MỤC LỤC
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
19
20
21
22
23
24
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Phân môn Kể chuyện trong chương trình Tiểu học
2.1.2. Phát triển năng lực kể chuyện cho học sinh
2.2. Thực trạng của việc dạy và học phân môn kể chuyện ở lớp
1
2.2.1.Thuận lợi
2.2.2. Khó khăn
2.3. Các giải pháp rèn kĩ năng kể chuyện theo hướng phát
triển năng lực cho học sinh lớp 1
2.3.1. Nội dung chương trình, yêu cầu của phân môn Kể chuyện
lớp 1
2.3.2 Gây hứng thú cho học sinh bằng cách tổ chức khởi động
đầu tiết học
2.3.3 Gây ấn tượng, ghi nhớ về nội dung truyện thông qua lời
kể của giáo viên kết hợp động tác, cử chỉ, điệu bộ cùng hệ thống
câu hỏi gợi ý
2.3.4. Kể chuyện phân biệt theo lời của nhân vật (sắm vai)
2.3.5. Thường xuyên tạo không khí thi đua giữa các cá nhân và
giữa các nhóm với nhau và khuyến khích, động viên, hướng dẫn
học sinh kể chuyện.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến Kết quả
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
1. Mở đầu
Trang
1
1
2
2
2
3
3
3
3
4
4
4
5
5
6
7
11
13
13
14
14
15
1.1. Lí do chọn đề tài
Mục tiêu giáo dục của Việt Nam hiện nay là “Đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện có đạo đức, có tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp,
trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” – Theo Luật Giáo dục. Cùng với sự phát
triển đổi mới không ngừng của xã hội, nền giáo dục cũng có sự đổi mới trong
việc đào tạo những con người năng động, sáng tạo, chuyển từ hướng tiếp cận tri
thức sang tiếp cận năng lực là chủ yếu. Bởi vậy, các phương pháp dạy học cũng
dần phải thay đổi theo và cần có những biện pháp để đổi mới đáp ứng nhu cầu
dạy học theo hướng tích cực “hướng vào người học”.
Tiếng Việt là môn học không chỉ giúp học sinh hoàn thiện 4 kĩ năng cơ bản
như: nghe – nói – đọc – viết mà còn rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy,
bồi dưỡng tình cảm. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có 7 phân môn khác nhau trong
đó phân môn Kể chuyện có vai trò vị trí quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến
việc hình thành nhân cách của học sinh. Nó góp phần bồi dưỡng tâm hồn, đem
lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát triển cao năng lực trí tuệ,
rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Qua mỗi tiết kể chuyện,
học sinh được tiếp xúc với một văn bản truyện kể khá lý thú, cảm nhận được nội
dung và thu hoạch được những bài học bổ ích.
Hiện nay, chất lượng kể chuyện của học sinh trường tiểu học nói chung và
học sinh khối 1 nói riêng chưa cao. Trong các giờ dạy Kể chuyện ở lớp 1, giáo
viên còn chưa chú ý phát triển năng lực học sinh, thường dành thời gian để kể
chuyện cho học sinh nghe, yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi trong sách; thời gian
còn lại là dành cho việc các con tự kể chuyện cho nhau nghe. Thậm chí, có học
sinh nghe rồi nhưng chưa hiểu, chưa nắm rõ nội dung câu chuyện, khiến cho vừa
nghe giáo viên kể xong là quên ngay.
Như vậy, làm thế nào để dạy tốt tiết Kể chuyện? Làm thế nào để rèn luyện
kỹ năng kể chuyện cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng?
Học sinh phát triển được năng lực thế nào khi kể một câu chuyện? Đó là một
vấn đề quan trọng được các nhà giáo dục quan tâm. Là một giáo viên trực tiếp
giảng dạy lớp 1 bản thân tôi rất trăn trở cho chất lượng dạy tiết kể chuyện, với
mục đích rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh không chỉ thuộc, nhớ nội dung câu
chuyện mà còn phải biết sáng tạo, nhập vai để thể hiện được giọng kể, nét mặt,
điệu bộ, cử chỉ, phù hợp với mỗi nhân vật trong từng đoạn chuyện, trong từng
câu chuyện kể. Xuất phát từ những lí do trên, tôi nghiên cứu và áp dụng Sáng
kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp rèn kĩ năng kể chuyện theo hướng phát
2
triển năng lực cho học sinh lớp 1 – Trường Tiểu học Đông Vệ 2 – Thành phố
Thanh Hóa” để khắc phục những tình trạng kể chuyện hiện nay, giúp học sinh
lớp 1 rèn luyện tốt kĩ năng kể chuyện.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu, đề ra một số biện pháp rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh lớp
1 theo hướng phát triển năng lực để nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn kể
chuyện góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh ở lớp 1.
- Tạo hứng thú học tập, khả năng tư duy hình ảnh cho học sinh, giúp các
em phát triển khả năng kể chuyện của bản thân, xây dựng ở các em sự tự tin,
niềm đam mê học tập, sáng tạo qua mỗi tiết học.
- Bồi dưỡng kĩ năng kể chuyện cho học sinh. Bồi dưỡng tâm hồn, đem lại
niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát triển tư duy và ngôn ngữ cho
học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 1D, trêng TiÓu häc §«ng Vệ 2, thành phố Thanh Hóa Năm học 2019 - 2020.
- Giải pháp rèn kĩ năng kể chuyện theo hướng phát triển năng lực cho học
sinh lớp 1, trêng TiÓu häc §«ng Vệ 2, thành phố Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
+ Nghiên cứu các cơ sở lí luận liên quan đến việc rèn kĩ năng kể chuyện.
+ Nghiên cứu các tài liệu tham khảo có liên quan đến một số giải pháp rèn
kĩ năng kể chuyện theo hướng phát triển năng lực.
+ Tìm hiểu phương pháp kể chuyện hấp dẫn, có hiệu quả ở lớp 1.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Quan sát, điều tra, phỏng vấn.
+ Nghiên cứu sản phẩm hoạt động của học sinh.
+ Thử nghiệm một số biện pháp
+ Quan sát, dự giờ giáo viên trong tổ, giáo viên các khối khác.
- Nhóm phương pháp hỗ trợ
+ Dùng toán học thống kê, xử lí dữ liệu thu được.
+ Sơ đồ hóa kết quả nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
3
2.1.1. Phân môn Kể chuyện trong chương trình Tiểu học
Kể chuyện là một trong những phân môn của môn Tiếng Việt, là món ăn
tinh thần không thể thiếu đối với trẻ em. Trẻ em rất thích nghe kể chuyện. Kể
chuyện có sức mạnh riêng trong việc giáo dục trẻ. Thông qua các tác phẩm văn
học nghệ thuật mà giáo viên dùng để kể, các câu chuyện đó có tác dụng lớn đến
tâm hồn và cảm xúc của các em, đem lại những xúc cảm thẩm mĩ lành mạnh.
Qua một câu chuyện, ta có thể giúp các em dễ hiểu và nhớ lâu một bài học về
đạo đức hay nhân bản một cách nhẹ nhàng, hiệu quả.
Kể chuyện là môn học làm phong phú vốn từ ngữ, giúp học sinh làm quen
với sự ứng xử ngôn ngữ trong nhiều lĩnh vực giao tiếp, cảm nhận được sự tinh tế
của ngôn ngữ, từ đó học sinh vận dụng vào việc luyện tập hình thành kĩ năng sử
dụng Tiếng Việt. Ngoài ra, nó cũng là cách dùng ngôn ngữ biểu cảm sinh động
của người kể để làm sống lại câu chuyện. Kể chuyện khác với đọc truyện:
+ Đọc truyện: Yêu cầu người đọc trung thành với văn bản, dùng giọng đọc
của mình truyền đạt chính xác đến người nghe từ nội dung đến ngôn từ của một
tác phẩm truyện.
+ Kể chuyện là cách người kể dùng lời nói, ngôn từ của mình để truyền tới
người nghe nội dung của một tác phẩm truyện. Kể chuyện không yêu cầu người
kể phải trung thành tuyệt đối với văn bản mà trong quá trình kể, người kể có thể
thêm bớt sàng lọc cũng như thể hiện thái độ, tình cảm của bản thân.
Mục tiêu của phân môn kể chuyện lớp 1 là học sinh kể lại được một đoạn
chuyện dựa theo tranh (Phần âm, vần), kể lại được một đoạn chuyện dựa theo
tranh và gợi ý dưới tranh (Phần luyện tập tổng hợp). Học sinh có năng lực tốt có
thể kể lại toàn bộ câu chuyện, hiểu được ý nghĩa của câu chuyện. Việc học sinh
có thể kể lại câu chuyện một cách sinh động khiến các em rất hứng thú học và
bồi dưỡng tâm hồn cho các em một cách nhẹ nhàng, hiệu quả.
Dạy tốt kể chuyện, rèn kĩ năng kể chuyện tốt ở các em, giáo viên sẽ tạo
điều kiện tốt cho sự phát triển năng khiếu ở học sinh, tạo điều kiện ươm mầm
cho những nhân tài mai sau.
2.1.2. Phát triển năng lực kể chuyện cho học sinh
Định hướng xây dựng chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể sau năm
2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (8/2015) đã xác định 8 năng lực chung mà
mọi học sinh cần phải có để thích ứng với nhu cầu phát triển của xã hội gồm:
năng lực tự học; năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mĩ; năng
lực thể chất; năng lực giao tiếp; năng lực hợp tác; năng lực tính toán; năng lực
công nghệ thông tin và truyền thông.
4
Phát triển năng lực là phát triển cho học sinh phẩm chất, năng lực của bản
thân. Rèn luyện bản thân lên bước tiến mới, bước tiến cao, giúp cho quá trình
học tập và phát triển từ một người thụ động, luôn luôn phụ thuộc vào giáo viên
phát triển trở thành chủ thể của trung tâm. Các em tự biết khám phá kiến thức,
khả năng sáng tạo, trí tư duy, phát triển tốt các năng lực của bản thân.
Rèn học sinh kỹ năng kể chuyện theo hướng phát triển năng lực mục đích
là rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh không chỉ thuộc, nhớ nội dung câu chuyện
mà còn phải biết sáng tạo, nhập vai để thể hiện được giọng kể, nét mặt, điệu bộ,
cử chỉ, phù hợp với mỗi nhân vật trong từng đoạn chuyện, trong từng câu
chuyện kể.
Ngoài ra việc rèn kĩ năng kể chuyện theo hướng phát triển năng lực cho các
em giúp các em phát triển và bồi dưỡng năng lực bản thân học sinh: năng lực
giao tiếp (giao tiếp giữa người kể và người nghe); năng lực hợp tác (trao đổi nội
dung câu chuyện giữa người kể và người nghe, hợp tác nhóm kể cho nhau
nghe…); năng lực sáng tạo…
2.2. Thực trạng của việc dạy và học phân môn kể chuyện ở lớp 1
2.2.1. Thuận lợi
Các câu chuyện kể trong tiết kể chuyện lớp 1 là những câu chuyện ngắn,
thường kể về sự tích, về các con vật, những câu chuyện dân gian gần gũi với các
em học sinh. Chính điều này đã giúp học sinh có nhiều thuận lợi trong việc nhớ
và thuộc nội dung câu chuyện.
Học sinh được học tập 2 buổi/ngày có nhiều điều kiện để giáo viên quan
tâm nhiều hơn đến từng đối tượng học sinh. Mỗi khối lớp được trang bị hệ thống
máy tính, máy chiếu kết nối mạng Internet phục vụ cho giảng dạy. Đồ dùng,
tranh ảnh phong phú, đầy đủ.
2.2.2. Khó khăn
Học sinh lớp 1, các em còn nhỏ tuổi nên việc ghi nhớ cốt truyện, nội dung
truyện với các em rất khó. Lời nói, câu từ chưa được lưu loát, gãy gọn. Khi kể
chuyện trong nhóm, trước lớp, một số em năng lực hạn chế còn ngại ngùng
không dám bộc lộ khả năng của mình vì sợ các bạn cười. Vì vậy, khi tổ chức kể
chuyện để bình chọn người có giọng kể hay nhất, hấp dẫn nhất thì học sinh năng
lực còn hạn chế không dám tham gia mà chỉ những học sinh có năng lực tốt trổ
tài thử thách.
Học sinh lớp tôi hầu hết là con em cán bộ, công chức, viên chức và lao
động tự do. Bố mẹ bận công việc ít có thời gian quan tâm chú ý rèn con nên vốn
từ giao tiếp còn hạn chế, chưa mạnh dạn, chưa biết dùng lời lẽ của mình thể hiện
5
giọng của nhân vật trong mỗi câu chuyện, chưa sáng tạo giọng kể. Đầu năm kĩ
năng kể chuyện của học sinh đạt được như sau:
Sĩ Số
HS thích kể chuyện và
kể lại được đoạn truyện
44 em
10 em = 22,7%
HS kể được vài
chi tiết trong
câu chuyện
20 em = 45,5%
HS chưa biết
kể
14 em = 31,8%
Li
n
h
Bên cạnh đó, thông qua việc dự giờ thăm lớp, trao đổi với các bạn đồng
nghiệp tôi thấy rằng đa số giáo viên dạy kể chuyện còn có những hạn chế sau:
- Chưa sử dụng các đồ dùng dạy học thường xuyên.
- Chưa chuẩn bị kĩ câu chuyện, chưa thuộc nắm rõ nội dung chuyện dẫn tới
giọng kể cũng như sắc thái biểu cảm chưa được bộc lộ, thể hiện rõ khi kể
chuyện.
- Hầu hết, các giáo viên cầm sách đọc chuyện hơn là kể chuyện.
- Một số giáo viên vẫn còn bị ảnh hưởng lối dạy kể chuyện theo phương
pháp cũ, giờ kể chuyện giáo viên kể mẫu xong chỉ đặt các câu hỏi như: Câu
chuyện này có mấy nhân vật? Là những nhân vật nào? để cho các em nhớ lại cốt
truyện, sau đó là để các em kể lại theo đoạn và cả câu chuyện. Với hình thức dạy
kể chuyện như vậy nhiều khi học sinh không thể nắm bắt được cốt truyện ngay
trên lớp, trừ một số em đã đọc truyện đó ở nhà một hai lần. Do đó hạn chế kĩ
năng kể lại và nhận xét bạn kể của các em. Điều đó cũng ảnh hưởng đến việc rèn
khả năng nghe, nói cho học sinh. Khi tổ chức các hoạt động dạy trong giờ kể
chuyện chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo, năng động của học sinh.
Chưa linh hoạt khi xử lí các tình huống có vấn đề khi dạy giờ kể chuyện.
- Trong quá trình dạy học, giáo viên chưa nhiệt tình động viên học sinh,
chưa giúp các em hóa thân vào các nhân vật khi kể dẫn đến giờ học hiệu quả
chưa cao. Giáo viên thường hay chọn những em năng lực tốt có năng khiếu lên
kể chuyện.
Chính những nguyên nhân trên đã dẫn đến tiết kể chuyện hiệu quả chưa
cao. Vì thế, tôi đã nghiên cứu “Một số giải pháp rèn kĩ năng kể chuyện theo
hướng phát triển năng lực cho học sinh lớp 1- Trường Tiểu học Đông Vệ 2 –
Thành phố Thanh Hóa.””.
2.3. Các giải pháp rèn kĩ năng kể chuyện theo hướng phát triển năng lực
cho học sinh lớp
2.3.1. Nội dung chương trình, yêu cầu của phân môn Kể chuyện lớp 1
6
Việc tìm hiểu nội dung chương trình, yêu cầu cần đạt của phân môn kể
chuyện lớp 1, sẽ giúp cho giáo viên có kế hoạch, phương pháp phù hợp với từng
bài để đạt được hiệu quả mong muốn.
*Về nội dung: Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 được chia làm 2 phần:
+ Phần 1: Âm, vần trong phân môn Học vần
+ Phần 2: Luyện tập tổng hợp bao gồm các phân môn: Tập đọc, Chính tả.
Tập viết, Kể chuyện.
Phần Âm, vần: Dạy kể chuyện được lồng vào tiết Ôn tập bao gồm 21 câu
chuyện mà tên truyện có chứa tiếng có vần cần ôn. Trong đó, truyện cổ tích có
20 truyện, truyền thuyết có 01 truyện. Những câu chuyện này đều rất gần gũi,
ngắn, dễ nhớ phù hợp với học sinh lớp 1.
Phần Luyện tập tổng hợp: Dạy kể chuyện - một phân môn trong môn
Tiếng Việt – một tuần có 1 tiết. Nội dung các câu chuyện gắn với từng chủ điểm.
Có 3 chủ điểm: Nhà trường, Thiên nhiên – Đất nước – Gia đình.
CHỦ ĐIỂM
SỐ TIẾT
1. Nhà trường
3
2. Thiên nhiên - đất
nước
3
3. Gia đình
2
NỘI DUNG GIÁO DỤC
Giáo dục, bồi dưỡng tình cảm yêu mái
trường, yêu quý bạn bè, thầy cô;
không coi thường người khác.
Giáo dục, bồi dưỡng tình yêu thiên
nhiên, đất nước.
Ngoài ra, biết được nguồn gốc sự vật
hiểu được tình yêu thương của Bác Hồ
với thiếu nhi.
Giáo dục lòng yêu thương, kính trọng
cha mẹ, biết vâng lời cha mẹ.
*Về yêu cầu cần đạt của tiết kể chuyện:
Tiết kể chuyện lớp 1, yêu cầu học sinh sau khi học xong sẽ đạt được những
kĩ năng cơ bản sau:
+ Phần âm vần: Học sinh có thể nghe, hiểu và kể lại được một đoạn truyện
theo tranh.
+ Phần luyện tập tổng hợp: Học sinh kể lại được một đoạn câu chuyện dựa
theo tranh và gợi ý dưới tranh.
2.3.2. Gây hứng thú cho học sinh bằng cách tổ chức khởi động đầu tiết học
Khởi động mở đầu cho một tiết học sẽ rất quan trọng, nó sẽ ảnh hưởng đến
không khí học, tinh thần của cả giáo viên và học sinh trong suốt tiết học. Vào bài
bằng hình thức khởi động vừa tạo không khí thoải mái, tạo tâm thế sẵn sàng tiếp
7
thu bài học vừa khơi dậy những kiến thức có sẵn của học sinh có liên quan cần
thiết đến câu chuyện sắp kể. Giáo viên chỉ cần cho học sinh làm khởi động đơn
giản như trò chơi: “Chim bay, cò bay” (Kể chuyện Cò đi lò dò), “Nào mình cùng
vui” hoặc hát một bài hát có kèm phụ họa như: Bàn tay mẹ (Kể chuyện Bông
hoa cúc trắng… Từ những hoạt động khởi động ấy, học sinh có hứng thú hơn
vào tiết học, gợi tính tò mò của học sinh khiến cho các em càng chăm chú, tập
trung vào tiết học hơn.
Ví dụ 1: Tiết Kể chuyện Bông hoa cúc trắng giáo viên cho cả lớp cùng hát
vang bài hát Bàn tay mẹ, từ nội dung của bài hát, giáo viên đưa ra các câu hỏi
gợi mở dẫn dắt học sinh vào câu chuyện:
- Qua bài hát con thấy tình cảm của mẹ dành cho con như nào? Vậy khi mẹ
ốm con sẽ làm gì để mẹ khỏi bệnh? Có một cô bé khi mẹ ốm nặng đã tìm mọi
cách để cứu giúp mẹ khỏi bệnh và bạn ấy đã làm như thế nào? Chúng ta cùng
nhau vào tiết kể chuyện ngày hôm nay.
Ví dụ 2: Ở tiết kể chuyện Rùa Và Thỏ giáo viên có thể sử dụng công nghệ
thông tin ứng dụng vào dạy học, cho học sinh xem một đoạn clip về rùa và thỏ,
hoặc có thể đưa ra câu đố và tranh ảnh để giới thiệu về các nhân vật chính ở câu
chuyện mà các em được học. Từ đó, nó giúp cho học sinh ấn tượng về hai con
vật mà các bạn sẽ được kể chuyện, hay dựa vào những đặc điểm nổi bật của 2
con vật (Rùa: đi chậm chạm; Thỏ: chạy rất nhanh) để nhớ nội dung câu chuyện
hơn.
2.3.3. Gây ấn tượng, ghi nhớ về nội dung truyện thông qua lời kể của giáo
viên kết hợp động tác, cử chỉ, điệu bộ cùng hệ thống câu hỏi gợi ý
Để giúp học sinh ghi nhớ nội dung truyện thì trước hết giọng kể của giáo
viên phải thật cuốn hút, điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt phải nhịp nhàng với lời kể. Và
cần thay đổi ngữ điệu phù hợp với từng nhân vật, với từng cung bậc cảm xúc
của nhân vật. Giáo viên cần tập kể nhiều lần câu chuyện sẽ dạy để hiểu và nắm
chắc được nội dung câu chuyện, có được cảm xúc thực sự cùng nhân vật. Khi đó
kết hợp cách diễn đạt, cử chỉ, điệu bộ để học sinh có thể vừa nghe chuyện, vừa
quan sát bắt chước cách làm của cô, giúp cho học sinh càng ấn tượng, thêm nhớ
câu chuyện hon. Vì tâm lí học sinh lớp 1 luôn yêu thích được hoạt động, muốn
vừa học vừa chơi, kể chuyện kết hợp giọng điệu hay cùng cử chỉ điệu bộ sẽ gây
sự thích thú cho các em, làm cho các em muốn được kể những câu chuyện đó.
Hơn nữa, việc sử dụng cử chỉ điệu bộ phát huy năng lực sáng tạo cho các em,
các em sẽ học theo giáo viên các cử chỉ đó hay có thể sáng tạo các cử chỉ, ánh
mắt phù hợp với nhân vật đang được kể tới.
8
Ngoài ra, học sinh lớp 1 còn nhỏ nên khả năng ghi nhớ chưa cao. Chính vì
vậy, giáo viên cần kể mỗi câu chuyện ít nhất 2 lần và thay đổi hình thức kể. Lần
1: Kể toàn bộ câu chuyện, lần 2: kể từng đoạn theo tranh.
- Lần 1: Tôi đã áp dụng việc cho học sinh xem video kể chuyện ở lần 1 với
một số câu chuyện như: Rùa và Thỏ, Cây khế, Tre ngà, Ngỗng và Tép…những
đoạn phim của các câu chuyện này được dựng rất sinh động, lời kể hấp dẫn nên
tôi tận dụng để thay lời kể của mình, học sinh rất thích thú.
Ví dụ 1: Với những câu chuyện đòi hỏi nhiều cảm xúc như: Bông hoa cúc
trắng tôi đã dùng giọng kể cộng với cử chỉ điệu bộ, đặc biệt xúc cảm về người
mẹ đang ốm của mình để kể. Hay tôi có kết hợp sử dụng một số cử chỉ điệu bộ
khi kể chuyện lần 1 cho các con nghe như: chạy, hái hoa, đếm cánh hoa, ôm mặt
khóc… kết hợp giọng kể buồn bã, hớt hải khi chạy đi tìm thuốc cho mẹ và điều
đó đã thu hút được 100% học sinh nghe chuyện, học sinh đã như lặng đi khi
nghe tôi kể chuyện.
Ví dụ 2: Trong câu chuyện Dê con nghe lời mẹ tôi có thể sử dụng những cử
chỉ kết hợp giọng kể thay đổi khi kể tới từng đoạn chuyện như Khi Sói giả làm
mẹ gõ cửa gọi các con ăn tôi kết hợp giọng nhẹ nhàng, âu yếm gọi đàn Dê con
mở cửa cùng hành động tay đang gõ cửa; hoặc dùng ánh mắt, điệu bộ âu yếm,
giọng kể vui mừng khi kể đoạn chuyện Dê mẹ trở về nhà, khen các con ngoan,
biết nghe lời mẹ dặn.
- Lần 2: Kể chuyện theo tranh, giáo viên cần kể chậm và nhấn mạnh những
chi tiết cốt lõi của câu chuyện. Đặc biệt sử dụng tranh, ảnh (tranh tĩnh hoặc tranh
động) và chỉ vào tranh để thu hút sự chú ý của học sinh. Với tâm lí của học sinh
lớp 1 chủ yếu sử dụng trực quan, để tiết học không trở lên nhàm chán mà phát
huy được năng lực kể chuyện của học sinh, giáo viên cần chuẩn bị tranh ảnh, đồ
dùng phụ trợ cho hợp lí.
Hiện nay mạng Internet là một công cụ hỗ trợ rất đắc lực cho giáo viên về
việc sưu tầm tranh ảnh, nội dung, phim hoạt hình phục vụ cho tiết dạy. Để có
một tiết dạy phong phú về hình thức, sâu sắc về nội dung, hấp dẫn đối với học
sinh, tôi sưu tầm các câu chuyện kể có sẵn trên mạng để thay cho lời kể giáo
viên. Đây là những câu chuyện được thiết kế bằng phần mềm Flash, các nhân
vật có cử động, ngữ điệu phù hợp, đặc biệt màu sắc sinh động sẽ thu hút sự chú
ý của học sinh. Ngoài ra, các tiết kể chuyện có tổ chức sắm vai, giáo viên cùng
học sinh chuẩn bị sẵn một số đạo cụ, trang phục đơn giản phù hợp với nhân vật
mà học sinh thể hiện sắm vai.
Ví dụ: Ở câu chuyện Rùa và Thỏ: giáo viên sử dụng hình thức, phương
pháp:
9
+ Kể chuyện: Học sinh xem và nghe câu chuyện bằng phim hoạt hình, giáo
viên kể tóm tắt lại chuyện, học sinh kể cho cả lớp nghe
+ Truyện kể: sưu tầm trên mạng Internet bộ phim hoạt hình “Rùa và Thỏ”,
bộ tranh tóm tắt nội dung chính câu chuyện.
+ Mũ đội nhân vật Rùa, mũ đội nhân vật Thỏ, 1 cột đích.
Đặc biệt, ngoài việc sử dụng giọng điệu, cử chỉ, điệu bộ để cho học sinh
ghi nhớ nội dung chuyện, giáo viên cnũng cần kết hợp sử dụng dàn hệ thống câu
hỏi đan xen kết hợp. Bên cạnh việc khai thác hệ thống câu hỏi có sẵn dưới mỗi
tranh, giáo viên cần đưa ra thêm một số câu hỏi phù hợp hoặc sưu tầm thêm một
số bức tranh ngoài tranh trong sách giáo khoa để nhằm giúp phát huy năng lực
nhớ cốt truyện cho học sinh.
Sau khi quan sát tranh, nghe giáo viên đặt câu hỏi, học sinh phải huy động
nhiều thao tác: nghe để nhớ câu hỏi, hiểu câu hỏi rồi các em vừa quan sát tranh
vừa nhớ lại nội dung câu chuyện đã được học để xác định nội dung câu trả lời.
Cuối cùng các em phải trình bày được câu trả lời của mình dưới hình thức nói.
Như vậy, để trả lời được câu hỏi, học sinh phải sử dụng nhiều thao tác của kĩ
năng nói: nghe - nhớ, nghe - hiểu, xác định nội dung câu trả lời, nói. Đó là từng
hoạt động của từng học sinh, mỗi học sinh trong nhóm thảo luận với nhau để tìm
ra câu trả lời chính xác.
Ví dụ 1: Truyện Sói và Sóc
Tranh 1: Câu hỏi dưới tranh là: Chuyện gì xảy ra khi Sói đang ngủ dưới
gốc cây?
Giáo viên có thể hỏi thêm: Trong tranh vẽ gì? (Một con Sóc đang bị rơi
xuống và một con Sói đang ngủ dưới gốc cây), sau đó mới đưa ra câu hỏi như
trong tranh
Ví dụ 2: Truyện Bông hoa cúc trắng
Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi nhớ nội dung từng đoạn truyện thông
qua việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi.
* Đoạn 1: (Bức tranh 1)
10
Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi nhớ cốt truyện bằng các câu hỏi:
+ Bức tranh vẽ gì? (Một túp lều lụp xụp, mẹ cô bé bị ốm, cô bé đang chăm
sóc mẹ)
+ Người mẹ ốm nói gì với con (Mẹ thấy trong người mệt lắm, con đi mời
thầy thuốc về đây cho mẹ)
* Đoạn 2: Tranh 2
Để giúp học sinh ghi nhớ nội dung đoạn truyện thứ 2, giáo viên cho học
sinh quan sát thêm một tranh giáo viên thiết kế trước khi quan sát tranh. Và đặt
câu hỏi:
+ Trên đường đi tìm thầy thuốc, cô bé gặp ai?(Cô bé gặp một cụ già, râu
tóc bạc phơ)
+ Cụ già đã hỏi cô bé như thế nào? (Cháu đi đâu mà vội vã thế?)
+ Cô bé trả lời cụ ra sao? (Thưa cụ! Cháu đi tìm thầy thuốc. Mẹ cháu ốm
đã lâu, bệnh mỗi ngày một nặng)
+ Khi đưa cụ già về nhà, khám bệnh cho mẹ cô bé xong cụ già đã nói gì với
cô bé? (Bệnh mẹ cháu nặng lắm. Cháu hãy đi đến gốc đa đầu rừng hái cho ta
một bông hoa trắng thật đẹp về đây để ta làm thuốc nhé!)
11
*Đoạn 3: (Tranh 3 – SGK)
Giáo viên đưa ra câu hỏi:
+ Khi cô bé hái được hoa, cô nghe thấy cụ già nói gì? (Mỗi cánh trên bông
hoa là một ngày mẹ cháu được sống thêm)
+ Cô bé đếm được bao nhiêu cánh hoa? (Hai mươi cánh hoa)
+ Cô bé làm gì sau đó? (Cô bé xé những cánh hoa ra làm nhiều sợi)
* Đoạn 4: Tranh 4
+ Về đến nhà ai đã đợi cô bé ở cửa? (Cụ già đã đợi cô ở cửa)
+ Câu chuyện kết thúc như thế nào? (Mẹ cô bé đã khỏi bệnh, phần thưởng
cho tấm lòng hiếu thảo của cô)
2.3.4. Kể chuyện phân biệt theo lời của nhân vật (sắm vai)
Mặc dù học sinh lớp 1 còn nhỏ nhưng tôi nhận thấy các em rất thích đóng
vai các nhân vật và các em làm rất tốt. Việc các em đóng vai sẽ làm các em hiểu
rõ nội dung câu chuyện hơn và hứng thú với tiết học hơn. Các em được hóa
trang thành các nhân vật, được thể hiện mình, phát huy được tối đa năng lực của
12
học sinh. Giờ kể chuyện có hoạt động sắm vai gây hứng thú cho cho học sinh,
giúp học sinh nắm nhanh cốt truyện, hiểu sâu nội dung cũng như tính cách của
từng nhân vật trong truyện. Việc thể hiện tính cách nhân vật giúp học sinh rèn
luyện các kỹ năng nghe, nói, khả năng tư duy và phát huy trí tưởng tưởng phong
phú.
Để giúp học sinh có thể thực hiện tốt vai của mình, các em nhập “hồn” vào
nhân vật có trong truyện thì giáo viên định hướng học sinh tự chọn các vai mà
các em yêu thích, học sinh trong nhóm thảo luận rồi chủ động phân vai hay phân
công nhau. Như vậy các em sẽ hào hứng và đóng tốt vai của mình. Khi tổ chức
hoạt động này không đòi hỏi học sinh khi sắm vai phải nói chính xác lời nhân
vật mà chỉ cần các em nói được nội dung cơ bản của cốt truyện, giáo viên định
hướng cho học sinh phân biệt các nhân vật: Nội dung nào là của Người dẫn
chuyện, nội dung nào là lời đối thoại của các nhân vật? Nhân vật đó là nam hay
nữ, già hay trẻ? Nhân vật đó hiền lành hay hung dữ? Phân biệt giọng nói, cử chỉ,
điệu bộ… của nhân vật như: giọng của người khi ốm thì như thế nào? Giọng của
người khi vui thì như thế nào? Giáo viên có thể mời những học sinh có năng
khiếu làm mẫu trước lớp về lời nói, cử chỉ, điệu bộ của nhân vật. Mỗi tiết kể
chuyện giáo viên sẽ chuẩn bị sẵn 1 số đạo cụ đơn giản phù hợp với nội dung và
hình ảnh của các nhân vật để gây hứng thú cho học sinh khi tham gia sắm vai.
Chỉ cần thay đổi mội vài kiểu dáng nho nhỏ cũng đã tạo được niềm hứng khởi
cho bạn được đóng vai kể rất lớn.
Lưu ý: Giáo viên không cung cấp trước lời nói của nhân vật mà để các em
tự tìm lấy. Giáo viên không bày sẵn các tình huống mà để các em dựa vào câu
chuyện xử lý các tình huống đó. Ngoài ra giáo viên cũng có thể chủ động chọn
một nhóm học sinh có năng lực, giao vai cụ thể cho từng em. Đây sẽ là nhóm
được giáo viên xây dựng làm mẫu trong giờ học. Trong giờ học, giáo viên có thể
chỉ định một nhóm bất kỳ, không được chuẩn bị để các em sắm vai nhằm mục
đích rèn luyện cho các em tính tự tin, đồng thời cũng là cách kiểm tra việc nắm
bài cũng như việc rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, kể chuyện của các em một
cách thực chất và phát huy năng lực của tất cả học sinh trong lớp. Căn cứ vào
trình độ của lớp mà giáo viên có thể lựa chọn hình thức phân vai phù hợp, sao
cho em nào trong lớp cũng có thể tham gia.
Ví dụ 1: Truyện Khỉ và Rùa
Sau khi các nhóm thi kể từng đoạn truyện, giáo viên cho các em lựa chọn
nhân vật mình yêu thích để đóng. Giáo viên chuẩn bị sẵn mũ vẽ con khỉ, mũ vẽ
con rùa.
Giáo viên định hướng cho các em về các nhân vật:
13
+Truyện có những nhân vật nào? (Người dẫn truyện, Khỉ chồng, Khỉ vợ,
Rùa)
+ Khỉ thường hay làm động tác gì? (Gãi gãi, nhảy nhót)
+ Rùa đi như thế nào? (Chân đi, tay để như thế nào, cổ làm động tác gì?)
Giáo viên có thể gọi bạn có năng khiếu làm mẫu để học sinh quan sát bắt
chước. Gợi ý hướng dẫn:
+ Khỉ chồng nói những gì? Khỉ vợ nói những gì? Rùa nói những gì?
Sau đó lần 1: Giáo viên dẫn truyện cho học sinh sắm vai các nhân vật khác.
Lần 2 cho học sinh tự sắm vai theo nhóm.
Ví dụ 2: Truyện Bông hoa cúc trắng, tôi đã hướng dẫn các em:
Truyện có những nhân vật nào? (Truyện có bà mẹ, ông cụ, cô bé). Tôi nhắc
thêm còn có người dẫn truyện. Và hướng dẫn các em giọng của từng nhân vật
trong từng lúc:
Bà mẹ: Giọng yếu ớt, lời nói ngắt quãng
Cụ già: Giọng chậm rãi, ân cần (Lúc hỏi thăm cô bé), giọng lo lắng khi nói
cho cô bé biết bệnh của mẹ cô và giọng vui mừng khi báo cho cô bé mẹ cô đã
khỏi bệnh.
Cô bé: Giọng buồn và lo lắng khi nói cho cụ già biết mẹ cô bị ốm. Giọng
hốt hoảng khi biết mẹ chỉ còn sống được 20 ngày nữa…
Cho học sinh hóa trang thành các nhân vật: Giáo viên lựa chọn những đồ
dùng đặc trưng, tiêu biểu cho câu chuyện, cho nhân vật, những vật dụng đơn
giản, dễ kiếm, dễ làm để giúp cho các em có thêm hứng thú kể chuyện. Như ông
cụ có bộ râu, cái gậy, bà cụ có cái khăn trùm đầu, các con vật: con thỏ có đôi tai
làm bằng giấy bìa, con sư tử, hổ có mũ sư tử, hổ làm bằng giấy bìa, con chó, con
gà…. và bông hoa cúc trắng.
2.3.5. Thường xuyên tạo không khí thi đua giữa các cá nhân và giữa các
nhóm với nhau và khuyến khích, động viên, hướng dẫn học sinh kể chuyện.
Trong quá trình cho học sinh kể thi trong nhóm giáo viên cho tặng cho
mỗi cá nhân một bông hoa từng em. Kết quả của cá nhân này được cộng lại
dùng làm thành tích cho tập thể bằng số bông hoa thi đua giữa các nhóm. Như
vậy sẽ làm cho các đối tượng phải cố gắng chăm chỉ, đồng thời tạo cho mỗi em
trong nhóm luôn phát huy hết khản năng của mình để không bị liên quan đến kêt
quả xấu của cả nhóm. Tác phong của giáo viên là yếu tố quan trọng trong việc
tiếp xúc, tổ chức học tập và truyền thụ kiến thức cho học sinh. Giáo viên cần gần
gũi, nhẹ nhàng và trực tiếp theo dõi giúp đỡ các em với thái độ niềm nở, nhất là
đối với môn kể chuyện thì vấn đề này giáo viện lại càng đặc biệt quan tâm hơn
vì trong mỗi tiết kể chuyện thường có không ít em có thói quen rụt rè, ngại nói
14
sẽ nói nhỏ và nói ấp a ấp úng, diễn đạt kém. Nhưng lúc này nếu giáo viên có nét
mặt nhăn nhó, khó chịu thì lại càng cho các em rụt rè hơn và thậm chí còn hoảng
rợ không nhớ đến nội dung chuyện và lần sau sẽ không dám nữa. Nếu khi kể
chuyện nối tiếp đoạn trong nhóm những học sinh trung bình không nhớ được nội
dung thì giáo viên nhẹ nhàng gợi mở cho học sinh những câu hỏi gợi ý. Trong
mỗi tiết kể chuyện, giáo viên là người dẫn dắt, người khơi mào, người truyền
cảm hứng cho học sinh cho học sinh. Vì thế, muốn phát huy được năng lực kể
chuyện cho học sinh thì giáo viên chính đóng vai trò quan trọng.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau một thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy
trên lớp, tôi thấy kĩ năng kể chuyện của học sinh đã nâng cao rõ rệt. Với sự tạo
hứng thú cho học sinh trong tiết kể chuyện đã thu hút học sinh học tập hơn, các
em đã phát huy được hết khả năng, làm cho các em mạnh dạn khi được kể
chuyện. Từ sự tự tin, năng lực chủ động, phát huy tính tích cực của mình trong
giờ học kể chuyện, các em đã coi mỗi tiết kể chuyện là một ngày hội, một cuộc
thi thố tài năng nho nhỏ. Một số em tiếp thu chậm cũng đã mạnh dạn nói được
vài tình tiết trong câu chuyện. Qua tiết kể chuyện đã bồi dưỡng cho các em
những tình cảm tốt đẹp trong cuộc sống, góp phần hình thành nhân cách, đem lại
cảm xúc, thẩm mỹ lành mạnh, góp phần làm cho tâm hồn của các em trong sáng.
Kết quả tiết kể chuyện của lớp đạt như sau:
Mức độ đạt được
của học sinh
HS kể đúng nội dung đoạn truyện
theo tranh, nói đủ câu, đủ ý, có biểu
cảm, có sáng tạo.
HS kể đúng nội dung đoạn truyện
theo tranh, nói đủ câu, đủ ý.
HS chưa kể rõ ràng nội dung đoạn
truyện theo tranh, nói chưa đủ câu,
chưa rõ ý.
Trước khi thực
hiện
SL
TL
Sau khi thực hiện
SL
TL
10
27,7
18
40,9
20
45,5
22
50
14
31,8
4
4,1
Sau khi nghiên cứu và áp dụng sáng kiến, tôi thấy những tiết kể chuyện
thực sự đã tạo được hứng thú cho học sinh. Các em mong chờ đến giờ học, các
em say sưa nghe, hào hứng kể và về nhà còn kể cho cha mẹ, cho các em của
mình nghe. Các em cũng trở nên ngoan hơn, biết giúp đỡ mọi người xung
quanh.
15
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Qua một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tiết Kể chuyện lớp 1 theo
hướng phát triển năng lực, tôi đã giúp cho học sinh mở rộng và tích cực hóa vốn
từ ngữ, làm giàu vốn sống và vốn văn học cho các em, phát huy tính tích cực,
chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của học sinh.
Kể chuyện đã góp phần bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm vui, nâng cao
hiểu biết về đời sống, góp phần hình thành nhân cách con người, phát triển cao
năng lực trí tuệ, rèn luyện cho học sinh khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Qua
mỗi tiết kể chuyện, học sinh được tiếp xúc với một văn bản truyện kể khá lý thú,
cảm nhận được nội dung và thu hoạch được những bài học bổ ích. Khi dạy tiết
Kể chuyện, giáo viên tự biết khám phá kiến thức, khả năng sáng tạo, trí tư duy,
phát triển tốt các năng lực của bản thân.
Để góp phần rèn luyện kỹ năng kể chuyện cho học sinh được tốt, tôi đã rút
ra được một số kinh nghiệm sau:
- Người giáo viên phải không ngừng học hỏi để nâng cao kỹ năng kể
chuyện cho bản thân, từ đó tạo tiền đề cho việc rèn kỹ năng kể chuyện cho học
sinh.
- Trong giảng dạy phải nghiên cứu kỹ chương trình, sách giáo khoa, tài liệu
tham khảo để phối hợp rèn luyện kỹ năng kể chuyện cho học sinh, đầu tư một
cách thích đáng cho bài dạy. Đồng thời có phương pháp hướng dẫn cho học sinh
chủ động lời kể và ngữ điệu sáng tạo có ý nghĩa với tất cả các môn học.
- Luyện kỹ năng kể chuyện có nhiều hình thức trong một câu chuyện,
nhưng không nhất thiết bắt buộc em nào cũng phải diễn xuất tốt với tất cả các
hình thức.
- Giáo viên cần nắm vững được mục tiêu, ý nghĩa của câu chuyện để hướng
dẫn học sinh thể hiện được đúng mục đích, diễn xuất câu chuyện hấp dẫn hơn.
Bồi dưỡng cho các em tình cảm, trau dồi hứng thú kể chuyện để đem lại niềm
vui tuổi thơ cho học sinh.
16
- Cần biết động viên, khen ngợi những thành công, tiến bộ nhỏ nhất của các
em, để các em thêm tự tin ngày càng tiến bộ hơn, qua đó giúp các em luôn có ý
thức phấn đấu, tu dưỡng rèn luyện, vươn lên mọi mặt trở thành chủ nhân tương
lai của đất nước.
3.2. Kiến nghị
Để giờ dạy học sinh kể chuyện đạt hiệu quả cao tôi có một số đề xuất –
kiến nghị sau:
- Với giáo viên: Tích cực xây dựng bài giảng điện tử, sưu tầm nhiều phim
hoạt hình có nội dung tiết học.
- Với Phòng Giáo dục Đào tạo TP Thanh Hóa: Tăng cường các tiết dạy
chuyên đề phân môn kể chuyện, tổ chức Hội thi kể chuyện cho học sinh.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi trong việc rèn kĩ năng kể
chuyện theo hướng phát triển năng lực cho học sinh lớp 1 trường tôi nhằm nâng
cao chất lượng học tập của học sinh ở phân môn này mà tôi đã áp dụng trong
những năm học qua ở các lớp do tôi phụ trách. Chắc chắn rằng trong đề tài này
sẽ không thể không có những thiếu sót. Tôi kính mong lãnh đạo các cấp và các
đồng chí đồng nghiệp đóng góp ý kiến bổ sung để đề tài của tôi được hoàn thiện
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết
Lê Thị Thanh Thủy
17
PHỤ LỤC
KẾ HOẠCH BÀI DẠY MÔN TIẾNG VIỆT
PHÂN MÔN: KỂ CHUYỆN
Bài: Bông hoa cúc trắng
I. Mục tiêu:
- Hiểu được ý nghĩa câu chuyện: Ca ngợi tình cảm, lòng hiếu thảo của cô
bé trong chuyện Tình yêu mẹ của cô bé đã làm đất trời cảm động và giúp cô
bé chữa khỏi bệnh cho mẹ.
- HS ghi nhớ ND chuyện, kể lại được chuyện. Phân biệt và thể hiện được
lời nói các nhân vật trong truyện.
- Giáo dục HS phải hết lòng thương yêu, chăm sóc bố mẹ.
II. Đồ dùng dạy - học:
- Máy prorecter, phấn màu; truyện kể.
- 1 bông hoa cúc trắng, khăn, gậy, bộ râu trắng để đóng vai.
III. Các hoạt động dạy - học :
Phương pháp, các hình
Nội dung
thức tổ chức dạy – học
*Ổn định lớp
- Hát .
Hoạt động 1: Củng cố kiến thức
- Gọi HS kể lại chuyện: trí khôn
- 1-2 HS
- GV nhận xét.
- Lớp nhận xét
- Truyện Trí khôn cho chúng ta biết điều gì? (
- 1HS trả lời
Con người làm chủ tất cả muôn loài)
GV nhận xét chung
* Giới thiệu
GV cho HS quan sát hoa cúc trắng và đặt câu
hỏi:
- Đây là hoa gì?
- HS trả lời: Hoa cúc trắng
Đây chính là bông hoa cúc trắng. Hoa cúc
- Nghe và quan sát.
18
trắng có rất nhiều cánh trắng muốt. Hôm nay cô
sẽ kể cho các con nghe về sự tích hoa cúc trắng.
Đây là một câu chuyện cổ tích Nhật Bản.
- GV ghi tên bài
– Ghi đầu bài.
Hoạt động 3: Giáo viên kể chuyện
- GV kể chuyện lần 1: Kể toàn bộ câu chuyện
lần 1( kết hợp ngữ điệu, cử chỉ, điệu bộ)- HS
nghe kể chuyện
- GV kể chuyện lần 2: Kể lần 2 kết hợp tranh
minh họa
( Cho HS theo dõi trên màn hình)
Hoạt động 2: Hướng dẫn HS kể chuyện
- Hướng dẫn HS kể từng đoạn theo tranh *
Tranh 1 : - Cho HS xem tranh
+ Tranh vẽ gì?
+ Người mẹ ốm nói gì với con?
- Gọi HS kể lại ND tranh 1
- GVnhận xét – Động viên
*Các tranh 2,3,4 tiến hành tương tự như trên
-HS nhắc lại tên bài
- HS nghe.
- Quan sát tranh + trả lời câu
hỏi
- Vẽ cảnh một túp lều dột nát,
một cô bé đang ngồi chăm sóc
mẹ ốm.
- Mẹ thấy trong người mệt
lắm. Con đi mời thầy thuốc về
đây cho mẹ.
- 1- 2 HS kể– HS nhận xét
- Mỗi tranh cho 1-2 HS kể –
Lớp nhận xét
* Hướng dẫn HS kể chuyện
- Câu chuyện có những nhân vật nào? (Bà mẹ,
- HS trả lời
cô bé, ông cụ, người dẫn chuyện)
- GV hướng dẫn giọng từng nhân vật
- HS nghe
Bà mẹ: Giọng yếu ớt, lời nói ngắt quãng
Cụ già: Giọng chậm rãi, ân cần (lúc hỏi thăm cô
bé), giọng lo lắng khi nói cho cô bé biết bệnh của
mẹ cô và giọng vui mừng khi báo cho cô bé mẹ
cô đã khỏi bệnh.
Cô bé: Giọng buồn và lo lắng khi nói cho cụ già
19
biết mẹ cô bị ốm. Giọng hốt hoảng khi biết mẹ
chỉ còn sống được 20 ngày nữa
- Cho HS kể lại chuyện trong nhóm 4 theo
tranh (Mỗi HS phụ trách một tranh – Khuyến
khích các con kể theo vai)
Các nhóm thi kể trước lớp.
- GV chú ý sửa lỗi nói chưa thành câu, chưa đủ
ý cho HS.
(Những nhóm kể theo vai GV cho các con hóa
trang theo nhân vật các con đóng)
Hoạt động 4: Tìm hiểu ý nghĩa câu chuyện.
+ Em bé nghĩ thế nào mà lại xé mỗi cánh hoa ra
làm nhiều sợi?
+ Qua câu chuyện này, em thấy cô bé là người
như thế nào ?( Rất thương yêu mẹ)
+ Các con cần phải làm gì để cha mẹ vui lòng?
→GV chốt lại ý nghĩa – Giáo dục HS
Câu chuyện Ca ngợi tình cảm, lòng hiếu thảo
của cô bé với mẹ. Tình yêu mẹ của cô bé đã làm
đất trời cảm động và giúp cô bé chữa khỏi bệnh
cho mẹ.
Hoạt động nối tiếp:
+ Em vừa nghe câu chuyện gì ?
- GV tổng kết bài: - Là con phải thương yêu bố
mẹ, giúp đỡ bố mẹ những việc vừa sức mình,
chăm học, ngoan ngoãn vâng lời ông bà, cha mẹ.
- GV nhận xét tiết học .
- Dặn HS về nhà tập kể lại chuyện.
- Cá nhân kể hoặc 4 HS kể
phân vai
- HS nhận xét
- Mỗi cánh hoa sẽ là một
ngày mẹ em được sống
- HS trả lời
- HS trả lời
- HS lắng nghe
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ giáo dục và Đào tạo (2018), Sách giáo khoa Tiếng Việt 1, Tập 1, Tập
2, NXB Giáo dục.
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Sách GV Tiếng Việt 1, Tập 1, Tập 2, NXB
Giáo dục.
[3] Bộ Giáo dục và Đào Tạo (2017), Chương trình giáo dục phổ thông tổng
thể, NXB Giáo dục.
[4] Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội – Tài liệu chuyên đề, Dạy học theo định
hướng nâng cao năng lực HS trong nhà trường Tiểu học cho GV dạy văn hóa cơ
bản, Hà Nội, 2017.
[5] Lê Thị Kim Cúc (2017), Rèn luyện kĩ năng thực hành Tiếng Việt – NXB
Giáo dục Việt Nam.
[6] Nguyễn Thị Hiên, (2015) Giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt,
NXB Giáo dục Việt Nam.
[7] Bùi Văn Huệ, Nguyễn Xuân Thức (2014) Giáo trình Tâm lí học Tiểu học,
NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
[8] Lê Phương Nga (2011), Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học I, II –
NXB Đại học Sư Phạm.
[9] TS. Chu Thị Phương (2017), Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt
ở Tiểu học.
[10] Đinh Văn Tiến (2016) Cẩm nang phương pháp sư phạm – NXB Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh
21
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Lê Thị Thanh Thủy
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đông Vệ 2 - TP Thanh Hóa
TT
Tên đề tài SKKN
Nâng cao chất lượng giờ dạy
1
Luyện từ và câu cho học sinh lớp
5
Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng
2
làm văn miêu tả kiểu bài tả cảnh,
tả người cho học sinh lớp 5
Một vài biện pháp nâng cao giáo
3
dục đạo đức cho học sinh lớp 1
Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)
Phòng
GD&ĐT
Phòng
GD&ĐT
Kết quả
đánh giá Năm học đánh
xếp loại (A,
giá xếp loại
B, hoặc C)
A
2012 -2013
A
2014 -2015
B
2015 - 2016
A
2016 -2017
B
2017 -2018
Phòng
GD&ĐT
của trường Tiểu học Đông Vệ 2TPTH
Một vài kinh nghiệm rèn chữ viết
4
5
cho học sinh lớp 1
Một vài kinh nghiệm rèn kỹ năng
đọc cho học sinh lớp 1C - Trường
Tiểu học Đông Vệ 2 - TP Thanh
Hóa - Thanh Hóa.
Phòng
GD&ĐT
Phòng
GD&ĐT
22
23