Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN vận dụng bản đồ tư duy trong dạy học hình học lớp 10 để nâng cao chất lượng học tập của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.11 MB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT CẨM THỦY 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC
HÌNH HỌC LỚP 10 ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HỌC TẬP CỦA HỌC SINH

Người thực hiện: Phạm Văn Minh
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Toán


MỤC LỤC
Mục

Chủ đề

Trang

1
2
2.1
2.1.1

MỞ ĐẦU
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Bản đồ tư duy là gì?



1
2
2
2

2.1.2

Các loại BĐTD cơ bản

4

2.1.3

4

2.2

Cách lập BĐTD trong dạy học hình học ở trường trung học
phổ thông
Thực trạng của vấn đề

2.3

Các giải pháp đã sử dụng với bản đồ tư duy trong việc dạy

7

2.3.1


học hình học lớp 10
Bài “Hệ thức lượng trong tam giác”

7

2.3.2
2.3.3

Bài “Hệ trục tọa độ”
Bài “Phương trình đường thẳng”

11
12

2.3.4

Bài “Ôn tập chương I”

13

2.4

Hiệu quả của sáng kiến

13

3
3.1
3.2
4


KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

14
14
15

6


SÁNG KIẾN: VẬN DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC HÌNH
HỌC LỚP 10 ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP CỦA HỌC
SINH
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.1.1 Cơ sở lí luận
Chúng ta đang sống trong thời kì xã hội phát triển mạnh mẽ, thế giới vận
động và thay đổi đến từng giờ nên việc học tập chăm chỉ chưa hẳn là giải pháp
tối ưu. Tiếp cận với kho tàng tri thức, vấn đề không phải chúng ta học cái gì mà
là chúng ta học như thế nào và làm thế nào để tạo ra giá trị gia tăng từ kiến thức.
Thực tế cho thấy, nhiều học sinh chưa biết cách học, cách ghi kiến thức
vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, “học vẹt”, thuộc một cách máy móc, không
nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được “sự kiện nổi bật” trong tài liệu
đó, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau.
Nghĩa của cụm từ “bản đồ tư duy” (viết tắt: BĐTD) không hiểu theo
nghĩa bản đồ thông thường như bản đồ địa lí mà được hiểu là một hình thức ghi
chép theo mạch tư duy của mỗi người bằng việc kết hợp nét vẽ, màu sắc và chữ

viết. BĐTD là một sơ đồ mở. Việc thiết kế BĐTD theo mạch tư duy, không yêu
cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ địa lí và có thể vẽ thêm hoặc bớt các
nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ
diễn đạt khác nhau, cùng một nội dung nhưng được thể hiện nó dưới dạng
BĐTD theo nhiều cách khác nhau. Do đó, việc lập BĐTD phát huy được tối đa
khả năng sáng tạo. Sử dụng BĐTD trong dạy học, có nhiều ưu điểm như:
- Dễ nhìn, dễ viết.
- Kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của học sinh.
- Phát huy tối đa tiềm năng ghi nhớ của bộ não.
- Rèn luyện cách xác định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách
logic.
- Dễ thực hiện đối với học sinh và giáo viên.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Khi vận dụng BĐTD trong dạy học môn Toán nói chung và bộ môn Hình
học nói riêng, tôi thấy có nhiều mặt tích cực. Học sinh nắm kiến thức bài học
một cách chủ động, “nhẹ nhàng” hơn, không khí hoạt động của học sinh trong
các giờ học sôi nổi, mọi học sinh đều tích cực tham gia.
Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư
duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, “định vị trong đầu” được các
1


kiến thức, sự kiện cơ bản, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học, học
tốt không chỉ kiến thức trong sách vở mà cả từ thực tiễn cuộc sống.
Với mục đích đổi mới phương pháp dạy học, giúp học sinh tích cực, chủ
động, sáng tạo và tìm thấy niềm vui trong qua trình lĩnh hội tri thức, việc vận
dụng BĐTD trong dạy học Hình học ở lớp 10 mang lại nhiều kết quả khả quan.
Người viết mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình để cùng thảo luận, trao đổi kinh
nghiệm.
1.2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của sáng kiến là tập trung tìm ra những giải pháp, cách thức
khác nhau để học sinh nắm chắc, nhớ lâu các kiến thức cơ bản của môn Hình
học lớp 10 ban cơ bản; tính logic, sự khác biệt và mối quan hệ giữa các kiến
thức của bài, của chương; qua đó giúp học sinh có thể ghi nhớ và vận dụng
chính xác các kiến thức thường gặp trong môn Hình học ở nhà trường phổ thông
theo sơ đồ tư duy đã thiết lập.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Ứng dụng BĐTD trong dạy học ở THPT nói chung và bộ môn Toán nói
riêng, vẫn đang là một phương pháp mới. Trong khuôn khổ của bài viết, người
viết mới chỉ nêu lên cách nhìn, cách suy nghĩ của mình về việc vận dụng BĐTD
trong dạy học hình học ở THPT cho học sinh ở khối lớp 10.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu, điều tra, phỏng vấn.
- Thực nghiệm sư phạm: Giáo viên cho học sinh tự hình thành bản đồ tư
duy hoặc giáo viên cung cấp bản đồ tư duy mà mình đã chuẩn bị sẵn vào đầu tiết
học hoặc cuối tiết học để học sinh củng cố kiến thức và dựa vào đó định hướng
cách giải một số dạng toán của môn hình học ở nhà trường trung học phổ thông.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Bản đồ tư duy là gì?
- Bản đồ tư duy (BĐTD) (hay còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,…)
là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa
một chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng
thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Do đó, việc
lập BĐTD phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
BĐTD được phát triển bởi Tony Buzan
vào những năm 1960.
Tony Buzan là người sáng tạo ra phương
pháp tư duy Mind Map (bản đồ tư duy). Tony
Buzan từng nhận bằng danh dự về tâm lí học,

văn chương Anh, toán học và nhiều môn khoa
2


học tự nhiên của trường Đại học British
Columbia năm 1964. Tony Buzan là tác giả
hàng đầu thế giới về não bộ. Ông đã viết 92 đầu
sách và được dịch ra trên 30 thứ tiếng, với hơn
3 triệu bản, tại 125 quốc gia trên thế giới. Tony
Buzan được biết đến nhiều nhất qua cuốn “Use
your head”. Trong đó, ông trình bày cách thức
ghi nhớ tự nhiên của não bộ cùng với các
phương pháp Mind Map. Ngoài ra, ông còn có
một số sách nổi tiếng khác như Use your
memory, Mind Map Book

Hình 1. Tony Buzan

BĐTD là một công cụ tổ chức tư duy. Đây là phương pháp dễ nhất để
chuyển tải thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Nó là một
phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng nghĩa của nó, “sắp
xếp” ý nghĩ của con người.
Nghiên cứu về hoạt động của bộ não con người, người ta chỉ ra rằng bộ
não hoạt động gồm 2 nhánh:

Hình 2. Mô hình hoạt động của bộ não
- Não phải nhạy cảm với các thông tin về màu sắc, nhịp điệu, hình dạng,
tưởng tượng, … sẽ tác động kích thích não trái.
- Não trái thích hợp với các từ ngữ, con số, tư duy, phân tích,… cho ra sản
phẩm.

Do đó, người ta tìm cách kích thích não phải tốt nhất. Trình bày vấn đề theo sơ
đồ, biểu đồ bao giờ cũng gây hứng thú. Trong các hình thức ấy, sơ đồ mà tác giả
Tony Buzan đưa ra được đánh giá cao nhất và đã trở thành công cụ làm việc
hiệu quả của hàng triệu người trên thế giới.
3


Với cách thể hiện gần như cơ chế hoạt động của bộ não, BĐTD sẽ giúp
con người:
- Sáng tạo hơn.
- Tiết kiệm thời gian hơn.
- Ghi nhớ tốt hơn.
- Nhìn thấy bức tranh tổng thể.
- Tổ chức và phân loại suy nghĩ.
Do vậy, dạy học bằng BĐTD có tác dụng:
- Giúp học sinh học được phương pháp học:
Việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp
nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số
học sinh học rất chăm chỉ nhưng kết quả vẫn kém, nhất là môn toán. Khi không
có phương pháp học tốt, học sinh thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau
đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận
dụng kiến thức đã học; khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự
ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ. Sử dụng thành
thạo BĐTD trong dạy học học sinh sẽ “học được phương pháp học”, tăng tính
độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
- Giúp học sinh học tập một cách tích cực:
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu
và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của
mình. Vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy
động tối đa tiềm năng của bộ não.

Việc học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của
học sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn
màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em
tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức
của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quý, trân
trọng “tác phẩm” của mình.
2.1.2. Các loại BĐTD cơ bản
2.1.2.1. BĐTD theo đề cương
BĐTD theo đề cương còn gọi là BĐTD tổng quát. Dạng này được tạo ra
dựa trên bảng mục lục trong sách. Dạng BĐTD này mang lại một cái nhìn tổng
quát về toàn bộ môn học. Những BĐTD theo đề cương khổng lồ về các môn học
dán trên tường sẽ rất hữu ích cho học sinh, giúp học sinh có khái niệm về số
lượng kiến thức phải chuẩn bị cho kì thi.
2.1.2.2. BĐTD theo chương
4


BĐTD theo chương cũng gần như tương tự như BĐTD theo đề cương, chỉ
khác là BĐTD theo chương thể hiện sự nối kết của một nội dung kiến thức.
BĐTD theo chương giúp học sinh thấy sự nối kết, tương quan giữa các phần,
các mục của nội dung kiến thức. Lưu ý rằng, BĐTD theo chương cũng không
nên chỉ lưu lại những ý chính mà còn phải thể hiện đầy đủ tất cả các chi tiết hỗ
trợ quan trọng khác.
2.1.2.3. BĐTD theo đoạn
BĐTD theo đoạn dùng để tóm tắt một mục, một nội dung nhỏ của một
bài, một phần hay một chương học nào đó. BĐTD theo đoạn văn giúp học sinh
tiết kiệm thời gian ôn lại những thông tin cần thiết mà không cần “học thuộc
lòng” phần đó.
2.1.3. Cách lập BĐTD trong dạy học hình học ở trường trung học phổ
thông

2.1.3.1. Cách lập BĐTD
Vật liệu làm BĐTD dễ kiếm, cách làm đơn giản và có thể vận dụng với
bất kì điều kiện nào của các nhà trường hiện nay, đặc biệt là đối với các trường
vùng khó. BĐTD có thể được vẽ trên giấy bìa, bảng phụ, sử dụng bút chì, màu,
phấn, tẩy... hoặc cũng có thể thiết kế trên powerpoint hay các phần mềm chuyên
dùng để hỗ trợ thiết kế BĐTD.
Khi lập BĐTD, ta bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Vì một
hình ảnh có thể diễn đạt được cả nghìn từ và giúp học sinh sử dụng trí tưởng
tượng của mình. Một hình ảnh ở trung tâm sẽ giúp học sinh tập trung được vào
chủ đề và làm cho học sinh hưng phấn hơn.
1) Luôn sử dụng màu sắc vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như
hình ảnh. Viết cụm từ, không viết thành câu, dùng các từ viết tắt.
2) Nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh
nhánh cấp hai đến các nhánh cấp một, nối các nhánh cấp ba đến nhánh cấp hai,...
bằng các đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần hình ảnh trung tâm thì càng được
tô đậm hơn, dày hơn.
3) Mỗi từ, ảnh, ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ.
4) Tạo ra một kiểu bản đồ riêng cho mình (kiểu đường kẻ, màu sắc,...).
5) Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường thẳng vì các đường
cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt hơn rất nhiều.
6) Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm.
7) Ghi chép nguồn gốc thông tin để có thể tra cứu lại dễ dàng.

5


Hình 3. Phương pháp ghi chép
2.1.3.2. Một số lưu ý khi lập BĐTD
BĐTD là một công cụ dạy và học hiệu quả, tiết kiệm thời gian thông qua
việc tận dụng cả não trái lẫn não phải để giúp học sinh tiếp thu bài nhanh, hiểu

bài kĩ, nhớ được nhiều chi tiết hơn. Tuy nhiên, BĐTD không phải là một tác
phẩm hội họa. Cho nên, việc dành quá nhiều thời gian để trau chuốt cho BĐTD
thành một “tác phẩm hội họa” có thể lãng phí hơn là tiết kiệm thời gian. Chúng
ta có thể dành những thời gian này cho công việc cần thiết khác. Chính vì thế,
cần chú ý tránh rơi vào việc “trang trí, trau chuốt” thay vì “ghi chú” (là mục
đích chính khi sử dụng BĐTD).
Để xây dựng một BĐTD cho một bài, một chương hay một chuyên đề nào
đó, giáo viên có thể tiến hành các hoạt động sau:
- Hoạt động 1: Học sinh lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của
giáo viên.
- Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo
cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
- Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện
BĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài
giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
- Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà giáo viên đã
chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, yêu
cầu học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
2.2. Thực trạng vấn đề
Dạy học bằng phương pháp mới, trong đó có việc sử dụng bản đồ tư duy
bước đầu gây ra sự bỡ ngỡ của cả người dạy và người học. Người dạy phải thiết
kế nội dung câu hỏi để học sinh hình thành sơ đồ tư duy, làm sao để trong thời
gian ngắn một vài tiết học có thể chèn nội dung sơ đồ tư duy vào bài dạy. Người
học thì còn chưa biết tự hoàn thành một sơ đồ tư duy liên quan đến mảng kiến
thức mình đang học nếu không có sự định hướng của giáo viên. Vì những
6


nguyên nhân trên, tôi mạnh dạn đề xuất những giải pháp cho một số nội dung
liên quan đến phần hình học bậc trung học phổ thông, giúp người dạy và người

học tháo gỡ phần nào những vướng mắc nêu trên.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng với bản đồ tư duy trong việc dạy học hình
học lớp 10
- Hình học ở chương trình THPT là một bộ môn khó đối với người dạy và
người học. Học sinh thấy khó khăn và “sợ” khi học hình học. Chẳng hạn, học
sinh lớp 10 lúng túng khi học và vận dụng phần “hệ thức lượng trong tam giác”
vì công thức nhiều và rườm rà; học bài phương trình đường thẳng thì lại không
nhớ hết các dạng toán viết phương trình đường thẳng…
- Dạy học bằng BĐTD giúp học sinh thấy sự nối kết, sự tương giao giữa
các mục, các chương; có cái nhìn tổng thể của một phần, một chương; hệ thống
hóa được kiến thức trên một bố cục để làm sao dễ thuộc, dễ nhớ. Một ưu điểm
nữa là còn giúp học sinh hứng thú trong tiết học hình học, tạo động lực cho
nhiều học sinh lâu nay “ngại học” cũng phấn chấn hơn, giúp học sinh không
nhàm chán về bài học mà luôn sôi nổi, hào hứng.
- Tính mới của đề tài:
+ Làm rõ thực trạng vận dụng bản đồ tư duy vào dạy học hình học ở
khối 10.
+ Làm rõ hơn cơ sở lý luận về việc vận dụng bản đồ tư duy vào dạy
học toán.
+ Xây dựng một số nội dung và quy trình vận dụng bản đồ tư duy vào
dạy học toán.
Trong khuôn khổ bài viết, tôi xin giới thiệu một số bài dạy hình học ở
khối lớp 10 có sử dụng BĐTD.
2.3.1. Bài “Hệ thức lượng trong tam giác”
Bài “Hệ thức lượng trong tam giác” là bài học có nhiều công thức, học
sinh thường lúng túng khi vận dụng vào giải toán, không thấy được sự tương
quan, gắn kết giữa các công thức. Nhằm tháo gỡ khó khăn đó, tôi xin đưa ra hai
BĐTD cho hai trường hợp thường gặp với bài toán tìm các yếu tố của tam giác
với giả thiết cho trước.
Bài toán 1: Trường hợp giả thiết cho tam giác ABC biết độ dài ba cạnh

tương ứng a, b, c

7


Hình 4. Bản đồ 1
Ví dụ 1 (Bài 10, trang 62 - Hình học 10): Cho tam giác ABC có
a 12, b 16, c 20 . Tính diện S của tam giác, chiều cao ha , các bán kính R , r của các
đường tròn ngoại tiếp, nội tiếp tam giác và đường trung tuyến ma của tam giác.
Đối với bài này, khi mới tiệp cận bài toán, học sinh thường bối rồi không
biết bắt đầu từ đầu. Tuy nhiên, khi sử dụng BĐTD, mọi việc trở nên dễ dàng.
Dựa vào Bản đồ 1, học sinh thấy ngay hướng đi cho các câu hỏi. Chẳng hạn:
-

Để tính R , học sinh sẽ tiến hành giải trình tự:
tính cos A  tính sin A  tính R

-

Để tính r, học sinh sẽ tiến hành giải trình tự:
tính cos A  tính sin A  tính SABC  r ,


Bài toán 2: Trường hợp giả thiết cho tam giác ABC biết độ dài hai cạnh
tương ứng b, c và góc A

8


Hình 5. Bản đồ 2


Hình 6. Bản đồ 3 (Một bản vẽ của học sinh)
9


Với Bản đồ 2, học sinh có thể giải ví dụ sau một cách đơn giản.
Ví dụ 2 (Bài 3, trang 59 – Hình học10): Cho tam giác ABC có A 120 o , b 8cm và
c 5cm . Tính cạnh a và các góc B , C của tam giác đó.
Áp dụng Bản đồ 2, học sinh có thể giải bài toán trên theo trình tự sau:
tính a  tính cos B  góc B
tính a  tính cosC  góc C
Hai BĐTD trên là một trong những BĐTD giúp học thấy sự tương quan,
nối kết giữa các công thức. Dựa trên ý tưởng đó, học sinh cũng có thể tự mình
tạo nên những BĐTD với các yếu tố giả thiết ban đầu khác. Chẳng hạn, tìm các
yếu tố của tam giác ABC khi biết a , B , C …

10


Hình 7. Hình ảnh minh họa về một tiết học có áp dụng bản đồ tư duy
2.3.2. Bài “Hệ trục tọa độ”
Tọa độ của vectơ và của điểm trong mặt phẳng Oxy là một trong những
nội dung cơ bản của chương trình hình học 10 nên giáo viên cần giúp học sinh
có cách nhìn tồng quát về các định nghĩa và các tích chất của nội dung bài học.
Do đó, việc sử dụng BĐTD là hiệu quả nhất.

Hình 8. Bản đồ 4
11



Nhìn vào BĐTD này, học sinh có thể dễ dàng nhận thấy, số lượng và nội
dung các tính chất về tọa độ của điểm và của vectơ một cách dễ dàng. Chẳng
hạn, với tọa độ của một điểm, các em có thể thấy tính chất của nó có 4 ý còn
với tọa độ của vectơ thì cũng nắm được nội dung định lí về các phép toán tọa độ
thông qua 2 công thức thay vì học thuộc định lí một cách dài dòng.
Hoàn toàn tương tự, chúng ta cũng có thể xây dựng BĐTD cho “Hệ
trục tọa độ trong không gian” trong chương trình Hình học 12.
2.3.3. Bài “Phương trình đường thẳng”
Bài toán “Viết phương trình đường thẳng” ở Hình học lớp 10 có khá
nhiều dạng. Việc hệ thống lại kiến thức, các dạng toán về viết phương trình
đường thẳng và phương pháp giải tương ứng để giúp học sinh có cái nhìn tổng
thể là điều hết sức cần thiết. Sau đây là một BĐTD cho vấn đề này.

Hình 9. Bản đồ 5
12


Với giáo viên có thể gợi ý hoặc hướng dẫn học sinh lập Bản đồ 5 cũng
như bổ sung cách viết phương trình đường thẳng cho mỗi trường hợp.
Với học sinh sẽ có cái nhìn tổng quát: Khi đứng trước một bài tập“Viết
phương trình đường thẳng”, ta dễ dàng nhận ra bài tập đó thuộc nhánh nào và
giải như thế nào… Chẳng hạn, với bài toán “Viết phương trình đường thẳng d đi
qua điểm M 3; 2 và song song với đường thẳng d1 : 2 x 5 y 4 0 ”, nhìn vào Bản đồ
5, ta có thể áp dụng theo nhánh 1-2.
2.3.4. Bài “Ôn tập chương I”
Đặc biệt, đối với các tiết ôn tập chương, việc sử dụng BĐTD vô cùng hiệu
quả. Nó giúp người học hệ thống hóa toàn chương và định hướng các dạng toán
một cách nhanh chóng. Đồng thời, nhờ ứng dụng công nghệ thông tin, các mạch
kiến thức có thể chuyển động khiến người xem dễ dàng ghi nhớ kiến thức. Dưới
đây là một BĐTD cho tiết Ôn tập chương I của Hình học 10.


Hình 10. Bản đồ 6
Bản đồ 6 là một hình ảnh rất trực quan về chương Vectơ. Nhìn vào đây,
học sinh có thể thấy ngay được trong chương này có 4 bài học. Chẳng hạn, với
bài Tổng và hiệu vectơ, các em cũng nhận thấy được có 3 quy tắc: quy tắc ba
điểm, quy tắc hình bình hành, quy tắc trừ.
Trong khuôn khổ bài viết, người viết chỉ giới thiệu được việc vận dụng
BĐTD cho một số bài học. Hầu hết tất cả các bài còn lại trong chương trình
Hình học ở chương trình THPT, chúng ta đều có thể lồng ghép sử dụng BĐTD
vào giảng dạy.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Khi dạy học, các giáo viên cũng có nhiều phương pháp dạy học hiệu quả,
kích thích tính sáng tạo, hứng thú của học sinh. Phương pháp sử dụng BĐTD
trong dạy học nói chung và dạy học Toán nói riêng, mang lại hiệu quả khá thiết
thực. BĐTD giúp cho học sinh hệ thống hóa được kiến thức trên một bố cục dẫn
đến dễ thuộc, dễ nhớ và nắm được một bài hoặc một chương đã học, qua đó làm
cho các em thấy yêu và dễ tiếp cận với toán hơn. Bên cạnh đó, nó cũng rèn
luyện tính tư duy độc lập, tự giác, chủ động và nắm ngay được phần kiến thức
13


giáo viên giảng ở trên lớp, kích thích năng lực tự học của các em. Chất lượng
điểm kiểm tra, điểm thi của học sinh sau khi sử dụng BĐTD cũng tăng lên đáng
kể.
BĐTD

Kết quả lập phiếu điều tra ở 1 lớp dạy cho thấy sự hứng thú của học sinh trong tiết học toán có sử dụng

như sau:


Lớp

Tổng số

Số học sinh TL thích học với

Tỉ lệ

BĐTD
10C4

37

34

91,89 %

Sau đây là bảng so sánh về kết quả bài kiểm tra đối chứng giữa 1 lớp vận
dụng bản đồ tư duy và 1 lớp không vận dụng bản đồ tư duy.
Lớp không vận dụng bản đồ tư duy:
Lớp

Tổng số

Số học sinh trên điểm trung bình

Tỉ lệ

10C4


36

25

69,44 %

Lớp vận dụng bản đồ tư duy:
Lớp

Tổng
số

Số học sinh trên điểm trung bình

Tỉ lệ

10C3

35

30

85,71 %

Người viết cũng đã trực tiếp hướng dẫn học sinh lập BĐTD và nhận thấy
nhiều vấn đề khá khả quan:
- Đa số học sinh thấy hứng thú, đón nhận phương pháp BĐTD rất hào
hứng. Các em cho rằng, bằng BĐTD việc học toán của các em có vẻ nhẹ nhàng
hơn, vì các em không phải chép bài nhiều, không phải học thuộc lòng, học vẹt
nữa. Đặc biệt, một số em lâu nay lười chép bài, cũng đã tích tham gia xây dựng

bài và có những “tác phẩm” BĐTD theo cách của mình.
- Việc sử dụng BDTD sẽ rèn luyện cho bộ óc các em hướng dần tới cách
suy nghĩ logic, mạch lạc và cũng là cách giúp các em hiểu bài, ghi nhớ kiến thức
vào não chứ không phải là học thuộc lòng, học vẹt.
- Bằng cách dẫn dắt, hướng dẫn học sinh lập BĐTD cho mỗi bài học, mỗi
chương…phần lớn học sinh nắm được kiến thức sâu hơn, thấy được mối liên kết
giữa các mạch kiến thức.
Qua kết quả mỗi đợt kiểm tra cuối chương cho từng lớp, cho thấy trên
70% học sinh biết vận dụng kiến thức vào giải toán.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
1
4


Qua quá trình nghiên cứu, thực nghiệm và kết quả thu được trên các lớp
học đã dạy trong hai năm học qua, tôi thấy nội dung sáng kiến này rất hữu ích,
có tính khoa học, tính hệ thống cao. Từ đó, học sinh tự tìm tòi và phát hiện, rồi
hình thành các sơ đồ tư duy khác của phần còn lại của chương trình, kể cả đại số
giải tích và hình học. Như vậy nội dung sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi
cho quý thầy cô và học sinh khi học môn hình nói riêng và môn toán nói chung.
Nâng cao chất lượng dạy học không phải là công việc ngày một ngày hai
của một cá nhân hay một tập thể mà đòi hỏi sự quan tâm của toàn xã hội, các
ngành, cơ quan chức năng liên quan. Sử dụng BĐTD trong dạy học toán giúp
học sinh học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển
khai nội dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong phong trào
thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và
Đào tạo từng phát động.
Với mục đích nâng cao chất lượng dạy và học, khơi dậy và phát huy khả
năng tìm tòi, sáng tạo của học sinh, người viết mạnh dạn đưa ra một sáng kiến

nhỏ. Tuy nhiên, do thời gian có hạn nên không tránh khỏi thiếu sót, cần được sự
bổ sung, chỉnh sửa. Kính mong người đọc và các đồng nghiệp góp ý để bài viết
được hoàn thiện hơn. Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp
đã góp ý và giúp đỡ tôi hoàn thành bài viết này.
3.2. Kiến nghị
- Để đảm bảo thời gian cho quý thầy cô giáo truyền tải đầy đủ nội dung
của sáng kiến này đến học sinh đạt hiệu quả, ngoài việc chúng ta linh hoạt lồng
ghép vào các tiết dạy chính thức, nhà trường cần tạo điều kiện về thời gian,
chẳng hạn đảm bảo số lượng tiết tự chọn, trang bị đầy đủ các thiết bị trình chiếu
để đảm bảo thời gian ghi bảng. Có vậy giáo viên mới có thể cung cấp kiến thức,
kiểm tra chỉnh sửa việc làm bài của học sinh, định hướng để học sinh tham khảo
và tự phát triển các sơ đồ tư duy giải toán khác.
- Kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác, đặc biệt ứng dụng
công nghệ thông tin, BĐTD sẽ là đòn bẩy góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục, giúp học sinh tích cực chủ động và có tư duy tốt hơn. Vì vậy, các nhà
trường cần tạo điều kiện để cho các giáo viên có thể áp dụng triển khai như tổ
chức tập huấn bồi dưỡng sử dụngcác phần mềm vẽ bản đồ tư duy, bố trí ngân
sách cho giáo viên mua bản quyền các phần mềm đó để sử dụng.

1
5


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
2020

Thanh Hóa, ngày 16 / 04 /
Tôi xin cam đoan đây là
SKKN của mình viết, không
sao chép nội dung của người


Phạm Văn Minh

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. T.S Trần Đình Châu, Sử dụng bản đồ tư duy – một biện pháp hiệu quả
hỗ trợ học sinh học tập môn toán (Tạp chí Giáo dục).
2. Sử dụng bản đồ tư duy góp phần dạy học tích cực và hỗ trợ công tác
quản lí nhà trường (T.S Trần Đình Châu).
3. Bộ sách giáo khoa hình học 10, 11, 12.
4. Phần mềm NovaMind5, phần mềm
ConceptDrawMINDMAP5Professional, phần mềm Buzan’s iMindMap.


5.


6.


7.


8.




×