Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp đọc hiểu văn bản truyện ngắn trong chương trình ngữ văn THPT doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.7 KB, 19 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Dạy văn nói chung, dạy phân môn Đọc văn (phần truyện) nói riêng ở
trường THPT là dạy cho các em học sinh biết tìm tòi, khám phá ra thế giới văn
chương nghệ thuật. Làm thế nào để học sinh đồng cảm với những giá trị tư
tưởng nhân văn cần đạt tới trong mỗi tác phẩm là nhiệm vụ của giáo viên dạy
Ngữ văn. Lep Tôn-xtôi nói: “Vấn đề không phải biết là quả đất tròn mà là làm
thế nào để biết được quả đất tròn?”. Chân lí là quý báu! Nhưng cách tìm ra chân
lí còn quý hơn nhiều. Vì thế, cái khó trong việc dạy văn, nhất là dạy văn bản
truyện ngắn là làm sao hướng cho học sinh tìm ra cái hay, cái đẹp ở đó.
Trong chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông, văn bản truyện ngắn
chiếm một số lượng khá lớn. Điều này phản ánh đúng mối tương quan của thành
tựu truyện ngắn so với những thể loại văn xuôi khác trong đời sống văn học của
chúng ta.
Kiến thức văn bản truyện ngắn trong chương trình Ngữ văn THPT được
đưa vào giảng dạy một cách có hệ thống. Đó là những văn bản truyện ngắn đặc
sắc, có giá trị đem lại hứng thú cho giáo viên và học sinh, có ý nghĩa lớn trong
việc nâng cao nhận thức thực tiễn, giúp học sinh có thêm kiến thức, hiểu biết
thêm về đời sống xã hội và con người.
Một trong những vấn đề gây khó khăn không nhỏ cho thầy và trò đối với
chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông là tiếp nhận, cảm thụ các văn bản
truyện ngắn. Do đặc trưng của thể loại truyện khác với các thể loại văn học khác
nên khi đọc - hiểu văn bản truyện ngắn học sinh thường tỏ ra lúng túng. Tiếp
nhận văn bản truyện ngắn đòi hỏi độc giả không chỉ có khả năng tư duy lo gic
mà cả khả năng tư duy trừu tượng. Vì vậy, đọc - hiểu các văn bản truyện ngắn
quả là khó khăn và đầy thách thức đối với cả giáo viên lẫn học sinh. Về phía học
sinh, các em chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá tác phẩm, trong khi
một số văn bản truyện ngắn trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT chỉ là đoạn
trích mà muốn đọc - hiểu hiệu quả buộc phải đặt trong hệ thống toàn văn bản.
Do vậy, qua quá trình giảng dạy, nghiên cứu học hỏi tôi đã chọn đề tài: Một
số biện pháp đọc - hiểu văn bản truyện ngắn trong chương trình Ngữ văn


Trung học phổ thông. Từ đó, tôi hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc
đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THPT hiện nay.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu để viết sáng kiến kinh nghiệm đọc - hiểu văn bản truyện
ngắn trong chương trình Ngữ văn THPT nhằm tiếp cận nội dung kiến thức tốt
hơn, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh THPT, góp phần
nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm văn chương.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các văn bản truyện ngắn trong chương trình Ngữ văn THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: các tài liệu tham khảo, giáo trình
có nội dung liên quan.
1


- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra, khảo sát, dự
giờ đồng nghiệp, tổng kết kinh nghiệm, tham khảo ý kiến chuyên gia,…
- Nhóm phương pháp xử lý thông tin: Thống kê, phân tích, tổng hợp…
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Lần này, người viết lựa chọn đề tài về một số biện pháp hướng dẫn học sinh
cảm thụ văn bản truyện ngắn trong chương trình Ngữ văn THPT mà không đi vào
nghiên cứu một bài dạy cụ thể.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Luật Giáo dục, Điều 28.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tích tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc
theo nhóm, rèn kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Tài liệu bồi dưỡng cán
bộ quản lí và giáo viên về biên soạn đề kiểm tra, xây dựng thư viện câu hỏi và

bài tập cũng đã viết: "Hoạt động giáo dục chỉ đạt hiệu quả cao khi tạo lập được
môi trường sư phạm lành mạnh, bầu không khí thân thiện, phát huy ngày càng
cao vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh".
Rõ ràng khi có được sự say mê hứng thú, con người sẽ làm việc tự nguyện
có hiệu quả hơn, thành công hơn. Học sinh cũng vậy, khi có hứng thú, các em sẽ
kiên trì làm bài tập, không nản chí trước câu hỏi khó, không những thế còn hăng
hái trả lời, nhận xét bổ sung câu trả lời của bạn, chủ động nêu câu hỏi, đưa ra
những thắc mắc để các bạn cùng trả lời, thầy cô giải thích thấu đáo.
Điều kiện đầu tiên của mọi sự phân tích, đánh giá, thẩm định giá trị của tác
phẩm truyện là người đọc có cảm thấy văn bản đó hay, hấp dẫn và xúc động
thực sự hay không. Nghĩa là trong đọc - hiểu văn bản truyện ngắn, người đọc dù
ít hay nhiều phải huy động tri giác và sau đó là liên tưởng, tưởng tượng để thâm
nhập vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Nếu quá trình này không xảy ra thì
người học, dù bằng cách nào đi nữa, cũng khó có thể hiểu được sâu sắc văn bản.
Quá trình tâm lí nói trên chính là đọc - hiểu văn bản truyện ngắn.
Đọc - hiểu văn bản văn học nói chung, văn bản truyện ngắn nói riêng là
hoạt động mang tính đặc thù trong tiếp nhận văn học. Mục đích của đọc - hiểu là
cảm nhận, phát hiện, khám phá, chiếm lĩnh bản chất thẩm mỹ của văn chương
nhằm bồi dưỡng mỹ cảm phong phú, tinh tế cho học sinh. Với quan niệm như
trên về đọc - hiểu, tôi nhận thấy việc xác lập các biện pháp rèn luyện cách đọc hiểu cho học sinh khi dạy văn bản truyện ngắn ở trường phổ thông có ý nghĩa
quan trọng. Theo tôi, đọc hiểu văn bản truyện ngắn là cơ sở để xác lập các biện
pháp bộc lộ và thúc đẩy sự đồng sáng tạo của người đọc. Do đó, phần đề xuất
các biện pháp của tôi khác về nội dung của từng biện pháp và cũng không là tiến
trình của một tiết dạy trên lớp.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Luận ngữ viết: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không
bằng say mà học”. Vậy niềm yêu thích say mê chính là động lực thúc đẩy, nuôi
dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi người. Vì thế với vai trò
2



tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của học sinh, hơn ai hết việc
phải tìm ra nhiều biện pháp để phát huy cao nhất tính tích cực sáng tạo của
người học, gây niềm hứng thú say mê học tập ở các em chính là nhiệm vụ quan
trọng đối với mỗi giáo viên.
Hiện nay đa số phụ huynh chỉ định hướng cho con em mình lựa chọn các
môn học tự nhiên. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến tâm lí học sinh,
làm giảm niềm yêu thích hứng thú của các em với môn Ngữ văn
Trong giờ học Đọc văn phần truyện ngắn có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng học sinh THPT không say mê, theo tôi có những nguyên nhân cơ bản
sau:
- Về chương trình: Có một số điều bất cập. Thiết kế chương trình chưa thật
hợp lý. Có nhiều tác phẩm lượng kiến thức cần khai thác rất lớn như Chữ người
tử tù - Nguyễn Tuân, Hạnh phúc một tang gia - Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo Nam Cao, hay các tác phẩm văn xuôi (phần truyện) trong chương trình Ngữ văn
lớp 12 ) như Vợ chồng A phủ - Tô Hoài, Vợ nhặt - Kim Lân, Chiếc thuyền ngoài
xa - Nguyễn Minh Châu... thời lượng phân phối lại rất ít (2 tiết đến 3 tiết/bài).
- Về phía giáo viên: Không ít giáo viên dạy Ngữ văn khi ứng dụng công
nghệ thông tin vào giảng dạy còn gặp khá nhiều khó khăn hoặc chưa đạt được
kết quả mong muốn. Do vậy, ngoài các tiết dự thi, thao giảng, thanh tra dạy tốt,
đa phần tiết dạy Ngữ văn là tiết "dạy chay", thầy vẫn giữ phương pháp cũ thuyết
giảng. Chính điều đó đã làm giảm rất nhiều sự hào hứng, sáng tạo của học sinh.
Một số giáo viên, nhất là những giáo viên mới ra trường chưa thật làm chủ kiến
thức khi lên lớp, không mở rộng, nâng cao kiến thức bài dạy, kích thích sự hứng
thú của học sinh.
- Về phía học sinh: Phần nhiều học chưa phát huy được trí tưởng tượng
sáng tạo, năng lực đọc - hiểu văn bản truyện ngắn để hiểu được những tầng
nghĩa sâu xa của nó. Bên cạnh đó, đa phần học sinh hiện nay đã quen với lối học
thụ động, không bộc lộ suy nghĩ riêng của bản thân mình khi đến với văn bản
truyện ngắn.
Do vậy, để giúp học sinh cảm thụ được tác phẩm truyện trong chương trình

Ngữ văn THPT là điều mà bản thân tôi cũng như nhiều giáo viên trăn trở.
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trong đề tài này, chúng tôi xin đưa ra một số biện pháp cụ thể giúp học
sinh đọc - hiểu văn bản truyện ngắn trong chương trình Ngữ văn THPT.
2.3.1. Phương pháp dẫn nhập
* Khái niệm: Dẫn nhập còn gọi là “lời mở đầu”, là một phương thức dẫn
dắt học sinh một cách có ý thức, có mục đích đi vào tri thức mới, là khâu mở
đường, bắt đầu của dạy học trên lớp. Dẫn nhập (theo nghĩa chữ): “nhập” (vào)
và “dẫn” (hướng dẫn, dẫn dắt). Vậy “nhập” có nghĩa là đưa vào, tiến vào để cho
học sinh từ từ đi vào tinh thần tâm thái, sự chú ý đều được đưa vào trong quá
trình giảng dạy bài mới, càng nhập càng tốt.
* Yêu cầu đối với phương pháp dẫn nhập: Thông thường, người dạy chỉ
dành khoảng 2-3 phút để dẫn vào bài mới (bằng nhiều cách). Vậy nên, yêu cầu
của lời dẫn cần ngắn gọn, súc tích, khái quát cao, lời gọn ý sâu, lấy ít dẫn nhiều
3


chứ không dài dòng, tùy tiện. Nội dung dẫn nhập cần khái quát, cô đọng nhưng
phải phong phú. Ngôn ngữ trong sáng, tinh tế, súc tích.
* Một số cách dẫn nhập
- Trích dẫn danh ngôn
Danh ngôn là những lời răn dạy và những câu triết lí hàm nghĩa sâu sắc, có
tác dụng răn dạy, được mọi người sử dụng hằng ngày trong cuộc sống như:
“Học, học nữa, học mãi” (Lê - nin); “Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn
về tâm hồn khó chữa” (M. đơ Mông-te-nhơ); “Tình yêu là niềm say mê đem lại
hạnh phúc cho người khác” (F.Sile); “Đường đi khó không khó vì ngăn sông
cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học)… Cũng có
danh ngôn là thành ngữ, tục ngữ như “Giấy rách phải giữ lấy lề”, “Ăn cây nào
rào cây ấy”, “Ở hiền gặp lành”, “Uống nước nhớ nguồn”,….
Trích dẫn danh ngôn để vận dụng vào dẫn nhập khi dạy học trên lớp có thể

thu hút được sự chú ý của học sinh, tạo sự mới mẻ, khác lạ, kích thích và nâng
cao hứng thú học tập ở học sinh.
Ví dụ: Bài Tấm Cám (truyện cổ tích) [trang 65, Ngữ Văn 10 - tập 1]
+ GV: Trong quan niệm của dân gian, chúng ta thường nghe “ác giả ác báo
- gieo gió gặp bão”, hoặc “ở hiền gặp lành”,… những triết lí đó chúng ta
vẫn gặp trong cuộc sống thường nhật, đã trở thành triết lí nhân sinh được
ông cha ta đúc kết mà nên. Những triết lí sống đó, được đúc kết trong nhiều
tác phẩm, tiêu biểu là truyện “Tấm Cám”. Truyện Tấm Cám cho thấy sự
chiến thắng trọn vẹn của cái thiện đã chứng minh cho quy luật “ác giả ác
báo”, “ở hiền gặp lành” của dân gian. Muốn hiểu tình tiết của câu chuyện
như thế nào – chúng ta cùng đi vào bài học.
- Kết hợp thực tế
Kết hợp thực tế có nghĩa là kết hợp giữa thực tế học tập - cuộc sống - xã
hội. Kết hợp thực tế sẽ giúp cho hoạt động dạy học thiết thực hơn, gần gũi hơn.
Vừa làm phong phú nội dung dạy học, vừa phát huy tính tích cực ở học sinh và
tính chỉ dẫn của người dạy.
Ví dụ: Bài Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu [trang 69, Ngữ Văn
12- tập 2]
+ GV: Nền kinh tế càng phát triển sẽ kéo theo nhiều sự đổi thay trong cuộc
sống. Và một trong những vấn đề đó là sự suy đồi về đạo đức, xuống cấp
trầm trọng của các mối quan hệ vợ - chồng, cha - con, anh - em,… Vậy,
trong đời thường, đã bao giờ các em chứng kiến cảnh một người chống vũ
phu đánh vợ? Một đứa con bất chấp đạo lí đánh lại cha không? Đúng vậy.
Thực trạng đau lòng đó đã được Nguyễn Minh Châu khám phá trong bình
diện của nền văn học mới – bình diện đạo đức thế sự thông qua tác phẩm
Chiếc thuyền ngoài xa.
- Sử dụng tranh ảnh minh họa
Sử dụng tranh ảnh minh họa học sinh sẽ có được những cảm nhận mới mẻ
khi tiếp cận văn bản. Đây là một biện pháp hỗ trợ dạy học không thể thiếu trong
giảng dạy nói chung. Biện pháp này có thể thay cho lời dẫn để tạo cảm giác

chân thực, tăng thêm tính rõ ràng, tính sinh động khi thuyết giảng.
4


Ví dụ: Bài tùy bút: Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân [trang 185, Ngữ
Văn 12- tập 1]
+ GV: (cho học sinh xem hình ảnh của con sông Đà – chú ý chọn hình ảnh
con sông vừa hung bạo vừa trữ tình). Sau đó, để học sinh tự phát hiện vẻ
đẹp của con sông rồi giáo viên dẫn vào bài mới
- Sử dụng máy chiếu, video
Sử dụng máy chiếu là một loại dạy học trực quan so với sử sụng tranh ảnh
minh họa, băng ghi hình,… Dù hình thức có khác nhau nhưng đều đem lại hiệu
quả tích cực trong dạy học. Sử dụng máy chiếu có phạm vi tương đối rộng. Tiêu
đề, các mục đề, tóm tắt nội dung, từ vựng, hình tượng trong bài, hiệu ứng,… đều
có thể chiếu. Sử dụng máy chiếu so với việc dạy học truyền thống sẽ tiết kiệm
thời gian, sức lực và học tập có phần hiệu quả nhanh gọn, khoa học hơn.
Ví dụ: Bài Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân [trang 107, Ngữ Văn 11-tập 1]
khi dạy tiết 3 về “Cảnh cho chữ”:
+ GV: Chiếu bức ảnh thứ người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang
cho chữ trong bức tranh và hỏi: “Các em có biết ai không?”.
+ HS: trả lời
+ GV: Nhìn hình ảnh chúng ta sẽ thấy một cảnh tượng xưa nay chưa từng
có như thế. Vậy vì sao lại gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có, chúng ta
cùng tìm hiểu để có câu trả lời.
- Thảo luận có chủ đề
Phương pháp dẫn nhập thảo luận có chủ đề là lúc giáo viên vừa bước vào
lớp, đúng lúc học sinh đang chờ đợi giáo viên giảng bài; hoặc khi lớp chưa ổn
định, chưa chú ý thì lúc này giáo viên có thể áp dụng.
Ví dụ: Bài Vợ nhặt - Kim Lân [trang 23, Ngữ văn 12 - tập 2]
+ GV: Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân sau Cách mạng

tháng Tám. Vậy nhan đề Vợ nhặt cho chúng ta liên tưởng đến những ý
nghĩa nào? Chúng ta có thể hiểu như thế nào?
+ HS trả lời: Vợ nhặt có nghĩa là người ta nhặt được ở ngoài đường hơặc ở
đâu đó như một vật vô chủ... có nghĩa là bất kì ai cũng có thể nhặt được.
Người vợ mất hết cả giá trị đáng quí bằng người theo không.... Giá trị con
người bị rẻ rúng như rơm rác, có thể nhặt được ở bất kì đâu,....
+ GV: Đó đều là những ý kiến làm cơ sở để chúng ta xây dựng nội dung bài
học này. Vợ nhặt có ý nghĩa gì – chúng ta cùng phân tích bài học.
2.3.2. Đọc diễn cảm và tóm tắt văn bản truyện ngắn
* Đọc diễn cảm
- Khái niệm: Đọc diễn cảm là hệ thống phương pháp đọc sáng tạo, bản chất
của đọc sáng tạo là xác định mối quan hệ cảm xúc riêng tư của người đọc về giá
trị nội dung và hình thức của tác phẩm. Đọc diễn cảm đòi hỏi cả giáo viên và
học sinh phải có cảm xúc. Đọc diễn cảm là một phương tiện giáo dục bồi dưỡng
đạo đức, thẩm mĩ cho các em học sinh, giúp các em cảm thụ được cái hay, cái
đẹp của văn học làm cho các em yêu thích văn học từ đó có ý thức rèn luyện đọc
diễn cảm.
- Một số cách rèn luyện phương pháp đọc diễn cảm
5


+ Đọc diễn cảm của giáo viên:
Việc đọc diễn cảm của người giáo viên dạy văn có vai trò quan trọng trong
việc hướng dẫn học sinh thâm nhập tác phẩm. Vì vậy, giáo viên dạy văn cần
phải có sự chuẩn bị kĩ, đọc đúng, đọc hay, đọc thật diễn cảm, bộc lộ được cảm
xúc của nhà văn. Người giáo viên có thể có nhiều hình thức hướng dẫn học sinh
đọc: đọc mẫu, hướng dẫn học sinh đọc, vừa đọc vừa bình vừa tóm tắt tác phẩm,
đọc phân vai.
+ Đọc diễn cảm của học sinh:
Yêu cầu học sinh phải đọc đúng, đọc diễn cảm ở nhà trước, khi đến lớp

thầy hướng dẫn học sinh cách đọc, khơi gợi cảm xúc của các em, khích lệ các
em đọc một cách hứng thú
Có thể xem đọc diễn cảm là nghệ thuật của trình diễn. Đọc diễn cảm không
phải là “khoe giọng” mà là sự thể hiện xúc động của trái tim. Diễn cảm ở đây
hoàn toàn không phải là ở sự uốn éo đầu lưỡi mà thể hiện những cảm xúc nội tại
của tâm hồn. Rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm là biện pháp hữu hiệu trong rèn
luyện cảm thụ tác phẩm truyện cho học sinh.
* Tóm tắt văn bản
- Khái niệm: Tóm tắt văn bản truyện là dùng lời văn của mình, của người
tóm tắt (mà không được dùng hay sao chép lời văn của tác giả) để nêu một cách
ngắn gọn các nội dung chính, các sự việc chính của câu chuyện. Qua đó, người
đọc, người nghe có thể hiểu, nắm bắt được những nội dung chính của văn bản
vừa tóm tắt.
- Một số kĩ năng cần áp dụng trong tóm tắt văn bản:
+ Xác định ý chính, nội dung của mỗi đoạn văn và văn bản.
+ Diễn đạt lại các ý chính và nội dung đó bằng một vài câu thích hợp.
+ Dùng từ ngữ thích hợp để liên kết các câu lại với nhau thành một văn bản
nhỏ.
Khi tóm tắt cốt truyện, cần chú ý vị trí của các nhân vật và mối quan hệ
tương tác giữa chúng. Nhân vật chính thường xuất hiện nhiều lần trong tác
phẩm, có vai trò chi phối đối với các nhân vật khác và góp phần chủ yếu thể
hiện nội dung, bộc lộ chủ đề của tác phẩm. Bởi thế, cần quan tâm đến những
bước ngoặt trên đường đời nhân vật chính.
Ví dụ: Cốt truyện của truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) xoay quanh trục
hai nhân vật điển hình Chí Phèo – Bá Kiến và diễn biến mối quan hệ giữa hai
nhân vật này. Tóm tắt cốt truyện của Chí Phèo, phải dựa vào lai lịch, thân phận
của Chí từ một đứa bé bị bỏ rơi đến đi ở, làm thuê rồi vô cớ bị cụ Bá đẩy đi ở tù,
dựa vào những lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau khi ở tù về để thấy được quá
trình tha hóa tất yếu của Chí khi gặp phải kẻ thống trị xảo quyệt như Bá Kiến,
thấy được số phận bi thảm của kẻ trượt quá xa khỏi xã hội loài người. Mặt khác,

khi tóm tắt truyện ngắn này, cần đặc biệt chú ý đến thời điểm Chí Phèo tình cờ
gặp thị Nở, được người đàn bà ấy thương yêu, chăm sóc. Người cố nông lương
thiện với những ước muốn bình dị bấy lâu nay bị vùi lấp trong con quỷ dữ Chí
Phèo sống dậy… Năm ngày đêm được làm người. Rồi thị Nở đột ngột cự tuyệt
chung sống. Sự kiện này khiến Chí Phèo vỡ lẽ, tự ý thức ra tấn bi kịch bị cự
6


tuyệt quyền làm người ở mình để từ đó đi đến hành động trả thù quyết liệt cuối
tác phẩm.
2.3.3. Đọc - hiểu văn bản truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện
* Khái quát về tình huống truyện
Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể
loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến
cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng
được bộc lộ sắc nét nhất.
Phân loại tình huống cơ bản có 3 loại: tình huống hành động, tình huống
tâm trạng, tình huống nhận thức.
* Phương pháp tiếp cận tình huống
- Xác định tình huống truyện
+ Đặt câu hỏi: Sự kiện nào bao trùm và chi phối toàn bộ thiên truyện này?
Hay sự kiện bao trùm nào đã giúp tác giả dựng lên toàn bộ truyện ngắn này?,...
+ Tổng hợp các tình tiết: Lướt qua những tình tiết chính và xác định một
trong các tình tiết ấy đóng vai trò bao trùm, chi phối quán xuyến toàn truyện,
hay chúng chỉ là những thành tố nối kết với nhau để làm thành một sự kiện lớn
hơn, sự kiện ấy mới trùm lên tất cả?
+ Tìm tên gọi để định danh. Đây là khâu khá then chốt, chưa tìm được tên
thích hợp thì xem như tình huống vẫn còn nằm ngoài tầm tay của ta vậy.
* Phân tích tình huống
Phân tích trên các bình diện cơ bản sau:

- Diện mạo của tình huống (bình diện không gian)
- Diễn biến của tình huống (bình diện thời gian)
- Mối liên kết của tình huống với các khâu khác của tác phẩm (chi phối đến
tổ chức hình thức của văn bản nghệ thuật truyện ngắn)
* Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống
- Về quan niệm: Toát lên quan niệm gì về nhân sinh, thẩm mĩ?
- Về cảm xúc: Chứa đựng cảm xúc chủ đạo gì?
Khi giảng dạy một tác phẩm truyện ngắn, sau phần giới thiệu chung (giới
thiệu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả; giới thiệu về hoàn cảnh ra
đời tác phẩm), trong phần Đọc – hiểu văn bản, GV thường hướng dẫn học tìm
hiểu về tình huống truyện. Xuất phát từ tình huống truyện, tiến hành khai thác
tác phẩm về các khía cạnh: nhân vật, kết cấu, nghệ thuật trần thuật,… hướng dẫn
học sinh rút ra chủ đề tác phẩm.
Ví dụ: Tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân:
+ Xác định tình huống
Hạt nhân của truyện ngắn Vợ nhặt là một cuộc hôn nhân oái ăm, kì lạ. Và
đó chính là cái "tình thế nảy ra truyện", cái tình huống của câu chuyện:
Tràng – anh nông dân nghèo thô kệch, dân ngụ cư bỗng “nhặt” được vợ
trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
+ Phân tích tình huống truyện
++ Việc Tràng “nhặt vợ” tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên đối với tất cả mọi
người:
7


. Khi Tràng dẫn vợ về thì cả xóm ngụ cư ngạc nhiên. Trước hết là lũ trẻ.
"Lũ ranh" ấy bỗng nhiên mất hẳn đi một bạn chơi, khi có đứa chợt nhận ra
quan hệ của họ là "chông vợ hài". Người lớn thì ngớ ra "không tin được dù
đó là sự thật". Khi đã rõ, họ tò mò thì ít mà ái ngại nhiều hơn: "Giời đất này
còn rước cái của nợ đời về".

. Tiếp đến là bà cụ Tứ cũng quá đỗi ngạc nhiên: hoàn toàn không tin nổi không tin vào mắt mình, không tin vào tai mình (quái, sao lại chào mình
bằng "u").
. Ngay cả Tràng vẫn không hết ngạc nhiên vì mình được vợ: chẳng những
cứ đứng "tây ngây" giữa nhà tối hôm trước mà đến tận hôm sau, qua một
đêm có vợ rồi nhưng "hắn cứ lơ lửng như người đi ra từ trong một giấc
mơ".
++ Tình huống “nhặt vợ” là tình huống oái ăm, kì lạ:
. Tràng - một gã trai nghèo khổ, thô kệch, lại là dân ngụ cư, lâu nay ế vợ,
bỗng dưng "nhặt" được vợ, mà lại là vợ theo không.
. Tràng lấy vợ vào lúc không ai lại đi lấy vợ - giữa những ngày nạn đói
đang lăm le cướp đi mạng sống của mỗi người.
. Một đám cưới thiếu tất cả mà lại như đủ cả (thiếu tất cả những lễ nghi tối
thiểu nhất của một đám cưới, nhưng nó lại có cái quan trọng nhất, cốt lõi
nhất: sự thương yêu gắn bó thực lòng).
++ Tâm trạng của những nhân vật trước tình huống này chứa đầy những
cảm xúc ngổn ngang, mâu thuẫn và các nhân vật có sự thay đổi về tính
cách:
. Bà cụ Tứ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì sự trớ trêu
của số phận: có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới chịu lấy con
mình? Bà mẹ nghèo nặng trĩu những lo âu cho tương lai con “liệu chúng nó
có nuôi nhau nổi sống qua được cơn đói khát này không?”. Câu hỏi từ đáy
lòng của bà mẹ chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh của kiếp nghèo không
lối thoát. Trong lời nghẹn nghào tâm sự có cả sự xót xa, một chút ân hận vì
đã không làm được đầy đủ bổn phận của người mẹ đối với con.
. Tâm trạng của Tràng cũng biến đổi liên tục. Lúc đầu Tràng tỏ ra lo lắng
trước cảnh nghèo “… thóc gạo này mà còn đèo bòng”. Sau đó, Tràng chấp
nhận đưa vợ về ra mắt với tâm trạng lâng lâng hạnh phúc, ngượng ngịu, bối
rối. Sau một ngày có vợ, Tràng cảm thấy vui sướng, hạnh phúc và “nên
người”. Tràng nhận ra được trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, với
mẹ, với vợ và những đứa con sau này. Tràng tin tưởng sự đổi đời ở tương

lai.
-> Người vợ nhặt: Trước khi làm vợ Tràng, chị liều lĩnh, chao chát. Khi về
làm vợ, chị tỏ ra lễ phép, đảm dang, hiền hậu, biết thu vén gia đình và có
hiểu biết về thời sự.
+ Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện
. Tố cáo được tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, kẻ đã gây ra nạn
đói khủng khiếp, không chỉ cướp đi sinh mệnh của mấy triệu người Việt
Nam, mà còn hạ thấp giá trị con người.
8


. Phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của con
người: ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao
tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
2.3.4. Phân tích chi tiết
Trong một văn bản truyện ngắn thường có nhiều chi tiết nhưng không phải
mọi chi tiết đều có giá trị ngang bằng nhau. Có các chi tiết có thể lướt qua hoặc bỏ
đi cũng không sao. Có các chi tiết thể hiện thần thái nhân vật, cô đọng nội dung, giá
trị của tác phẩm, như một giọt nước mà qua đó có thể thấy cả cốc nước. Bởi thế,
người đọc văn, phân tích văn bản truyện ngắn phải biết lướt qua những chi tiết vụn
vặt, ngẫu nhiên, đồng thời nắm bắt lấy và tập trung phân tích các chi tiết tiêu biểu,
đắt giá nhất.
Đọc - hiểu văn bản truyện ngắn, giáo viên và học sinh phải ý thức rõ đâu là
điểm chính, biết dừng lại phân tích sâu một số chỗ mình tâm đắc. Đã không ít
người viết về Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), phân tích quá trình trỗi dậy của sức
sống tiềm tàng trong nhân vật Mị vào đêm mùa xuân nghe tiếng sáo gọi bạn tình
nhưng mấy ai cảm nhận hết ý nghĩa của hành động Mị uống rượu trong đêm ấy.
Tiếng sáo gọi bạn tình ngoài đầu núi vọng tới bắt đầu đánh thức nỗi nhớ hạnh
phúc thời tuổi trẻ, ý niệm về thời gian trong người phụ nữ đang sống trong đắng
cay, bất hạnh. Mị thiết tha bổi hổi rồi ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi

sáo. Khi từ trong buồng bước ra (căn buồng chật hẹp, tối tăm, chỉ có một lỗ cửa
sổ vuông bằng bàn tay bấy lâu nay giam hãm tuổi xuân của người phụ nữ xinh
đẹp, tài hoa) Mị thấy xung quanh mình đang rất ồn ào. Cả nhà thống lí Pá Tra vừa
ăn xong bữa cơm Tết cúng ma, đang đánh chiêng, ốp đồng, nhảy múa và lại uống
rượu bên bếp lửa. Nhìn mọi người như thế, Mị nghĩ “Ngày Tết, Mị cũng uống
rượu”. Cô lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Cần lí giải hành động uống rượu của
Mị lúc ấy thế nào? Đó chính là một phản ứng từ sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy.
Là con người, ai chẳng có quyền uống chút rượu ngày Tết. Người ta uống thì Mị
cũng phải uống để chứng tỏ mình còn là một con người. Thế là ý thức về quyền
làm người, quyền bình đẳng đã trở lại trong Mị. Mị uống đến thế để dằn nén
xuống nỗi uất ức và cả khát vọng sống đang trỗi lên trong mình. Mị uống đến thế
cho bõ tức, bõ hờn, uống như sự trả thù lũ người độc ác kia. Chi tiết trong văn
chương là thế - vừa chân thực vừa chứa đựng nhiều ý nghĩa. Lắm khi qua một
chút bên ngoài ta phải đọc ra thế giới nội tâm của nhân vật.
2.3.5. Phân tích nhân vật
Trong văn bản truyện ngắn, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật chính là
nơi mang chở nội dung phản ánh, tư tưởng, chủ đề của văn bản, là nơi kí thác
quan niệm về con người, về nhân sinh của nhà văn. Bởi thế, phân tích nhân vật
trở thành con đường quan trọng nhất để đi đến giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo
của văn bản, để nhận ra lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Một nhân vật văn học lớn
bao giờ cũng thể hiện một số phận, một quan niệm nhân sinh độc đáo và thường
điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai cấp, thậm chí một thời đại nào đó.
Một nhân vật văn học thành công cũng như một con người sinh động ngoài
đời vậy. Đó là “con người này” trong sự phân biệt với con người khác. Nó có
tính cách riêng, số phận riêng không thể lẫn. Bởi thế, suy cho cùng, phân tích
9


một nhân vật làm sáng tỏ một tính cách, một số phận. Song vấn đề là nhà văn
không trực tiếp bước vào tác phẩm mà nói lên điều ấy. Tính cách, số phận nhân

vật hiện lên sinh động trong tác phẩm qua nhiều phương diện cụ thể. Đó chính là
những phương diện người đọc, người phân tích cần lưu ý.
* Lai lịch
Đây là phương diện đầu tiên góp phần hình thành đặc điểm tính cách, chi
phối con đường đời của nhân vật cũng như mục đầu tiên ta thường khai trong
bản “Sơ yếu lí lịch” là thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình vậy.
Chẳng hạn, Chí Phèo ngay từ khi được sinh ra đã bị vứt khỏi lề cuộc sống,
được người ta nhặt về nuôi rồi hết đi ở cho nhà này sang nhà khác, không bà con
thân thích, không thước đất cắm dùi. Hoàn cảnh xuất thân ấy là một nguyên
nhân tạo nên số phận cô độc thê thảm của Chí Phèo (Chí Phèo Nam Cao).
Tính cách nhân vật được lí giải một phần bởi thành phần xuất thân, hoàn
cảnh gia đình và điều kiện sinh hoạt trước đó.
* Ngoại hình
Trong văn bản truyện ngắn, nhà văn miêu tả ngoại hình nhân vật thường
với hai mục đích. Thứ nhất, để cá thể hóa nhân vật, nghĩa là tạo ấn tượng riêng
về nhân vật ấy (không thể lẫn vào các nhân vật khác). Thứ hai, qua vẻ bề ngoài
mà phần nào hé mở tính cách, bản chất của nhân vật ấy. Một nhà văn có tài
thường chỉ qua một số nét khắc họa chấm phá có thể giúp người đọc hình dung
ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của một nhân vật nào đó. Một nhân vật thành
công bao giờ cũng là “con người này” khác với con người kia, con người nọ…
Trong truyện ngắn Vi hành, mượn lời người con trai (đôi nam nữ thanh niên
người Pháp đi trên toa xe điện ngầm), tác giả Nguyễn Ái Quốc đã phác họa chân
dung Khải Định: “Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái
mặt bủng như vỏ chanh ấy đấy à?”. Các chi tiết này vừa có giá trị tả thực về
Khải Định vừa ám chỉ thật sâu cay tính cách hèn kém, chẳng có mấy thiên lương
của ông vua bù nhìn An Nam.
Khi cảm nhận, phân tích ngoại hình nhân vật cần thấy rằng phần lớn trường
hợp, đặc điểm tính cách, chiều sâu nội tâm được thống nhất với vẻ bề ngoài.
Song cũng có những trường hợp cái bên trong và vẻ bên ngoài của nhân vật “trật
khớp”, thậm chí trái ngược nhau. Lão Hạc (truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao)

thân hình nhỏ thó, bộ mặt nhăn nheo như quả trám nhưng lòng tự trọng, tình
thương yêu thì lớn lao, cao cả ít ai bằng.
* Ngôn ngữ
Qua lời ăn tiếng nói, qua cách dùng từ, giọng điệu của một người, chúng ta
có thể nhận ra nghề nghiệp, trình độ văn hóa, nhận ra tính cách của con người
ấy. Ngôn ngữ của nhân vật văn học thành công thường được cá thể hóa cao độ,
nghĩa là mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Nhà văn có tài là người biết sống
với nhiều nhân vật, nắm bắt được nhiều kiểu ngôn ngữ. Ví dụ, trong truyện ngắn
Rừng xà nu ngôn ngữ của nhân vật Tnú nhiều khi ngắn gọn, chắc nịch, chứng tỏ
một tính cách mạnh mẽ, dứt khoát:
* Nội tâm
10


Khi phân tích nhân vật cần quan tâm đến thế giới bên trong với những cảm
giác, cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ… Thế giới bên trong này thường tương tác
với thế giới bên ngoài (môi trường thiên nhiên, sự biến chuyển của đời sống xã
hội, quan hệ và hành vi của các nhân vật khác xung quanh) đồng thời cũng có
qui luật vận động riêng của nó. Một nghệ sĩ tài năng thường cũng là một bậc
thầy trong việc nắm bắt và diễn tả tâm lí con người. Miêu tả chân thực, tinh tế
đời sống nội tâm nhân vật là chỗ thử thách tài nghệ nhà văn và cảm nhận, phân
tích được một cách kĩ lưỡng, thuyết phục mặt này cũng thành nơi chứng tỏ năng
lực của người phân tích tác phẩm.
Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam), bố cục vận động theo dòng
cảm giác bâng khuâng, tâm trạng buồn man mác của nhân vật Liên trong không
gian phố huyện nhỏ trước giờ khắc ngày tàn rồi dần về đêm. Tính trữ tình, sự
tinh tế của ngòi bút Thạch Lam thể hiện qua việc diễn tả bao biến thái nhẹ nhàng
của cảnh vật và sự hòa điệu của lòng người.
* Cử chỉ, hành động
Bản chất của con người được bộc lộ chân xác, đầy đủ nhất qua cử chỉ, hành

động. Phân tích nhân vật, vì thế, cần tập trung khai thác kĩ phương diện này. Đó
là sự thật hiển nhiên. Nhưng đáng chú ý là bản chất nhân vật không chỉ bộc lộ ở
việc nhân vật ấy làm mà còn qua cách làm việc ấy của nhân vật nữa.
Nam Cao đã dựng lên trước mắt ta một Chí Phèo ( trong truyện ngắn cùng
tên) bằng xương bằng thịt với tính cách điên khùng, uất ức, với số phận tuyệt đối
cô độc và bi thảm không thể lẫn với bất kì một ai khác. Quả là rất Chí Phèo từ
bộ mặt đầy những vằn ngang vạch dọc, dáng đi ngật ngưỡng đến cách chửi, từ
kiểu rạch mặt ăn vạ, kiểu uống rượu đến lối làm tình với thị Nở, từ hành động
xách dao ra đi trả thù đến cách đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình.
* Lời các nhân vật khác về nhân vật
Để khắc họa tính cách, bản chất một nhân vật, nhà văn còn mượn lời nói,
lời đánh giá của các nhân vật khác. Đến với truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn
Trung Thành, lời cụ Mết nói với con cháu Xô Man lại cho ta hiểu được phần nào
hoàn cảnh gia đình và tính cách của Tnú: “Anh Tnú mà tau đã kể cho chúng mày
nghe bao nhiêu lần rồi đó. Đấy, nó đấy, nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó
về thăm làng một đêm, cấp trên cho nó về một đêm, có chữ kí người chỉ huy, chị
bí thư coi rồi. Nó đấy! Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô
Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta…”.
Trong văn bản truyện ngắn, các nhân vật thường ở giữa những mối quan hệ
tương tác, ràng buộc nhiều khi rất phức tạp, thường nhận (hoặc chịu) sự nhận
xét, đánh giá của các nhân vật khác. Tất nhiên, không phải lời nhận xét, đánh giá
nào cũng đúng và đều là ý kiến của nhà văn.
2.3.6. Phân tích điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật trong tác
phẩm truyện
Trong văn bản truyện ngắn, nội dung trần thuật phải được thể hiện từ điểm
nhìn. Xác định điểm nhìn trần thuật nghĩa là chỉ ra vị trí từ đó người trần thuật
nhìn ra và miêu tả sự vật, tường thuật câu chuyện trong tác phẩm. Nó chính là
cách kể, phương thức kể. Khi nghiên cứu một cấu trúc văn bản, chúng ta cần
11



quan tâm đến điểm nhìn, chỗ đứng mà tác giả lựa chọn. Chính điểm nhìn, chỗ
đứng này chi phối cách miêu tả, đánh giá sự việc, câu chuyện và thành cơ sở để
người đọc chúng ta cân nhắc, lựa chọn thái độ đối với hiện thực, nhân vật được
phản ánh.
Chẳng hạn, trong sáng tác của Nam Cao, sự dịch chuyển linh hoạt điểm
nhìn thần thuật, sự đan xen nhiều giọng điệu trần thuật trở thành một đặc điểm
nổi bật, một nét thú vị của phong cách. Hãy ngẫm nghĩ chẳng hạn từ đoạn mở
đầu truyện ngắn Chí Phèo hay đoạn nhân vật Hộ tự cảm nhận, xỉ vả mình là một
kẻ khốn nạn, bất lương trong nghề văn trong Đời thừa… ở những đoạn này, lời
người trần thuật (tác giả) và lời nhân vật trong sự đối chọi với chính mình, đối
thoại với người đời không thể tách rời. Nam Cao thường rất tự nhiên trao quyền
trần thuật cho nhân vật và người đọc văn ông cũng được tự nhiên hòa vào, sống
trong dòng ý thức ấy.
Việc tổ chức điểm nhìn trần thuật như trên tất yếu liên quan với lời văn,
giọng điệu của tác phẩm. Mọi nhân vật, mọi sự kiện, chi tiết, hình ảnh… trong
tác phẩm văn xuôi đều được diễn tả bằng lời văn, bằng giọng điệu. Bởi thế, lời
văn là một căn cứ tin cậy để chúng ta nhận ra chỗ đứng, nhận ra ý đồ của nhà
văn khi xây dựng tác phẩm.
2.3.7. Đưa vấn đề vào trong tiết học
Trong các giờ học văn bản truyện ngắn, giáo viên khéo léo dẫn dắt học
sinh, biết đặt ra các vấn đề kích thích học sinh tham gia thảo luận sẽ tạo được
một không khí hết sức sôi nổi. Chúng ta có thể thực hiện việc giáo dục kĩ năng
sống thông qua những câu hỏi ở từng văn bản truyện ngắn cụ thể.
Ví dụ: Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
- Cảnh hai chị em Liên và An trong truyện cố thức khuya để được nhìn
chuyến tàu là một chi tiết đặc sắc. Nếu đặt mình trong bối cảnh lúc bấy giờ em
có đồng cảm với hai chị em Liên không?
Ở tình huống này, học sinh có thể tích luỹ thêm cho mình kinh nghiệm sống
khi phải đối diện với hoàn cảnh u tối, buồn tẻ.

- Bối cảnh trong truyện này gợi cho em những hiểu biết và suy nghĩ gì về
một thời đã qua của đất nước ta ? Ngày nay nhìn lại cuộc sống của nhân dân ta
thời đó em cảm thấy bản thân mình có trách nhiệm gì?
Đây là câu hỏi vừa mang tính chất khơi gợi cách nhìn nhận lịch sử dân tộc
vừa có tính chất giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn” cho học sinh.
- Nếu bản thân mình bị rơi vào hoàn cảnh bế tắc, tuyệt vọng nhất em sẽ
sống như thế nào? Nếu còn một chút ánh sáng của hi vọng như chị em Liên, em
cảm thấy cần phải làm gì?
Điều quan trọng mà chúng ta cần hướng đến ở câu hỏi trên là học sinh có
cách giải quyết tốt nhất khi bị đẩy đến tình cảnh éo le nhất.
Nhìn chung trong biện pháp này giáo viên càng suy nghĩ trăn trở nhiều để
soạn được những câu hỏi có sự tích hợp cao thì hiệu quả càng tốt. Những ví dụ
trên đây cũng đã có thể giáo dục kĩ năng sống, kĩ năng giao tiếp, xử lí các tình
huống cuộc sống ở nhiều khía cạnh, nhiều phương diện khác nhau cho học sinh
2.3.8. Kết hợp sơ đồ tư duy trong đọc - hiểu văn bản truyện ngắn
12


Sơ đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở
rộng và đào sâu các ý tưởng. Ở giữa sơ đồ là một ý tưởng hay một hình ảnh
trung tâm. Ý tưởng hay hình ảnh trung tâm này sẽ được phát triển bằng các
nhánh tượng trưng cho các ý chính và đều được nối với các ý trung tâm. Với
phương thức tiến dần từ trung tâm ra xung quanh, sơ đồ tư duy khiến tư duy con
người cũng phải hoạt động tương tự. Từ đó, các ý tưởng của con người sẽ phát
triển. Hiểu một cách khác, sơ đồ tư duy là trình bày một cách tóm tắt ngắn gọn
nhất, khoa học nhất bằng các biểu tượng (các mô hình, các hình ảnh, các
nhánh..) trên một mặt phẳng thể hiện sự liên quan giữa các đơn vị kiến thức và
trật tự logic giữa chúng.
Vận dụng sơ đồ tư duy trong tiếp cận văn bản truyện ngắn nghĩa là chúng
ta phải chuyển hoá những thông tin liên quan trong bài học lên các mô hình, các

hình ảnh, các nhánh của sơ đồ.
Công việc chuẩn bị:
- GV: phải nghiên cứu kĩ bài học, chuyển hoá được các ý chính mang tính
trọng tâm lên một bản đồ sao cho logic khoa học. Nếu giáo viên không sử dụng
máy chiếu phục vụ cho tiết dạy thì sử dụng bảng phụ và vẽ các bản đồ tư duy
lên bảng phụ đó. Nếu giáo viên sử dụng máy chiếu phục vụ cho tiết dạy thì bài
học sẽ tiến hành thuận tiện và đơn giản hơn rất nhiều. Trên bản đồ tư duy được
trình chiếu, những thông tin chính không thể hiện đầy đủ mà để trống, hoặc phát
bảng phụ cho học sinh và yêu cầu học sinh tự hình dung rồi liên kết các tri thức
để vẽ bản đồ.
- HS: Nghiên cứu sách giáo khoa. Soạn kĩ các câu hỏi hướng dẫn học bài
vào vở bài tập. Suy nghĩ, thảo luận nhóm và trả lời câu hỏi của giáo viên.
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn
Vợ nhặt của Kim Lân.
GV định hướng học sinh phân tích nhân vật bà cụ Tứ qua hai phương diện
(trình chiếu trên máy mô hình phân tích: hoàn cảnh và tâm trạng): từ đó đánh giá
về phẩm chất, tấm lòng của bà cụ.
Dưới sự dẫn dắt, gợi mở của GV, HS độc lập suy nghĩ trả lời các câu hỏi:
(theo nội dung phân tích). GV nhận xét và chốt lại nội dung cơ bản qua sơ đồ tư
duy để học sinh tham khảo:

13


2.3.9. Sử dụng lời bình
Bình văn là thể hiện một liên tưởng thẩm mỹ của người đọc đối với văn
bản văn học. Một lời bình hay, đúng lúc, đúng chỗ có khả năng đánh thức liên
tưởng của học sinh, là con đường dẫn học sinh thâm nhập tự nhiên vào thế giới
nghệ thuật văn bản, góp phần nâng cao giá trị thẩm mỹ của tác phẩm, khơi dậy ở
các em tình yêu con người và cuộc đời để các em biết ghét cái ác, cái xấu hướng

tới chân, thiện, mỹ. Biện pháp này cho phép giáo viên phát huy phẩm chất nghệ
sĩ của mình; và cũng vì thế kích thích mầm sáng tạo của học sinh, tạo nên sự
giao lưu, cộng hưởng về tình cảm trong đọc hiểu văn bản truyện ngắn.
Lời bình là sản phẩm của sự xúc động sâu sắc trước vẻ đẹp của văn bản,
nhưng giáo viên không được lạm dụng biện pháp này. Bởi lẽ, nhiệm vụ chính
của giáo viên là tổ chức để học sinh cảm thụ và lĩnh hội giá trị của văn bản chứ
không phải là trổ tài trình diễn để “thôi miên” học sinh. Do đó, giáo viên chỉ đưa
ra lời bình khi học sinh cảm nhận chưa tới, đánh giá chưa xác đáng và những lời
bình lúc đó có tác dụng hỗ trợ, tiến tới khắc sâu ấn tượng cho học sinh, tạo nên
những khoái cảm thẩm mỹ. Giáo viên phải chọn bình những chi tiết nào là điểm
14


sáng nghệ thuật, và chọn được cách nói ấn tượng, độc đáo, nhằm tác động mạnh
đến cảm xúc của học sinh.
Ví dụ: Cũng trừng trị người nô lệ song cái cách thống lí Pá Tra hành hạ A
Phủ chỉ vì anh để hổ bắt mất một con bò nhà nó mới độc ác làm sao, càng chứng
tỏ cái quyền lực ghê gớm và bộ mặt tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở
miền núi. Khi điển hình hóa nhân vật, một nhà văn có tài thường “lựa chọn” cho
nhân vật những hành động độc đáo, gây ấn tượng sâu đậm đối với người đọc.
10. Tổ chức hoạt động ngoại khóa
* Hoạt động ngoại khoá
Đây là một hình thức sinh động, hấp dẫn, giúp học sinh học tập một cách
chủ động, hăng hái hơn. Đối với môn Ngữ văn, có nhiều cách thức tổ chức hoạt
động ngoại khoá cho học sinh, trong đó tổ chức theo khối, lớp sẽ giúp các em có
điều kiện trao đổi, thảo luận những vấn đề phù hợp có liên quan hoặc bộ phim
được dựng từ tác phẩm, hoặc có thể chọn những học sinh có năng khiếu để dựng
thành tiểu phẩm, sau đó cho học sinh xem và thảo luận.
Một số ví dụ điển hình:
- Truyện cổ tích Tấm Cám từ trước tới nay đã được đưa lên sân khấu, giáo

viên có thể tìm cho học sinh xem lại một cách trực quan, rồi đặt các câu hỏi tình
huống thường thấy trong cuộc sống hàng ngày.
- Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao đã có phim rất sinh động. Giáo viên
cho học sinh xem từng đoạn và yêu cầu các em đưa ra ý kiến nhận xét các tình
huống mà nhân vật chính phải xử lí.
* Dựng các tiểu phẩm để học sinh trao đổi, thảo luận
Một số tác phẩm có nhiều tình huống, giáo viên chọn các tình huống tiêu
biểu để học sinh vào vai, sau đó để trống các chi tiết có tính chất “mở nút” và
yêu cầu học sinh tham gia thảo luận đưa ra cách giải quyết. Đến khi phần thảo
luận đã sôi động và có kết quả, giáo viên cần đưa ra lời nhận xét và chốt lại vấn
đề rồi chuyển sang tình huống khác.
Ví dụ: Tình huống cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nam Cao
* Tổ chức chung cho học sinh toàn trường.
Đây là nội dung hoạt động có phần khó khăn vì nhiều lí do khác nhau.Vì
vậy, tôi chỉ xin đề xuất một vài định hướng sau đây:
- Dùng phương pháp trình chiếu để tổ chức cho các em hoạt động dưới
dạng một cuộc thi, trong đó có loại thí sinh tựa như trò chơi “Rung chuông
vàng” trên truyền hình.
- Các câu hỏi đưa ra phải đa dạng, chẳng hạn như: đặt câu hỏi rồi yêu cầu
học sinh đứng lên trả lời, đặt câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn, điền khuyết…
* Tổ chức theo nhóm học sinh.
Biện pháp này cần phân chia học sinh theo nhóm tuổi, giới tính nhất là chia
theo giới tính để tham gia thảo luận những vấn đề về từng giới khác nhau. Theo
cách này, giáo viên có thể soạn những câu hỏi cụ thể cho từng bài.
Ví dụ: Ở bài Chiếc thuyền ngoài xa ta có thể đặt câu hỏi riêng cho các em
học sinh nữ như: “Nếu em là người đàn bà hàng chài, em sẽ làm gì khi bị người
chồng đánh đập, hành hạ?”. Hoặc câu hỏi cho học sinh nam: “Em có đồng ý với
15



suy nghĩ của nhân vật thằng Phác: sẵn sàng đánh trả lại bố vì thương yêu mẹ
không?”.
Tương tự như vậy, giáo viên chuẩn bị các câu hỏi cho các tác phẩm khác để
các nhóm học sinh thảo luận và giáo viên sẽ là người đưa ra những kết luận
chung cho mọi vấn đề.
2.3.11. Ứng dụng công nghệ thông tin
Một trong những biện pháp góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy
học là ứng dụng công nghệ thông tin. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều giáo viên
đã quá lạm dụng công nghệ thông tin trình chiếu mà không khai thác hết, biến
giờ dạy thành giờ triển lãm ảnh, không phát huy được óc quan sát, tưởng tượng,
sự cảm thụ ngôn từ của học sinh; lại có trường hợp giáo viên lựa chọn hình ảnh,
âm thanh minh họa không phù hợp, dẫn đến học sinh chỉ ấn tượng những gì
được xem, nghe mà quên mất điều quan trọng hơn là phải tập trung cảm thụ khai
thác tác phẩm qua hệ thống ngôn từ. Vây ứng dụng công nghệ thông tin đòi hỏi
phải đúng mức, khoa học thì những giờ Ngữ văn mới trở nên sinh động. Học
sinh hoạt động tích cực hơn, đem lại những hiệu quả đáng ghi nhận hơn.
Ví dụ: Sau khi học xong Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, để củng cố bài
giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin cho học sinh xem một đoạn phim
trích liên quan đến bài học. Học sinh sẽ nhìn thấy hình ảnh trực quan về các
nhân vật mình vừa tìm hiểu, như vậy kiến thức sẽ được khắc sâu rất nhiều. Khi
dạy bài Vợ nhặt (Kim Lân), nếu học sinh được tận mắt được nhìn thấy từ màn
hình cảnh nạn đói năm 1945 với nhiều hình ảnh tư liệu thì sẽ dễ dàng thấu hiểu
được tấm lòng nhân hậu, niềm khát khao hạnh phúc, niềm tin hướng vào tương
lai của các nhân vật dù đang ở bên bờ vực của cái chết đáng quý biết chừng nào.
Hoặc khi dạy bài Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường), giáo
viên cho học sinh xem hình ảnh về sông Hương, về Huế, về âm nhạc Huế. Nhờ
nghe, xem những hình ảnh này học sinh sẽ dễ dàng cảm thụ tốt hơn về chất thơ
của Huế, thấy được bề dày văn hóa Huế, nét riêng của tâm hồn Huế.
Trong phạm vi SKKN này, chúng tôi không thể dẫn ra hết tất cả những giờ
dạy ứng dụng công nghệ thông tin đã thành công, nhưng mỗi chúng ta đều đã

thừa nhận việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giờ dạy Ngữ văn văn nói
chung và trong giờ Đọc văn (phần tác phẩm truyện ngắn) đã mang lại những
hiệu quả thiết thực, góp phần quan trọng để tạo sự hứng thú cho học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Lựa chọn và vận dụng các biện pháp trên vào giờ học Đọc văn phần văn
bản truyện ngắn, học sinh đã có những tiến bộ rõ rệt. Trong mỗi giờ học, các em
chú ý hăng say phát biểu hơn, mạnh dạn hỏi những vấn đề chưa hiểu. Chúng tôi
tin rằng đó không chỉ là sự tiến bộ trong hiện tại mà chắc chắn với các em lớp
10, 11 sẽ yêu thích môn Ngữ văn hơn, không còn coi đó là một môn học "gây
mê", "gây buồn ngủ" nữa; với các em học lớp 12 đó là một hành trang cho các
em vào đời.
Những biện pháp mà tôi đề xuất không quá khó thực hiện, cũng không cần
phương tiện dạy học quá hiện đại mà các nhà trường hiện nay không thể đáp ứng
16


được. Do vậy, các đồng nghiệp có thể dễ dàng áp dụng. Tôi mong nhận sự góp ý
của lãnh đạo, đồng nghiệp để SKKN của tôi được hoàn thiện, đầy đủ và hiệu quả
hơn.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Giáo viên giảng dạy Ngữ văn ngoài việc phải không ngừng tự học để nâng
cao chuyên môn, bồi dưỡng kiến thức lí luận, kiến thức từ thực tế đời sống, còn
cần phải nghiên cứu thêm về nghệ thuật sư phạm, tìm tòi các giải pháp gây hứng
thú học tập, tạo một không khí học tập vui vẻ, thoải mái giúp học sinh ngày càng
yêu thích bộ môn Ngữ văn, giúp việc dạy học đạt kết quả cao.
Bên cạnh đó, phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, tìm
các thông tin mới, hấp dẫn trên mạng internet làm cho các tiết học sinh động,
lượng thông tin học sinh thu được nhiều. Giáo viên luôn phải cập nhật, tự bồi

dưỡng những phương pháp dạy học tích cực, vận dụng linh hoạt trong từng tiết
dạy để tạo sự hứng thú cho các em, không nên thuyết giảng nhiều mà cần để học
sinh là người chủ động, tích cực tìm ra kiến thức. Giáo viên cũng cần có sự hiểu
biết về tâm lí lứa tuổi học sinh, biết khuyến khích động viên kịp thời, biết gần
gũi tìm hiểu nguyên do khi các em có biểu hiện tiêu cực, biết nghiêm khắc phê
bình những biểu hiện chây lười của học sinh...
Dù áp dụng bất kì phương pháp dạy học nào, biện pháp gây hứng thú nào
cho học sinh thì điều cốt yếu để có một giờ học tốt, giáo viên nhất định phải có
đủ tài, đủ đức, có cái tâm của một người thầy thì chắc chắn sẽ được học sinh
kính trọng, tin yêu, tâm phục khẩu phục. Chính điều đó sẽ tạo cho các em một
tâm thế học tập tốt nhất, có hứng thú nhất.
Ở bất cứ môn học nào để có được kết quả học tập tốt nhất thì trước hết
người học phải thực sự yêu thích, có hứng thú với bộ môn đó. Chính vì thế các
biện pháp đưa ra trong sáng kiến kinh nghiệm này cần thiết và đúng đắn góp
phần nâng cao hứng thú của học sinh trong mỗi giờ học Đọc văn, góp phần nâng
cao chất lượng bộ môn Ngữ văn.
Trên đây là một số biện pháp góp phần cảm thụ hiệu quả văn bản văn học
nói chung và văn bản truyện ngắn nói riêng nhằm đáp ứng việc đổi mới phương
pháp dạy học phù hợp với đặc trưng bộ môn. Dạy học môn Ngữ văn trong giai
đoạn hiện nay cần hướng đến tích hợp kiến thức cho học sinh, trong đó giáo dục
kĩ năng sống vừa là mục tiêu vừa là một giải pháp quan trọng nhằm thu hút tinh
thần thái độ học tập của học sinh. Để làm được việc này, giáo viên cần tích cực
tìm tòi những hướng đi mới, nhất là việc kéo môn học đến gần với cuộc sống
của người học.
3.2. Kiến nghị
* Đối với nhà trường
- Thường xuyên tổ chức học tập, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy lẫn nhau,
nhất là phương pháp giảng dạy theo tinh thần đổi mới SGK.
- Cần đầu tư thêm tài liệu tham khảo về môn Ngữ văn, máy tính, đầu chiếu
để giáo viên và học sinh dễ dàng tiếp cận với tri thức mới.

17


- Nhà trường cũng cần tuyên truyền cho học sinh hiểu tầm quan trọng của
tất cả các môn học, tránh tình trạng học lệch. Có như vậy, học sinh mới chăm
chỉ, cố gắng trong tất cả các môn, có hứng thú học tập thật sự.
* Đối với tổ chuyên môn
- Thay đổi hình thức họp chuyên môn, bên cạnh dự giờ, góp ý, rút kinh
nghiệm, còn nên tổ chức các hội thảo với những chuyên đề cụ thể, thiết thực.
- Phối hợp với Đoàn trường tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa sinh
động, hấp dẫn, đa dạng nhằm gây hứng thú cho học sinh đối với bộ môn Ngữ
văn.
* Đối với giáo viên:
- Vai trò người giáo viên cực kì quan trọng trong việc lựa chọn phương
pháp thích hợp để giảng dạy. Tùy vào nội dung luận bàn và hình thức thể hiện
của văn bản, đặc điểm tiếp nhận của học sinh, thời gian tiếp nhận mà giáo viên
vận dụng các biện pháp đọc hiểu văn bản truyện ngắn một cách linh hoạt và hiệu
quả.
- Giáo viên cần gợi ý cho học sinh về những tư liệu cần hoặc những địa chỉ
website để các em có nguồn tư liệu chuẩn xác.
- Giáo viên tích lũy vốn tri thức về tác phẩm, về lịch sử, các vấn đề thời sự,
xã hội có liên quan để giúp các em đọc hiểu văn bản truyện ngắn đem lại kết quả
tốt nhất.
* Đối với học sinh:
- Có nhu cầu bộc lộ suy nghĩ cá nhân trước tập thể. Nên chủ động tham gia
thảo luận nhóm trong và ngoài giờ học để có những hiểu biết về tác giả, bối cảnh
văn học, hoàn cảnh lịch sử - thời đại ra đời và giá trị văn bản truyện ngắn.
- Cần đọc hiểu văn bản SGK trước khi tiến hành tìm hiểu ở lớp nhằm khám
phá văn bản bằng cả lí trí, tâm hồn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG

ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 12 tháng 6 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
Người viết sáng kiến

Nguyễn Thị Quế

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 10- 11 - 12, Sách giáo viên Ngữ văn 11 (tập 1) Nhiều tác giả - NXB Giáo dục, 2009.
2. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ Văn 10, 11, 12.
3. Nguyễn Kim Phong (Chủ biên) (2007), Kĩ năng đọc – hiểu văn bản Ngữ Văn
11, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1999); Từ điển
thuật ngữ Văn học - Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) –
NXB Đại học Quốc gia.
4. Các nguồn tư liệu về các tác giả và văn bản truyện ngắn trong chương trình
Ngữ văn THPT trên các báo điện tử.
5. Một số sáng kiến kinh nghiệm dạy học tích hợp Ngữ Văn.
6. Một số vấn đề về phương pháp dạy - học Văn trong nhà trường, NXBGD,
2001.
7. Một số tư liệu trên Interner về văn bản truyện ngắn.

19




×