Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm nhằm nâng cao hứng thú học tập môn tin học cho học sinh khối 10,11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.96 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 5

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM
NHẰM NÂNG CAO HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN TIN HỌC
CHO HỌC SINH KHỐI 10, 11

Người thực hiện: Phạm Thị Dương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Triệu Sơn 5
SKKN thuộc môn: Tin học

THANH HOÁ NĂM 2020


MỤC LỤC
Trang
1. MỞ ĐẦU......................................................................................................1
2. NỘI DUNG...................................................................................................3
2.3.1 Các hình thức thảo luận nhóm.............................................................6
2.3.2 Ưu điểm của phương pháp làm việc theo nhóm.................................7
2.3.3 . Phương pháp thực hiện.......................................................................8
2.3.4 Một số tình huống cụ thể......................................................................11
Ví dụ 2............................................................................................................13
Ví dụ 3............................................................................................................14
Ví dụ 4............................................................................................................15
Ví dụ 5............................................................................................................16
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................18


TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................20


1. MỞ ĐẦU
1.1.

Lý do chọn đề tài

Trong thời đại ngày nay, sự phát triển như vũ bão của Công nghệ thông tin và
Truyền thông đóng vai trò không nhỏ trong sự phát triển chung của nhân loại.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã
xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của Tin học, Công nghệ thông tin và
Truyền thông cũng như yêu cầu đẩy mạnh của ứng dụng Công nghệ thông tin,
đào tạo thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, nắm vững tri thức khoa học công nghệ để
làm chủ trong mọi hoàn cảnh công tác và hoạt động xã hội. Chính vì xác định
được tầm quan trọng đó nên Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa môn Tin học vào
trong nhà trường và ngay từ tiểu học học sinh được tiếp xúc tin học để làm quen
dần với lĩnh vực công nghệ thông tin, tạo nền móng ban đầu để học những phần
nâng cao tiếp theo. Tuy nhiên trong thực tế khi học môn Tin học học sinh chưa
chú tâm vào học và còn coi đây là một môn học phụ. Cộng với sự khô khan máy
móc nên hầu hết các học sinh đều không thích học môn học này...Qua đề tài này
tôi muốn nâng cao sự hứng thú, chủ động của học sinh khi học môn Tin học.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể
đồng đều tuyệt đối thì áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự
phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học
được thiết kế thành một chuỗi nhiệm vụ độc lập.
Trong dạy và học tích cực, người học được cuốn hút tham gia vào các hoạt
động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó, tự lực khám phá,
tìm tòi kiến thức không thụ động trông chờ vào việc truyền thụ của giáo viên.
Người học được hoạt động, được trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm,

giải quyết vấn đề, vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống theo khả năng nhận
thức, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm,
tổ, lớp hoặc trường. Được phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong
nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập nhất là lúc
phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc phát hiện thực sự nhu cầu phối hợp
giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm
nhỏ sẽ không có hiện tượng ỷ lại, tính cách năng lực của mỗi thành viên được
bộc lộ, uốn nắn, hình thành và phát triển ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô
hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho thành viên
quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội
Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh có nghĩa là phải thay
đổi cách dạy và cách học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một chiều
“đọc- chép”, giáo viên làm trung tâm sang cách dạy lấy học sinh làm trung tâm
hay còn được gọi là dạy và học tích cực. Trong cách dạy này học sinh là chủ thể
1


hoạt động, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác
tích cực giữa người dạy và người học. Dạy và học tích cực là điều kiện tốt
khuyến khích sự tham gia chủ động, sáng tạo và ngày càng độc lập của học sinh
vào quá trình học tập.
Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tin học phổ thông theo đúng chỉ
đạo của ngành, người giáo viên cần phải vận dụng những phương pháp dạy học
tích cực. Trong phương pháp dạy học tích cực có “Thảo luận nhóm” là một
trong những phương pháp dạy học tích cực thích hợp đối với nhiều bộ môn, kể
cả môn Tin học. Người giáo viên khi áp dụng phương pháp dạy học này sẽ nêu
lên nội dung cần nghiên cứu còn học sinh bằng tìm tòi, sáng tạo sẽ là người trực
tiếp tác động vào đối tượng nghiên cứu, tìm tòi toàn bộ vấn đề.
Là một giáo viên Tin học tôi luôn trăn trở làm thế nào để học sinh hiểu và

yêu thích môn học, tích cực và hứng thú trong từng tiết học. Và tôi cho rằng,
điều trăn trở đó chỉ được giải tỏa khi người giáo viên tự giác đổi mới cách thức
tổ chức hoạt động học tập của học sinh. Việc tổ chức hoạt động dạy học nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh là một trong những nhiệm vụ của năm học.
Trong quá trình giảng dạy bản thân tôi đã rút ra kinh nghiệm nhỏ trong việc tổ
chức hoạt động dạy học theo nhóm. Đây không phải là một cách thức mới, tuy
nhiên vấn đề là làm thế nào để nó đạt được hiệu quả tốt nhất. Sau một thời gian
nghiên cứu cơ sở lý luận và áp dụng “Thảo luận nhóm” trong một số bài dạy tôi
nhận thấy học sinh tích cực tư duy hơn, chủ động hơn trong quá trình nắm bắt
kiến thức bộ môn. Và quan trọng nhất là các em có ý thức làm việc tập thể cũng
như biết cách thể hiện bản thân khi đứng ra trình bày nội dung kiến thức mà
mình tìm hiểu. Từ đó tôi chọn đề tài “ SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO
LUẬN NHÓM NHẰM NÂNG CAO HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN TIN
HỌC CHO HỌC SINH KHỐI 10, 11 ” này là để ghi nhận những kinh nghiệm
dạy học của mình nhằm mang lại những kiến thức bổ ích cho học sinh và tăng
thêm niềm yêu thích hơn nữa về môn Tin học trong trường trung học phổ thông
(THPT).
1.2.

Mục đích nghiên cứu

Đề tài được thực hiện nhằm mục đích nâng cao sự hiểu biết, vận dụng
phương pháp tổ chức thảo luận nhóm trên lớp, đồng thời cũng đề xuất những ví
dụ cụ thể về quy trình thảo luận nhóm trên lớp trong môn Tin học sao cho đạt
hiệu quả tốt nhất.
Tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Tin học, tự tìm tòi, sáng tạo trong
tiết học.
Đề tài này nghiên cứu áp nội dung vận dụng giới hạn trong khung chương
trình giảng dạy môn Tin học lớp 10 THPT, Tin học lớp 11 THPT cụ thể là Bài
Cấu trúc lặp- Tin học 11, Bài: Chương trình con – Tin hoc 11, Bài : Giao tiếp

với HĐH – Tin học 10, Bài: Định dạng văn bản –Tin hoc 10. Thời gian nghiên
2


cứu đề tài kéo dài trong suốt từ tuần học thứ nhất đến kết thúc năm học 2019 –
2020 của trường THPT Triệu Sơn 5.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu áp dụng đối với các học sinh khối 10, khối 11 của
trường THPT Triệu Sơn 5 năm học 2019 – 2020, cụ thể là các em học sinh lớp
11C1, 11C5, 10B3, 10B4và 10B5.
1.4.

Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình giảng dạy môn Tin học 10, tin học 11, theo dõi việc học tập
của học sinh qua mỗi bài học và qua trao đổi với các giáo viên trong tổ bộ môn
tôi thấy việc tạo cơ hội, điều kiện để học sinh tiếp nhận kiến thức bằng cách tự
mày mò tìm hiểu cũng như việc các em trực tiếp quan sát thiết bị của máy tính
sẽ giúp các em nhớ bài lâu hơn, có nhiều câu hỏi thắc mắc và có hứng thú học
tập hơn.
Khi “Thảo luận nhóm” giáo viên sẽ nêu lên nội dung cần nghiên cứu còn học
sinh bằng tìm tòi, trao đổi, sáng tạo sẽ là người trực tiếp tác động vào đối tượng
nghiên cứu, tìm tòi toàn bộ vấn đề. Kết quả mang lại là nâng cao chất lượng
nắm bắt kiến thức trong bộ môn, tạo hứng thú học tập và nâng cao sự tự tin của
học sinh trong học tập và cuộc sống.
1.5.

Điểm mới của SKKN

Việc thực hiện “Thảo luận nhóm” đã được áp dụng nhiều trong giảng dạy

nhưng điểm khác biệt của SKKN này là có “sự phát hiện điều kiện gây hứng thú
cho học sinh”, giáo viên dạy theo yêu cầu của học sinh chứ không phải học sinh
phải học những gì mà giáo viên giao.
2.

NỘI DUNG
2.1.

Cơ sở lý luận của vấn đề

Để học sinh thực sự tích cực trong học tập thì giáo viên phải giúp họ yêu
thích cái mà mình đang học hay nói cách khác là tạo hứng thú cho học sinh.
Tạo hứng thú cho người học luôn là một vấn đề quan trọng trong hoạt động
dạy - học. Bởi vì, như chúng ta biết, dạy - học là một hoạt động phức tạp, trong
đó chất lượng, hiệu quả cơ bản phụ thuộc vào người học. Và điều này lại phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như năng lực nhận thức, động cơ học tập, sự quyết tâm...;
phụ thuộc vào môi trường học tập, người tổ chức quá trình dạy học, sự hứng thú
trong học tập.
Các nhà nghiên cứu tâm lý học cho rằng, hứng thú là thái độ đặc biệt của cá
nhân đối với đối tượng nào đó, nó có ý nghĩa đối với cuộc sống và có khả năng
mang lại khoái cảm cá nhân trong quá trình hoạt động. Sự hứng thú biểu hiện
trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê của chủ thể hoạt động. Sự hứng
3


thú gắn liền với tình cảm con người. Trong bất cứ công việc gì, nếu có hứng thú
làm việc, con người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động, làm nẩy sinh khát
vọng hành động một cách có sáng tạo. Ngược lại, nếu không có hứng thú, dù là
hoạt động gì cũng sẽ không đem lại hiệu quả cao. Đối với các hoạt động nhận
thức, sáng tạo, hoạt động học tập, khi không có hứng thú, kết quả sẽ không là gì

hết, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực.
Việc học có tính chất đối phó, miễn cưỡng, người học may lắm chỉ tiếp thu
được một lượng kiến thức rất ít, không sâu, không bản chất và vì thế dễ quên.
Khi có hứng thú, say mê trong nghiên cứu, học tập thì việc lĩnh hội tri thức
trở nên dễ dàng hơn; ngược lại, khi nắm bắt được vấn đề, tức là hiểu được bài
thì người học lại có thêm hứng thú. Trên thực tế, những người không thích,
không hứng thú khi học môn học nào đó thường là những người không học tốt
môn học đó. Chính vì vậy, việc tạo hứng thú cho người học được xem là yêu cầu
bắt buộc đối với bất cứ ai làm công tác giảng dạy, đối với bất cứ bộ môn khoa
học nào.
Để tạo được hứng thú cho người học thì hãy cho họ được làm chủ vấn đề,
cho họ được tự mình suy nghĩ tìm tòi giải quyết và trình bày kết quả của mình.
Khi đó người học sẽ không còn bị thụ động, không cảm thấy nhàm chán mà luôn
hào hứng. Một trong những cách thức giúp đạt được điều đó khi giảng dạy trên
lớp là giáo viên tìm cách tổ chức lớp học thành các nhóm và đưa ra yêu cầu cho
các nhóm suy nghĩ rồi trình bày kết quả, đó là phương pháp thảo luận nhóm.
Mục đích chính của dạy học theo nhóm là thông qua công tác làm việc trong
một nhiệm vụ học tập, nhằm phát triển tích tự lực, sáng tạo cũng như năng lực
xã hội, đặc biệt là khả năng cộng tác làm việc, thái độ đoàn kết của học sinh.
Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt, sẽ thực hiện những chức năng và công
dụng khác với dạy học toàn lớp.
Khi làm việc theo nhóm thì bản thân mỗi học sinh sẽ học được:

Tính kiên trì trong việc theo đuổi mục đích; nâng cao khả năng tư
duy logic, tư duy phê phán.

Phát huy tính tự lực và trách nhiệm trong học sinh.

Phát triển giao tiếp.


Tăng cường sự tự tin cho học sinh

Bổ sung kiến thức nhờ học hỏi lẫn nhau, thể hiện sự sáng tạo khi
diễn đạt ý kiến của mình.

Có sự hợp tác và chia sẻ với các thành viên trong nhóm.

Có thái độ tích cực dễ cảm thông, tạo hứng thú.

Tăng cường kết quả học tập
Và hình thành các kỹ năng:

Kỹ năng về phát hiện vấn đề và nắm bắt thông tin.

Kỹ năng làm việc tập thể.

Kỹ năng thương lượng.
4


Để học sinh phải luôn hứng thú, say mê học tập, xem việc học là một
nhiệm vụ mà mình phải hoàn thành thì người giáo viên khi lên lớp cần phải có
một phương pháp dạy học phù hợp để khơi dậy tính tích cực của học sinh trong
học tập.
2.2.

Thực trạng của vấn đề

Tin học là một môn học mới so với các môn học khác tại trường Phổ thông.
Hơn nữa đây là một môn học không thi tốt nghiệp và thi đại học nên không ít

người còn xem nhẹ việc học Tin học. Những năm trở lại đây, mặc dù máy tính
đã trở nên quen thuộc đối với người học, tuy nhiên việc lĩnh hội kiến thức môn
Tin học trên lớp cũng không phải là một việc dễ dàng đối với học sinh bởi
chương trình học ở ba khối lớp 10, 11 và 12 bao quát nhiều nội dung. Người học
không phải chỉ được học cách sử dụng máy tính đơn thuần mà được tìm hiểu về
nhiều khía cạnh khác nhau để biết về bản chất và những ứng dụng thực tế của
máy vi tính. Do đó, việc lĩnh hội nội dung các tiết Tin học ở trên lớp cũng mang
lại khó khăn cho nhiều học sinh. Có thể vì nhiều nguyên nhân khác nhau: kiến
thức khó, mới lạ, phương pháp dạy đơn điệu, học sinh thụ động,… việc học
không đạt được hiệu quả như mong muốn.
Khi giảng dạy, bất kì giáo viên nào đều mong muốn kết quả đạt được là tốt
nhất và đã áp dụng rất nhiều phương pháp khác nhau trong đó có phương pháp
thảo luận nhóm. Điều đó có nghĩa là phương pháp này đã rất quen thuộc với
chúng ta, tuy nhiên hiệu quả của việc thực hiện thì chưa cao
Trong quá trình giảng dạy tại trường THPT Triệu Sơn 5, tôi đã quan sát dự
giờ nhiều thầy cô và cũng áp dụng phương pháp này trong việc dạy môn Tin
học. Tuy nhiên tôi nhận thấy hiệu quả chưa tốt bởi nhiều nguyên nhân như:
- Vấn đề được đưa ra thảo luận quá dễ hoặc kết quả đã có trong SGK
khiến học sinh không có gì để thảo luận hay tranh cãi để giải quyết vấn đề.
- Học sinh chưa chuẩn bị trước bài ở nhà nên còn chậm chạp trong quá
trình thảo luận.
- Câu hỏi quá dài, chứa đựng nhiều nội dung khó hiểu nên khi thảo luận
học sinh vẫn còn chưa rõ vấn đề cần thảo luận.
- Học sinh vẫn còn chưa quen với việc thảo luận nhóm, vẫn chưa tự giác
học tập.
- Việc chia nhóm chưa hợp lí.
- Trong quá trình thảo luận, giáo viên chưa bao quát được lớp, chưa phát
hiện học sinh nào còn thụ động.
- Học sinh làm việc một cách bỡ ngỡ, đối phó, thiếu nhiệt tình,…
-Thời gian dành cho thảo luận khá nhiều, ảnh hưởng đến việc truyền đạt

các nội dung khác.
5


Trên thực tế đó, tôi đã tìm tòi nghiên cứu về phương pháp này nhằm nâng
cao hiệu quả của nó trong quá trình giảng dạy môn Tin học.
Trong trường, đa số các giáo viên đã được tham gia nhiều lớp tập huấn
chuyên môn về áp dụng phương pháp dạy học tích cực, đồng thời tiêu chí áp
dụng phương pháp dạy học tích cực cũng đã được nhà trường đưa vào khung
đánh giá tiết dạy. Việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực trong trường
được triển khai theo chỉ đạo chung của ngành, tùy theo từng bộ môn mà việc áp
dụng những phương pháp có nhiều điểm khác nhau, có môn học thường sử dụng
phương pháp truyền thống kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực như
thuyết trình, vấn đáp kết hợp thảo luận theo nhóm hay vấn đáp kết hợp phương
pháp hợp tác nhóm… Qua các tiết dự giờ, thao giảng bản thân tôi nhận thấy việc
áp dụng phương pháp “Thảo luận nhóm” cũng được nhiều giáo viên sử dụng kết
hợp với phương pháp vấn đáp và thường kết hợp với phương pháp “Nêu vấn đề
- Giải quyết vấn đề”.
Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên vẫn lúng túng trong việc áp dụng
phương pháp “Thảo luận nhóm” nên vẫn chưa khai thác được các hết đặc điểm
ưu việt mà phương pháp này mang lại dẫn đến việc tiết học trở lên lộn xộn, mất
thời gian và không đảm bảo nội dung kiến thức trọng tâm của bài học. Ngoài ra,
nếu giáo viên không kiểm soát được học sinh thì kết quả của “Thảo luận nhóm”
chỉ là kết quả tìm hiểu của một số em có ý thức và tích cực trong học tập còn
những em khác lại nằm ngoài tiết học và kiến thức bài học.
Làm thế nào để đạt được hiệu quả dạy học tức là giúp học sinh lĩnh hội kiến
thức nhanh nhất và nhiều nhất có thể? Đây là một vấn đề khó, không có một
cách thức, con đường chung cho mọi người.
Qua quá trình giảng dạy trên lớp tôi luôn kết hợp các phương pháp khác
nhau tùy từng nội dung bài dạy. Và tôi nhận thấy rằng để kích thích tư duy và

tính tích cực của người học thì tốt nhất là cho các em tự suy nghĩ và trình bày
kết quả của mình trước bạn bè và thầy cô. Do đó tôi thường cho các em thảo
luận nhóm ngay trên lớp.
2.3.

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

2.3.1 Các hình thức thảo luận nhóm
- Nhóm nhỏ thông thường: GV chia lớp học thành các nhóm (từ 5 đến 7
HS) để thảo luận một vấn đề cụ thể và nhanh chóng đưa ra kết luận của tập thể
về vấn đề đó. Hình thức này thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp
dạy học khác trong một bài học, một tiết học, nội dung thảo luận của một nhóm
nhỏ thông thường là các vấn đề ngắn, thời lượng ít (từ 10 đến 15 phút).
- Nhóm nhỏ “rì rầm”: GV chia lớp thành các nhóm “cực nhỏ” từ 2 đến 3
HS (thường là cùng một bàn) để trao đổi (rì rầm) và thống nhất một câu hỏi trả
lời, giải quyết một vấn đề nêu một ý tưởng, một thái độ… để nhóm rì rầm có
6


hiệu quả, GV cần cung cấp đầy đủ, chính xác các dữ kiện, gợi ý và nêu rõ yêu
cầu đối với các câu trả lời để các thành viên tập trung vào giải quyết.
- Nhóm kim tự tháp: Đây là hình thức mở rộng của nhóm “rì rầm”, sau khi
thảo luận theo cặp (nhóm “rì rầm”), các cặp kết hợp thành một nhóm để hoàn
thiện một vấn đề chung. Nếu cần thiết có thể kết hợp nhóm này thành nhóm lớn
hơn (từ 8→16 HS).
- Nhóm đồng tâm: GV chia lớp thành hai nhóm: nhóm thảo luận và nhóm
quan sát (sau đó hoán vị cho nhau). Nhóm thảo luận là nhóm nhỏ (6 đến 12 HS)
có nhiệm vụ thảo luận, trình bày vấn đề được giao, các thành viên khác trong
lớp đóng vai trò là quan sát và phản biện. Hình thức nhóm này rất có hiệu quả,
nó làm tăng ý thức trách nhiệm của cá nhân HS trước tập thể và tạo động cơ cho

những HS ngại trình bày ý tưởng của mình trước tập thể.
Tạo sự hứng thú trong hoạt động thảo luận nhóm là một hoạt động dạy học
nhằm phát huy tính tích cực của người học, dạy học hướng về người học. Việc tổ
chức cho học sinh thảo luận nhóm là đặt học sinh vào môi trường hoạt động tích
cực. Trong nhóm, học sinh được thảo luận và hợp tác làm việc với nhau. Học tập
theo nhóm giúp học sinh học tập thông qua giao tiếp, trao đổi tranh luận với
nhau, chia sẻ và có cơ hội diễn đạt ý nghĩ của mình, phát triển các kỹ năng giải
quyết vấn đề. Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, kích thích hỗ trợ học sinh
lĩnh hội kiến thức bằng kinh nghiệm giáo dục của mình.
2.3.2 Ưu điểm của phương pháp làm việc theo nhóm
- Kiến thức của HS sẽ giảm bớt tính chủ quan, phiến diện làm tăng tính
khách quan khoa học.
- Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được
giao lưu học hỏi giữa các thành viên trong nhóm. HS được rèn luyện kĩ năng
diễn đạt, phương pháp tư duy.
- Nhờ không khí thảo luận sôi nổi, cởi mở, HS thoải mái, tự tin hơn trong
việc trình bày ý kiến của mình và biết lắng nghe có phê phán ý kiến của những
thành viên khác. Tạo yếu tố kích thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm
và giữa các nhóm với nhau, đặc biệt là trong những chủ đề có tính sáng tạo cao.
- Tạo điều kiện cho GV nhận được nhiều thông tin phản hồi từ HS, thu
được những tri thức kinh nghiệm qua các ý kiến phát biểu có suy nghĩ và sáng
tạo của HS.
- Phương pháp thảo luận nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ
các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới.
Bằng cách nói ra điều mình nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của
mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành
quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ GV.
Thành công của bài học phụ thuộc vào sự tham gia nhiệt tình của các thành viên.
Vì vậy phương pháp này còn gọi là phương pháp cùng tham gia.
7



- Thảo luận nhóm được thực hiện tốt sẽ tăng cường tính tích cực, chủ
động của HS, giúp HS tập trung vào bài học, phát triển được kĩ năng tư duy, óc
phê phán, kĩ năng giao tiếp xã hội quan trọng khác.
- Làm việc theo nhóm thỏa mãn nhu cầu học tập cá nhân, phù hợp với
việc học hướng tới người học; khuyến khích sự độc lập tự chủ, người học có thể
đưa ra những giải pháp, cách biểu đạt riêng cho vấn đề nào đó. Nếu trong
phương pháp thuyết trình, người học chỉ có thể trao đổi với nhau được rất ít thì
trong làm việc theo nhóm các thành viên tham gia có cơ hội đưa ra quan điểm
của mình đối với chủ đề thảo luận, mặt khác ở đó cũng đòi hỏi tăng cường tư
duy độc lập và trao đổi lẫn nhau trong nhóm
- Trong khi thực hiện phương pháp làm việc theo nhóm, giáo viên đóng
vai trò là người chuyển giao kiến thức và hiểu biết, chuẩn bị, tổ chức, theo dõi
việc thực hiện và đánh giá tổng kết kết quả làm việc của các nhóm. Như vậy
công việc của giáo viên trong làm việc theo nhóm không bao giờ là thừa, trái lại
đó là một sự rất cần thiết để giúp cho các nhóm đạt được kết quả trong việc tìm
ra những giải pháp, câu trả lời cho vấn đề được đưa ra.
2.3.3 . Phương pháp thực hiện
* Trước khi lên lớp cả giáo viên và học sinh đều phải chuẩn bị tốt:
Giáo viên:
- Lập kế hoạch bài dạy:
+ Đọc kỹ bài dạy nắm mục tiêu cần đạt.
+ Kịch bản sư phạm.
+ Dự kiến các tình huống xảy ra trong khi thảo luận nhóm.
- Dự kiến:
+ Cách chia nhóm, số lượng nhóm.
+ Nhiệm vụ của các nhóm.
+ Thời gian thảo luận, trình bày.
- Thiết kế bài giảng: Chuẩn bị hệ thống câu hỏi nhằm khuyến khích học sinh

tích cực, hào hứng suy nghĩ ở mức độ cao và sâu hơn.
- Chuẩn bị: chuẩn bị chu đáo đồ dùng và thiết bị dạy học.
- Thực hiện kế hoạch dạy học.
Học sinh:
- Chuẩn bị những thứ cần thiết mà giáo viên đã dặn dò.
- Thuộc bài cũ và chuẩn bị bài mới (xem SGK).
- Làm những bài tập của giờ học lần trước…
8


- Chuẩn bị bài thuyết trình về vấn đề mà giáo viên đã dặn trước (đối với
trưởng nhóm) - học sinh làm việc này chỉ khi nội dung thảo luận xoay quanh vấn
đề lớn cần nhiều thời gian.
* Các bước tổ chức:
- Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ, tạo hứng thú cho học sinh
+ Nêu và giải thích rõ ràng mục tiêu làm việc, giao nhiệm vụ một cách rõ
ràng cho từng nhóm làm việc để mỗi thành viên trong nhóm hiểu được công
việc cần phải làm và mô tả một cách cụ thể cách thực hiện các nhiệm vụ đó. Cần
lưu ý là nếu không đề ra nhiệm vụ rõ ràng thì không có được kết quả thuyết
phục. Những mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung làm việc theo nhóm có thể được viết
ra giấy và phát cho mỗi nhóm.
+ Định thời gian làm việc của mỗi nhóm kể cả giờ giải lao.
+ Ấn định thời gian họp lại sau khi thảo luận nhóm (để báo cáo kết quả làm
việc ở nhóm).
+ Nêu cách thức làm việc của nhóm.
+ Cung cấp các thông tin liên quan với chủ đề.
+ Thông báo công việc của giáo viên trong thời gian các nhóm làm việc.
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh cách thảo luận.

9



- Bước 2: Chia nhóm
+ Xác định số lượng người của mỗi nhóm phù hợp với yêu cầu làm việc.
Thực hiện việc chia nhóm theo những cách: ngẫu nhiên (phát bìa, thẻ, điểm
số…), theo sự chỉ định của giáo viên hoặc theo sở thích của người học.
+ Cung cấp những câu hỏi định hướng quá trình làm việc của nhóm.
Số lượng học sinh/nhóm: 06. Việc chia nhóm này có thể tùy
vào số lượng học sinh của lớp và tùy vào việc bố trí lớp học.

Phân chia công việc:


- Bước 3: Thảo luận nhóm
+ Các nhóm tiến hành làm việc theo nhóm.
+ Giáo viên tham gia quản lý và định hướng làm việc cùng các nhóm, hỗ trợ
cho các nhóm khi cần thiết.
+ Giáo viên tổ chức hướng dẫn các hoạt động, gợi mở, khuyến khích học
sinh tích cực hoạt động.
+ Giáo viên quản lí, giám sát học sinh thảo luận nhóm
• Trong quá trình học sinh thảo luận giáo viên theo dõi, quan sát và bổ sung
khi cần.
• Phát hiện các nhóm hoạt động không có hiệu quả, uốn nắn điều chỉnh.
• Nắm chắc đặc điểm tâm lý của từng học sinh để kịp thời động viên khuyến
khích nhằm tạo không khí phấn khởi tự tin trong học tập.
• Luôn có ý thức trách nhiệm trợ giúp tránh can thiệp sâu làm hạn chế khả
năng độc lập, sáng tạo của học sinh.
10



• Xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò, giữa trò với trò.
- Bước 4: Tiếp nhận thông tin phản hồi từ phía học sinh
+ Học sinh đại diện nhóm trình bày kết quả, thành viên nhóm bổ sung.
+ Nhóm khác đặt câu hỏi với sự gợi mở của giáo viên để các nhóm có cơ hội
trao đổi, tranh cãi, cải chính kiến thức của mình, đồng tình kiến thức đúng, sửa
chữa kiến thức sai, bổ sung kiến thức còn thiếu từ đó làm nảy sinh ý thức vươn
lên trước bạn bè của mỗi thành viên trong nhóm nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động trong học tập của học sinh.
+ Giáo viên tổng kết ngắn gọn theo từng nội dung thảo luận.
- Bước 5: Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm
Khen thưởng các nhóm, các thành viên hoạt động tích cực, sáng tạo, nhắc
nhở tinh thần, thái độ cộng tác trong việc thảo luận nhóm.

2.3.4 Một số tình huống cụ thể
Qua quá trình giảng dạy trên lớp tôi đã áp dụng phương pháp thảo luận
nhóm trong nhiều trường hợp nhằm phát huy tính tích cực của người học. Tuy
nhiên hiện nay, không nên cho rằng bất cứ bài nào cũng cần phải có thảo luận
nhóm để chứng tỏ là có quan tâm đến đổi mới phương pháp giảng dạy. Trên thực
tế, chỉ những bài mà có phần có tình huống cần thảo luận thì mới nên chia nhóm
thảo luận. Nếu không, không nhất thiết phải có thảo luận nhóm.
Sau đây tôi xin trình bày một số trường hợp cụ thể:
 Ví dụ 1
Thảo luận nhóm khi dạy bài “Cấu trúc lặp”, phần 3: “Lặp với số lần chưa
biết trước và câu lệnh while-do” để giải quyết vấn đề: Có thể dùng câu lệnh
while-do để thay cho câu lệnh for-do được không?
- Bước 1:
+ Giáo viên thông báo rằng cả lớp sẽ tiến hành thảo luận nhóm để trả lời câu
hỏi “Có thể dùng câu lệnh while-do để thay cho câu lệnh for-do được không?”.
+ Thời gian thảo luận là 10 phút.
+ Trong thời gian thảo luận, tất cả các thành viên đều phải tham gia tìm hiểu

vấn đề, giáo viên đóng vai trò giám sát, định hướng.
+ Sau khi thảo luận xong đại diện các nhóm sẽ báo cáo kết quả
- Bước 2:
Chia lớp thành hai nhóm tương ứng với hai dãy bàn, để các nhóm tự bầu ra
nhóm trưởng hoặc trong trường hợp này giáo viên có thể chỉ định nhóm trưởng.
Yêu cầu các nhóm thảo luận để trả lời các câu hỏi:
11


• Câu hỏi 1: “So sánh sự giống nhau và khác nhau của câu lệnh For-do và
câu lệnh While-do?”.
• Câu hỏi 2: “Trong câu lệnh For-do, đại lượng nào có giá trị thay đổi sau
mỗi lần lặp? Trong câu lệnh While-do, đại lượng nào có giá trị thay đổi sau mỗi
lần lặp?”.
• Câu hỏi 3: “Trong câu lệnh For-do, khi nào việc lặp kết thúc? Trong câu
lệnh While-do, khi nào việc lặp kết thúc?”.
- Bước 3:
Các nhóm tiến hành làm việc theo nhóm: Các nhóm nhỏ thảo luận theo từng
bàn. Thư ký của nhóm lớn ghi ý kiến thảo luận của các nhóm nhỏ. Nhóm trưởng
và thư ký nhóm lớn tổng hợp, chọn lọc ý kiến. Giáo viên tham gia quản lý và
định hướng làm việc cùng các nhóm, hỗ trợ cho các nhóm khi cần thiết.
- Bước 4:
+ Học sinh đại diện nhóm trình bày kết quả. Các nhóm khác có thể đặt câu
hỏi.
+ Giáo viên tổng kết ngắn gọn theo từng nội dung thảo luận: Nhận xét câu
trả lời và thống nhất câu trả lời chính xác:
• Trả lời câu 1: So sánh sự giống nhau và khác nhau của câu lệnh For-do và
câu lệnh While-do.
Giống nhau: Cùng là câu lệnh để mô tả cấu trúc lặp
Khác nhau:

Câu lệnh For-do

Câu lệnh while-do

Ý nghĩa

Thể hiện cấu trúc lặp với số lần Thể hiện cấu trúc lặp với số lần
biết trước
chưa biết trước

Câu lệnh

For <biến đếm>:=<giá trị đầu> While <điều kiện> Do To <giá trị cuối>
lệnh>;
Do <câu lệnh>;

Hoạt động Câu lệnh viết sau từ khóa Do Khi điều kiện còn đúng thì còn
được thực hiện tuần tự, với biến thực hiện câu lệnh sau Do sau
đếm lần lượt nhận các giá trị liên đó quay lại kiểm tra điều kiện
tiếp tăng từ giá trị đầu đến giá trị
cuối
• Trả lời câu 2: Trong câu lệnh For-do, đại lượng <biến đếm> có giá trị thay
đổi sau mỗi lần lặp
12


Trong câu lệnh While-do, biểu thức <điều kiện> có thể có giá trị thay đổi
sau mỗi lần lặp?
• Trả lời câu 3: Trong câu lệnh For-do, việc lặp kết thúc khi biến đếm lớn

hơn giá trị cuối? Trong câu lệnh While-do, việc lặp kết thúc khi điều kiện cho
giá trị sai (false)?
Sau khi đưa ra các câu trả lời hoàn chỉnh, giáo viên đưa ra vấn đề chính: Vậy
có thể dùng câu lệnh while-do để thay cho câu lệnh for-do được không? –
Chúng ta muốn làm được việc này thì phải tìm ra biểu thức điều kiện. Kết quả là
có thể, với cấu trúc như sau:
<biến đếm>:=<giá trị đầu>;
While <biến đếm> <= <giá trị cuối> do
Begin
<câu lệnh>;
<biến đếm> := <biến đếm> + 1;
End;
- Bước 5:
Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm: khen thưởng các nhóm, các thành
viên hoạt động tích cực, sáng tạo, nhắc nhở tinh thần, thái độ cộng tác trong việc
thảo luận nhóm.
 Ví dụ 2
Thảo luận nhóm khi dạy bài “Ví dụ về cách viết và sử dụng chương trình
con” với vấn đề thảo luận là: Trường hợp nào nên khai báo tham số hình thức
dưới dạng tham biến và trường hợp nào nên khai báo tham số hình thức dưới
dạng tham trị?
- Bước 1:
Sau khi tìm hiểu xong ví dụ về thủ tục, giáo viên nêu lên một số khái niệm
mới là tham biến, tham trị và ý nghĩa của chúng. Vậy vấn đề cần thảo luận là
Trường hợp nào nên khai báo tham số hình thức dưới dạng tham biến và trường
hợp nào nên khai báo tham số hình thức dưới dạng tham trị?.
- Bước 2: Chia lớp thành 2 nhóm
Nêu một số câu hỏi gợi ý thảo luận để học sinh dễ tìm ra câu trả lời:
- Câu hỏi 1: “Dựa vào đặc điểm nào mà em nhận biết được tham số hình
thức được khai báo dưới dạng tham biến hay tham trị?”.

- Câu hỏi 2: “Hãy quan sát một ví dụ cụ thể (trang 99) và cho biết kết quả sẽ
thay đổi thế nào khi thay đổi cách khai báo tham số hình thức từ dạng tham biến
sang tham trị?”.
13


- Bước 3:
Trước hết học sinh thảo luận theo các nhóm nhỏ (từng bàn một) sau đó các
nhóm nhỏ sẽ tổng hợp kết quả lại thành kết quả của nhóm lớn.
Giáo viên quan sát và chỉ dẫn khi cần thiết.
- Bước 4:
Các nhóm lớn trình bày kết quả, các em trả lời các câu hỏi gợi ý từ đó nêu
lên câu trả lời cho vấn đề cần thảo luận. Giáo viên tổng kết ngắn gọn theo từng
nội dung thảo luận. Nhận xét câu trả lời và thống nhất câu trả lời chính xác:
Câu 1: Tham biến được khai báo kèm từ khóa var, tham trị được khai báo
không kèm từ khóa nào cả.
Câu 2: Cho các em theo dõi ví dụ trong SGK và đưa ra các tình huống: Khi x
và y được khai báo kèm từ khóa var thì kết quả thế nào, nếu không có từ khóa
var thì kết quả thế nào.
Từ đó kết luận lại vấn đề:
+ Khai báo tham số hình thức dạng tham biến khi chúng tương ứng với các
biến chứa dữ liệu ra.
+ Khai báo tham số hình thức dạng tham trị khi chúng chỉ được đưa vào để
lấy giá trị tính toán mà không cần lưu dữ liệu ra.
Ví dụ:
• Khai báo dạng tham biến cho các chương trình con sau: Hoán đổi vị trí hai
số nguyên: Procedure HoanDoi(var a,b:integer), chèn thêm vào mảng A một số
nguyên x: Procedure Chen(x: integer; var A: MangSoNguyen), xóa các kí tự ‘X’
trong một xâu: Procedure Xoa(var S: string); xóa các dấu cách thừa trong một
xâu: Procedure XoaDauCach(var S: string);

• Khai báo dạng tham trị cho các chương trình con: Tính tổng hai số
Function Tong (a,b:integer), Tính lũy thừa Function LuyThua(a:real; x: integer),
tìm kiếm xem một phần tử x có xuất hiện trong mảng A không: Function
TimKiem(x:integer; A: MangSoNguyen), tìm ước chung lớn nhất của hai số:
UCLN(a,b:integer), đếm số lượng chữ số xuất hiện trong một xâu: Function
Dem(S:String), …
 Ví dụ 3
Thảo luận nhóm khi dạy bài “Ngôn ngữ lập trình” để giải thích: Tại sao
phải phát triển các ngôn ngữ bậc cao?.
- Bước 1:
Sau khi đã tìm hiểu xong đặc điểm của ba loại ngôn ngữ lập trình, giáo viên
đưa ra vấn đề cần thảo luận. Yêu cầu các nhóm phải trả lời tất cả các câu hỏi và
đưa ra đáp án cho vấn đề cần thảo luận.
14


- Bước 2: Chia lớp thành 3 nhóm
Giáo viên đưa ra câu hỏi gợi ý thảo luận: Để giải đáp được vấn đề cần thảo
luận thì các nhóm phải trả lời được:
+ Đặc điểm của ngôn ngữ máy? Hạn chế của ngôn ngữ này là gì?
+ Đặc điểm của hợp ngữ? So với ngôn ngữ máy thì việc dùng hợp ngữ để
viết chương trình có lợi ích gì?
+ Đặc điểm của ngôn ngữ bậc cao? So với hợp ngữ thì việc dùng ngôn ngữ
bậc cao để viết chương trình có lợi ích gì?
- Bước 3:
Các nhóm tiến hành thảo luận. Giáo viên đóng vai trò giám sát và hướng
dẫn.
- Bước 4:
Học sinh đại diện của từng nhóm trình bày kết quả. Giáo viên nhận xét câu
trả lời của học sinh và khẳng định lại câu trả lời đầy đủ và chính xác nhất.

- Bước 5:
Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm: khen thưởng các nhóm, các thành
viên hoạt động tích cực, sáng tạo, nhắc nhở tinh thần, thái độ cộng tác trong việc
thảo luận nhóm.
 Ví dụ 4
Khi dạy bài “Giao tiếp với hệ điều hành”, phần 2 “Cách làm việc với hệ
điều hành”, giáo viên có thể cho thảo luận nhóm để trả lời câu hỏi: “Nêu ưu
nhược điểm của hai cách giao tiếp với hệ điều hành? Trong hai cách giao tiếp
đó thì hiện nay chủ yếu người dùng sử dụng cách nào?”.
- Bước 1: Sau khi tìm hiểu xong đặc điểm của hai cách giao tiếp với hệ điều
hành, giáo viên có thể đưa ra vấn đề cần thảo luận.
- Bước 2: Chia lớp thành hai nhóm lớn và đưa ra các câu hỏi gợi ý:
+ Nêu đặc điểm của cách thứ nhất? Người dùng đưa ra yêu cầu cho máy tính
bằng cách làm thế nào? Sử dụng thiết bị gì?
+ Nêu đặc điểm của cách thứ hai? Người dùng đưa ra yêu cầu cho máy tính
bằng cách làm thế nào? Sử dụng thiết bị gì?
- Bước 3: Giáo viên đóng vai trò giám sát và hướng dẫn. Sau khi trả lời được
các câu hỏi gợi ý của giáo viên thì học sinh có thể suy luận ra vấn đề cần giải
quyết.
- Bước 4: Các nhóm trình bày kết quả. Giáo viên nhận xét và tổng kết lại.
+ Cách 1 (Sử dụng câu lệnh):
15


• Ưu điểm: Hệ thống biết chính xác công việc cần làm, do đó lệnh được thực
hiện ngay.
• Nhược điểm: Người dùng phải nhớ câu lệnh và phải thao tác nhiều trên bàn
phím để gõ câu lệnh.
+ Cách 2 (Sử dụng các đề xuất do hệ thống đưa ra)
Ưu điểm:

• Thuận tiện và người dùng không cần biết quy cách câu lệnh cụ thể.
• Người dùng có thể dùng bàn phím hoặc chuột để xác định mục hoặc biểu
tượng, nhờ đó dễ khai thác hệ thống hơn.
• Có nhiều cách khác nhau để thực hiện cùng một công việc.
- Bước 5: Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm: khen thưởng các nhóm,
các thành viên hoạt động tích cực, sáng tạo, nhắc nhở tinh thần, thái độ cộng tác
trong việc thảo luận nhóm.
 Ví dụ 5
Khi dạy chương 3 soạn thảo văn bản, giáo viên phải tổ chức cho học sinh
thực hành rất nhiều. Giáo viên có thể cho học sinh thực hành theo nhiều nhóm
nhỏ. Ví dụ Bài tập và thực hành 7 “Định dạng văn bản” yêu cầu soạn thảo “Đơn
xin nhập học” như theo định dạng trong Sách giáo khoa trang 113. Đối với học
sinh chỉ sử dụng máy tính khi được học tại trường thì để soạn thảo được một văn
bản như vậy theo đúng cách không phải là việc dễ. Do đó để đảm bảo trình tự
làm việc của các em là đúng, giáo viên nên cho học sinh thảo luận để tìm ra quy
trình và cách thức soạn thảo được văn bản như vậy trước khi thực hành trên
máy.
- Bước 1: Đưa ra nhiệm vụ: Sau khi đã gõ được đầy đủ nội dung đơn xin
nhập học (chưa định dạng theo yêu cầu), học sinh phải áp dụng các thuộc tính
định dạng đã biết để trình bày lại theo đúng mẫu.
- Bước 2: Chia mỗi bàn một nhóm
Giáo viên nêu vấn đề cần thảo luận:
+ Để lùi dòng đầu tiên của mỗi đoạn cách lề khoảng 1cm, chúng ta có nên
dùng dấu cách trên bàn phím để gõ vào các kí tự trắng không? Trong Word,
thuộc tính nào hỗ trợ làm việc này?
+ Giữa các đoạn có khoảng cách lớn hơn khoảng cách giữa các dòng, làm
thế nào để được như vậy?
+ Dòng đầu các đoạn cùng có kí tự gạch đầu dòng (-), làm thế nào để được
như vậy, có phải là gõ kí tự đó trên bàn phím không hay có thể thực hiện theo
một cách khác.

16


Nói tóm lại học sinh phải định hướng trước các thao tác cần thực hiện trong
đầu rồi mới tiến hành thực hành trên máy, như vậy vừa nhanh, vừa chính xác,
vừa có tính chuyên nghiệp, văn bản sẽ được trình bày một cách thống nhất, đẹp
mắt.
- Bước 3: Các nhóm tiến hành thảo luận. Giáo viên đóng vai trò giám sát và
hướng dẫn.
- Bước 4: Đại diện một số nhóm trình bày ý tưởng. Giáo viên nhận xét và
đưa ra cách làm đúng.
- Bước 5: Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm: khen thưởng các nhóm,
các thành viên hoạt động tích cực, sáng tạo, nhắc nhở tinh thần, thái độ cộng tác
trong việc thảo luận nhóm.
Ngoài những ví dụ được trình bày ở trên, khi dạy học Tin học chúng ta
còn có thể áp dụng phương pháp thảo luận nhóm cho rất nhiều nội dung khác
nữa. Việc này sẽ đem lại rất nhiều hiệu quả trong giảng dạy.
2.4.

Kết quả đạt được

Sau một năm vận dụng quá trình tổ chức thảo luận nhóm, tuy chưa được
hoàn toàn như mong muốn, nhưng tôi nhận thấy phần đông học sinh hứng thú,
tích cực tham gia ý kiến, thoải mái, vui vẻ mỗi khi đến tiết, thao tác hoạt động
của học sinh nhanh nhẹn hơn, ý thức tập trung hơn. Qua thảo luận nhóm, học
sinh thật sự mạnh dạn hơn, kỹ năng diễn đạt tốt hơn, phá tan được bầu không
khí yên lặng của các học sinh mệt mỏi, nhút nhát.
Cùng một đối tượng học sinh nhưng khi được giáo viên quan tâm tổ chức
thảo luận chu đáo thì chất lượng bộ môn nâng lên rõ rệt, phần đông học sinh
hứng thú trong học tập, thoải mái mỗi lúc đến tiết học. Điều đó một lần nữa

khẳng định vai trò của việc tổ chức thảo luận theo nhóm là cần thiết đối với môn
tin học nói riêng và môn học khác nói chung. Điều đặc biệt quan trọng là học
sinh yêu thích và hứng thú tìm hiểu sâu sắc hơn môn học này.
Sau đây là kết quả thực hiện được tại lớp 10A4 năm học 2012-2013: Sau
khi dạy tại hai lớp 10A3 và 10A4 (học sinh tại hai lớp này có khả năng tiếp thu
và ý thức học tập tương đương nhau) với hai phương pháp khác nhau: lớp 10A3
dùng phương pháp thuyết trình, lớp 10A4 dùng phương pháp thảo luận nhóm,
tôi cho hai lớp làm một bài kiểm tra và kết quả thu được như sau:
Kết
quả

Lớp 11C5

Lớp 11C1
(Phương pháp thuyết trình)

Xếp loại
Giỏi

2.1%

(Phương
nhóm)

pháp

thảo

luận


9.8%
17


Khá

29.8%

50.7%

Trung bình

68.1%

39.5%

Yếu

0%

0%

Tổng

100%

100%

Từ kết quả trên chúng ta nhận thấy nếu chỉ dùng phương pháp thuyết trình
để giảng dạy thì kết quả là khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh thấp hơn so

với việc kết hợp sử dụng hoạt động thảo luận nhóm rất nhiều.
Đây chỉ là một ví dụ về hiệu quả của việc sử dụng hoạt động nhóm trên lớp.
Tôi chắc chắn rằng khi chúng ta biết sử dụng và kết hợp linh hoạt phương pháp
này với các phương pháp khác thì chúng ta sẽ thu được kết quả tốt trong việc
dạy-học tin học nói riêng và các môn học khác nói chung.
3.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.

Kết luận

Đề tài đã đưa ra một cách chi tiết về công tác chuẩn bị, các bước thực hiện
của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học. Thảo luận nhóm là phương
pháp dạy học tích cực, phát huy tính chủ động, sáng tạo, năng lực diễn đạt, hợp
tác, làm việc theo nhóm của HS - một phẩm chất quan trọng của người công dân
trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá ngày nay. Nếu áp dụng phương pháp một
cách nghiêm túc theo những nội dung trình bày ở trên, chắc chắn người dạy sẽ
thu được những kết quả rất hữu ích. Tuy nhiên, đây là một phương pháp khó. Để
vận dụng thành công phương pháp này, GV cần nắm vững kiến thức, có quy
trình thảo luận khoa học cùng với nghệ thuật sư phạm. Bên cạnh đó, cần phải có
điều kiện cơ sở vật chất thuận lợi và sự kết hợp linh hoạt thảo luận nhóm với các
phương pháp dạy học khác.
3.2. Kiến nghị
Việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học và ứng dụng CNTT vào dạy
học là một công việc lâu dài, khó khăn đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật
chất, tài chính và năng lực của đội ngũ giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh việc nâng
cao chất lượng giáo dục trong thời gian tới có hiệu quả, không có gì khác hơn, đó
là có sự chỉ đạo đầy đủ, đồng bộ, thống nhất của các cấp quản lý giáo dục, tạo
nên được sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội, làm cơ sở tiến tới một xã

hội học tập.
Cần quan tâm hơn về cơ sở vật chất như: Trang thiết bị máy tính có nối
mạng, máy chiếu... tại các phòng học đa năng, khuyến khích và động viên giáo
viên áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
18


Trong quá trình viết đề tài, do điều kiện về thời gian và năng lực còn hạn chế, đề
tài không tránh khỏi những sai sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo
của quý thầy cô giáo và các đồng nghiệp để làm kinh nghiệm quý báu cho bản
thân trong quá trình giảng dạy. Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh hóa, ngày 10 tháng 7 năm
2020
Tôi xin cam đoan đây là
SKKN của mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.
Người viết

Phạm Thị Dương
Phạm Thị Dương

19


1.
2.
3.

4.
5.
6.
7.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hồ Sĩ Đàm (chủ biên) – 2006 – Sách giáo viên Tin học 10 – Nhà xuất bản
giáo dục
Hồ Sĩ Đàm (chủ biên) – 2012 – Sách giáo khoa Tin học 10 – Nhà xuất bản
giáo dục Việt Nam
Quách Tất Kiên (chủ biên) – 2009 – Hướng dẫn chuẩn kiến thức, kỹ năng
môn Tin học THPT – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
Lê Đức Long –2009 – Phương pháp dạy học môn Tin học – ĐHSP
Tp.HCM
Hồ Cẩm Hà( chủ biên)- Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Tin
học lớp 10 – Nhà xuất bản Đại học sư phạm.
Hồ Cẩm Hà( chủ biên)- Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Tin
học lớp 11 – Nhà xuất bản Đại học sư phạm.
Một số tài liệu và SKKN của các đồng nghiệp khác....

20



×