Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Hướng dẫn đọc hiểu đoạn trích trao duyên theo đặc điểm thể loại và ngôn ngữ nghệ thuật của truyện kiều cho học sinh lớp 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.92 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT HÀM RỒNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

HƯỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU ĐOẠN TRÍCH TRAO DUYÊN
THEO ĐẶC ĐIỂM THỂ LOẠI VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
CỦA TRUYỆN KIỀU CHO HỌC SINH LỚP 10 THPT

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hảo
Chức vụ: Tổ phó chuyên môn
Đơn vị: Trường THPT Hàm Rồng
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

MỤC LỤC
NỘI
DUNG
THANH
HOÁ, NĂM 2020

TRANG


1. Mở đầu

1

1.1. Lí do chọn đề tài

1



1.2. Mục đích nghiên cứu

1

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2. Nội dung

2

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

2.2. Thực trạng của vấn đề

6

2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện

8

2.3.1. Những yêu cầu chung:


8

2.3.2. Một số giải pháp cụ thể.

8

2.3.2.1. Xác lập hệ thống cấu trúc đoạn trích theo đặc điểm thể
loại Truyện Kiều.

11

2.3.2.2. Xác định tính chất của hình tượng theo thể loại kết hợp với
việc phân tích đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong việc miêu tả nội

13

tâm nhân vật.
2.4. Kết quả thực nghiệm

16

3. Kết luận, kiến nghị

17

3.1. Kết luận

17


3.2. Kiến nghị

18


1. MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài.
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Gắn liền
với tên tuổi, tài năng xuất chúng cùng sự nghiệp sáng tác của ông là kiệt tác
Truyện Kiều. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ coi đó là “lời quê góp nhặt dông
dài” nhưng thực tế cho thấy, bất chấp quy luật và sự sàng lọc nghiệt ngã của
thời gian, Truyện Kiều đã khẳng định sức sống bất tử của một tác phẩm bất hủ.
Được viết trong “chồng chất những khối lõi ở trong lòng” và được viết bằng
tâm huyết “như có máu chảy ở đầu ngọn bút”, “như có nước mắt thấm ở trên
trên tờ giấy”, tác phẩm là sự thể hiện “nỗi đau nhân tình” của Nguyễn Du tập
trung, xúc động và thành công nhất.
Trong chương trình Ngữ văn THCS và THPT, Truyện Kiều chiếm một vị
trí quan trọng. Giá trị tư tưởng và vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm có ý nghĩa vô
cùng to lớn trong sự khẳng định thành tựu chói lọi của nền văn chương cổ điển
Việt Nam. Giảng dạy, học tập, nghiên cứu về tác giả Nguyễn Du và Truyện
Kiều trở thành một nội dung thiết yếu không chỉ nâng cao sự hiểu biết về một
tác giả lớn, một tác phẩm kiệt xuất của văn học dân tộc mà còn góp phần bồi
dưỡng tâm hồn, hoàn thiện nhân cách, làm phong phú thêm nguồn xúc cảm
thẩm mĩ cho người dạy và cả người học.
Cùng với Chí khí anh hùng, Nỗi thương mình (Truyện Kiều),trong
chương trình Ngữ văn lớp 10, Trao duyên là một đoạn trích hay nhưng khó lĩnh
hội một cách thấu đáo. Đã có những định hướng tiếp cận cơ bản như Tài liệu
chuẩn kiến thức kĩ năng của Bộ GD và ĐT, Sách giáo viên, các tài liệu ôn
luyện, bồi dưỡng, những tìm tòi đổi mới phương pháp đọc - hiểu với những
khám phá, phát hiện mới của đồng nghiệp …Tuy nhiên do những khó khăn

khách quan từ đặc thù thi pháp văn học trung đại cùng những hạn chế chủ quan
trong năng lực phân tích, đọc - hiểu, cảm thụ của học sinh lớp 10 ở trường
THPT Hàm Rồng, việc tiếp cận, khám phá giá trị tư tưởng nghệ thuật của đoạn
trích Trao duyên vẫn còn hạn chế.

1


Qua thực tế giảng dạy, tích lũy, chúng tôi mạnh dạn đề xuất đề tài
Hướng dẫn học sinh lớp 10 THPT đọc – hiểu đoạn trích Trao duyên theo
đặc điểm thể loại và ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều.
1.2.Mục đích nghiên cứu.
Tìm ra những giải pháp giải quyết những tồn tại, hạn chế trong việc tiếp
cận, giảng dạy nội dung chương trình Ngữ văn lớp, cụ thể trong đoạn trích
Trao duyên, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy – học văn.
1.3.Đối tượng nghiên cứu.
Chúng tôi hướng đến tìm hiểu đoạn trích Trao duyên trên phương diện
đặc điểm thể loại và ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều, từ đó hướng dẫn
cho học sinh tiếp cận đoạn trích nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học
các đoạn trích trong Truyện Kiều nói riêng, phần văn học trung đại nói chung.
Đối tượng thực nghiệm là học sinh lớp 10 ở trường THPT Hàm Rồng - TP
Thanh Hóa,
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp khảo sát, phân tích.
- Phương pháp tổng hợp, so sánh
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp thực nghiệm

2



2.NỘI DUNG
2.1.Cơ sở lí luận:
2.1.1.Thể loại truyện Nôm.
Truyện thơ Nôm là thể loại dùng các thể thơ tiếng Việt viết bằng chữ
Nôm (thường là thơ lục bát) để kể chuyện (trần thuật). Nội dung của truyện thơ
Nôm thường phản ánh đời sống xã hội cũng như thể hiện quan niệm, lí tưởng
nhân sinh của tác giả thông qua việc miêu tả, tường thuật lại một cách tương
đối trọn vẹn cuộc đời, tính cách nhân vật bằng một cốt truyện với chuỗi các
biến cố, sự kiện nổi bật.
- Đặc điểm nghệ thuật của truyện thơ Nôm.
+ Kết cấu: Truyện thơ Nôm thường kết cấu theo mô hình: Gặp gỡ (Hội
ngộ) – Tai biến (Lưu lạc) – Đoàn tụ {Đoàn viên). Tuỳ vào chủ đề của tác phẩm
mà phần nào sẽ được nhấn mạnh. Đối vói các truyện thơ Nôm mang chủ đề giải
phóng tình yêu đôi lứa, thì “gặp gỡ” thường được nhấn mạnh, tác giả dành
nhiều trang viết để đi sâu vào miêu tả và tán dương tình yêu tự do, say đắm.
Đối với các truyện thơ Nôm mang chủ đề đấu tranh cho công lí xã hội thì “tai
biến” (và sự đấu tranh vượt qua “tai biến”) là phần quan trọng. Tuy nhiên, cả
hai loại truyện này đều cơ bản có kết thúc giống nhau: kết thúc có hậu, kết thúc
có tính chất lí tưởng. (Tất nhiên, cũng có những tác phẩm có hậu chỉ là bề
ngoài, thực chất là kết thúc bi kịch, chẳng hạn như Truyện Kiều, phản ánh khát
vọng (đồng thời cũng là sự bế tắc, bất lực) của tác giả trước thực tại bất công,
nghiệt ngã.)
+ Nhân vật:
Nhân vật của truyện thơ Nôm thường được chia thành hai tuyến rõ ràng:
nhân vật chính diện (đại diện cho cái tốt, cái tiến bộ) và nhân vật phản diện (đại
diện cho cái xấu, cái ác, cái bảo thủ). Nhân vật truyện thơ Nôm cũng thường
được xây dựng theo khuôn mẫu, các môtip như: chàng trai nghèo, học giỏi (sau
thành đạt), chung tình; cô gái (nhà giàu) nết na, đảm đang, hiếu thảo;… Tuy
nhiên, cũng đã có một vài nhân vật truyện thơ Nôm được xây dựng đa chiều,

sinh động hơn (có tính cách cá thể, có đời sống tâm lí phong phú,…), điển hình
là nhân vật Thuý Kiều trong Truyện Kiều.
3


Ngoại hình các nhân vật cũng được chú ý miêu tả, nhưng nhìn chung vẫn
theo lối ước lệ, tượng trưng. Ở những truyện thơ Nôm thành công nhất, ngoại
hình nhân vật đã có những nét cá thể hoá, biểu thị tính cách, số phận.
Các nhân vật cũng được khắc hoạ thống qua ngôn ngữ đối thoại. Một số
nhân vật (ở truyện thơ Nôm bác học) đã được khắc hoạ đời sống tâm lí thông
qua việc tả cảnh ngụ tình hoặc miêu tả trực tiếp tâm trạng, tâm lí (ngôn ngữ độc
thoại).
+ Ngôn ngữ:
Tuỳ theo tài năng của tác giả cũng như trình độ phát triển văn học của
các vùng miền nơi sản sinh tác phẩm mà ngôn ngữ truyện thơ Nôm hoặc còn
thô sơ, mộc mạc hay đã đạt đến mức độ tinh tế, hoàn thiện.
Truyện thơ Nôm luôn có sự kết hợp của hai loại ngôn ngữ: ngôn ngữ
bình dân và ngôn ngữ bác học. Ngôn ngữ bình dân là lời ăn tiếng nói hằng
ngày, ngôn ngữ đời sống (khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ, phương ngữ,…). Ngôn
ngữ bác học là ngôn ngữ được trau chuốt, dùng phổ biến trong nền văn học viết
trung đại, thiên về ước lệ tượng trưng, sử dụng nhiều từ Hán Việt, điển tích,
điển cố,,văn thi liệu Hán học, nhiều thủ pháp tu từ phức tạp. Mỗi loại ngôn ngữ
có ưu thế riêng: ngôn ngữ bình dân thì cụ thể, chi tiết, cá thể hoá; ngôn ngữ bác
học thì trang trọng, tao nhã, thâm thuý. Tuỳ từng tác phẩm của từng tác giả mà
tỉ lệ hai loại ngôn ngữ này có khác nhau và sự kết hợp, bổ trợ cho nhau cũng
khác nhau. Những truyện thơ Nôm thành công là những tác phẩm sử dụng hài
hoà, kết hợp nhuần nhuyễn và tận
2.1.2. Đặc điểm thể loại của Truyện Kiều:
Truyện Kiều thuộc thể loại truyện thơ Nôm, có sự tương tác giữa tự sự và
trữ tình. Trong bài viết Truyện Kiều và thể loại truyện thơ Nôm, GS Đặng

Thanh Lê cho rằng“Trên cái nền chung của tự sự…có thể nói Truyện Kiều là
một bước phát triển hoàn chỉnh của thể loại tiểu thuyết cổ điển Việt Nam”.
Trong cuốn Phong cách Truyện Kiều, Phan Ngọc nhận định “Truyện Kiều là tác
phẩm tổng hợp được các thành tựu nghệ thuật của nhiều thể loại của thời
đại…”. GS Trần Đình Sử trong bài Tư tưởng nhân vật và cách kể chuyện của
Nguyễn Du viết: “Nguyễn Du đã sáng tạo lại Truyện Kiều (…) đưa vào người
4


kể chuyện mới, tổng hợp các truyền thống văn học Việt Nam và Trung Quốc,
truyền thống tự sự và nhất là trữ tình để tạo ra kiệt tác vô song trong văn học
Việt Nam và thế giới”…
Truyện Kiều là một truyện thơ kiệt xuất, là tập đại thành của văn học cổ
điển Việt Nam, tác phẩm có đề tài và cốt truyện từ cuốn tiểu thuyết chương
hồi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc. Ở đây,
như M. B. Khrapchenkô đã đúc kết “sự vay mượn đề tài, mô phỏng cốt truyện
như là một phương pháp sáng tác thời trung đại, là một sự bắt chước những
quy tắc và truyền thống trung đại, là một đặc trưng của văn học trung đại”.
Nguyễn Du chỉ mượn đề tài, cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, còn chủ đề
và tư tưởng thì lại là một công trình hoàn toàn sáng tạo của Nguyễn Du. Ngay
cả khi vay mượn đề tài và cốt truyện, bút pháp của nhà thơ cũng có sự cân
nhắc, chọn lọc, thêm bớt. So với Kim Vân Kiều truyện thì nhân vật
trong Truyện Kiều có diện mạo, tính cách rõ nét và tâm lý sắc sảo. Về mặt
nghệ thuật của tiểu thuyết chương hồi, nhà văn xây dựng tính cách nhân vật
thông qua hành động và ngôn ngữ, trong khi đó nhân vật chính của Truyện
Kiều lại bộc lộ tính cách thông qua phân tích tâm lý, thông qua bức tranh tâm
trạng. Đây là chỗ gặp gỡ giữa bút pháp của Nguyễn Du với bút pháp của các
nhà tiểu thuyết hiện đại.
Như vậy, với đặc điểm thể loại có tính tương tác giữa thể loại tự sự và trữ
tình của Truyện Kiều, khi tìm hiểu, phân tích các trích đoạn trong tác phẩm nói

chung và trích đoạn Trao duyên nói riêng chúng ta cần căn cứ vào đó để tìm
cách tiếp cận phù hợp.
1.2. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều:
Khái niệm ngôn ngữ được đề cập ở đây có ý nghĩa hẹp, cụ thể, là đơn vị
nhỏ nhất và cơ bản nhất của câu thơ, bao gồm từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ, thi
liệu cổ. Theo GS Đặng Thanh Lê, “đặc điểm lớn nhất của ngôn ngữ Truyện
Kiều là sự kết hợp vận dụng từ ngữ dân tộc và hệ thống từ ngữ Hán Việt, sự
phát triển có tính chất quy luật về phương diện sử dụng ngôn ngữ ở trường hợp
các kiệt tác”. Trong công trình nghiên cứu Ba thi hào dân tộc, Xuân Diệu đã
chỉ ra: “Văn Truyện Kiều là tinh hoa của văn chương cổ điển kết hợp với tinh
5


hoa của văn chương bình dân, là rất nâng cao trên cơ sở phổ cập rộng rãi, là dồi
dào phong phú vô hạn lại trong sáng giản dị”…
Nhiều người nói Nguyễn Du là bậc thầy của ngôn ngữ, thậm chí là phù
thủy, pháp sư của từ. Quả vậy, ngôn ngữ của Nguyến Du đạt đến trình độ trác
việt đồng thời lại hết sức giản dị, dễ hiểu gần gũi với đại đa số quần chúng
nhân dân. Không ít những câu thơ dùng ngôn ngữ giản dị như lời ăn tiếng nói
hàng ngày đi vào thơ Nguyễn Du một cách hết sức tự nhiên chân thật; thứ ngôn
ngữ giản dị ấy đồng thời có khả năng diễn đạt đầy đủ nhất, chính xác và tinh tế
nhất đặc điểm của đối tượng, dù là cảnh vật thiên nhiên, hay ngoại hình, nội
tâm nhân vật. Không chỉ tinh tế, chính xác, lời thơ của Nguyễn Du còn rất giàu
hình ảnh và nhạc điệu.
Những đoạn thơ đã được chọn lọc biên soạn đưa vào chương trình sách
giáo khoa đều là những đoạn ưu tú, do đó những đoạn thơ này cũng sẽ thể hiện
tập trung đặc điểm ngôn ngữ của tác phẩm: những từ ngữ, tứ thơ hay nhất
thuộc hệ thống từ ngữ dân tộc và những điển cố, thi liệu, từ ngữ Hán đã được
sử dụng hết sức sáng tạo…Dựa trên những đặc điểm về ngôn ngữ nghệ thuật
của Truyện Kiều được các nhà nghiên cứu chỉ rõ trên đây cũng là cơ sở quan

trọng để chúng ta tiếp cận các đoạn trích Trao duyên.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
Thực tế, khi dạy học phần văn học trung đại hiện nay, những giáo viên
văn học đã gặp phải một “bi kịch” trong nghề: đó là học sinh thờ ơ với những
tác phẩm thơ văn của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, mặc dù
những tác phẩm của họ đã đạt đến giá trị kiệt tác. Cũng như nhiều tác phẩm cổ
điển khác, khi đến với tâm hồn, trí tuệ, trái tim thế hệ trẻ, Truyện Kiều đã phải
vượt qua bao hàng rào ngăn cách, phải chống trọi với uy quyền của “những
khoảng cách”.
Đó là khoảng cách về không gian văn hóa và thời gian lịch sử. Truyện
Kiều đã bị chia cắt với các em học sinh bởi chiều dài của năm tháng. Và không
chỉ có thời gian mà còn là sự khác biệt của không gian văn hóa, của những loại
hình xã hội, là sự khác biệt của cuộc sống.

6


Đó còn là khoảng cách tâm lí học. Nhịp sống “tên lửa” của xã hội hiện
đại đã tác động đến tâm lí tiếp nhận của các em học sinh đang ở độ tuổi mới
lớn. Các em không có thì giờ và cũng không còn hứng thú với một cuốn tiểu
thuyết hiện đại nói gì đến những Thánh Tông di thảo, Truyện Kiều, Lục Vân
Tiên… Những câu thơ cổ điển với các em trở nên xa lạ, khó hiểu.
Và một khoảng cách cơ bản nữa đó là sự khác biệt trong phong cách
nghệ thuật nhất là sự khác biệt trong phong cách ngôn ngữ văn học giữa hiện
đại và quá khứ. Đọc tác phẩm cổ điển nói chung, Truyện Kiều và trích đoạn
Trao duyên nói riêng, học sinh vấp phải hàng rào của những từ ngữ, địa danh,
điển cố, thi liệu xa lạ, khó hiểu. Sách giáo khoa đã có những phần chú giải,
giáo viên cũng đã có ý thức giải thích cho học sinh. Tuy nhiên các em khi đọc
văn bản thường không chú ý đọc phần chú giải, hoặc nếu có đọc chỉ là khi phải
trả lời câu hỏi của giáo viên.

Thêm một thực tế, trong cấu trúc đề thi THPT quốc gia, nội dung câu
nghị luận văn học chủ yếu thuộc kiến thức chương trình Ngữ văn 12. Đây cũng
là một trong những lí do dẫn đến sự thờ ơ, thậm chí bỏ qua các nội dung kiến
thức về tác phẩm văn học lớp 10 với tâm lí thi gì dạy đó và thi gì học nấy.
Cùng với những khó khăn khách quan nêu trên, thực trạng dạy – học văn
nói chung và dạy – học các tác phẩm văn học trung đại nói riêng còn có những
hạn chế chủ quan từ phía người dạy và cả người học. Đa số những thầy cô trẻ
tuổi chia sẻ trong các buổi sinh hoạt chuyên môn: không mấy tâm đắc khi dạy
phần văn học này và lúng túng khi soạn giáo án cũng như khi thể nghiệm trong
các tiết đọc – văn. Bên cạnh đó, do nhận thức về vai trò bộ môn còn hạn chế,
các em, nhất là đối với học sinh lựa chọn học tổ hợp tự nhiên thường có tâm lí
ngại học văn, xem là môn “phụ”, học với tinh thần đối phó, hoàn toàn dửng
dưng, thờ ơ với những tiết học văn. Những em lựa chọn học môn xã hội, ít
nhiều có yêu thích môn văn thì gặp phải vấn đề hạn chế trong năng lực cảm
thụ văn học, nhất là đối với phần văn học trung đại, cụ thể là đoạn trích như
Trao duyên. Những nét tâm lí, thái độ chủ quan này đã khiến những giờ học
văn thiếu sinh khí, vô hồn, miễn cưỡng.

7


Thực trạng nói trên không thể giải quyết một cách đầy đủ, đồng thời
trong phạm vi của đề tài cũng như năng lực chủ quan của người viết. Trong đề
tài này, chúng tôi xuất phát từ góc độ bài giảng của giáo viên với tư cách trung
gian giữa tác phẩm nghệ thuật đến với học sinh lớp 10, cụ thể đề xuất một số
giải pháp tiếp cận đoạn trích Trao duyên trong chương trình Ngữ văn lớp 10
THPT theo đặc trưng thể loại và đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện
Kiều.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
2.3.1. Những yêu cầu chung:

- Giải quyết những khó khăn, lúng túng trong việc tiếp cận bài học.
- Tạo hứng thú, say mê cho học sinh.
- Nâng cao hiệu quả nhận thức nội dung kiến thức văn bản, nâng cao năng lực
cảm thụ văn học, nâng cao kĩ năng đọc hiểu một văn bản văn học trung đại theo
đặc trưng thể loại.
2.3.2. Một số giải pháp cụ thể.
2.3.2.1.Xác lập hệ thống cấu trúc đoạn trích theo đặc điểm thể loại Truyện
Kiều.
Giáo viên hướng dẫn học sinh nhớ lại kiến thức khái quát về đặc điểm
của truyện thơ Nôm, đặc điểm thể loại của Truyện Kiều, nhớ lại hệ thống cốt
truyện của Truyện Kiều(Phần kiến thức đã được học trong chương trình THCS).
Truyện Kiều phát triển qua 3 cấp độ tạo thành hệ thống cốt truyện:
+ Biến cố
+ Sự kiện
+ Tình tiết.
Cốt truyện Truyện Kiều, như chúng ta đã biết, xây dựng trên ba cơ sở
biến cố lớn: Gặp gỡ - Gia biến và lưu lạc – Đoàn tụ. Ba biến cố đó phản ánh ba
chặng đường cơ bản trong số phận của Thúy Kiều: đối diện với hạnh phúc –
hạnh phúc tan vỡ - hạnh phúc tìm lại được.
Đoạn Trao duyên được xác định là một sự kiện trong biến cố 2 – Gia
biến, lại là sự kiện mở đầu cho bất hạnh, tan vỡ của hạnh phúc, do đó âm điệu
8


chủ đạo ở đây là nỗi đau khổ khôn cùng cũng như khát vọng tình yêu mãnh liệt
của nhân vật.
Trong phần Tìm hiểu chung của bài học, sau khi cho học sinh đọc Tiểu
dẫn, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định vị trí của đoạn trích. Cần lưu ý học
sinh không chỉ xác định vị trí qua số thứ tự câu thơ trong tác phẩm mà phải nêu
được vị trí trong diễn biến cốt truyện. Đoạn thơ từ câu 723 đến câu 756, thuộc

phần 2, Gia biến và lưu lạc. Đây là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời
lưu lạc của Thúy Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt giam do có kẻ
vu oan, Thúy Kiều phải bán mình làm vợ cho Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót
quan lại cứu cha và em. Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã Giám Sinh,
Thúy Kiều đau khổ nghĩ tới thân phận và mối tình của mình với Kim Trọng.
Nàng đã quyết định nhờ cậy em gái là Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho chàng
Kim.
Việc xác định đoạn trích trong hệ thống cốt truyện không chỉ có ý nghĩa
để giáo viên hướng dẫn học sinh xác định được xuất xứ của đoạn trích, vị trí
của đoạn trích. Nó còn có ý nghĩa xác định những phương hướng khám phá,
lĩnh hội tinh thần chung của đoạn thơ từ khi giáo viên bắt đầu soạn giáo án cho
đến khi hướng dẫn học sinh đọc văn bản, cảm nhận khái quát trước khi bước
vào hoạt động đọc hiểu chi tiết. Hơn thế, khi xác định đoạn trích với tư cách là
một thành phần, một bộ phận thể hiện tinh thần, nội dung cơ bản của tác phẩm
cũng như thể hiện những đặc điểm, những thành tựu nghệ thuật của tác phẩm sẽ
giúp giáo viên có phương hướng đúng khi hướng dẫn học sinh phân tích hình
tượng, ngôn ngữ đoạn thơ.
2.3.2.2.Xác định tính chất của hình tượng theo thể loại kết hợp với việc phân
tích đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.
Đây là bước xác định quan trọng định hướng cho phần đọc hiểu, phân
tích đoạn trích. Đặc trưng của tự sự gắn với cốt truyện, nhân vật, phân tích
nhân vật tự sự, chú ý số phận tính cách đặt trong diễn biến của cốt truyện. Đặc
trưng của trữ tình là dòng cảm xúc nội tâm, phân tích nhân vật trữ tình có nghĩa
là phân tích “biện chứng tâm hồn”, dòng suy tưởng, diễn biến tâm trạng của
nhân vật. Như phần cơ sở lí luận của đề tài đã nêu, Truyện Kiều vừa có đặc
9


điểm của thể loại tự sự vừa có yếu tố trữ tình, vì vậy khi hướng dẫn học sinh
phân tích đoạn trích, giáo viên cần lưu ý điểm này.

*Với đoạn Trao duyên: Cần cho học sinh nhận biết, nhân vật Thúy Kiều vừa
thuộc kiểu nhân vật trữ tình vừa là nhân vật tự sự. Khi phân tích đoạn trích, cần
phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong chuỗi các sự việc, biến
cố liên quan đến mối tình giữa nàng với Kim Trọng. Cùng với đó là việc phân
tích hình thái tổ chức ngôn ngữ: đối thoại – độc thoại nội tâm.
- Bước vào phần đọc – hiểu, giáo viên cho học sinh đọc diễn cảm đoạn thơ,
cảm nhận âm điệu chung, từ đó định hướng phân tích diễn biến tâm trạng nhân
vật. Để học sinh nhận ra được đặc điểm tâm trạng nhân vật trong đoạn trích,
giáo viên giới thiệu thêm đặc điểm chung về vận mệnh và tính cách nhân vật
Thúy Kiều trong tác phẩm.
Thúy Kiều là một con người luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của
bản thân, nhưng đồng thời luôn hướng tới ánh sáng của hạnh phúc. Vận mệnh
và tính cách có màu sắc bi kịch này chi phối quán xuyến nội dung tác phẩm;
bao trùm thiên truyện phảng phất không khí buồn; quán xuyến kết cấu: trong
phần lớn tác phẩm Nguyễn Du viết về quãng đời tai biến, lưu lạc của Kiều;
trong toàn bộ tác phẩm, kể cả đêm thề nguyền đính ước, tình tự của phần Gặp
gỡ, hay trở về với Kim Trọng trong phần Đoàn tụ, hạnh phúc của nàng không
bao giờ trọn vẹn…Xuyên suốt tác phẩm, hình tượng nhân vật luôn sống trong
tâm trạng bi kịch.
Nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, tài đàn tuyệt diệu và tài thơ mẫn
tiệp của nàng rút cục cũng chỉ để “đem bán vào phường lái buôn”. Nổi bật trên
tất cả kiếp đoạn trường và nỗi đoạn trường là sự chà đạp lên hạnh phúc tình yêu
và ước mơ công lí của người phụ nữ tài hoa, nhan sắc, đa sầu, đa cảm và hết
sức vị tha này. Nguyễn Du đặc biệt chú trọng trình bày, miêu tả mâu thuẫn sâu
sắc giữa khát vọng hạnh phúc của con người bị áp bức với những thế lực xấu
xa, tàn bạo của chế độ phong kiến.
- Tiếp theo, giáo viên hướng dẫn học sinh đi vào phân tích tâm trạng bi kịch
của Thúy Kiều. Để thấy được lô gic của tâm trạng, trước hết cần xác định được
hoàn cảnh bi kịch, mâu thuẫn làm nền cho diễn biến tâm trạng của nhân vật.
10



+ Mâu thuẫn làm nền cho diễn biến tâm trạng của nhân vật:
Thúy Kiều nhắc lại quá khứ khi nàng sống trong hạnh phúc rồi hạnh phúc
đột ngột tan vỡ. Ở đây không còn mâu thuẫn giữa hiếu và tình, mâu thuẫn ấy đã
được giải quyết ở đoạn trước:
Duyên hội ngộ đức cù lao
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?
Nhớ lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Mâu thuẫn chủ yếu của đoạn trích được thể hiện qua ngôn ngữ thông báo
của nhân vật chính: Kiều nhắc lại những biến cố, những sự kiện của đời nàng,
hệ thống cốt truyện này tạo nên mâu thuẫn:
Khi gặp chàng Kim/Sóng gió bất kì
Quạt ước, chén thề/Đứt gánh tương tư
Tai biến của gia đình đưa Thúy Kiều đến chỗ phải dứt bỏ tình yêu, giã từ
Kim Trọng ra đi. Kiều hi sinh hạnh phúc cá nhân, đó là lí tưởng đạo đức và
cũng là một phương diện hạnh phúc của đời nàng – Thà rằng liều một thân
con/Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây. Nhưng vì đây là một phương diện của
hạnh phúc nên Kiều tiếp tục đi vào một bi kịch khác. Thúy Kiều, con người của
một thời đại đã có ý thức sâu sắc hơn, phong phú hơn về đau khổ cũng như về
khát vọng của mình, không chỉ đơn giản chấp nhận một phương diện nào của
hạnh phúc. Ngoài hạnh phúc gia đình, nàng còn sống với khát khao tình yêu
tuổi trẻ; ngoài tình thương cha mẹ, hai em, còn tình yêu với chàng Kim. Vì giữa
cái tuổi mười sáu, với một nhan sắc khuynh thành, một tài hoa rực rỡ, một trái
tim nồng nàn, nàng đã gặp Kim Trọng, một chàng trai phong tư tài mạo tót
vời… Thúy Kiều đã đối diện hạnh phúc, kể từ khi gặp chàng Kim nàng đã đắm
đuối trong hương vị của tình yêu: Hoa hương càng tỏ thức hồng/ Đầu mày cuối
mắt càng nồng tấm yêu….nàng làm sao có thể quên đi mối tình đầu sôi nổi,sâu
sắc ấy. Tan vỡ đột ngột, tàn khốc, đối lập với tình yêu sâu xa mãnh liệt và khát

vọng hạnh phúc lứa đôi là cái nền mâu thuẫn chủ yếu của nội tâm nhân vật.

11


+ Trên nền của mâu thuẫn ấy, giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích diễn biến
tâm trạng bi kịch của Thúy Kiều theo dòng sự kiện gắn với cốt truyện: Thúy
Kiều nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng -> Thúy Kiều trao
những kỉ vật của tình yêu-> Thúy Kiều mong muốn “trở về” gặp lại người yêu
->Thúy Kiều hướng đến sự đồng cảm của người yêu ->Tâm trạng tuyệt vọng
của Kiều bởi mâu thuẫn chủ yếu trong tâm hồn nàng(tình yêu mãnh liệt và sự
chia biệt vĩnh viễn) không thể giải quyết.
+) Tâm trạng Thúy Kiều khi thuyết phục Thúy Vân nhận lời thay mình trả
nghĩa cho Kim Trọng. Đây là một câu chuyện tế nhị giữa hai chị em và khó xử
với Thúy Vân. Bởi vậy, trong ngôn ngữ nói với em, Thúy Kiều đã sử dụng
những từ ngữ thể hiện thái độ khẩn thiết trong những lời mở đầu(Cậy, chịu, lạy,
thưa); sau đó Thúy Kiều thuyết phục, “ràng buộc” Thúy Vân bằng cách đưa ra
những mối quan hệ tình cảm “vì cây dây leo” qua một loạt thành ngữ, tục ngữ.
Đó là một cách đưa Vân đến chỗ mặc nhiên phải chấp nhận. (Chú ý ngôn ngữ
ở đoạn này có sự kết hợp hài hòa giữa cách nói trang trọng của các điển tích
(keo loan, tơ duyên) cùng với cách nói giản dị, nôm na của ngôn ngữ bình dân
(thành ngữ: tình máu mủ, lời nước non, thịt nát xương mòn, ngậm cười chín
suối...)
+)Tâm trạng Thúy Kiều khi Kiều trao kỉ vật cho Thúy Vân: chiếc thoa,
bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền…đấy là tất cả những kỉ vật thương
yêu cùng vầng trăng đêm thề hẹn chứng kiến mối tình của nàng với chàng Kim.
Kỉ vật trao tay, ấy là khi Kiều đau đớn trong sự giằng xé giữa lí trí và tình cảm,
giữa bổn phận và khát vọng tình yêu – “Duyên này thì giữ vật này của chung”.
Khi nói với Vân, Kiều vừa có vẻ thiết tha, vừa có vẻ uất ức tủi hờn:
Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Có một sự ngầm so sánh giữa một bên nên vợ nên chồng và một bên là
mệnh bạc, hồn oan. Đó là hai mặt mâu thuẫn của một tấm lòng. Đó cũng chính
là logic của cuộc sống, của tâm hồn nàng Kiều. Chữ duyên và chữ tình ở đây
không đồng nhất, dường như Kiều mong muốn cuộc sống lứa đôi sau này của

12


Kim Trọng và Thúy Vân, nàng không hoàn toàn vắng bóng: Mất người còn
chút của tin/Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
+)Tâm trạng Thúy Kiều khi sau khi đã tác hợp Thúy Vân – Kim Trọng.
Thúy Kiều lại trở về với số phận và tâm trạng bi kịch của nàng. Kiều những
mong đem chữ nghĩa để đền đáp người yêu, như tự chiều sâu của nỗi lòng,
nàng hiểu rằng không bao giờ mối nhân duyên ấy có thể là hạnh phúc của
chàng Kim. Và nàng, cho dù “Chân trời góc biển bơ vơ/Tấm son gột rửa bao
giờ cho phai”. Chữ nghĩa không hồn không thể giúp nàng ngậm cười chín suối
như đã nói với Vân. Tình gia đình, nghĩa nàng Vân không thể xoa dịu hoàn
toàn đau khổ. Một cô Kiều vì hoàn cảnh phải vĩnh viễn chia lìa với người yêu
nhưng không từ bỏ, không phủ định khát khao hạnh phúc yêu đương.
Lời lẽ của Kiều càng lúc càng đau thương u uất, không còn là ngôn ngữ
của lí trí nữa mà là ngôn ngữ của trái tim cho thấy rõ mâu thuẫn giằng xé trong
nội tâm Kiều. Đó là sự giằng xé đau đớn giữa mất và còn, giữa nhớ và quên,
giữa sum họp và chia lìa, giữa hạnh phúc và bất hạnh, giữa sống và chết. Câu
thơ nằm giữa đường biên mơ – thực, tỉnh – mê, chập chờn ma mị…Cách tác
giả dùng các từ ngữ mai sau, có bao giờ, hiu hiu gió, hồn, dạ đài, rưới xin giọt
nước, người thác oan… cho thấy thời điểm không xác định hiện tại hay tương
lai, không khí linh thiêng nửa thực nửa mộng, nửa trên trần thế, nửa dưới cõi
âm. Và nàng Kiều khi ấy “Nửa phần người sống, nửa phần hồn ma”.
Nàng khao khát trở về gặp mặt người yêu để có thể nhận được một sự

cảm thông từ phía Kim Trọng, dù ước vọng ấy cũng hết sức mong manh:
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về…
Nhưng ước mơ ấy đã bao hàm sự tuyệt vọng. Sự hiển hiện ấy nếu có
cũng chỉ là một ảo ảnh, một hạnh phúc siêu hình, một cuộc trở về mà không có
gặp gỡ.

13


+)Tất cả những cố gắng để giải thoát ra khỏi tâm trạng đau khổ đều trở
nên vô vọng bởi Kiều không thể dứt bỏ tình yêu, không thể phủ định hiện thực
số phận Bây giờ trâm gãy gương tan/Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân…Trên
dòng phát triển của biện chứng tâm hồn là hình tượng Thời gian – Quá khứ
-Hiện tại, Hiện tại – Tương lai, Tương lai – Hiện tại, là vận mệnh bi kịch, tâm
trạng bi kịch, là ý thức về số phận, về khát vọng con người. Nhịp điệu và từ
ngữ tạo nên hệ thống đối lập giữa hai sức mạnh: một sự đổ vỡ không gì cứu
vãn nổi bởi sự chà đạp của số phận “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn
ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi”, “thiếp đã phụ chàng” với sự
bất chấp của một tình yêu tha thiết, vĩnh cửu, của khát vọng hạnh phúc vô hạn,
mãnh liệt “muôn vàn ái ân”, “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”.
Mẫu thuẫn không được giải quyết, bản chất hạnh phúc không tồn tại nơi
chữ hiếu, chữ nghĩa theo quan niệm phong kiến. Và những quan niệm hạnh
phúc siêu hình: kỉ vật, kiếp sau sum họp, giọt lệ cảm thông…hoàn toàn không
thể xoa dịu nỗi đau khổ của người thiếu nữ có trái tim nồng nàn sôi nổi như
Thúy Kiều.
Hai câu cuối là đỉnh cao của tâm trạng: Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang/Thôi
thôi thiếp đã phụ chàng từ đây. Thúy Kiều nhớ kỉ niệm, tiếc tơ duyên, tủi phận

bạc và cuối cùng gọi tên Kim Trọng trong nỗi đau không thể kiềm chế.
- Sau khi phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật, giáo viên định hướng để học
sinh rút ra nhận xét khái quát về những đặc sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật
cũng như giá trị tư tưởng của đoạn trích.
Đây là bước cuối cùng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình đọc hiểu
văn bản, sau khi phân tích, học sinh cần khái quát, tổng hợp được giá trị nội
dung, tư tưởng nghệ thuật của đoạn trích. Nhất là đối với đối tượng học sinh
lựa chọn học theo tổ hợp xã hội, việc nhìn nhận, đánh giá những sáng tạo,
đóng góp mới mẻ của tác giả trên phương diện xây dựng hình tượng nhân vật
và sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật là điều thiết yếu để giúp các em có được vốn
kiến thức, kĩ năng sâu rộng, chắc chắn khi vận dụng vào làm bài thi.
Với đoạn trích Trao duyên, sau khi phân tích diễn biến tâm trạng nhân
vật Thúy Kiều học sinh cần rút ra được:
14


+ Về ngôn ngữ nghệ thuật: Trao duyên là một minh chứng cho bút pháp
miêu tả nội tâm đặc sắc của Truyện Kiều: trình bày diễn biến tâm trạng đa dạng
nhưng chân thực, hợp lí. Biểu đạt đời sống nội tâm bằng hệ thống từ ngữ chủ
yếu là Nôm, trong đó có những từ ngữ bình thường, thông dụng nhất và phong
cách khẩu ngữ, thành ngữ lại là những “chữ thần”, “câu thần”.
+Về giá trị nội dung, tư tưởng của đoạn trích:
+)Đoạn thơ là một bi kịch, là cơn khủng hoảng tinh thần đến tột độ, là sự
giằng xé sâu sắc nội tâm nhân vật. Đoạn thơ đầy chất bi nhưng không hề đen
tối. Từ cái bi toát lên vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao đẹp của nàng Kiều: Một
tình yêu chung thủy, khát vọng yêu mãnh liệt, đức hi sinh, vị tha quên mình.
Đây là bi kịch đầu tiên trong cuộc đời Kiều, nàng đau đớn quỵ ngã nhưng
những điều tốt đẹp trong Kiều lại sáng ngời. Cái đẹp ở đây là cái đẹp nhân
cách, cái đẹp của tình yêu bất hạnh mà cũng là bất diệt.
+)Đoạn trích cũng đã cho thấy những sáng tạo của của Nguyễn Du trong

việc xây dựng hình tượng nhân vật. Thúy Kiều đã được giải phóng khỏi những
quan niệm siêu hình, tôn giáo về hạnh phúc. Nàng không trở thành mẫu hình
đạo đức, không chỉ là con người sống với bổn phận, trách nhiệm… Thúy Kiều
trong cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Du là một “con người thật” với tất cả
những trạng thái tâm lí, cảm xúc phong phú, phức tạp như nó vốn có, là một
nàng Kiều sống thật với lòng mình cùng những đam mê, khao khát mãnh liệt,
sôi nổi về một tình yêu, hạnh phúc đời thường của người phụ nữ.
+)Trao duyên là một trong những đoạn trích hay nhất của Truyện Kiều
tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nguyễn Du: niềm
cảm thông sâu sắc trước số phận bất hạnh và bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng
Kiều- người con gái tài hoa, nhan sắc; tấm lòng trân trọng, đề cao vẻ đẹp tâm
hồn, nhân cách cũng như đồng tình trước khát vọng hạnh phúc của nhân vật.
Đặc biệt, Nguyễn Du đã khẳng định con người thức tỉnh, con người ý thức
trong Kiều: ý thức sâu sắc về số phận bi kịch và thể hiện khát vọng yêu đương,
hạnh phúc mãnh liệt. Nhân vật của Nguyễn Du là con người được thức tỉnh, dù
chỉ để khổ đau(Đặng Thanh Lê). Đặt trong bối cảnh văn học trung đại, khi vấn
đề cá nhân, quyền sống của mỗi cá nhân còn ít được nhắc đến bởi sự chi phối
15


của tính phi ngã, chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt thoát khỏi
khoảng trời trung đại chật hẹp, vươn tới tầm nhân loại bao la – Nguyễn Du vừa
là sản phẩm của của một thời đại, vừa vượt thời đại và thuộc mọi thời đại. Chủ
nghĩa nhân đạo của ông như ngọn đuốc chiếu sáng trong đêm đen của lịch sử
loài người(Mai Quốc Liên).
- Cuối cùng, giáo viên cần chuẩn bị bài tập củng cố, bài tập về nhà cho học
sinh, kết hợp giữa câu hỏi trắc nghiệm và câu hỏi tự luận.
3.4. Kết quả thực nghiệm.
* Kết quả chung:
Sau khi áp dụng hướng tiếp cận theo đặc trưng thể loại và đặc điểm

ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều vào dạy đọc hiểu đoạn trích Trao duyên
chúng tôi nhận thấy hiệu quả bài học được nâng lên rõ rệt. Học sinh từ chỗ còn
lúng túng khi nhận diện đặc điểm thể loại Truyện Kiều, khó hiểu với ngôn ngữ
thơ Nôm, lúng túng khi đọc hiểu một đoạn trích cụ thể, các em đã nắm bài dễ
dàng hơn. Giờ học văn không còn gượng ép, khiên cưỡng.
Không những thế, kĩ năng đọc hiểu văn bản thuộc phần văn học trung đại
cũng được cải thiện. Từ đoạn trích Trao duyên, các em có thể chủ động, hứng
thú hơn khi đọc hiểu các đoạn trích khác trong Truyện Kiều. Kiến thức về tác
giả, tác phẩm được bổ sung, hoàn thiện, đồng thời “khoảng cách” giữa các em
với Truyện Kiều, với đại thi hào dân tộc Nguyễn Du được rút ngắn; năng lực
cảm thụ, khái quát, bình giá giá trị nghệ thuật và nội dung tư tưởng một tác
phẩm văn học mang tầm kiệt tác đã được nâng cao.
Đối với bản thân và đồng nghiệp, đề tài cũng đã góp phần tháo gỡ những
khó khăn lúng túng trong việc thiết kế giáo án và quá trình tổ chức hoạt động
đọc - hiểu đoạn trích Trao duyên cũng như các trích đoạn khác trong Truyện
Kiều.
* Kết quả khảo sát tháng 6/2020:
Qua các bài kiểm tra tự luận về đoạn trích Trao duyên được thử nghiệm
ở hai lớp học theo khối D1, kết quả đã được cải thiện đáng kể.
16


Khi đã áp dụng các biện pháp (theo số
liệu khảo sát tháng 5 năm 2020)

Lớp

Giỏi
SL


Khá

%

SL

Tb

%

SL

%

10C10 (51HS)

34

66,6

17

33,4

0

0

10C12 (50HS)


35

70

15

30

0

8.9

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận:
Việc hướng dẫn học sinh đọc – hiểu đoạn trích Trao duyên theo đặc điểm
thể loại (những đặc điểm thi pháp Truyện Kiều) đặt trong mối quan hệ với thi
pháp tác phẩm tự sự, thi pháp cổ điển giúp chúng ta khám phá được nét chung
và nét riêng, truyền thống và cá tính sáng tạo của thiên tài Nguyễn Du và kiệt
tác Truyện Kiều.
Tiếp cận Truyện Kiều nói riêng và các tác phẩm văn học trung đại nói
chung theo đặc trưng thể loại, đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật là một hướng đi
đúng đắn, có hiệu quả, phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát triển năng lực học sinh. Tuy nhiên, không có phương pháp tiếp cận
nào là tối ưu cho một tác phẩm văn học vốn mang tính đa nghĩa, nhất là đối với
những tác phẩm kinh điển . Vì thế, để nâng cao hiệu quả một giờ đọc văn cần
có sự vận dụng linh hoạt, phối hợp các phương pháp, các thao tác, kĩ năng của
cả thầy và trò.
3.2. Kiến nghị.


Đích đến của một giờ học văn nói riêng và bộ môn Ngữ văn nói chung
không đơn thuần là cung cấp kiến thức, mà còn hướng đến rèn luyện kĩ năng
đọc hiểu, kĩ năng cảm thụ văn học, kĩ năng giao tiếp, năng lực tư duy,…cho
học sinh. Hơn thế, một giờ học văn thực sự thành công, phát huy hết ý nghĩa,
vai trò của bộ môn nghệ thuật đặc thù còn biết khơi dậy những cảm xúc thẩm
17


mĩ, tình yêu và niềm say mê đối với môn văn, góp phần làm phong phú thêm
những tình cảm nhân văn đẹp đẽ trong tâm hồn người học. Để đi đến cái đích
ấy, cần có sự phối hợp đồng bộ từ việc đổi mới chương trình sách giáo khoa,
đổi mới kiểm tra đánh giá, thi cử, đổi mới phương pháp dạy của thầy, phương
pháp học của trò… và trước hết là sự nhận thức đúng đắn cùng một thái độ
thiện chí đối với môn văn, đối với các kiệt tác văn học như Truyện Kiều.
Xuất phát từ mục đích đổi mới phương pháp, từng bước nâng cao hiệu
quả giảng dạy môn Ngữ văn, chúng tôi nghiên cứu đề tài này từ những đúc kết
kinh nghiệm của bản thân qua thực tiễn giảng dạy. Rất mong nhận được những
ý kiến đóng góp của quý thầy cô, các bạn đồng nghiệp để kinh nghiệm được
hoàn thiện.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 16 tháng 06 năm 2020.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản thân
viết, không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT

Nguyễn Thị Hảo


18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tài Cẩn, (2004), Tư liệu truyện Kiều, NXB Văn học.
2. Ngô Viết Dinh, (2007), Thời gian chưa đi hết một trang Kiều, NXB Thanh
niên.
3. Trịnh Bá Đĩnh, (chủ biên), (2001), Nguyễn Du tác gia và tác phẩm, NBX
Giáo dục.
4. Lương Ngọc Hà, Bài giảng văn học Việt Nam nửa cuối TK XVII- hết TK XIX,
Trường đại học sư phạm Đà Nẵng.
5. Vũ Hạnh, (1987), Đọc lại truyện Kiều, NXB Nghĩa Bình.
6. Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính, (2001), Nguyễn Du cuộc đời và tác
phẩm, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
7. Đặng Thanh Lê, (1979), Giảng văn truyện Kiều, NXB Giáo dục.
8. Hoài Phương, (tuyển chọn và biên soạn), (2005), Truyện Kiều những lời
bình, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
9. Phạm Đan Quế, (2003), Truyện Kiều và Kim Vân Kiều Truyện, NXB Thanh
niên.
10. Vũ Hữu Tiềm, (1999), Nguyễn Du-truyện Kiều, NXB Thanh niên.
11. Nguyễn Lộc, (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối TK XVII-nửa đầu TK XIX,
NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp.
12. Huỳnh Văn Tới, (2000), Truyện Kiều- Nguyễn Du, NXB Đồng Nai.
13. Nguyễn Phong Nam, (2010), Giáo trình tác gia văn học trung đại, Trường
đại học sư phạm Đà Nẵng.
14. Trần Đình Sử, (2005), Thi pháp truyện Kiều, NXB Giáo dục
15. Lê Đình Kỵ, (1998), Phê bình nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục.


DANH MỤC

CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN
XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hảo
Chức vụ: Tổ phó chuyên môn
Đơn vị công tác: Trường THPT Hàm Rồng, TP. Thanh Hóa.

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá xếp
loại (Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học đánh giá
xếp loại

Rèn luyện năng lực cảm thụ
1

cho học sinh qua việc đọc


Sở GD&ĐT

diễn cảm và sử dụng lời

Tỉnh Thanh Hóa

B

2007 – 2008

bình trong giờ đọc văn.
Bồi dưỡng hứng thú, say mê
2 cho học sinh qua hoạt động
ngoại khóa văn học.

Sở GD&ĐT

C

2015 - 2016

Tỉnh Thanh Hóa

Vận dụng kĩ thuật Rubric
3

vào biên soạn đề, chấm và

Sở GD&ĐT


trả bài kiểm tra định kì môn

Tỉnh Thanh Hóa

ngữ văn THPT

C

2017 - 2018



×