đến hàng tỉ bảng Anh. Tổng vốn đầu tư của Trung Quốc vào
Anh hơn 3,8 tỉ bảng (2014). Sau khi Anh rời EU (2015), Anh sẽ không còn bị ràng
buộc bởi các điều khoản của EU, điều này có thể làm cho việc đạt các thỏa thuận
thương mại trong tương lai của Anh dễ dàng hơn. Các tổ chức tài chính và doanh
nghiệp lớn của Trung Quốc sẽ dễ dàng hơn trong việc tham gia vào nền kinh tế
Anh thông qua FTA song phương đầy tham vọng. Tuy nhiên, thỏa thuận thương
18


mại quan trọng của Anh với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới cũng gây lo ngại hàng
hóa giá rẻ của Trung Quốc có thể tràn vào Anh dễ dàng hơn.
3.1.3. Đầu tư
Theo hiệp định về đầu tư trong khuôn khổ hiệp định khung về hợp tác kinh
tế toàn diện ASEAN-Trung Quốc, mỗi bên đưa cho bên đầu tư sự đối xử công
bằng, bình đẳng, sự bảo đảm tuyệt đối. Đối với mức độ chắc chắn cao hơn, sự đối
xử công bằng và bình đẳng nói đến các quy tắc mà mỗi bên không được phủ nhận
sự công bằng trong bất cứ thủ tục hành chính hợp pháp nào; sự bảo đảm tuyệt đối
đòi hỏi mỗi bên phải có những biện pháp cần thiết hợp lý để bảo đảm sự bảo vệ và

an ninh của khoản đầu tư của nhà đầu tư bên kia; một hành động mà có sự vi phạm
điều khoản khác trong hiệp định, hay của một thỏa thuận quốc tế riêng biệt, sẽ
không thành lập vi phạm đối với điều khoản này.
3.2. Quy định WTO-X
3.2.1. Lao động và môi trường
Lao động và môi trường đã từng được thảo luận trong một số chương trình
làm việc của WTO như Hội nghị Bộ trưởng tại Singapore năm 1996, Hội nghị Bộ
trưởng tại Seattle năm 1999 nhưng đã bị đưa ra khỏi Chương trình nghị sự thương
mại toàn cầu do các nước đang phát triển cho rằng đây là những hàng rào bảo hộ
mới.
Nhưng trên thực tế, đối với lĩnh vực lao động, trong bối cảnh toàn cầu hóa,
vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động ngày càng được coi trọng trên cơ sở
coi người lao động là người trực tiếp làm ra các sản phẩm trong thương mại quốc
tế, nên trước hết họ phải được bảo đảm các quyền, lợi ích và các điều kiện lao
động cơ bản. Quan điểm này đã trở thành cách tiếp cận của các hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới và là xu thế đàm phán trong những năm gần đây trên thế giới.
Với vấn đề môi trường, hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra ngày
càng nghiêm trọng, đòi hỏi cả các nước phát triển và các nước đang phát triển phải
cùng nhau nỗ lực thực hiện những “chuẩn mực thương mại mới” trong các hiệp
định thương mại.
4. Thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới của Trung Quốc
4.1. Sự chuẩn bị để thực hiện các FTA thế hệ mới

19


Các FTA thế hệ mới có phạm vi cam kết rộng hơn, không chỉ bao gồm các nội
dung cam kết về chính sách thuế quan, chính sách phi thuế quan đối với hàng hóa, dịch
vụ… mà còn mở rộng sang các lĩnh vực mới, tiếp cận tới các chính sách sau biên giới
của các nước như đầu tư, lao động, môi trường, cạnh tranh, doanh nghiệp Nhà nước,

mua sắm công, thương mại điện tử. Các nội dung đã có trong các FTA trước đây và
các hiệp định của WTO, được xử lý sâu sắc hơn trong các FTA thế hệ mới như:
thương mại hàng hóa, bảo vệ sức khỏe động vật và thực vật trong thương mại quốc tế,
thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ (IPR) (với “TRIPS cộng” và “TRIPS siêu
cộng”), tự vệ thương mại, quy tắc xuất xứ, minh bạch hóa và chống tham nhũng, giải
quyết tranh chấp giữa Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài
(ISDS). Ví dụ: trong các FTA thế hệ mới, về thương mại hàng hóa, phần lớn hàng nhập
khẩu sẽ được loại bỏ thuế quan; về thương mại dịch vụ và đầu tư, các cam kết đều cao
hơn so với các cam kết WTO. Như vậy, nếu so sánh với các hiệp định của WTO, thì
các FTA thế hệ mới chính là các hiệp định “WTO cộng”, với những nội dung trước
đây từng bị từ chối, thì nay lại cần thiết phải chấp nhận, bởi bối cảnh thương mại quốc
tế đã thay đổi.
Trung Quốc nhận nhiều cơ hội cũng như những thách thức lớn khi tham gia vào
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Điều này đòi hỏi Trung Quốc phải có
những sự chuẩn bị kỹ lưỡng để có thể tận dụng được hết những cơ hội và giải quyết
được những khó khăn.
Sự chuẩn bị của Trung Quốc thể hiện trước hết ở việc tích cực tham gia kí kết
các FTA thế hệ mới. Bị tách trừ khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương
(TPP), Trung Quốc đã phản ứng bằng cách tham gia vào việc thành lập Hiệp định Đối
tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), và một Hiệp định đầu tư ba bên với Nhật Bản
và Hàn Quốc. Trung Quốc cũng tham gia bảy Hiêp định thương mại tự do (FTA) và
ba hiệp định thương mại đặc biệt. Trung Quốc đã ký kết thỏa thuận với Hồng Kông
(tháng 6 năm 2003), Macao (tháng 10 năm 2003), ASEAN (tháng 11 năm 2004), Chile
(tháng 11 năm 2005), Pakistan (tháng 11 năm 2006), New Zealand (tháng 4 năm
2008), Singapore (tháng 10 năm 2008), Peru (Tháng 4 năm 2009), Costa Rica (tháng 2
năm 2010) và Đài Loan (tháng 6 năm 2010). Trung Quốc cũng đang đàm phán các
hiệp định thương mại tự do với Iceland, Australia, Na Uy, Liên minh Hải quan Nam
Phi, Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (GCC) và gần đây nhất là Hàn Quốc.
20



Trung Quốc cũng đưa ra các chiến lược cụ thể khi tham gia các FTA. Chiến
lược FTA của Trung Quốc cũng là một phần của một kế hoạch lớn hơn, để giải quyết
các mối quan ngại về địa chính trị. Dù nhiều nhà bình luận nghi ngờ các lợi ích kinh tế
đem lại cho Trung Quốc từ Khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA),
bởi cả ASEAN và Trung Quốc đều là các đối thủ cạnh tranh của nhau liên quan đến
nhiều sản phẩm, nhưng Trung Quốc đã áp dụng phương châm “cho đi rất nhiều, yêu
cầu rất ít” trong đàm phán các FTA, vì tầm quan trọng về chính trị trong một FTA như
vậy có giá trị lớn hơn những cân nhắc về mặt kinh tế. Ngoài ra, Trung Quốc đã được
hưởng lợi, khi mà tất cả các nền kinh tế tham gia vào các FTA với Trung Quốc đều
công nhận quy chế nền kinh tế thị trường của Trung Quốc.
Trung Quốc cũng tiến hành chọn lựa đối tác trong các đàm phán thương mại.
Trong mỗi khu vực, Trung Quốc thường chọn một đối tác thương mại để bắt đầu các
cuộc đàm phán. Bằng cách này, Trung Quốc có tiềm năng khai thác các thị trường lớn
hơn được tạo ra bởi sự “chồng chéo” các FTA. Đây là một cách khai thác các thị
trường mới rất hiệu quả của Trung Quốc
4.2. Thực trạng thực thi
Việc thực thi các FTA thế hệ mới của Trung Quốc được thể hiện rõ nét qua các
hiệp định mà Trung Quốc đã ký kết.
Trung Quốc cho rằng vị trí địa lý gần gũi giữa các nước châu Á là một sự đảm
bảo quan trọng cho sự ổn định và phát triển kinh tế của nhau và hợp tác với các nước
xa có thể không có lợi cho sự phát triển kinh tế của chính các nước này. Do đó chính
phủ Trung Quốc đẩy nhanh sự phát triển khu vực thương mại tự do với các đối tác
thương mại lớn của Trung Quốc tại châu Á. Trung Quốc sẽ tích cực thúc đẩy việc
thành lập các FTA mới với nhiều nước láng giềng châu Á nhằm đối trọng với chương
trình TPP dưới sự thúc đẩy của Mỹ. Lợi ích trong TPP và sự xâm lấn sau đó của Mỹ
vào khu vực đã thúc đẩy Bắc Kinh gia tăng tốc độ tiến hành FTA. Trung Quốc muốn
chứng minh với các nước láng giềng rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục là một đối tác kinh tế
song phương đáng tin cậy. Bắt đầu vào đầu năm 2012, Trung Quốc đã ký kết FTA song
phương và đa phương với mười nước/vùng lãnh thổ: Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan,

ASEAN10, Pakistan, Chile, New Zealand, Singapore, Peru và Costa Rica. Và cũng
đang trong quá trình ký kết FTA song phương với một số nước/vùng lãnh thổ khác như
Úc, Iceland, Hàn Quốc, Na Uy, Thụy Sỹ, Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC) và Liên
21


minh Hải quan Nam Phi (SACU). Gần đây nhất, sau bảy năm đàm phán sơ bộ, Bộ
trưởng Thương mại Trung Quốc Chen Deming và Bộ trưởng Thương mại Hàn Quốc
Bark Tae Ho công bố vào ngày 2/5/2012 về việc bắt đầu đàm phán chính thức FTA
Trung-Hàn.
Ở Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực(RCEP) Trung Quốc để Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đóng vai trò dẫn dắt quá trình đàm phán cũng
như để Mỹ đóng vai trò chủ đạo về an ninh ở khu vực Trung và Nam Á cho đến khi
Bắc Kinh thâm nhập sâu hơn vào hệ thống quy tắc ở Đông Á phù hợp với những lợi
ích chiến lược của nước này.
Điều đó đồng nghĩa với việc Bắc Kinh sẽ có thể sử dụng vai trò thống trị về
kinh tế của mình để lôi kéo thêm các quốc gia láng giềng châu Á tham gia vào các thị
trường toàn cầu hóa. Để làm được điều này, Trung Quốc đã tăng cường thực hiện các
dự án thể chế và cơ sở hạ tầng lớn liên Á, đáng chú ý là sáng kiến Vành đai và Con
đường, và Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) vốn có tham vọng cạnh
tranh với Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng phát triển châu Á do Nhật Bản đứng đầu.
Do đó, các dự án cơ sở hạ tầng, các khoản đầu tư và ngay cả hỗ trợ nhân đạo,
chứ không phải là cuộc chạy đua vũ trang, đang tiếp thêm năng lượng cho chính sách
ngoại giao nước lớn mang đặc điểm Trung Quốc, với kết quả ban đầu là việc các nước
châu Á đang ngày càng lệ thuộc vào chính sách chiến lược và kinh tế của Bắc Kinh.
Với Hiệp định đầu tư ba bên giữa Trung Quốc với Nhật Bản và Hàn Quốc, vào
hồi tháng 5/2018, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc
Cường và Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in cũng thể hiện thiện chí hợp tác trong
thượng đỉnh ba bên diễn ra tại Tokyo. Điểm nổi bật trong thượng đỉnh lần này là mối
quan hệ ấm dần lên giữa Nhật Bản – Trung Quốc và Nhật Bản – Hàn Quốc, vốn từng

bị chi phối bởi những vấn đề nhạy cảm như phụ nữ mua vui và chủ quyền quần đảo
Điếu Ngư/Senkaku.
Ở Hội nghị thượng đỉnh Nhật-Trung-Hàn ngày 9/5/2018, Trung Quốc đề xuất 3
nước tiến hành các dự án chung trong những lĩnh vực như xóa đói giảm nghèo, quản lý
thảm họa và tiết kiệm năng lượng thông qua mô hình hợp tác mới "Trung Quốc - Nhật
Bản - Hàn Quốc + X". Ngoài ra, nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng hối thúc các bên liên
quan nắm bắt cơ hội để thúc đẩy phi hạt nhân hóa, duy trì hòa bình và ổn định trên Bán
đảo Triều Tiên. Trước đó cùng ngày, Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 7 giữa các nhà lãnh
22


đạo Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc đã khai mạc tại thủ đô Tokyo của Nhật Bản
sau 2 năm rưỡi gián đoạn. Thủ tướng Nhật Bản đã kêu gọi sự hợp tác chặt chẽ giữa ba
nước để buộc Triều Tiên phải có các hành động cụ thể nhằm hủy bỏ chương trình tên
lửa và hạt nhân, cũng như sớm giải quyết vấn đề các công dân Nhật Bản bị bắt cóc tại
Triều Tiên từ nhiều thập niên trước.
5. Đánh giá chung và rút ra bài học cho Việt Nam
5.1. Đánh giá chung
Trung Quốc đã rất tích cực, chủ động trong tìm kiếm, tham gia, đàm phán, kí
kết các hiệp định FTA. Nền kinh tế thứ hai thế giới, đã có những hướng đi đúng đắn để
tham gia vào FTA.
Thứ nhất là tăng cường hợp tác với các quốc gia trong khu vực không chỉ về lợi
ích thương mại mà còn để nâng cao vị trí của mình trong khu vực. Đó là các chính
sách “ Láng giềng tốt”, “ tăng trưởng hòa bình” làm xích lại mối quan hệ thương mại
của Trung quốc với các nước láng giềng, thành tựu lớn nhất của thể nhận thấy là Hiệp
định tự do của Trung Quốc và ASEAN.. Bên cạnh đó là việc xây dựng một “Trung
Quốc Đại lục”, với những nhượng bộ và chính sách mềm dẻo để thống nhất với Hồng
Kông, Macao, Đài Loan
Thứ hai, Trung Quốc đã tận dụng hiệu quả lợi ích mà bát mì Spaghetti mang lại.
Bằng cách chọn , tìm kiếm mỗi khu vực một quốc gia tiêu biểu để bắt đầu quá trình

đàm phán.khiến cho Trung Quốc khai thác thị trường tốt hơn, có lợi từ sự chồng chéo
của các FTA giữa các nước . Trung Quốc đã kí hiệp định thương mại tự do với các
quốc gia từ nhiều khu vực như: Châu Âu: Switzerland, Iceland, Nam Á: Pakistan,
Maldivies, Châu Mỹ : Chi lê, Peru, Châu úc với Austrailian.
Thứ ba, Trung Quốc xây dựng chiến lược tìm kiếm được nguồn năng lượng và
nguyên liệu thô với các quốc gia tham gia thương mại tự do với Trung Quốc, và xuất
khẩu thành phẩm quay trở lại các quốc gia này.
Thứ tư, nền kinh tế này cũng rất nhạy bén với các FTA trên thế giới, để tránh
những ảnh hưởng tiêu cực của TPP đối với kinh tế Trung Quốc, nước này đã xúc tiến
và Thành lập Đối tác toàn diện khu vực (RCEP), hiệp định 3 bên với Nhật Bản và Hàn
Quốc

23


Thứ năm, Trung Quốc cũng rất tích cực trong chuẩn bị tiềm lực kinh tế và hệ
thống chính trị, quân sự để tận dụng để tận dụng lợi ích của FTA và FTA thế hệ mới,
giúp thúc đẩy nền kinh tế trong nước và vị thế của cường quốc này.
Tuy nhiên, để đi thêm một bước nữa trong kí kết hiệp định thương mại và hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới với các quốc gia lớn và đối tác tiềm năng, có rất
nhiều thách đang chờ đợi Trung Quốc
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực RCEP khó có thể đạt được giữa
các bên khi đây là một FTA với các vấn đề kí kết như thương mại hàng hóa, thương
mại dịch vụ, đầu tư, hợp tác kinh tế và kỹ thuật, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, giải quyết
tranh chấp và các vấn đề, khiến nền kinh tế các nước chịu nhiều áp lực hơn, cạnh tranh
nhiều hơn trong khi mức độ phát triển và vị trí của các quốc gia là khác nhau, ngay cả
các nước trong khối Asean, nằm ở vị trí trung tâm trong hiệp định này, có trình độ
phát triển khác nhau ,cũng mới chỉ có những tiến triển hạn chế trong thương mại tự do.
Hơn nữa các quốc gia tham gia RCEP: Singapore, Malaysia, Việt Nam, Nhật Bản và
các nước tham gia khác dành nhiều sự chú ý nhiều hơn đến TPP.

Hiệp định ba bên CJK giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng có những
giòa cản là sự cạnh tranh giữa ba nước, bất đồng về chính trị và ảnh hưởng của Mỹ
5.2. Rút ra bài học cho Việt Nam
Nền kinh tế Viêt Nam có rất nhiều nét tương đồng với nền kinh tế Trung Quốc,
thông qua việc xem xét đánh giá kinh nghiệm của nền kinh tế đi trước khi tham gia
vào FTA và FTA thế hệ mới sẽ giúp Viêt Nam có những bài học kinh nghiệm, đi theo
những bước đi đúng đắn của nước láng giềng và tránh lặp lại sai lầm của Trung Quốc
trong tự do thương mại. Vì vậy chúng ta cần:
Tích cực tham gia đàm phán kí kết các hiệp định FTA, nhưng cũng phải chủ
động xem xét các đối tác phù hợp, đảm bảo sự phát triển nền kinh tế trong nước, chú
trọng đàm phán với các quốc gia trong khu vực, và tiếp cận thi trường ở nhiều khu vực
khác nhau, tận dụng sự chồng chéo của FTA
Đẩy mạnh các chính sách để tăng cường sự cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước, chính sách hỗ trợ điều chỉnh thương mại, xây dựng tiềm lực kinh tế, chính
trị
Phát triển kinh tế chiều sâu, chuyển dần từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang sản
xuất và xuất khẩu thành phẩm có giá trị cao.
24


Tài liệu tham khảo
Tài liệu Tiếng Việt
1."HIỆP ĐỊNH KHUNGVỀ HỢP TÁC KINH TẾ TOÀN DIỆN ASEAN - TRUNG
QUỐC (4/11/2002)(đã được sửa đổi theo NGHỊ ĐỊNH THƯ ngày 5 tháng 10 năm
2003 tại Bali, Indonesia )"
2. PGS.TS. Phạm Thị Thanh Bình, “Trung Quốc với mục tiêu ký kết các Hiệp định
thương

mại


tự

do

(FTA)”,

ngày

17

tháng

5

năm

2017,

xem

tại:

/>3. TS. Nguyễn Thanh Tâm, “ Tổng quan về các FTA thế hệ mới”, ngày 22 tháng 7 năm
2016, xem tại: />4. TS. Nguyễn Thị Tường Anh, ThS.Nguyễn Thị Minh Thư, “Kinh nghiệm quốc tế về
triển khai hiệp định FTA và bài học cho Việt Nam, ngày 1 tháng 5 năm 2015, xem tại:
/>Tài liệu Tiếng Anh
1."Ling Ling He; Razeen Sappideen, Free Trade Agreements and the
US-China-Australia Relationship in the Asia-Pacific Region, 21 Asia Pac.
L. Rev. 55, 76 (2013) "
2."Ying Bi, Rising Mega RTA: China-Japan-Korea FTA under the New Trade

Dynamism, 8 J. E. Asia & Int'l L. 299, 322 (2015)"

25


×