Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế tác động của quá trình hội nhập APEC đối với sự phát triển của việt nam và vấn đề biển đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.05 KB, 19 trang )

NỘI DUNG
I) Sơ lược về APEC
1.

Lịch sử hình thành APEC
Đến đầu thập kỷ 80, hệ thống thương mại toàn cầu lại đứng trước những đe

doạ nghiêm trọng của tình trạng suy thoái kinh tế. Ứng phó với tình hình đó,
nhiều nước đã áp dụng các công cụ bảo hộ thương mại, những rào cản thương
mại mới để bảo vệ ngành sản xuất và thị trường nội địa, đặc biệt là Hoa Kỳ và
Nhật Bản. Hệ quả của tình trạng trên là tiến trình toàn cầu hoá kinh tế, tự do hoá
thương mại bị đe dọa. Trào lưu khu vực hoá phát triển mạnh mẽ, đi đầu là Khối
cộng đồng kinh tế Châu Âu (EC) với thoả thuận thành lập một thị trường chung
vào năm 1992 và ráo riết thành lập một liên minh tiền tệ với một đồng tiền
chung. Lo sợ EC trở thành một “pháo đài thương mại”, Hoa Kỳ cũng bắt đầu
chuyển hướng từ việc ủng hộ hệ thống thương mại đa phương sang thành lập
những thoả thuận thương mại song phương và khu vực, thể hiện bằng việc thành
lập khu vực thương mại tự do với Canada năm 1983 - nhân tố cơ bản để thành
lập Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) sau này. Năm 1988, Hiệp định
thương mại song phương giữa Hoa Kỳ và Canada được ký kết và năm 1992 kết
nạp thêm Mexico vào NAFTA. Châu Á mặc dù đạt được thành tựu rất to lớn về
khía cạnh kinh tế trong những thập niên 70s và 80s với sự phát triển nhanh
chóng của những nền kinh tế như Nhật Bản và các “con rồng Châu Á”, nhưng
thực chưa có được một hình thức liên kết kinh tế chính thức, liên chính phủ và
toàn khu vực để đảm bảo quyền và lợi ích của các quốc gia Châu Á trước sự gia
tăng của chủ nghĩa bảo hộ và khu vực hoá như Châu Âu và Bắc Mỹ. Lo ngại
rằng các đối tác thương mại chủ yếu của mình chỉ tập trung vào các thị trường
trong nước và gia tăng các hình thức bảo hộ thương mại, những nước có đặc
điểm kinh tế phụ thuộc nhiều vào thị trường bên ngoài là Australia, Nhật Bản và
Hàn Quốc đã nêu sáng kiến thành lập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương (APEC) với mục đích thực hiện đối thoại chính sách nhằm hạn chế



Page | 1


các tác động tiêu cực của chủ nghĩa cô lập khu vực và thúc đẩy quá trình tự do
hoá thương mại, làm động lực/đầu tàu thúc đẩy đàm phán trong GATT/WTO.
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được 12
thành viên thuộc khu vực Châu Á-Thái Bình Dương sáng lập tại Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao và Kinh tế tổ chức ở Can-bê-ra tháng 11/1989 theo sáng kiến
của Australia. Các thành viên sáng lập là Mỹ, Nhật, Australia, New Zealand,
Canada, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Singapore, Brunei, Indonesia và
Malaysia. Tháng 11/1991 kết nạp thêm Trung Quốc, lãnh thổ Hồng Kông và Đài
Loan; tháng 11/1993 thêm Papua New Guinea, Mexico; tháng 11/1994 thêm
Chile và tạm ngừng thời hạn xét kết nạp thành viên trong 3 năm.
Tháng 6/1996, Việt Nam đã chính thức nộp đơn xin gia nhập APEC và Hội
nghị Thượng đỉnh thường niên APEC tại Vancouver - Canada tháng 11/1997 đã
quyết định kết nạp Việt Nam, Nga và Peru là thành viên chính thức của APEC
vào tháng 11/1998, nâng tổng số thành viên lên 21 nền kinh tế. Tại Hội nghị Bộ
trưởng APEC lần thứ 10 tổ chức tại Kuala Lampur, Malaysia, ngày 14/11/1998,
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên APEC. Đồng thời APEC quyết định
tạm ngừng thời hạn xem xét kết nạp thành viên mới thêm 10 năm nữa để củng
cố tổ chức. Đến nay có thêm 9 nền kinh tế đã xin gia nhập APEC là: Ấn Độ,
Pakistan, Ma Cao, Mông Cổ, Panama, Colombia, Sri Lanka, Ecuador, Costa
Rica. Trong số ba thành viên ASEAN chưa phải là thành viên của APEC,
Campuchia và Lào đã thông qua Việt Nam bày tỏ mong muốn gia nhập APEC.
Năm 2007 khi thời hạn ngừng kết nạp thành viên mới hết hiệu lực, APEC sẽ
thảo luận vấn đề kết nạp thành viên mới.

Page | 2



2.

Những nhân tố dẫn đến sự ra đời của APEC
Từ cuối những năm 1970, đặc biệt là trong những năm 1980, sự tăng trưởng
kinh tế liên tục và với nhịp độ cao của châu Á mà nòng cốt là các nền kinh tế
Đông Á đã thu hút sự chú ý của cả thế giới. Tiếp theo "sự thần kỳ" của Nhật
Bản, các nền kinh tế công nghiệp mới (NIEs), ASEAN và đặc biệt là sự nổi lên
của Trung Quốc đã biến châu Á thành khu vực phát triển kinh tế năng động bậc
nhất thế giới.
 Kinh tế khu vực: Từ những năm 1980, các nước châu Á luôn luôn dẫn đầu
thế giới về tốc độ phát triển kinh tế trong khi kinh tế thế giới bị suy thoái vào
đầu những năm 1990. Xuất khẩu thực sự là động lực tăng trưởng kinh tế ở
các nước châu Á.
 Trong giai đoạn 1980-1992, xuất khẩu của các nước châu Á tăng nhanh
nhất thế giới, đạt tốc độ bình quân hàng năm trên 10%, so với 4% của các
nước châu Âu và Mỹ La-tinh và 6% của các nước công nghiệp phát triển
vốn chiếm tới 2/3 thương mại thế giới.
 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các nước châu Á tăng mạnh
 Tiềm lực lớn về xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và vốn đầu tư đòi hỏi phải có
thị trường ổn định, rộng mở và hạn chế đến mức tối đa những hàng rào
ngăn trở sự lưu chuyển của hàng hoá, dịch vụ, đầu tư trong khu vực.
 Do đó, hợp tác và liên kết kinh tế khu vực trở thành nhu cầu cấp thiết để
bảo đảm cho sự phát triển kinh tế cao và ổn định.
 Kinh tế toàn cầu hóa phát triển mạnh, thể hiện qua sự phân công lao động
quốc tế đan xen nhau dưới tác động của những tiến bộ của khoa học - công
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Trong nền kinh tế thế giới, các hoạt
động sản xuất, thương mại, tài chính và dịch vụ ngày càng được quốc tế hóa.
Cùng với toàn cầu hóa và như một sự ứng phó với toàn cầu hoá, xu thế khu
vực hóa cũng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu.

 Từ cuối những năm 1980, liên kết kinh tế khu vực ở châu Âu và Bắc Mỹ
được đẩy mạnh. Các nước thuộc Liên hiệp châu Âu đã thoả thuận lập ra
một thị trường chung vào năm 1992 và ráo riết lập kế hoạch cho một liên
minh tiền tệ với một đồng tiền chung.
 Ở Bắc Mỹ, tháng 1 năm 1989 Mỹ và Ca-na-đa chính thức ký Hiệp định
thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do song phương (CAFTA).
 Châu Á- Thái Bình Dương tuy có ổn định tương đối về chính trị, và là
một khu vực năng động và có nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng chưa
có một hình thức liên kết nào có tính chất chính thức, liên chính phủ và
toàn khu vực để bảo đảm lợi ích của các nước trong khu vực trước sự gia
tăng ngày càng mạnh của chủ nghĩa khu vực bảo hộ ở Tây Âu và Bắc Mỹ.

Page | 3


 Chính trị: Sự điều chỉnh chiến lược của các quốc gia lớn vào cuối những
năm 80 khi chiến tranh lạnh chấm dứt, đặc biệt là sự hội tụ về lợi ích kich tế
cũng như chính trị giữa những nước lớn dẫn đến việc hình thành 1 cơ cấu
kinh tế thương mại trong khu vực.
Ta có thể thấy :Từ những năm 1970 -1980, nhất là cuối những năm 1980,
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã thấy rõ xu thế là các nền kinh tế
ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau một cách chặt chẽ hơn về nhiều mặt. Chỉ nói riêng
về thương mại, năm 1989
 Xuất khẩu hàng hóa của các nước châu Á - Thái Bình Dương sang Mỹ
chiếm 25,8% tổng giá trị xuất khẩu của họ, trong khi đó xuất khẩu của Mỹ
sang châu Á - Thái Bình Dương chiếm 30,5% tổng giá trị xuất khẩu của
Mỹ.
 Xuất khẩu của Nhật Bản sang các nước châu Á - Thái Bình Dương chiếm
33% tổng kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản và giá trị xuất khẩu của
châu Á - Thái Bình Dương sang Nhật Bản chiếm 9,8% tổng kim ngạch

xuất khẩu của các nước này.
 Như vậy, chính sự tăng trưởng cao liên tục và phát triển của nền kinh tế ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa
cũng như sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế đã đặt
ra yêu cầu khách quan, cấp bách cho việc hình thành một diễn đàn mở
rộng trong khu vực nhằm phối hợp chính sách về các lĩnh vực kinh tế,
thúc đẩy tự do hóa và khuyến khích thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu
tư, tăng cường hợp tác kinh tế, khoa học - công nghệ giữa các nền kinh tế
ở châu Á - Thái Bình Dương, qua đó duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
và bảo đảm sự phát triển bền vững của khu vực châu Á - Thái Bình
Dương khi bước vào thế kỷ XXI
3.

Nguyên tắc và mục tiêu hoạt động
a) Mục tiêu hoạt động

APEC được thành lập nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng
trong khu vực đồng thời thắt chặt các mối quan hệ trong cộng đồng Châu Á –
Thái Bình Dương. Các biện pháp được thực hiện là cắt giảm thuế và các rào cản
thương mại, đẩy mạnh XK và xây dựng các nền kinh tế hiệu quả. Mục tiêu dài
hạn của APEC được nêu rõ trong Tuyên bố Bogor 1994 của các nhà lãnh đạo:
“Thương mại và đầu tư tự do và thông thoáng trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương vào năm 2010 đối với thành viên APEC phát triển và năm 2020 đối với
các thành viên APEC đang phát triển”
Để thực hiện mục tiêu đó, các hoạt động của APEC dựa trên cơ sở 3 trụ cột:
 Tự do hoá thương mại và đầu tư
Page | 4


 Thuận lợi hoá kinh doanh

 Hợp tác kinh tế và kỹ thuật
 Tự do hoá thương mại và đầu tư
Tự do hoá thương mại và đầu tư mang lại nhiều lợi ích cho hoạt động hợp
tác kinh tế trong APEC và các nền kinh tế thành viên thông qua việc giảm và
xóa bỏ dần các hàng rào thuế quan và phi quan thuế cản trở hoạt động thương
mại và đầu tư.
Để thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư theo lộ trình và mục tiêu vạch
ra trong Tuyên bố Bogor, các nền kinh tế thành viên cùng nhau tiến hành thực
hiện các IAP theo đó, các quốc gia sẽ đưa ra các cam kết một cách tự nguyện về
tự do hoá về thuế quan, phi quan thuế, dịch vụ và đầu tư. Trong IAP, các nền
kinh tế cần làm rõ chính sách thuế quan, phi thuế quan và đưa ra cam kết về lộ
trình liên tục cắt giảm thuế quan hoặc loại bỏ các biện pháp và hàng rào phi
quan thuế phù hợp với xu thế và nguyên tắc của WTO. Các nền kinh tế đồng
thời đưa ra các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, nới lỏng các quy định và hạn
chế tiếp cận thị trường dịch vụ, đồng thời xem xét tiến hành tự do hoá đầu tư.
 Thuận lợi hoá kinh doanh
Thuận lợi hoá kinh doanh tập trung vào việc giảm chi phí giao dịch trong
kinh doanh, tăng cường trao đổi thông tin và tự do thương mại. Điều cốt yếu là
thuận lợi hoá thương mại giúp các nhà XK ở Châu Á - Thái Bình Dương gặp gỡ
và tiến hành kinh doanh hiệu quả hơn, do vậy làm giảm chi phí sản xuất và dẫn
tới tăng cường trao đổi thương mại, hàng hoá và dịch vụ rẻ hơn, tốt hơn và cơ
hội việc làm nhiều hơn.
Để giúp tạo thuận lợi hóa kinh doanh, các nền kinh tế thành viên cùng nhau
tiến hành thực hiện các CAP trên cơ sở 9 nguyên tắc hoạt động của APEC (được
đề cập ở phần sau). CAP được thực hiện trên 15 lĩnh vực được lựa chọn là: Thuế
quan, Phi Thuế quan, Dịch vụ, Đầu tư, Tiêu chuẩn và Hợp chuẩn, Thủ tục Hải
quan, Quyền Sở hữu Trí tuệ, Chính sách Cạnh tranh, Mua sắm Chính phủ, Nới
lỏng cơ chế chính sách, Quy tắc xuất xứ, Cơ chế Giải quyết Tranh chấp, Đi lại
của Doanh nhân, Thực hiện kết quả Vòng Uruguay, Cơ chế tập hợp và đánh giá
thông tin.

 Hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ECOTECH)
APEC đưa ra Chương trình Hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTECH) nhằm hỗ
trợ phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực của các thành viên APEC
Page | 5


hướng tới sự phát triển kinh tế bình đẳng, cân bằng và bền vững trong khu vực,
tạo điều kiện thuận lợi nhất để triển khai các chương trình hành động thực hiện
mục tiêu Bogor.
Chương trình ECOTECH được thực hiện chủ yếu dưới dạng các dự án, chương
trình hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến đào tạo
và nâng cao năng lực cán bộ, trợ giúp kỹ thuật đối với các nền kinh tế đang phát
triển như Việt Nam trên khía cạnh xây dựng và thực hiện chính sách.
b) Nguyên tắc hoạt động
 Cùng có lợi: Do tính đa dạng của các nền kinh tế trong APEC về chính trị,
văn hoá, kinh tế nên quá trình hợp tác phải bảo đảm được tất cả các nền
kinh tế APEC, bất kể sự chênh lệch mức độ phát triển, đều có lợi.
 Nguyên tắc đồng thuận (consensus): Tất cả các cam kết của APEC phải
dựa trên sự nhất trí của các thành viên. Đây là nguyên tắc đã được các thành
viên ASEAN áp dụng và thu được nhiều kết quả.
 Nguyên tắc tự nguyện: Tất cả các cam kết của các thành viên APEC đều
dựa trên cơ sở tự nguyện (Ví dụ như IAP). Cùng với nguyên tắc đồng thuận,
đây là nguyên tắc khiến cho APEC trở nên khác với GATT/WTO. Tất cả
chương trình tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại của APEC không diễn ra
trên bàn đàm phán mà do các nước tự nguyện đưa ra.
 Phù hợp với nguyên tắc của WTO/GATT: APEC cam kết thực hiện chế độ
thương mại đa phương của WTO và không phải là một liên minh thuế quan,
một Khu vực Tự do thương mại như NAFTA, AFTA.
c) Các thành viên
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được 12

thành viên thuộc khu vực Châu Á-Thái Bình Dương sáng lập tại Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao và Kinh tế tổ chức ở Can-bê-ra tháng 11/1989 theo sáng kiến
của Ôt-xtrây-lia.
Các thành viên sáng lập là Mỹ, Nhật,
Ôt-xtrây-lia, Niu Di-lân, Ca-na-đa, Hàn
Quốc, Thái Lan, Phi-lip-pin, Xinh-ga-po,
Bru-nây, In-đô-nê-xia và Ma-lai-xia.
Tháng 11/1991 kết nạp thêm Trung
Quốc, lãnh thổ Hồng Công và Đài Loan;
tháng 11/1993 thêm Pa-pua Niu Ghi-nê,
Mê-hi-cô; tháng 11/1994 thêm Chi-lê và tạm ngừng thời hạn xét kết nạp thành
Page | 6


viên trong 3 năm; đến tháng 11/1998 kết nạp thêm Việt Nam, Nga và Pê-ru,
đồng thời APEC quyết định tạm ngừng thời hạn xem xét kết nạp thành viên mới
thêm 10 năm nữa để củng cố tổ chức. Đến nay có thêm 9 nền kinh tế đã xin gia
nhập APEC là: Ấn Độ, Pa-kit-xtan, Ma Cao, Mông Cổ, Pa-na-ma, Cô-lôm-bi-a,
Xri-lan-ca, Ê-cua-đo, Cốt-xta-ri-ca. Trong số ba thành viên ASEAN chưa phải là
thành viên của APEC, Cam-pu-chia và Lào đã thông qua Việt Nam bày tỏ mong
muốn gia nhập APEC. Năm 2007 khi thời hạn ngừng kết nạp thành viên mới hết
hiệu lực, APEC sẽ thảo luận vấn đề kết nạp thành viên mới.
Như vậy, cho đến thời điểm này, APEC có 21 thành viên, chiếm khoảng 52%
diện tích lãnh thổ, 59% dân số, 70% nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới
và đóng góp khoảng 57% GDP toàn cầu và hơn 50% thương mại thế giới.
II) Tình hình hoạt động của APEC
1.

11 nhóm cộng tác APEC
Các Nhóm công tác có chức năng thực hiện nhiệm vụ do các nhà Lãnh đạo,


Bộ trưởng và quan chức cao cấp giao cho. Cho tới nay trong APEC đã lập ra 11
Nhóm công tác phụ trách các lĩnh vực sau:
 Hợp tác Kỹ thuật Nông nghiệp,
 Năng lượng
 Nghề cá
 Phát triển Nguồn nhân lực,
 Khoa học và công nghệ
 Bảo vệ tài nguyên biển
 Doanh nghiệp vừa và nhỏ
 Thông tin và Viễn thông
 Du lịch
 Xúc tiến thương mại
Page | 7


 Vận tải
Phần lớn hoạt động của các Nhóm là khảo sát tiềm năng phát triển và thúc
đẩy sự tăng trưởng trong các lĩnh vực do từng Nhóm phụ trách. Thông qua các
hoạt động này, các thành viên APEC xây dựng những mối liên hệ thực sự giữa
các đại diện chính giới, giới doanh nghiệp và học giả.
Hoạt động của các Uỷ ban chuyên đề, các Nhóm đặc trách của SOM và các
Nhóm công tác là nền tảng chủ yếu của diễn đàn APEC. Thực tế, đây là những
diễn đàn nhỏ để các thành viên thảo luận, tư vấn chính sách và hợp tác trên các
lĩnh vực cụ thể. Những nghiên cứu của các Nhóm đặc trách, các chương trình
hợp tác do các Nhóm công tác soạn thảo là cơ sở chủ yếu để Hội nghị Bộ trưởng
đưa ra các quyết định liên quan đến phương hướng hoạt động của APEC.
2.

Ba nhóm đặc trách

Bên cạnh các Nhóm công tác, Hội nghị Quan chức Cao cấp (SOM) đã lập ra
ba Nhóm đặc trách nhằm xác định các vấn đề và đưa ra khuyến nghị về những
lĩnh vực quan trọng cần xem xét trong khuôn khổ hợp tác của APEC. Hiện đang
có ba Nhóm đặc trách của SOM là: Nhóm đặc trách về Mạng các điểm liên hệ
về giới (Gender Focal-Points Network), Nhóm chỉ đạo về thương mại điện tử
(Electronic Commerce Steering Group) và Nhóm đặc trách về Chống khủng bố
(Counter-Terroism Task Force).
 Nhóm đặc trách về Mạng các điểm liên hệ về giới được thành lập từ năm
2003 nhằm tiếp tục các chương trình về hội nhập giới và thúc đẩy sự tham
gia của nữ giới vào các hoạt động thương mại trong khu vực APEC. Tiền
thân của nhóm đặc trách này là Nhóm Tư vấn Ad Hoc của SOM về Hội nhập
giới (the SOM Ad Hoc Advisory Group on Gender Integration - AGGI) tồn
tại từ năm 1999 đến năm 2002.
 Nhóm đặc trách về thương mại điện tử được thành lập từ tháng 2 năm
1999 với vai trò phối hợp và thúc đẩy các hoạt động hợp tác thương mại điện
tử của APEC thông qua hệ thống các quy định, luật lệ, chính sách minh bạch
và nhất quán. Những nỗ lực của Nhóm đặc trách về thương mại điện tử trong
thời gian vừa qua đã góp phần nâng cao lòng tin của các nền kinh tế thành
viên vào lĩnh vực thương mại điện tử, và qua đó khuyến khích việc sử dụng
công nghệ thông tin và thương mại điện tử như In-tơ-nét để tiến hành trao
đổi thương mại, làm đơn giản hóa cách thức trao đổi giữa các nền kinh tế.
Page | 8


 Nhóm đặc trách về Chống khủng bố được thành lập tại Hội nghị các Quan
chức Cao cấp tháng 2 năm 2003, nhằm triển khai Tuyên bố của các nhà Lãnh
đạo về Chống khủng bố và Thúc đẩy tăng trưởng được thông qua tháng 10
năm 2002 tại Mê-hi-cô. Nhóm đặc trách về Chống khủng bố có chức năng
giúp đỡ các nền kinh tế thành viên trong việc xác định và đánh giá những
biện pháp cần thiết để chống khủng bố, phối hợp các chương trình hỗ trợ về

kỹ thuật và năng lực, và thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa APEC với các tổ
chức quốc tế và khu vực trong các vấn đề liên quan đến chống khủng bố.
Các lĩnh vực ưu tiên trong chương trình hoạt động của Nhóm đặc trách về
Chống khủng bố là: Sáng kiến về Bảo đảm An ninh Thương mại trong khu
vực APEC (the Secure Trade in the APEC Region - STAR); ngăn cấm việc
hỗ trợ tài chính cho các hoạt động khủng bố; tăng cường an ninh mạng; sáng
kiến an ninh năng lượng; và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
III) Tác động của quá trình hội nhập APEC với sự phát triển của ViệtNam
1.

Tiến trình Việt Nam gia nhập APEC

Nhận thấy tầm quan trọng của APEC đối với sự phát triển kinh tế của các
nước trong khu vực nói chung và của Việt Nam nói riêng, phù hợp với đường lối
hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và nhà nước ta, ngày 15/6/1996, Chính phủ
Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập APEC. Tiếp đó, theo yêu cầu của APEC,
tháng 8/1996 ta đã gửi cho APEC "Bản ghi nhớ hệ thống chính sách kinh tế
thương mại của Việt Nam" (Aide Memoire). Trong thời gian chờ quyết định
chính thức kết nạp Việt Nam, ta cũng đã xin tham gia 3 Nhóm Công tác để làm
quen và nắm bắt tình hình hoạt động của tổ chức. Ngày 25/4/1997, Việt Nam gửi
đơn xin tham gia với tư cách khách mời vào Nhóm Công tác về Xúc tiến
Thương mại; Nhóm Công tác về Khoa học và Công nghệ Công nghiệp; và
Nhóm Chuyên gia về Hợp tác Kỹ thuật Nông nghiệp của APEC. Đây là những
Nhóm mà ta có khả năng đóng góp, đồng thời có thể đem lại những lợi ích cụ
thể cho ta.
Ngày 14/11/1998, tại Hội nghị
Bộ Trưởng Ngoại giao - Kinh tế,
APEC đã tuyên bố kết nạp Việt
Nam, Nga và Pê-ru. Việc trở thành
thành viên chính thức của APEC là

một bước đi sâu hơn vào con đường
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
góp phần mở rộng kinh tế đối ngoại,
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện điện hoá đất nước mà
Đảng và Nhà nước đã đề ra. Trong APEC, Việt Nam có nhiều đối tác quan trọng
như các nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Úc và Niu Di-lân. Một số
Page | 9


thành viên APEC đang dần trở thành đối tác chiến lược trong kế hoạch phát triển
quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư của Việt Nam.
Quán triệt chủ trương “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”, ngay sau khi gia
nhập APEC, Việt Nam đã tích cực tham gia vào nhiều chương trình, dự án hợp
tác của APEC, tranh thủ được sự hỗ trợ và giúp đỡ to lớn về vốn, khoa học kỹ
thuật, đào tạo nguồn nhân lực, phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội, xoá đói giảm nghèo, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy là thành viên mới nhưng Việt Nam cũng đã tích cực và chủ động đề xuất
nhiều sáng kiến tại các Hội nghị và Diễn đàn khác nhau của APEC. Kết quả
tham gia APEC trong 10 năm qua là rất đáng khích lệ, chúng ta đã bước đầu tạo
được uy tín và hình ảnh tốt đẹp với các thành viên về một Việt Nam năng động,
cởi mở và hội nhập qua gần 20 sáng kiến đưa ra tại các lĩnh vực khác nhau của
APEC.
2.

Lợi ích và khó khăn của Việt Nam khi tham gia APEC
a) Lợi ích khi Việt Nam tham gia APEC


Thứ nhất, mở thêm một diễn đàn phục vụ mục đích đổi ngoại đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ; khắc phục được tình trạng bị các cường quốc lớn
phân biệt đối xử, nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế. APEC là tập hợp có
thế và lực lớn với nhiều thành viên có vai trò quan trọng kinh tế, chính trị (Mỹ,
Trung Quốc, Nhật và Nga) mà ta sẽ có vị trí thành viên hình dáng đóng góp vào
luật chơi chung của cả khu vực. Quan hệ với các thành viên APEC quan trọng
với ta ca về kinh tế lẫn chính trị. Tham gia APEC là tham gia cơ chế tiếp xúc đối
thoại thường xuyên. không chính thức, đặc biệt ở cấp cao với tất cai các nước
lớn ở Châu Á - Thái Bình Dương, sẽ mở ra nhiều cơ hội để ta có thể trao đổi và
giai quyết mọi vấn để, bao gồm ca vấn đề chính trị, an ninh để thúc đẩy quan hệ
song phương, trong đó có quan hệ với Mỹ, Trung Quốc.
Thứ hai, nắm bắt thông tin, cập nhật đầy đủ chiều hướng phát triển của thế
giới để định hướng và điều chỉnh chính sách trong nước. APEC là kho thông tin
và cũng là trung tâm trao đôi thông tin. Việc thu thập thông tin qua các hoạt
động của APEC cũng như việc thiết lập các mạng thông tin giữa các thành viên
của APEC có lợi cho ta.
Thứ ba, tận dụng các chương trình hợp tác kinh tế-kỹ thuật. Chương trình
này bao trùm nhiều lĩnh vực hợp tác với trên 250 dự án đang triển khai, tập
trung vào một số vấn để liên quan tới hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về phát
Page | 10


triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quan lý, phát triền
hạ tằng, tiếp nhận thông tin, phát triển thị trường… mà ta cần và rất có lợi cho
các nước đang phát triển, được các nước này đề cao. Những chương trình này đã
tạo điều kiện cho ta tham gia phát triền bồi dưỡng nguồn nhân lực và tiếp cận
với công nghệ mới trong các lĩnh vực sàn xuất, nhằm nâng cao hiệu quà cạnh
tranh của nền kinh tế
Thứ tư, nâng cao khả năng quản lý, kinh doanh, mở rộng quan hệ thương

mại và đầu tư, thâm nhập thị trường: Các đối tác kinh tế của ta chủ yếu là trong
APEC và là thị trường nhiều tiềm nâng chưa được khai thác hoặc khai thông.
Tham gia APEC ta có cơ hội đối thoại chính sách với các nước phát triền hơn,
hoặc phối hợp quan điềm với các nước khác trên các diễn đàn quốc tế nhàm giải
toà các rào cản thương mại, đấu tranh đòi đối xử công bằng trong thương mại và
trong quan hệ kinh tế với các nước.
Thứ năm, trao đổi kinh nghiệm, tạo thêm động lực thúc đẩy phát triền nội
lực của các doanh nghiệp và điều chính cơ cấu kinh tế trong nước, tăng tính
cạnh tranh khu vực. Thông qua hợp tác APEC Việt Nam có cơ hội nâng cao
năng lực quán lý và sàn xuất trong nước, đẩy mạnh công cuộc cải cách cơ chế
chính sách trong nước theo hưởng minh bạch hơn, binh dàng và thuận lợi hơn
cho các hoạt động kinh doanh, đồng thời ta cũng khai thác được kinh nghiệm và
các nguồn lực quốc tế nhằm xây đựng các khung khố pháp lý theo định hướng
nền kinh tế thị trường. Trong thời gian hơp tác vừa qua, ta đã huy động được sự
hỗ trợ của APEC vào rất nhiều chương trình xây dựng và cái cách pháp luật như:
Luật Cạnh tranh và Chống độc quyền, Luật Thương mại, Pháp lệnh Thương mại
Điện tử
Thứ sáu, cơ chẻ hợp tác tự nguyện trong APEC là tiên đề tốt chuân bị cho
việc hội nhập sâu hơn và rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. APEC
đóng vai trò là diễn đàn đối thoại, trao đổi, hợp tác, hỗ trợ trên cơ sở tự nguyện.
Các cam kết không mang tính ràng buộc do đó không gây sức ép mà mang tính
khuyến khích, thúc đấy. Các diễn đàn trong APEC cũng là cơ hội để các nước
đang phát triển như Việt Nam kêu gọi sự trợ giúp và linh hoạt của các nước
thành viên.
b) Khó khăn khi Việt Nam tham gia APEC
Mặc dù có nhiều thuận lợi và cơ hội nhưng tham gia vào quả trình hợp tác
APEC cũng có nhiều khó khăn thách thức chính. trong đó có cá những thách
thức chủ quan và khách quan.
Page | 11



Thứ nhất, nhận thức về APEC trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cùa
cán bộ, giới doanh nghiệp, quần chủng nhân dân chưa nhiều. Vấn đề này một
phần là do công tác tuyên truyền, phố biến về APEC mới chỉ được thực hiện ở
mức độ hạn chế cà về nội dung và đối tượng. Mật khác, một bộ phận lớn các
doanh nghiệp còn tò ra thờ ơ, chưa nhân thức đầy đú về vai trò và lợi ích mà
APEC mang lại cho chính bản thân họ.
Thứ hai, hệ thống pháp luật về thương mại còn nhiều bất cập, chưa phù hợp
với thông lệ quốc tế. Cho tới nay, hệ thống chính sách thương mại và các chính
sách vỉ mô có liên quan khác của ta vẫn còn nhiều bất cập và không đồng bộ,
chưa thực sự khuyến khích được việc mớ rộng quan hệ buôn bản, đầu tu, hợp tác
kinh tể kỷ thuật của Việt Nam trong APEC: nhiều biện pháp chính sách tạo lợi
thế cho kinh tể thương mại mà các tô chức quốc tế không phù hợp với thông lệ
kinh doanh quốc tế và nguyên tắc của các tổ chức quốc tế.
Thứ ba, hạn chế về nguồn nhân lực. Hiện ta đang thiếu đội ngũ cán bộ giỏi
có chuyên môn và kinh nghiệm trong hợp tác kinh tế quốc tế. Trình dộ cán bộ
tham gia trực tiếp vào công tác hội nhập cũng như thực hiện các cam kết quốc tế
nhìn chung còn yếu kém. Một trong số những nguyên nhân là từ trước tới nay ta
chưa có một chính sách quy hoạch đồng bộ và ưu tiên thích đáng. Vấn đề thực
thi chính sách còn nhiều bất cập cũng có một phần nguyên nhân là sự hạn chế về
trình độ chuyên môn và năng lực thực thi pháp luật. Cụ mẽ hơn, sự hạn chế hiểu
biết về cơ chế thị trường và sự vận hành của nó, các học thuyết, các quy định
của thương mại quốc tế, các vấn để nói cộm trong thương mại quốc tế đang gây
trở ngại cho việc tham gia một cách xây dựng và chủ động trong hợp tác APEC.
Thứ tư, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhìn chung còn yếu kém, mặt
khác ta chưa khai thác triệt để các cơ hội trong APEC để phục vụ cho các doanh
nghiệp. Những nỗ lực ban đầu là đáng kể nhưng chưa thể so sánh với tiềm năng
cơ hội của quá trình hợp tác này. Có thể nêu một vài hoạt động còn chưa được
khai thác như sau:
 Doanh nghiệp Việt Nam chưa thông qua hợp tác APEC để khai thác thông

tin về thị trường, về chính sách thương mại và chính sách đầu tư của các
Thành viên APEC. Nguyên nhân chủ yếu là do hầu hết các doanh nghiệp
chưa quan tâm tới tiến trình này, hoặc chi coi đây là công việc của chính phủ
mà chưa nghĩ tới việc khai thác nó để phục vụ cho muc dich kinh doanh của
mình;

Page | 12


 Các hoạt động tham gia của doanh nghiệp rất hạn chế do điều kiện khó khan
về tài chính. Chính vì vậy số lượng doanh nghiệp tham gia các hội chợ đầu
tư. diễn dân doanh nghiệp trẻ. hoậc các hoạt động giao lưu khác còn hạn chế.
Thứ năm, khó khăn mang tính khách quan trong hợp tác APEC là tỉnh bị
động và lệ thuộc cua các nền kinh tế nhỏ và đang phát triển. Những nền kinh tế
này, chủ yếu là do hạn chế về tiềm lực kinh tế. có lợi ích hạn chế hơn và có xu
hướng bị lệ thuộc vào quan điểm của các nước lớn. Ví dụ, các nước lớn có thể
đưa vào chương trình nghị sự những nội dung có lợi nhiều hơn cho mình (ví dụ
như chống khủng bố) và thường có sự chuẩn bị rất tốt để phát huy cơ hội đó,
trong khi đó` các nước nhỏ hơn vẫn có cơ hội tương tự, nhưng lhường không có
đủ năng lực để phát huy. Vấn đề chính ở đây là trong bối canh nền kinh tế thế
giới có nhiều biến động thì sự bị động và lệ thuộc sẽ hạn chế rất nhiều cơ hội và
lợi
3.

Quá trình hoạt động của Việt Nam và những đóng góp của Việt Nam
cho APEC
a) Quá trình hoạt động của Việt Nam

Ngày 14/11/1998, tại Hội nghị Bộ Trưởng Ngoại giao - Kinh tế, APEC đã
tuyên bố kết nạp Việt Nam, Nga và Pê-ru.

Tuy là thành viên mới nhưng Việt Nam cũng đã tích cực và chủ động đề xuất
nhiều sáng kiến tại các Hội nghị và Diễn đàn khác nhau của APEC. Với gần 20
sáng kiến đưa ra cho nhiều lĩnh vực khác nhau của APEC.
Năm 2006, Việt Nam chủ động đăng cai tổ chức năm APEC 2006. Đây là
một đóng góp hết sức quan trọng của Việt Nam đối với tiến trình hợp tác APEC.
Đến nay Việt Nam là thành viên tích cực và được đánh là một Việt Nam
năng động, cởi mở và hội nhập qua gần 20 sáng kiến đưa ra tại các lĩnh vực khác
nhau của APEC. Và các thành viên của APEC chiếm 75% vốn FDI, 50% nguồn
viện trợ phát triển (ODA), 73% xuất khẩu và 79% nhập khẩu của Việt Nam.
Năm 2017, Việt Nam tiếp tục đăng cai tổ chức APEC 2017 tại Đà Nẵng
b) Những đóng góp của Việt Nam cho APEC
Trong 10 năm qua những đóng góp mang tính nổi bật và thiệt thực nhất được
thể hiện trên ba khía cạnh chủ yếu sau:
Với tư cách là thành viên, chúng ta tham gia đầy đủ và có trách nhiệm vào
nhiều chương trình hợp tác của APEC. Với một số chương trình nổi bật :
Page | 13


 Đây là những chương trình hữu hiệu trong việc thúc đẩy thuận lợi hóa
thương mại và đầu tư trong khu vực.
 Chương trình hành động tập thể (CAPs) trong các lĩnh vực Tiêu chuẩn và
Hợp chuẩn (SCSC)
 Thủ tục Hải quan, Kinh tế kỹ thuật (ECOTECH)
 Chương trình thẻ đi lại của doanh nhân APEC (ABTC) và Chương trình
Hành động Quốc gia của APEC (IAPs).
 Ngoài những nội dung kinh tế thương mại truyền thống, ta còn tham gia vào
các lĩnh vực hợp tác mới của APEC như an ninh con người, y tế, giáo dục,
du lịch...
Với tư cách là một nền kinh tế đang phát triển có một số kinh nghiệm
phát triển nhất định, ta đã đóng góp hiệu quả vào một số lĩnh vực như thủy

sản, nông nghiệp, phòng chống dịch cúm gia cầm, dịch bệnh... thông qua việc
chia sẻ kinh nghiệm và thông tin với các nền kinh tế khác, nhất là với các nền
kinh tế đang phát triển của APEC. Đồng thời chúng ta cũng học được nhiều kinh
nghiệm hay của các nền kinh tế phát triển hơn trong APEC.
Ngoài lĩnh vực hợp tác cụ thể, ta cũng tham gia vào một số công tác điều
hành chung của APEC như tích cực tham gia vào các Ủy ban chủ chốt như Ủy
ban Thương mại và Đầu tư, Ủy ban Kinh tế, Ủy ban chỉ đạo của các quan chức
cao cấp (SOM) về hợp tác kinh tế kỹ thuật; các tiểu ban quan trọng về tiêu
chuẩn hợp chuẩn, thủ tục hải quan và các Nhóm Công tác quan trọng như Đi lại
của doanh nhân, Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Y tế và đối phó với tình trạng khẩn
cấp, Nhóm công tác về chống khủng bố v.v...
Có thể nói đóng góp nổi bật và thiết thực nhất của Việt Nam đối với APEC
là việc Việt Nam đăng cai và tổ chức thành công Năm APEC 2006, trong đó một
số kết quả của hội nghị đã là những dấu ấn quan trọng trong tiến trình hợp tác
APEC như Chương trình Hành động Hà Nội về thúc đẩy thực hiện mục tiêu
Bogo và các cam kết cải cách APEC.
Việt Nam dù là một nước vào sau và còn kém phát triển so với các nước
khác, tuy nhiên vai trò của Việt Nam trong các vấn đề phát triển APEC vẫn giữ
một vị trí quan trọng, bình đẳng so với các nước thành viên khác.“ Quan điểm
hợp tác trong APEC và hội nhập quốc tế nói chung của Việt Nam là cố gắng
phát huy vai trò chủ động, tích cực và có trách nhiệm phù hợp với khả năng và
điều kiện của đất nước. Trong bối cảnh thế giới đang thay đổi sâu sắc với nhiều
mối đe dọa an ninh phi truyền thống, sau thành công của Năm APEC 2006 đến
nay, ta đã chú trọng hơn đến việc chủ động đề xuất nhiều sáng kiến hợp tác mới
trong hàng loạt lĩnh vực như thuận lợi hóa thương mại, sở hữu trí tuệ, chống
Page | 14


tham nhũng, phòng chống dịch bệnh và đối phó với tình trạng khẩn cấp...” (Phó
Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm)

Ta đã tổ chức các Hội thảo “Đối thoại giữa các nền kinh tế, cộng đồng doanh
nghiệp và các đối tác khu vực và quốc tế quan trọng của APEC về đối phó với
tình trạng khẩn cấp”; Hội thảo về “Chính sách quản lý xã hội đối với người di cư
nhằm hạn chế sự lây nhiễm của HIV/AIDS”. Ta đã đề xuất đăng cai tổ chức Hội
thảo APEC về “An ninh hàng không” tại Việt Nam năm 2009 và đã được các
nền kinh tế thành viên APEC tán thành. Kể từ năm 2006 đến nay, ta đã thực hiện
được 26 dự án về hỗ trợ xây dựng năng lực trong hợp tác APEC với tổng giá trị
hơn 1,5 triệu đô la.
Chú trọng Tham gia công tác điều hành một số mặt hoạt động của APEC
như tích cực hoạt động trong Nhóm bạn của Chủ tịch, thực chất là hỗ trợ Chủ
tịch APEC đề ra các sáng kiến và định hướng chính sách chung trong APEC.
Chủ động tham gia nhiều sáng kiến hợp tác mới trong APEC như việc là một
trong 3 thành viên nghiệm Quy tắc Ứng xử Doanh nghiệp với khối doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong khuôn khổ hợp tác chống tham nhũng, tham gia diễn tập thử
nghiệm Chương trình phục hồi thương mại APEC
IV) Ảnh hưởng của biển Đông đến APEC
a) Thực trạng
Vấn đề nhạy cảm nhất của Hội nghị APEC diễn ra ngày 17-11-2015 tại Manila
(Philippines) chính là xung đột trên Biển Đông, đặc biệt là việc Trung Quốc xây
trái phép các đảo nhân tạo trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
 Về phía Philipine:
Trong hội nghị đó, Hội nghị APEC 2015 đã chứng kiến những cuộc tranh luận
căng thẳng về vấn đề Biển Đông. Các quốc gia có tuyên bố chủ quyền trong khu
vực này, bao gồm cả chủ nhà Philippines, đang lung túng trước sự quyết đoán
ngày càng tăng của Trung Quốc ở vùng biển này.
Trước đó nước chủ nhà Philippines tuyên bố nghị trình chính thức của APEC
không đề cập đến Biển Đông. Tuy nhiên người phát ngôn Bộ Ngoại giao
Philippines Charles Jose cho biết các nhà lãnh đạo sẽ thảo luận vấn đề này bên
lề hội nghị.
“Chúng tôi không kiểm soát những gì các nhà lãnh đạo sẽ đưa ra bên lề hội nghị

- ông Jose nhấn mạnh - Những gì đang xảy ra ở Biển Đông gây bất ổn và đe dọa
Page | 15


hòa bình, ổn định khu vực, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển và
thịnh vượng kinh tế của các nước trong khu vực”.
 Về phía Mỹ:
Phía Mỹ nhiều lần muốn vấn đề yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc trên Biển
Đông được đề cập tại các diễn đàn quốc tế. Trong khuôn khổ Hội nghị Bộ
trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) vừa diễn ra tại Kuala Lumpur,
Mỹ và Nhật Bản gây sức ép để nước chủ nhà Malaysia đưa vấn đề Biển Đông
vào tuyên bố chung dù Trung Quốc bày tỏ ý nguyện trái ngược.
Phía Mỹ nhiều lần muốn vấn đề yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc trên Biển
Đông được đề cập tại các diễn đàn quốc tế. Trong khuôn khổ Hội nghị Bộ
trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) vừa diễn ra tại Kuala Lumpur,
Mỹ và Nhật Bản gây sức ép để nước chủ nhà Malaysia đưa vấn đề Biển Đông
vào tuyên bố chung dù Trung Quốc bày tỏ ý nguyện trái ngược.
Trước hội nghị APEC, Mỹ đã triển khai tàu khu trục và máy bay ném bom B-52
tới tuần tra gần các đảo nhân tạo Trung Quốc xây trái phép trên Biển Đông
nhằm phủ nhận đòi hỏi chủ quyền vô lý của Bắc Kinh. Đại sứ Mỹ tại Philippines
Philip Goldberg cũng cho biết Tổng thống Obama sẽ thảo luận căng thẳng Biển
Đông và quan hệ quân sự song phương khi gặp Tổng thống Philippines Benigno
Aquino.
 Về phía Nhật:
Tại Manila, Tổng thống Aquino và Thủ tướng Nhật Shinzo Abe dự kiến đồng ý
một thỏa thuận cho phép Tokyo cung cấp cho Manila thiết bị quân sự đã qua sử
dụng, có thể bao gồm máy bay tuần tra trên Biển Đông. Đây là lần đầu tiên
Nhật đồng ý cung cấp trực tiếp tiếp bị quân sự cho một quốc gia khác.
 Về phía Việt Nam:
Trong tuần này, Việt Nam cũng đã ký thỏa thuận thiết lập quan hệ Đối tác chiến

lược với Philippines, góp phần làm sâu sắc thêm quan hệ an ninh giữa hai quốc
gia để đáp lại sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc trên Biển Đông.

Page | 16


b) Giải pháp

 Nên đưa sự thật về sự bành trướng không ngừng, vô lý của Trung Quốc đối
với Biển Đông trên khắp các diễn đàn của APEC để tạo áp lực về phía dư
luận cho Trung Quốc
 Các nước trong APEC nêu vấn đề này trước toà án quốc tế để có sự phân sử
công bằng hơn về vấn đề Biển Đông.
 Nếu Trung Quốc có những hành động không hữu nghị thì APEC nên có
những biện pháp mạnh mẽ hơn về kinh tế cũng như chính trị để ngăn cản
Trung Quốc bành trướng hơn nữa

Page | 17


KẾT LUẬN
APEC đã mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội cũng như nhiều thách thức.
Nhưng nhìn chung, gia nhập APEC đã giúp cho Việt Nam có những bước
chuyển mình mạnh mẽ về kinh tế. Chính vì vậy, để có thể trở thành một quốc gia
đáng tin cậy trong APEC, Việt Nam phải có những giải pháp kịp thời và hợp lý
để khắc phục những thách thức và đưa kinh tế Việt Nam phát triển toàn diện trên
mọi mặt. Trong thời đại hiện nay, khi nền kinh tế đang phát triển với một tốc độ
vượt bậc, Việt Nam càng phải cố gắng nhiều hơn, có những hướng đi cụ thể cho
việc phát triển kinh tế của đất nước, để sánh vai với các quốc gia trong khu vực
cũng như trên toàn thế giới.

Về vấn đề biển Đông, là một quốc gia nhỏ bé về cả mặt kinh tế và chính trị,
hạn chế và yếu hơn nhiều mặt, nhiệm vụ của Việt Nam là phải cố hết sức để bảo
vệ chủ quyền biển đảo, giương cao khẩu hiệu “Hoàng Sa Trường Sa là của Việt
Nam”, kêu gọi sự quan tâm cũng như sự giúp đỡ của tất cả các quốc gia trên
toàn thế giới, không cho Trung Quốc thực hiện được âm mưu bá chủ của mình,
giữ cho Việt Nam luôn hòa bình và phát triển.

Page | 18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />6390003
2. Việt Nam với những nỗ lực thúc đẩy hợp tác APEC,Vietnamese dilopmatic
missions
3. />4
4. Diễn đàn Châu Á- Kinh tế Thái Bình Dương, Wikipedia
/>%E1%BB%A3p_t%C3%A1c_Kinh_t%E1%BA%BF_ch%C3%A2u_
%C3%81_-_Th%C3%A1i_B%C3%ACnh_D%C6%B0%C6%A1ng
5. Việt Nam kỉ niệm 15 năm gia nhập APEC, Báo điện tử vnexpress,
15/11/2013
6. />7. />91019085619/nr091028145119/ns091029133217
8. />m/ChiTietVeToChucQuocTe?diplomacyOrgId=61
9. />
Page | 19



×