Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận văn bản nghị luận trong chương trình ngữ văn 11 nhìn từ thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.25 KB, 21 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Văn nghị luận trong trường trung học phổ thông (THPT) thật sự là một
mảng khó dạy đối với giáo viên, ít gây hứng thú cho học sinh. Hơn nữa những
tác phẩm tuyển chọn đưa vào sách giáo khoa là những đỉnh cao nổi tiếng cổ,
kim, đã được thời gian sàng lọc.
Thực tế việc dạy văn nghị luận gặp nhiều khó khăn bởi các lí do sau:
Mục đích của văn bản nghị luận: phát ngôn cho một tư tưởng, một quan
điểm, một chủ trương, một lập trường nhất định. Vì thế nội dung thường là các
vấn đề có tính chất thời sự, chính trị, văn học nghệ thuật, triết học, đạo đức....
tương đối rộng với tầm hiểu biết của học sinh. Mặt khác văn nghị luận thường
khô khan, ít phù hợp với tâm lí và nhận thức của học sinh, ít tính văn chương
khó đi vào cảm xúc của người đọc.
Hình thức: thường sử dụng hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, đa
dạng về phương thức biểu hiện và các phương tiện nghệ thuật.
Xu thế hội nhập quốc tế hiện nay đang đặt mỗi cá nhân trước nhiều thách
thức nhất là các vấn đề chính trị xã hội. Việc tiếp nhận các văn bản nghị luận
trong nhà trường góp phần không nhỏ vào việc hình thành hệ thống quan điểm,
tư tưởng cho thế hệ trẻ trong việc xử lí các vấn đề đặt ra của cuộc sống một
cách đúng đắn. Trong khi đó, những văn bản nghị luận lại được giảng dạy với tư
cách là tác phẩm văn học. Vì thế cái khó của người dạy là vừa đảm bảo tính
khách quan của tác phẩm vừa truyền lại những rung cảm văn bản với tư cách là
một sáng tạo nghệ thuật.
Trước tình hình ấy, để khắc phục các khó khăn đã nêu, nhằm đáp ứng yêu
cầu của việc dạy và học phần văn bản nghị luận chương trình Ngữ văn 11 được
tốt, trong sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận văn
bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn 11 nhìn từ thể loại , tôi sẽ trình
bày hướng tiếp cận theo thể loại; tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác
tác phẩm; hướng triển khai một số bài trên lớp, sao cho giáo viên chủ động trong
giờ dạy và học sinh dễ dàng lĩnh hội tác phẩm.
Qua đề tài này, tôi mong muốn những vấn đề được tiếp cận sẽ góp những


kinh nghiệm nhỏ với đồng nghiệp trong việc giảng dạy phần văn bản nghị luận,
để giúp học sinh cảm thụ tốt hơn đồng thời đảm bảo được trọng tâm bài học.
Qua đó người giáo viên có thể tự tin thiết kế bài giảng và học sinh có thể tiếp
thu tốt. Đó là lí do tôi chọn đề tài này.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Thông qua đề tài nghiên cứu, giúp cho học sinh nhận thức được tầm quan
trọng của văn bản nghị luận, hiểu biết được các vấn đề chính trị, xã hội văn hóa .
Đồng thời nhằm xây dựng cho học sinh thái độ đúng đắn, tiến bộ về các vấn đề
chính trị xã hội, văn hóa...hướng tới việc nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy
học các bài văn bản nghị luận trong chương trình ngữ văn THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Nội dung các bài văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn 11.
- Hoạt động dạy học các bài văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn 11.
1


1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau, như:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Nghiên cứu các cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài.
+ Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa lớp 11 chương trình
cơ bản, tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng và các tài liệu của nhiều tác giả khác.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Tổng kết kinh nghiệm giáo dục: Trao đổi tổng kết kinh nghiệm dạy học.
+ Thực nghiệm sư phạm: Nhằm xác định hiệu quả của nội dung đề xuất.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Văn nghị luận là một thể văn ra đời từ rất lâu, có giá trị to lớn trong trong
đời sống xã hội đặc biệt trong thời kì dựng nước và giữ nước. Xét theo nội dung

luận bàn, người ta phân văn nghị luận làm hai thể: văn chính luận ( luận bàn về
các vấn đề chính trị xã hội, triết học, đạo đức), văn phê bình văn học.[1]. Về văn
chính luận có thể điểm lại các tác phẩm như Chiếu dời đô (1010) của Lí Công
Uẩn, Hịch tướng sĩ (1285) của Trần Quốc Tuấn cho đến Đại cáo bình Ngô
(1428) của Nguyễn Trãi; từ Tựa Trích diễm thi tập (1479) của Hoàng Đức
Lương, Chiếu cầu hiền (1788) của Ngô Thì Nhậm đến bản điều trần Xin lập
khoa luật (1867) của Nguyễn Trường Tộ, Chiếu Cần Vương (1885)....Văn phê
bình văn học có Một thời đại trong thi ca của tác giả Hoài Thanh. Có thể nói
trong suốt thời kì lịch sử dân tộc, văn nghị luận là một thể văn phản ánh rõ nhất
tinh thần, tư tưởng, ý chí và khát vọng của cả một dân tộc. Do đó văn nghị luận
ngày càng phát triển mạnh mẽ và đa dạng hơn.
Văn nghị luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng
lí lẽ và lập luận nên hệ thống các luận điểm hết sức chặt chẽ và luận cứ phải xác
đáng.[2]. Vì vậy khi dạy loại văn bản này, người dạy phải khai thác hệ thống
luận điểm, luận cứ và cách lập luận của văn bản.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Để tìm hiểu mức độ hiểu biết của các em học sinh về văn bản nghị luận,
tôi đã sử dụng phiếu khảo sát. Với câu hỏi: Em có cảm nhận như thế nào khi học
những văn bản nghị luận?. Kết quả thu được như sau: có 75% học sinh trả lời:
Văn bản nghị luận có ý nghĩa nhưng dài, khô khan, khó tiếp cận hơn các thể loại
khác. 15% học sinh trả lời có thích học nhưng chưa thật hiểu. 10% học sinh trả
lời không thích học.
Kết quả trên cho thấy, đa số học sinh không thích học văn bản thuộc thể
loại văn nghị luận. Tuy nhiên có đến 75% học sinh nhận ra ý nghĩa của văn bản
nghị luận nghĩa là lí do các em không thích học các văn bản này là do chưa thực
sự hứng thú với giờ học mà thôi. Từ thực trạng trên và từ thực tế giảng dạy của
bản thân của đồng nghiệp, tôi nhân thấy trong dạy và học văn bản nghị luận
chương trình ngữ văn 11 còn tồn tại những mặt sau:
Về phía giáo viên: chỉ chú ý đến nội dung của văn bản nhiều hơn mà bỏ
qua yếu tố nghệ thuật. Do đó bài học nghiêng về cung cấp thông tin.

2


Về phía học sinh: ít hứng thú, nghiêng về tìm hiểu thông tin hơn là việc
biểu lộ cảm xúc.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1.Bản thống kê những tác phẩm nghị luận trong chương trình Ngữ văn
lớp 11.
TT
Tên bài
Tiết theo PPCT
1 Chiếu Cầu hiền (của Ngô Thì
22-23
Nhậm)
Học kì 1
2 Đọc thêm: Xin lập khoa
24
Luật(Nguyễn Trường Tộ)
3 Về luân lí xã hội nước ta(Phan
102
Châu Trinh)
4 Tiếng mẹ đẻ nguồn giải phóng
103
các dân tộc bị áp bức(Nguyễn
Học kì 2
An Ninh)
5 Ba cống hiến vĩ đại của Các
105
Mác (Ăng Ghen)
6 Một thời đại trong thi ca (Hoài

107-108
Thanh)
Căn cứ vào nội dung của văn nghị luận ta có thể phân loại như sau:
Nhóm 1: các tác phẩm nghị luận chính trị - xã hội - đạo đức gồm: Chiếu cầu
hiền (Ngô Thì Nhậm), Xin lập khoa luật (Trích Tế cấp bát điều của Nguyễn
Trường Tộ), Tiếng mẹ đẻ, nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (Nguyễn An
Ninh), Về luân lí xã hội ở nước ta (Trích Đạo đức và luân lí Đông Tây của Phan
Châu Trinh), Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác (Ăng ghen).
Nhóm 2: tác phẩm thuộc lĩnh vực phê bình văn học Một thời đại trong thi ca
(Hoài Thanh)
Qua việc thống kê và phân loại trên, ta sẽ có cái nhìn tổng quát về văn bản
nghị luận chương trình Ngữ văn 11, từ đó đề ra những phương pháp, biện pháp
dạy một cách hợp lí.
2.3.2. Các giải pháp cụ thể để tổ chức thực hiện.
Giải pháp 1: Hướng tiếp cận theo đặc trưng thể loại
* Khái niệm: Nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, dùng lí lẽ, phán
đoán, chứng cứ để bàn luận về một vấn đề nào đó ( chính trị, xã hội, văn học
nghệ thuật, triết học, đạo đức...) Vấn đề được nêu ra như một câu hỏi cần giải
đáp, làm sáng tỏ. Luận là bàn về đúng, sai, phải, trái, khẳng định điều này, bác
bỏ điều kia, để người ta nhận ra chân lí, đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm
và niềm tin của mình. Sức mạnh của văn nghị luận là ở sự sâu sắc của tư tưởng,
tình cảm, tính mạch lạc, chặt chẽ cảu suy nghĩ và trình bày, sự thuyết phục của
lập luận.[1].
* Chức năng: Văn bản nghị luận có ba chức năng cơ bản sau: Chức năng
giao tiếp lí trí (hay còn gọi là chức năng thông báo nhằm cung cấp thông tin,
kiến thức mới) và chức năng thuyết phục ( chứng minh và tác động).
3


Tác phẩm

Thông báo
Chiếu cầu hiền - Vai trò của người
(Ngô Thì Nhậm) hiền tài với đất
nước.
- Chủ trương,
chiến lược của
vua Quang Trung
trong việc tập hợp
người hiền tài.
- Nghệ thuật chính
luận của người
viết.
Xin lập khoa - Tầm quan trọng
Luật
(Nguyễn của luật pháp đối
Trường Tộ)
với việc đảm bảo
và phát triển của
nhà nước pháp
quyền.
- Nghệ thuật lập
luận chặt chẽ,
chứng cứ xác
thực, lời lẽ mềm
dẻo.
Về luân lí xã hội - Tinh thần yêu
nước ta (Phan nước và tư tưởng
Châu Trinh)
tiến bộ của tác giả
khi kêu gọi xây

dựng nền luân lí
xã hội ở nước ta.
- Nghệ thuật viết
văn chính luận.

Chức năng
Tác động
- Tư tưởng đúng
đắn và nhân cách
của vua Quang
Trung. Từ đó yêu
mến, kính trọn đối
với nhân vật lịch
sử kiệt xuất của
dân tộc.
- Thái độ đúng về
vai trò của người
hiền trong công
cuộc xây dựng đất
nước.
- Tư tưởng tiến bộ
và tầm nhìn xa
trông rộng của tác
giả.

- Sống và làm việc
theo luân lí.
- Tinh thần đoàn
kết, đấu tranh.


Tiếng mẹ đẻ - Vai trò của Tiếng - Yêu mến, giữ
nguồn
giải Việt như một vũ gìn và phát huy sự
phóng các dân khí hữu hiệu và trong sáng của

Chứng minh
- Nêu vai trò của
người hiền tài
trong sách Luận
Ngữ.
- Cách ứng xử
của các sí phu
Bắc Hà trong tình
thế suy vi.
- Thực trạng của
đất nước và tâm
nguyện của vua
Quang Trung lúc
bấy giờ.
- Luật bao gồm kỉ
cương, uy quyền,
chính lệnh.
- Việc thực hành
luật pháp ở các
nước
phương
Tây.
- Nho học truyền
thống không tôn
trọng luật pháp

chỉ nói suông
trên trang giấy.
- Nước ta chưa có
luân lí xã hội.
Một tiếng bè bạn
không thể thay
cho luân lí được.
- Bên châu Âu,
bên Pháp có tinh
thần đoàn thê,
biết đấu tranh để
đòi lại công bằng.
- Nguyên nhân
của việc nước ta
chưa có luân lí xã
hội.
- Thói học đòi tây
hóa của người An
Nam khi thích
4


tộc bị áp bức quan trọng góp
(Nguyễn
An phần giải phóng
Ninh)
các dân tộc bị áp
bức.
- Nghệ thuật chính
luận sắc sảo.

Ba cống hiến vĩ - Ba cống hiến vĩ
đại của Các Mác đại của Các Mác
(Ăng-Ghen)
đối với lịch sử
nhân loại.
- Nghệ thuật lập
luận của tác giả.

tiếng Việt.

bặp bẹ năm ba
tiếng Tây.
- Nhận định tiếng
nước mình không
nghèo nàn.

- Biết ơn, trân
trọng những thành
quả cách mạng mà
các bậc tiền bối đã
tạo ra.

- Những đóng
góp to lớn của
Các Mác khiến
ông trở thành nhà
tư tưởng vĩ đại
nhất trong số
những nhà tư
tưởng hiện đại:

+ Tìm ra quy luật
phát triển của
lịch
sử
loài
người.
+ Tìm ra quy luật
gái trị thặng dư.
+ Phải gắn lí luận
với thực tiễn.
- Khó khăn trong
việc xác định tinh
thần thơ mới.
- Khái niệm cái
tôi trong thơ mới;
lí do xuất hiện,
sự đón nhận của
công chúng với
cái tôi; tinh thần
của cái tôi; giải
pháp của các nhà
Thơ mới.

Một thời đại - Quan niệm của - Có ý thức tích
trong
thi
ca Hoài Thanh về lũy về Thơ mới
(Hoài Thanh)
tinh thần Thơ mới phục vụ cho việc
trong ý nghĩa văn học tập môn học.

chương và xã hội. - Yêu mến, trân
- Nghệ thuật lập trọng tài năng,
luận khoa học tâm huyết của các
chặt chẽ, thấu đáo, nhà thơ mới.
cách diễn đạt tài
hoa, tinh tế, giàu
cảm xúc của tác
giả.
* Đặc trưng: Văn bản nghị luận có ba đặc trưng:
- Tính bình giá công khai: Người nói, người viết bao giờ cũng bộc lộ công khai,
rõ ràng trực tiếp quan điểm, thái độ của mình trước một vấn đề nào đó. Đây là
đặc trưng thể hiện sự khác biệt giữa các văn bản nghị luận với văn bản nghệ
thuật. Nếu văn chương là bình giá gián tiếp, khoa học là tránh sự thể hiện những
yếu tố cảm tính, chủ quan thì các văn bản nghị luận ( chính luận) bao giờ cũng
bộc lộ trực tiếp quan điểm, thái độ của mình về một vấn đề thời sự của xã hội.
- Tính lập luận chặt chẽ: Để bày tỏ chính kiến, giải thích, thuyết phục và động
viên mọi người tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thời sự nóng hổi của
đất nước.
5


- Tính truyền cảm: Thông qua sự diễn đạt hùng hồn, sinh động có sức hấp dẫn và
đạt hiệu quả cao, thuyết phục người đọc bằng cả lí trí và đạo đức. Đặc trưng này
khiến cho các văn bản nghị luận gần với ngôn ngữ nghệ thuật. Trong văn bản
chính luận cũng sử dụng các biện pháp tu từ nhằm gây ấn tượng mạnh mẽ.
Giải pháp 2: Tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm
Tác phẩm văn học bao giờ cũng mang trên mình dấu ấn của một thời kì
lịch sử nhất định. Vì vậy, việc tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác
bao giờ cũng là một yêu cầu có tính nguyên tắc. Dạy - học tác phẩm văn nghị
luận, việc tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác là việc vô cùng quan

trọng. Vì đây là những điều rất xa lạ với học sinh. Sự phụ thuộc của tác phẩm
văn học vào hoàn cảnh lịch sử rất khó giải thích cho học sinh nếu như không gắn
liền với những điểm phân tích, đánh giá chung với hoàn cảnh cuộc sống và hoạt
động sáng tác của nhà văn. Có như thế mới giúp học sinh có điều kiện tìm hiểu
sâu tác phẩm.
Khi dạy bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm giáo viên và học sinh phải
nắm rõ hoàn cảnh nước ta lúc bấy giờ để thấy được vì sao vua Quang Trung lại
giao cho Ngô Thì Nhậm viết Chiếu cầu hiền. Đó là nội chiến diễn ra liên miên
giữa Đàng trong và Đàng ngoài, để lại trong dân Bắc Hà suy nghĩ rằng: Nam và
Bắc là hai triều đại khác nhau. Khi Chúa Trịnh lấn át quyền vua Lê, Với danh
nghĩa “Phù Lê, diệt Trịnh”, năm 1766, Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc, dẹp chúa
Trịnh, ổn định triều cương đổ nát của Bắc Hà. Tháng 12/1788, Nguyễn Huệ lên
ngôi Hoàng đế, hành quân thần tốc ra Bắc tiêu diệt 20 vạn quân Thanh, do Lê
Chiêu Thống rước về, dẹp yên thù trong giặc ngoài thống nhất đất nước. Triều
đình nhà Tây Sơn mới được thành lập. Nhiều nhà nho đã sáng suốt ủng hộ, trong
đó có Ngô Thì Nhậm. Nhưng phần đông trí thức lại là người Bắc Hà vì tư tưởng
Nho giáo bảo thủ không nhận thấy tính chất chính nghĩa và sứ mệnh lịch sử của
phong trào Tây Sơn, nên bất hợp tác, thậm chí là chống lại Tây Sơn. Tình hình
đó đặt ra một yêu cầu chiến lược là cần thuyết phục trí thức Bắc Hà hiểu đúng
những nhiệm vụ xây dựng đất nước mà triều đình Tây Sơn đang tiến hành, để
thuyết phục họ ra cộng tác, phục vụ cho triều đại mới. Vì vậy mà vào khoảng
1788, Vua Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm soạn thảo bài chiếu để tìm
được người hiền tài ra giúp nước.
Xin lập khoa luật của Nguyễn Trường Tộ được viết trong bối cảnh nước ta
những năm đầu thế kỉ XX. Đó là sự kiện thực dân Pháp xâm lược và đã ảnh
hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp xã hội. Nền kinh tế cũng chịu nhiều ảnh hưởng:
nông nghiệp sa sút, nạn mất mùa, đói kém xảy ra liên miên, công thương nghiệp
bị đình đốn...Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta đấu tranh
chống Pháp quyết liệt trong đó có phong trào đấu tranh của các sĩ phu dưới ngọn
cờ Cần Vương. Ngoài triều đình Huế mê muội , bọn địa chủ hám danh, hám lợi

thì vẫn còn đông các trí thức phong kiến ý thức được trách nhiệm của mình với
dân với nước. Trong đó có Nguyễn Trường Tộ - một nhà nho lỗi lạc đã có những
hành động thiết thực để góp phần canh tân đất nước.
Khi dạy bài Về luân lí xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh mà không
nói đến tình hình đất nước ta những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thì sẽ
6


không hiểu được mục đích tác giả viết tác phẩm. Đó là nước ta lâm vào tình
trạng trì trệ, yếu kém mọi mặt. Thực dân Pháp đã đặt ra chính sách ngu dân, đầu
độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc phiện. Chúng xây nhà tù nhiều hơn trường
học...Chính vì vậy mà dân ta nghèo nàn, lạc hậu. Trong bối cảnh đó, nhiều người
con ưu tú của dân tộc đã có tư tưởng tiến bộ nhằm canh tân đất nước như Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh... họ đã sử dụng văn chương để tuyên truyền, phổ
biến chủ trương, đường lối cách mạng. Với tinh thần yêu nước nồng nàn Phan
Châu Trinh đã viết bài Đạo đức và luân lí Đông Tây. Bài viết được cụ trình bày
vào đêm 19/11/1925 tại nhà Hội Thanh niên Sài Gòn.
Tiếng mẹ đẻ nguồn giả phóng các dân tộc bị áp bức của Nguyễn An Ninh
là câu chuyện về nước ta những năm đầu thế kỉ XX. Phần lớn đội ngũ trí thức
Việt Nam xuất thân từ nhà trường Tây học. Họ được học ở trường Tây nên ít hay
nhiều họ đều chịu ảnh hưởng của tư tưởng nô dịch, sùng bái phương Tây. Những
kẻ học hành không đến nơi đến chốn, tư tưởng không đủ sâu sắc hoặc thiếu tình
cảm với dân tộc đã mang một tư tưởng rất đáng phê phán: coi trọng phương Tây
mà coi thường dân tộc mình. Trong hoàn cảnh ấy, nhà báo Nguyễn An Ninh đã
viết bài báo này để đánh thức những kẻ đang có những hiểu biết nông cạn về
văn hóa, chỉ ra cho họ thấy sai lầm của mình. Từ đó giúp họ có ý thức rõ hơn
trách nhiệm đối với dân tộc, cụ thể là trách nhiệm bảo vệ gìn giữ và phát triển
ngôn ngữ dân tộc. Bởi tiếng nói là linh hồn, là tinh hoa của văn hóa dân tộc.
Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác là bài chính luận được viết trong hoàn
cảnh đặc biệt gắn với một sự kiện đặc biệt và gắn với những con người đặc biệt

chứ không phải là những hình tượng hư cấu. Văn bản Ba cống hiến vĩ đại của
Các Mác là bài điếu văn của Ăng-ghen đọc tại lễ tang của Các Mác khi vị lãnh
tụ kiệt xuất của phong trào vô sản thế giới qua đời vào ngày 14-03-1883, trong
đó ông đánh giá cao ba cống hiến của Các Mác và biểu lộ tình cảm tiếc thương
của những người cộng sản trước tổn thất to lớn không gì bù đắp được này. Bài
phát biểu ngắn gọn, súc tích, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ lôgic của ĂngGhen có giá trị tôn vinh tài năng và tên tuổi của nhà cách mạng vĩ đại thế giới:
Các Mác.
Vào những năm 30 của thế kỉ XX, phong trào Thơ mới đã có những đóng
góp đáng kể vào sự phát triển của nền văn học trước Cách mạng tháng Tám. Các
thi sĩ của thuở ấy đã đem đến cho bạn đọc một tiếng nói mới, phản ánh trung
thực tâm trạng của một lớp thanh niên tiểu tư sản trong cuộc sống có nhiều đau
buồn, trăn trở và đôi khi bế tắc trước hiện trạng của đất nước thời bấy giờ. Với
sự đổi mới mạnh mẽ của hình thức nghệ thuật, Thơ mới đã thực sự thu hút được
sự chú ý của khá đông bạn đọc yêu thơ. Đó cũng là một đóng góp có ý nghĩa vào
sự phát triển của thể loại và chứng minh khả năng biểu đạt phong phú của tác
phẩm. Ngay lúc bấy giờ, hai tác giả Hoài Thanh và Hoài Chân đã sớm nhận ra
giá trị ấy và đã kịp sưu tầm, giới thiệu các thành tựu của phong trào Thơ mới
qua tác phẩm Thi nhân Việt Nam và đã cho xuất bản vào đầu năm 1942. Một
thời đại trong thi ca là bài tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam , tổng kết
một cách sâu sắc phong trào Thơ mới.
Giải pháp 3: Bám sát nội dung và hình thức văn bản để triển khai.
7


Tìm hiểu nghiên cứu bất kì một tác phẩm văn học nào, người dạy cũng
phải tiến hành trực tiếp trên hai phương diện nội dung và hình thức. Đây cũng là
căn cứ khoa học nhất để người tiếp nhận lĩnh hội tác phẩm.. Theo lí luận văn học
giữa nội dung và hình thức có mối quan hệ chặt chẽ thống nhất tác động qua lại.
Nếu nội dung tác phẩm cho phép người đọc lí giải câu hỏi: tác phẩm viết về vấn
đề gì, mục đích, ý nghĩa, giá trị...thì hình thức giúp người đọc lí giải tác phẩm

viết như thế nào, hiệu quả ra sao, tính thẩm mĩ, khả năng rung cảm và thuyết
phục người đọc thế nào? Khi bám sát văn bản cần chỉ ra:
Về nội dung: nắm đề tài, chủ đề, cảm hứng, hình tượng của tác phẩm, các
sự kiện, chi tiết, tình tiết...Sau đó xâu chuỗi chúng lại theo những logic nhất định
giúp người tiếp nhận lĩnh hội được tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm, lập
trường và giá trị tác phẩm trên nhiều bình diện.
Về hình thức: Cần tìm hiểu các hình thức và các phương tiện diễn đạt như
hệ thống ngôn từ, biện pháp nghệ thuật, cách lập luận, nhịp điệu, giọng điệu, kết
cấu. Mục đích cuối cùng là chỉ ra tác dụng của chúng trong việc biểu hiện tư
tưởng, tình cảm, thái độ của tác giả và sức thuyết phục của tác phẩm.
Trong qua trình giảng dạy, giáo viên có thể tiếp cận bài học theo sơ đồ
sau:

Giải pháp 4: Tạo không khí văn chương cho giờ học để giảm bớt tính chất
lí luận khô khan của văn bản nghị luận.
Để tạo không khí văn chương cho bài dạy, giáo viên có thể sử dụng nhiều
cách: kể chuyện giai thoại, kể chuyện danh nhân, kể chuyện lịch sử một cách lôi
cuốn, hấp dẫn, đúng lúc, đúng chỗ kèm theo những lời bình luận sâu sắc, phù
hợp với nội dung của bài học. Ngoài ra người dạy có thể vận dụng những hiểu
biết về văn hóa, nghệ thuật, dùng những câu chuyện, những bài thơ có tính chất
8


triết lí phù hợp với văn bản...sẽ khiến cho bài học trở nên nhẹ nhàng, lan tỏa mà
thấm sâu.
2.3.2. Giáo án thực nghiệm
Tiết 22 – 23:

CHIẾU CẦU HIỀN
(Cầu hiền chiếu - Ngô Thì Nhậm)


I. Mục tiêu cần đạt
1.Kiến thức: Giúp học sinh nắm được:
+ Những yếu tố lịch sử của thời đại: khi vua Quang Trung - Nguyễn Huệ
vừa lên ngôi, để làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong bài chiếu.
+ Những quan niệm, những luồng tư tưởng theo lối tư duy triết học
phương Đông thời phong kiến, đã được tác giả vận dụng làm tăng sức thuyết
phục với đối tượng tiếp nhận bài chiếu- là giới trí thức Bắc Hà.
- Hiểu được: vấn đề quan trọng trong bài Chiếu cầu hiền:
+ Những tâm nguyện của vua Quang Trung
+ Đối tượng, mục đích, chính sách cầu hiền. Từ đó mà đặt ra những yêu
cầu đối với một bài chiếu nói riêng và văn chính luận Trung đại nói riêng.
+ Người chắp bút soạn thảo bài chiếu là một cựu thần của nhà Lê; giờ
được giao trọng trách lớn của triều đình Tây Sơn. Và không được quên là mình
đang nói bằng tư tưởng của vua Quang Trung. Vì thế nghệ thuật chính luận phải
khéo léo và giàu sức thuyết phục.
2. Kĩ năng: Đọc hiểu thể loại chiếu
- Rèn các kỹ năng chuyên môn: Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu thể loại chiếu, kĩ
năng quan sát, phân tích, so sánh, ...
- Rèn các kỹ năng sống:
+ Kĩ năng giao tiếp: Giữa Thầy và trò, giữa HS với sách giáo khoa, giữa
HS với HS (Thông qua hoạt động nhóm ).
+ Kĩ năng lắng nghe tích cực: Thông qua các nhiệm vụ giáo viên chuyển
giao và thông qua hoạt động nhóm.
3. Thái độ:
Thông qua bài học này giúp học sinh biết cảm phục, trân trọng tài năng,
tâm huyết của tác giả đồng thời giáo dục cho học sinh tinh thần trách nhiệm đối
với dân tộc với đất nước.
4. Định hướng hình thành năng lực
Tên năng lực

Các kỹ năng thành phần
- Tự tìm hiểu: Bối cảnh đất nước, hoàn cảnh ra
Năng lực tự học
đời của tác phẩm, thân thế sự nghiệp của tác
giả.
- Mục đích vua Quang Trung giao cho Ngô Thì
Năng lực nhận biết, phát
nhậm viết bài chiếu.
hiện và giải quyết vấn đề
- Nghệ thuật chính luận của tác giả.
- Phát triển tư duy thông qua việc tìm hiểu
Năng lực tư duy
nghệ thuật chính luận của tác giả.
9


Năng lực ngôn ngữ
Năng lực sử dụng CNTT

- Diễn đạt, trình bày nội dung dưới nhiều hình
thức khác nhau tranh luận, thảo luận.
- Biết khai thác thông tin trên internet: Soạn
thảo trình bày, báo cáo kết quả hoạt động và
báo cáo sản phẩm học tập.

II. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
1. Chuẩn bị của giáo viên
- Giáo án, tài liệu tham khảo.
- Máy chiếu, bảng phụ.
2. Chuẩn bị của học sinh

- SGK, bài soạn, sưu tầm tư liệu có liên quan.
III. Tiến trình lên lớp (Tiến trình tổ chức hoạt động học tập)
A. Hoạt động khởi động.
- Giáo viên cho học sinh xem video về văn bia Quốc Tử Giám.
- Đặt ra cho HS câu hỏi:
+ Hình ảnh trong video gợi cho em nhớ đến tác phẩm nào đã học trong chương
trình Ngữ văn 10 tập 1?
+ Việc khắc bia ghi tên tiến sĩ nói lên truyền thống gì của người Việt Nam?
- Giáo viên cho học sinh trả lời và dẫn vào bài: Người hiền tài có vai trò quan
trọng đối với việc thịnh suy của một quốc gia, dân tộc. Vì vậy, xuống chiếu cầu
hiền tài cũng là một truyền thống văn hoá - chính trị của phương Đông nói
chung và Việt Nam nói riêng. Để hiểu rõ hơn về vai trò của người hiền tài cũng
như tâm nguyện của vua Quang Trung, chúng ta cùng tìm hiểu tác phẩm Chiếu
cầu hiền của Ngô Thì Nhậm.
B. Hoạt động hình thành kiến thức
Hoạt động 1: Tìm hiểu chung về tác giả, tác phâm.
1.Mục tiêu: Giúp học sinh nắm được những nét chung nhất về tác giả, tác phẩm
2. Phương pháp: Đặt câu hỏi, kĩ thuật trình bày.
3. Hình thức tổ chức hoạt động: Làm việc cá nhân.
4. Phương tiện dạy học; Máy chiếu.
Hoạt động giáo viên và học sinh

Nội dung

Bước 1: Giao nhiệm vụ
I. Tiểu dẫn
GV: Trình bày những nét chính về 1. Tác giả:
tác giả Ngô Thì Nhậm, vua Quang
Trung?
Gv: Việc Ngô Thì Nhậm bước qua lời

nguyền lịch sử: “Trung thần bất sự
nhị quân” của Nho giáo đã thể hiện
điều gì ở con người của ông?
10


GV: Việc giao cho Ngô Thì Nhậm
thay mình soạn bài Chiếu cầu hiền có
ý nghĩa gì?
GV: Chiếu cầu hiền được tác giả
viết trong hoàn cảnh nào? Nêu đặc
điểm của thể loại chiếu?
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
HS: Tìm hiểu phần Tiểu dẫn trong
SGK và bằng sự hiểu biết của mình
về kiến thức lịch sử để trả lời câu hỏi.
GV: Quan sát
Bước 3: Thảo luận, trao đổi, báo cáo
GV gọi 1,2 học sinh trình bày
Bước 4: Kiểm tra đánh giá
- GV: Dựa trên cơ sở thảo luận, bổ
sung, chốt lại kiến thức.
Ngô Thì Nhậm(1746-1803) : một sủng
thần của triều đình Lê Trịnh nhưng đã
thức thời theo nhà Tây Sơn. Ông là
người có nhiều đóng góp cho phong
trào Tây Sơn, nhiều văn kiện giấy tờ
đều do ông soạn thảo.
2. Vua Quang Trung


- Lãnh tụ kiệt xuất của phong trào nông
dân thế kỷ XVIII.
+ Là một thiên tài quân sự đánh Nam,
dẹp Bắc.
+ Việc giao cho Ngô Thì Nhậm thay
mình soạn bài Chiếu cầu hiền chứng
11


tỏ vua Quang Trung coi trọng một văn
thần của triều đình nhà Lê, nay được
hoàng đế hết mực tin dùng, giao trọng
trách lớn.
3. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh ra đời
- Cuối thế kỉ XVIII, tình hình xã hội
rất rối ren, phức tạp: mâu thuẫn gay gắt
giữa vua Lê chúa Trịnh, quân Thanh
xâm lược. Kẻ sĩ lúng túng, bi quan.
- Khoảng 1788-1789 sau đại thắng
quân Thanh, trang sử mới mở ra, vua
Quang Trung quyết tâm lên kế hoạch
xây dựng đất nước song tình hình khá
phức tạp.Bởi vậy nhiệm vụ phải làm
sao để thuyết phục giới trí thức miền
Bắc (hơn 300 năm phụng sự nhà Lê, do
quan điểm đạo đức bảo thủ nên đã bất
hợp tác, thâm chí chống lại Tây Sơn)
hiểu đúng những nhiệm vụ xây dựng
đất nước, ra cộng tác phục vụ triều

đại mới.
- Ngô Thì Nhậm viết thay Quang
Trung
b. Thể loại: Chiếu là văn bản do vua
hoặc các đại thần thừa lệnh vua viết để
toàn dân đọc để thực hiện một mệnh
lệnh hoặc theo yêu cầu trọng đại của
đất nước.
Hoạt động 2: Tìm hiểu tác phẩm.
1.Mục tiêu: Giúp học sinh nắm được giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm
2. Phương pháp: Đặt câu hỏi, kĩ thuật trình bày
3. Hình thức tổ chức hoạt động: Làm việc nhóm
Hoạt động giáo viên và học sinh

Nội dung

Bước 1: Giao nhiệm vụ
GV: Tìm bố cục và nội dung bài
chiếu?
GV: Đối tượng và mục đích viết tác
phẩm Chiếu cầu hiền?
GV: Nghệ thuật chính luận của tác giả
trong bài viết?

II. Đọc hiểu văn bản
1. Bố cục bài viết:
- Phần mở đầu tác giả tập trung luận
về người tài và chức năng của họ
- Phần thứ hai trong Chiếu cầu hiền
là làm rõ tâm nguyện của vua Quang

Trung: mong có hiền tài ra giúp vua trị
12


Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ

nước.
Phần thứ ba: chính sách cầu hiền của
- HS nghiên cứu thông tin SGK, trả
vua Quang Trung:
lời câu hỏi.
2. Nghệ thuật chính luận của tác giả.
- GV theo dõi, quan sát, trợ giúp nếu
a. Vai trò của hiền tài đối với đất
phát hiện HS có khó khăn
nước
Bước 3: Thảo luận, trao đổi, báo cáo - Đối tượng: giới sĩ phu Bắc Hà
GV gọi 1,2 học sinh trình bày
- Vai trò của hiền tài đối với đất nước:
Bước 4: Kiểm tra đánh giá
+ Như sao sáng trên trời cao: so
GV đánh giá phần trả lời của học sinh sánh người tài như tinh hoa, tinh tú
của non sông trời đất.
+ Hiền tài chỉ phát huy tác
dụng…..chầu về ngôi Bắc Thần- làm
sứ giả cho thiên tử.
=> Đoạn đầu là cơ sở lý luận của
“Chiếu cầu hiền”. Phần này, Ngô Thì
Nhậm đã lập luận bằng cách mượn lời
Khổng Tử trong sách Luận ngữ: Lấy

đức mà cai trị đất nước, giống như sao
Bắc Đẩu giữ đúng vị trí của mình, các
ngôi sao khác sẽ về chầu. Ngô Thì
Nhậm đã viện ý trời làm nền tảng cho
việc cầu hiền của vua Quang Trung.
Cách này vừa giúp tác giả tôn vinh
được bậc thánh hiền của đạo Nho giống như sao sáng - vừa khẳng định
với hiền tài, nho sĩ trong thiên hạ rằng
triều đại mới là triều đại lấy đức cai trị
đất nước. Bằng cách mượn ý trời xem
việc người hiền tài về chầu thiên tử là
điều tất yếu, hợp quy luật, hợp lòng
người. Nếu người hiền tài tự giấu mình
đi là trái với ý trời. Điều này giống như
che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp trí tuệ,
huệ nhãn, có tài mà không được đời
dùng thì đó cũng không phải là ý trời
sinh ra người hiền tài vậy. Làm vậy là
trái với đạo thánh hiền, trái với luân
thường đạo lý của kẻ sĩ.
b. Thực trạng của kẻ sĩ Bắc Hà và
tấm lòng khao khát cầu hiền của vua
Quang Trung
- Đầu tiên tác giả nói đến sự trốn tránh
việc đời của kẻ sĩ thời rối ren.
13


+ Đoạn văn chứa đựng nhiều tầng ý.
Một mặt là sự cảm thông, nhưng bề sâu

là sự trách cứ. Lời lẽ trình bày trong
đoạn văn khá tế nhị: vì nó đụng chạm
tới chuyện nhạy cảm: thái độ bất hợp
tác của các sĩ phu Bắc Hà. Chuyện đó
không thể không nhắc lại, song nhắc
với thái độ như thế nào?
+ Những gì biểu lộ trong đoạn văn
cho thấy nhà vua áo vải cờ đào này rất
đại lượng, có tác dụng làm mờ đi bớt đi
tính “khó chịu” của các sự việc đã xảy
ra, khiến người đọc Chiếu cầu hiền
bớt đi mặc cảm với tân vương.
=> Phải nói rằng Ngô Thì Nhậm đã
thực hiện được một sự “hoà giải” khéo
léo, trên cơ sở hiểu lòng ông vua tri
kỉ.Và cũng từ đó mà tác gỉả khơi được
mạch văn chảy tới những lời bộc lộ
thiết tha “ Nay trẫm đang ghé chiếu
lắng nghe ngày đêm mong mỏi, nhưng
những người học rộng tài cao chưa
thấy ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không
đáng để phò tá chăng? Hay đang thời
đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu
chăng?”
- Đi sâu vào tình thế lịch sử trước mắt
và sự cấp thiết của việc cầu hiền, lời
văn từ mềm mỏng, tế nhị chuyển sang
bộc trực, thẳng thắn.
+ Toát lên từ đây là nỗi lo lắng của
quân vương, đối với vận nước khi thấy

bộn bề những việc cấp bách cần phải
xử lí, sắp đặt: “kỉ cương nơi triều chính
còn nhiều khiếm khuyết, công việc
ngoài biên cương còn phải lo toan.
Dân còn mệt nhọc chưa lại sức”. Ở
đâu, với ai, việc cầu hiền có thể chỉ là
một thủ đoạn nhằm thu phục nhân tâm,
còn ở đây hoàn toàn không phải thế.
-> Chúng ta dường như cảm nhận
được nhịp tim đập nhanh hơn, hơi thở
nồng nàn của một con người cụ thể
đang hành động, kiên quyết hành động
14


vì một hoài bão lớn, đang hết sức cần
một lực lượng giúp rập, phò tá; qua
nhịp điệu của lời văn “một cái cột
không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu
lược một người không thể dựng nghiệp
trị bình.(...) trên dải đất văn hiến rộng
lớn như thế này há trong đó lại không
có lấy một con người tài danh nào ra
phò giúp cho chính quyền buổi đầu của
trẫm hay sao?.
-> Sự cao giọng trong câu hỏi vừa
trích, còn phản ánh cái gì khác ngoài
nỗi sốt ruột rất thật, niềm tin tưởng
nhiệt thành vào “trữ lượng” hiền tài của
đất nước? Đúng là giọng của một con

người đầy cá tính không chịu lùi bước
trước những trở ngại trên con đường
gây dựng nghiệp lớn- Nguyễn Huệ.
c. Đường lối, chủ trương cầu hiền
- Phân tích thời thế: trước đây đã có
nhiều kẻ sĩ phải long đong, ẩn tích mai
danh, trốn tránh việc đời hoặc nhầm lẫn
gây nên tội lỗi..->nhà vua đều tỏ ra
khoan thứ
- Nhà vua khiêm tốn tự cho mình ít
đức “hay Trẫm ít đức…”  sự băn
khoăn, mong mỏi tha thiết, chân
thành
- Nêu lên những khó khăn chồng
chất, phức tạp của triều đình mới khi
thực thi công việc nơi đô thành, nơi
biên cương, việc binh, việc kinh tế…
- Một mình nhà vua và triều đình
hiện tại dù đã rất tận tâm và cố gắng
nhưng cũng không thể làm hết, làm tốt
công việc..
- Khẳng định sự phong phú của hiền
tài ở đất nghìn năm văn hiến này
=> Lập luận sắc bén, kết hợp lí lẽ và
phân tích bằng tình cảm mềm mỏng mà
kiên quyết Trí tuệ và tấm lòng đại trí
đại nhân của vua Quang Trung.
- Chính sách cụ thể:
+ Không phân biệt quan, dân , ai có tài
15



được phép tâu bày . Lời hay, mưu hay
được dùng, được khen thưởng, khuyến
khích không kể thứ bậc; Lời không hợp
không dùng, có sơ suất không bắt tội,
chỉ trích.
+ Cho phép tiến cử người hiền, tuỳ tài
lục dụng.
+ Cho phép người hiền tự tiến cử.
=>Chính sách chủ trương cầu hiền
dân chủ và tiến bộ, thể hiện tầm tư
tưởng chiến lược lãnh đạo sâu rộng.
Quang Trung không chỉ là thiên tài
quân sự mà còn là nhà quản lí, tổ
chức tài ba.
C. Luyện tập vận dụng.
Bài 1: Tóm tắt nội dung bài học bằng một sơ đồ tư duy?
Bài 2: Từ nội dung bài học, anh/chị có suy nghĩ gì về trách nhiệm của thế hệ trẻ
đối với đất nước?
D. Tìm tòi, mở rộng.
Sau khi học tác phẩm em rút ra được bài học kinh nghiệm gì khi đọc hiểu
một văn bản nghị luận trung đại Việt Nam?
2.4. Hiệu quả của đề tài đối với hoạt động sư phạm.
Áp dụng đề tài Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận văn bản nghị
luận trong chương trình Ngữ văn 11 nhìn từ thể loại đã góp phần tạo sự hứng
thú, niềm say mê học hỏi của học sinh và đạt hiệu quả cao trong giờ học.
Tiết học văn học nghị luận không còn đơn điệu, buồn tẻ mà có sự chủ động
của học sinh trong giờ học, giáo viên trở thành người hướng dẫn, định hướng
giúp học sinh cảm nhận tác phẩm một cách tích cực.

Để đánh giá kết quả nhận thức của các em học sinh ở 2 lớp, tôi xây dựng
bài kiểm tra năng lực.
Thống kê kết quả như sau:
Điểm 7-8
Điểm 5-6 Điểm dưới 5
Sĩ Điểm 9-10
Lớp
số SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
11A1
40
2
5
14
35
22
55
2
5
(Đối chứng)
11A5
41
5
36.6

21
51.2
5
12.2
0
0
(Thực nghiệm)
Qua kết quả trên tôi nhận thấy rằng, lớp 11A5 có tỉ lệ khá, giỏi đạt 87.8%
cao hơn so với lớp 11A1 (đạt 40%); đặc biệt ở lớp 11A5 không còn học sinh có
điểm dưới trung bình. Vì vậy tôi nhận thấy rằng những biện pháp và hình thức
dạy - học các tác phẩm văn nghị luận đã góp phần phục vụ hữu ích và nâng cao
hiệu quả, chất lượng các giờ dạy - học tác phẩm văn nghị luận. Phần lớn học
sinh nắm chắc và sâu kiến thức bài học, hiểu và cảm thụ sâu sắc những giá trị
16


đặc sắc nghệ thuật, nội dung của tác phẩm. Học sinh có kĩ năng tìm hiểu, khám
phá, phân tích những tác phẩm văn nghị luận theo đặc trưng thể loại.
3. Kết luận và kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Việc giảng dạy các văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn 11 có
một ý nghĩa quan trọng: không chỉ cung cấp kiến thức về các thể loại văn học,
các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa...mà còn nhằm xây dựng cho học sinh thái
độ đúng dắn, tiến bộ về các vấn đề trên hình thành những phẩm chất cao đẹp,
bồi dưỡng những kĩ năng cần thiết cho hành trang tương lai của học sinh.
Thực tiễn giảng dạy văn bản nghị luận phải tuân thủ nguyên tắc: bám sát
hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, bám sát văn bản ngôn từ tác phẩm, những tri
thức về văn hóa, tâm lí xã hội...là những cơ sở vững chắc trong việc tìm hiểu nội
dung, nghệ thuật và ý nghĩa của tác phẩm.
3.2. Kiến nghị.

* Đối với Sở Giáo dục và đào tạo: Tổ chức các chuyên đề về giảng dạy văn học
trong trường phổ thông đặc biệt là những văn bản nghị luận để giáo viên có thể
học hỏi nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
* Đối với nhà trường: Thường xuyên tố chức dịp thao giảng, dự giờ để giáo
viên học sinh có thể học hỏi, rút kinh nghiệm cho những bài giảng vốn khô
khan, khó hiểu.
* Đối với giáo viên: Phải nỗ lực rèn luyện không ngừng, chuẩn bị kĩ bài giảng,
sưu tầm và lựa chọn những câu chuyện, bài thơ, giai thoại phù hợpvới bài học cụ
thể; thiết kế các bước lên lớp hợp lí, chặt chẽ.
Phương pháp dạy học không phải là lí thuyết trừu tượng mà được cụ thể
bằng thiết kế bài giảng và tiến trình bài giảng trên lớp. Là một giáo viên trẻ, việc
đưa ra một phương pháp chỉ là kinh nghiệm mang tính cá nhân được rút ra từ
chính thực tiễn giảng dạy của bản thân nên không thể tránh khỏi những thiếu
sót. Rất mong được sự góp ý của các đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 29 tháng 6 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện

Trịnh Thị Thanh Vân
MỤC LỤC

Trang

17



1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………….1
1.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………....1
1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………….....….1
1.4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………….2
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến…………………………..………………........2
2.2. Thực trạng của đề tài ……………………………………………….. . . …2
2.3. Giải pháp thực hiện…………………………………………………. . . . .3
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm............................................................16
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận……………………………………………………………….….17
3.2. Kiến nghị …….……………………………………………………….….17

TÀI LIỆU THAM KHẢO
18


1. Phan Trọng Luận, Lã Nhâm Thìn, Trần Đăng Suyền, Bùi Minh Toán, Lê A,
Lê Nguyên Cẩn, Nguyễn Thái Hòa, Đỗ Kim Hồi, Nguyễn Xuân Nam, Đoàn Đức
Phương, Vũ Dương Quỹ, Trần Nho Thìn, Trịnh Thị Thu Tiết, Hà Bình Trị, Đoàn
Thị Thu Vân - “Ngữ văn 11tập 1,2” - NXB giáo dục Việt Nam - 2011.
2. Nguyễn Tấn Huy, Nguyễn Văn Pháp, Võ Thị Quỳnh Châu, Đỗ Như Thảo
Diệu, Phạm Thị Thùy Trang, Nguyễn Thị Quỳnh Giang, Cao Nguyễn Hà Uyên,
Lê Nguyễn Kiều Vy, Bùi Minh Nhật Vy, Phạm Vũ Mai Hạ, Võ Lê Ánh Nguyệt,
Lê Văn Phúc, Trần Thị Ái Diễm “Chuyên đề chuyên sâu bồi dưỡng Ngữ văn 11”
– NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Phan Trọng Luận, Trần Đăng Suyền, Bùi Minh Toán, Lê A, Lê Nguyên Cẩn,
Đặng Anh Đào... - “Sách giáo viên Ngữ văn 11tập 1,2” - NXB giáo dục Việt

Nam - 2011

DANH MỤC
19


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Thị Thanh Vân
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Vĩnh Lộc.
Tên đề tài
Sáng kiến

Cấp đánh giá
xếp loại

Cách tiếp cận văn học nước ngoài
Ngành GD
chương trình Ngữ văn 11 từ thể
cấp tỉnh
loại
Một số kinh nghiệm dạy học thể
Ngành GD
thơ Hai Kư trong chương trình
cấp tỉnh
Ngữ văn lớp 10 - THPT
Một số kinh nghiệm dạy học thể
Ngành GD
loại ca dao trong chương trình Ngữ

cấp tỉnh
văn 10 - THPT

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá xếp
loại

C

2010-2011

C

2013-2014

C

2015-2016

20


21




×