Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức vật lý giải thích các hiện tượng thực tế trong cuộc sống khi dạy vật lý 10 chương trình cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
Môn Vật lý là môn khoa học nghiên cứu những sự vật, hiện tượng xảy ra
hàng ngày, có tính ứng dụng thực tiễn cao. Mục đích của môn học là giúp cho
học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những tri thức ,
hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học của bộ môn. Học vật lý là
để hiểu và giải thích được các vấn đề của tự nhiên trong cuộc sống thông qua
các kiến thức đã được học. Học sinh phải có một thái độ học tập nghiêm túc, có
tư duy sáng tạo về những vấn đề mới nảy sinh để tìm ra hướng giải quyết phù
hợp.
Để đạt được mục đích của học vật lý trong trường phổ thông thì người giáo viên
đóng vai trò hết sức quan trọng là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do
vậy ngoài những hiểu biết về kiến thức vật lý thì người giáo viên dạy vật lý còn
phải có phương pháp truyền đạt gây hứng thú cho học sinh, người giáo viên phải
biết vừa tổ chức vừa lãnh đạo điều khiển mọi hoạt động nhận thức của học sinh.
Vậy phương pháp dạy học giữ vị trí quan trọng trong việc nắm kiến thức của
học sinh.
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhằm đảm bảo tốt việc thực hiện mục tiêu đào tạo môn Vật lý ở trường trung
học phổ thông, cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ thông cơ bản, có hệ
thống và tương đối toàn diện.
Vật lý học là cơ sở của nhiều ngành kỹ thuật quan trọng, sự phát triển của
khoa học vật lý gắn bó chặt chẽ và có tác động qua lại, trực tiếp với sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật. Vì vậy, những hiểu biết và nhận thức vật lý có giá trị lớn
trong đời sống và trong sản xuất, đặc biệt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Luật Giáo dục, điều 24.2:“ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với từng đặc
điểm của từng lớp học, môn học,bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh”.
Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đối với môn Vật lý còn có một sắc thái


riêng, phải huớng tới việc tạo điều kiện cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức
thông qua hoạt động thực nghiệm và cao hơn nữa, cho học sinh tập dượt giải
quyết một số vấn đề vật lý trong thực tế. Do vậy giáo viên cần có phương pháp
dạy học phù hợp mới phát huy tốt trí tưởng tượng óc sáng tạo nhanh nhạy đối
với những tình huống có vấn đề trong kiến thức cũng như trong thực tế của học
sinh.
1.2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Tìm ra phương pháp giảng dạy mới khắc phục lối truyền thụ một chiều, cách
dạy mới khi liên hệ giữa lý thuyết và thực tiễn để học sinh vận dụng vào trong
cuộc sống giúp các em yêu thích môn học, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo
của người học. Bồi dưỡng phương pháp tự học, tự nghiên cứu cho học sinh. góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục.
1


1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
- Qúa trình giảng dạy bộ môn vật lý tại các lớp 10C2,10C4,10C5 của trường
THPT Lam Kinh.
- Các phương pháp dạy học mới, phương pháp tổ chức thảo luận nhóm, phương
pháp dạy học tích cực, phương pháp dạy học tích hợp.
- Các phần mềm tin học ứng dụng trong soạn giáo án.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Tham khảo các tài liệu, sách giáo khoa, sách giáo viên...
- Phương pháp quan sát sư phạm.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế tại các lớp giảng dạy.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh.
-Điều tra, khảo sát kết quả học tập của học sinh trước và sau khi vận dụng
phương pháp dạy học mới tại lớp 10C2,10C4. Điều tra kết quả học tập của học
sinh giữa lớp được vận dụng và lớp không được vận dụng phương pháp mới, từ
đó thấy dược mức độ và hiệu quả đạt được khi thực hiện đề tài.

2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục đào tạo của đất nước hiện nay.
Phải đào tạo ra thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ đất nước, có trình độ
văn hóa cơ bản, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Những con
người có trí tuệ và năng lực sáng tạo, có phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt. Để đạt
được mục tiêu đó thì trong giảng dạy ở nhà trường phổ thông điều quan trọng
nhất là phát triển trí tuệ và năng lực sáng tạo của học sinh trong học tập. Hoạt
dộng giáo dục phải lấy học sinh làm trung tâm, làm chủ thể của việc nhận thức
với sự hướng dẫn giúp đỡ giảng dạy tích cực có hiệu quả của giáo viên và việc
học tập tích cực,tự giác, sáng tạo của học sinh. Vì vậy việc dạy học không chỉ
quan tâm đến nhiệm vụ làm cho học sinh tiếp thu được một số kiến thức nào đó,
mà còn phải quan tâm tới nhiệm vụ phát triển trí tuệ cho học sinh, người giáo
viên phải có phương pháp dạy học phát triển được ở học sinh năng lực áp dụng
kiến thức trong tình huống mới, phát triển năng lực sáng tạo của học sinh.
Từ thực tế giảng dạy hiện nay, không ít giáo viên chỉ chăm lo cung cấp cho học
sinh những kiến thức cần thiết để các em làm bài điểm cao, chưa quan tâm tới
việc phát huy trí lực, óc sáng tạo, tự tìm tòi của học sinh, dẫn tới việc nhiều em
sau khi học xong các hiện tượng vật lý, các định luật vật lý các em không biết
vận dụng các hiện tượng, định luật đó vào giải thích các hiện tượng tự nhiện và
không chỉ ra được rộng rãi của nó trong khoa học kỹ thuật.
Do vậy việc đổi
mới phương pháp dạy học hiện nay là phải lấy học sinh làm trung tâm, có như
vậy mới phát huy được năng lực của học sinh, năng lực của học sinh phải được
hình thành từ thường phổ thông.
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ.
Trong quá trình giảng dạy tại trường THPT Lam Kinh tôi nhận thấy đa số học
sinh cho rằng môn vật lý là một môn học khó, học sinh ít hứng thú học tập , nhất
là đối với học sinh mới vào học lớp 10, khi thi vào lớp 10 các em thi ba môn
2



Toán, Ngữ Văn, Ngoại Ngữ , do vậy trong thời gian dài ở THCS các em chú tâm
vào học ba môn thi trên, một số em xem môn Vật lý là môn phụ chưa chú tâm
học, đa số các em quên kiến thức cơ bản môn Vậy Lý đã học ở lớp dưới, Vậy
làm thế nào để các em yêu thích môn Vật Lý, cảm thấy giờ học vật lý không quá
nặng nề, không gây căng thẳng, mệt mỏi cho học sinh, qua quá trình dạy tôi đã
mạnh dạn đưa ra một số đổi mới trong phương pháp dạy nhằm kích thích tư duy
sáng tạo của học sinh và gây hứng thú cho học sinh trong giờ học vật lý, từ đó
hình thành cho các em năng lực tư duy ,tự học, tự nghiên cứu. Trong những năm
gần đây qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy khi lồng ghép cách dạy này vào quá
trình dạy học bước đầu đã đạt được những kết quả tích cực nhất định. Một trong
những phương pháp dạy học mà tôi đã áp dụng đó là “ Hướng dẫn học sinh
vận dụng kiến thức vật lý giải thích các hiện tượng thực tế trong cuộc sống
khi dạy vật lý 10- chương trình cơ bản”
2.3. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
2.3.1. Đặt vấn đề vào bài mới bằng các câu hỏi, sau khi học sinh tiếp thu
kiến thức mới giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm vận dụng
kiến thức trả lời các câu hỏi.
Giáo viên đặt vấn để vào bài mới bằng các câu hỏi thông qua phiếu học tập
phát cho học sinh nhằm mục đích tạo ra nhu cầu hứng thú, kích thích sự ham
muốn hiểu biết của học sinh, tư duy chỉ bắt đầu khi trong đầu học sinh xuất hiện
một câu hỏi mà chưa có lời giải đáp ngay, khi học sinh gặp phải mâu thuẫn giữa
một bên là nhu cầu, nhiệm vụ nhận thức mới phải giải quyết và một bên là trình
độ kiến thức hiện có không đủ để giải quyết nhiệm vụ đó, cần xây dựng kiến
thức mới, tìm giải pháp mới, lúc đó học sinh ở trạng thái hơi căng thẳng, vừa
hưng phấn khao khát vượt qua khó khăn, giải quyết được mâu thuẫn, đạt được
trình độ cao hơn trên con đường nhận thức.
Sau đây là một số phiếu học tập mà tôi đã thực hiện khi dạy các bài lý thuyết
mới. Học xong kiến thức giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận theo nhóm (6

học sinh một nhóm) vận dụng giải thích các câu hỏi trên, giáo viên có thể chiếu
các hình ảnh video minh họa để học sinh quan sát trực quạn vận dụng kiến thức
giải thích dễ hơn.
Phiếu học tập bài 10: Ba định luật Niu-Tơn
Câu 1: Khi bị trượt chân hay bị vấp người ta ngã như thế nào? [3]
Câu 2: Tại sao lúc rơi xuống, các vận động viên thể thao nhảy cao và nhảy xa
phải co hai chân lại? [3]
Câu 3: Tại sao chạy lấy đà trước ta lại nhảy được xa hơn là đứng tại chổ nhảy
ngay? [3]
Hướng dẫn học sinh giải thích.
Câu 1: Khi một người bị vấp thì hai chân ngừng bước đột ngột, theo quán tính
thân người vẫn tiếp tục chuyển động,vì thế người sẽ bị ngã đập mặt xuống, còn
khi bị trượt chân thì sẽ bị ngã ngửa.
Câu 2: Nhờ co hai chân ở giai đoạn cuối bước nhảy, vận động viên tạo thêm
được đường để hãm nà nhờ thế giảm bớt được lực va xuống đất.
3


Câu 3: Khi ta chạy lấy đà thì chuyển động theo quán tính được cộng thêm vào
chuyển động xuất hiện do việc đẩy người rời khỏi măt đất, do vậy nhảy được xa
hơn.
Phiếu học tập bài 13: Lực ma sát
Câu 1: Tại sao khó cầm được con cá còn sống trên tay? [3]
Câu 2: Vì sao các đôi giày, đôi dép dưới mặt đế lại có nhiều các rãnh nhỏ?
Câu 3: Vì sao khi ta đi trên nền nhà lát gạch hoa có nước thì rất dễ ngã?
Câu 4: Vì sao các lốp xe ô tô, xe máy, xe đạp.. lại được khía các rãnh và mặt lốp
ô tô vận tải lại được khía sâu hơn mặt lốp xe đạp? [1]
Câu 5: Tại sao khi ta sơn nhà thì sơn bám được lên tường nhà, hoặc khi ta viết
bảng thì phấn bám vào bảng, muốn phấn bám vào bảng nhiều hơn để nhìn rõ thì
ta phải làm gì?

Hướng dẫn học sinh giải thích.
Câu 1: Do ma sát giữa cá và tay nhỏ, do đó cá dễ tuột khỏi tay.
Câu 2: Các đôi giày (đôi dép) dưới mặt đế lại có khía nhiều các rãnh nhỏ để
tăng ma sát giữa giày (dép) với mặt đất khi ta bước đi đễ ta đỡ bị trượt ngã.
Câu 3: Khi ta đi trên nền nhà lát gạch hoa có nước thì rất dễ ngã do ma sát giữa
bàn chân và nền nhà giảm.
Câu 4: Các lốp xe ô tô, xe máy, xe đạp.. lại được khía các rãnh để bánh xe bám
được trên mặt đường, xe ô tô vận tải thường chở hàng nặng nên cần phải có lực
ma sát lớn hơn xe đạp.

Hình 1: Lốp xe máy

Hình 2: Lốp xe ô tô

Câu 5: Khi ta sơn nhà thì sơn bám được lên tường nhà là do giữa Rulo với mặt
tường có lực ma sát lăn cho nên khi ta sơn thì sơn mới bám được vào tường.
Khi ta viết bảng thì phấn bám vào bảng do có ma sát giữa viên phấn với mặt
bảng, muốn phấn bám vào bảng nhiều hơn để nhìn rõ thì ta phải tăng ma sát
bằng cách tăng độ nhám của mặt bảng.
Phiếu học tập bài 20: Các dạng cân bằng. Cân bằng của một vật có mặt
chân đế.

4


Câu 1: Vì sao khi võ sĩ thi đấu người ta lại đứng ở tư thế khuỵu gối xuống một
chút và hai chân dạng ra so với mức bình thường?
Câu 2: Tại sao khi có gió bão thì cây có lá lại dễ bị bật gốc hoặc gãy, đổ hơn cây
đã rụng lá?
Câu 3: Một người ở tư thế nào thì vững vàng hơn: Ngồi hay đứng? [3]

Câu 4: Nghệ sĩ xiếc lúc đang đi trên dây có cầm trong tay một cái gậy nặng
nhằm mục đích gì? [3]
Câu 5:Tại sao vận động viên lúc nâng tạ bao giờ cũng bước lên phía trước một
bước?
Hướng dẫn học sinh giải thích.
Câu 1: Võ sĩ thi đấu người ta lại đứng ở tư thể khuỵu gối xuống một chút và hai
chân dạng ra là để trọng tâm người ở mức thấp hơn và tăng diện tích mặt chân
đế, nhờ thế đứng vững hơn.
Câu 2: Khi có gió bão thì cây có lá lại dễ bị bật gốc hoặc gãy, đổ hơn cây đã
rụng lá, vì cây có lá trọng tâm của cây cao hơn nên kém vững vàng hơn khi có
gió bão dễ đổ hơn.
Câu 3: Một người ở tư thế ngồi thì vững vàng hơn đứng vì trọng tâm thấp hơn.
Câu 4: Nghệ sĩ xiếc lúc đang đi trên dây có cầm trong tay một cái gậy nặng
nhằm mục đích điều chỉnh trọng tâm của cơ thể, phải luôn đi qua dây, người
nghệ sĩ xiếc điều chỉnh độ nghiêng của cái gậy về phía này hay phía kia tạo khả
năng nhanh chóng chuyển dịch trọng tâm mà nhờ đó giữ được cân bằng.

Hình 3: Nghệ sĩ xiếc lúc đang đi trên dây
Câu 5: Vận động viên lúc nâng tạ bao giờ cũng bước lên phía trước một bước
để tăng mặt chân đế, và nhờ đó vận động viên vững vàng hơn trên mặt phẳng
thẳng góc với cần ngang của tạ.
5


Hình 4: Vận động viên lúc nâng tạ
Phiếu học tập bài 28: Cấu tạo chất. Thuyết động học phân tử chất khí.
Câu 1: Tại sao khói tan mất trong không khí? [2]
Câu 2: Tại sao khi pha nước chanh, người ta thường làm cho đường tan trong
nước rồi mới bỏ đá lạnh vào, tại sao không nên bỏ đá lạnh vào trước rồi mới bỏ
đường? [1]

Câu 3:Việc tách hai tấm ván gỗ úp lên nhau dễ hơn nhiều so với việc tách hai
tấm kính chồng lên nhau. Tại sao vậy? [5]
Hướng dẫn học sinh giải thích.
Câu 1: Do các phân tử khói chuyển động hỗn độn về mọi phía và tách ra xa dần
nhau, thể tích của khối khói tăng lên và khối lượng riêng giảm đi.

Hình 5: Khói bốc lên tan dần trong không khí

6


Câu 2: Khi pha nước chanh, người ta thường làm cho đường tan trong nước rồi
mới bỏ đá lạnh vào,vì nhiệt độ càng cao, các phân tử chuyển động càng nhanh
nên đường dễ hòa tan hơn, nếu ta bỏ đá lạnh vào trước rồi mới bỏ đường do
nhiệt độ thấp qua trình hòa tan của đường diễn ra chậm hơn.
Cau 3: Hai tấm kính đặt úp vào nhau có lực liên kết giữa các phân tử mạnh hơn,
do chúng có bề mặt nhẵn, các phân tử của hai tấm kính ở rất gần nhau đến mức
chúng có thể hút nhau. Điều này không xảy ra với hai tấm ván.
Phiếu học tập bài 36: Sự nở vì nhiệt của vật rắn.
Câu 1: Tại sao các tấm tôn lợp mái nhà lại có dạng lượn sóng? [1]
Câu 2: Tại sao ở chổ tiếp nối hai đầu thanh ray xe lửa lại có một khoảng hở?
Vì sao giữa các nhịp cầu có khe hở?
Câu 3: Tại sao khi rót nước vào cốc thủy tinh dày thì cốc thủy tinh dày dễ vở
hơn cốc thủy tinh mỏng? [2]
Câu 4: Tại sao các con đường đổ bằng bê tông không đổ liền thành một dải mà
đổ thành các tấm tách biệt với nhau bằng các khe hở?
Câu 5: Tại sao khi lắp khâu dao, khâu liềm người ta phải nung nóng khâu lên
rồi mới lắp vào chuôi dao, chuôi liềm? [5]
Hướng dẫn học sinh giải thích.
Câu 1: Các tấm tôn lợp mái nhà lại có dạng lượn sóng vì khi trời nắng nóng, các

tấm tôn sẽ nở ra, nếu mái tôn thẳng thì các cây đinh sẽ bị bung ra, còn nếu mà
tôn hình gợn sóng thì sẽ đủ diện tích để giãn nở.
Câu 2: Chổ tiếp nối hai đầu thanh ray xe lửa có một khoảng hở để khi trời nắng
nóng thanh ray nở ra, nếu không có khe hở, sự nở vì nhiệt của đường ray sẽ bị
ngăn cản gây ra lực lớn làm cong đường ray. Khi thi công các cây cầu cũng vậy
giữa các nhịp cầu có khe hở.

Hình 6: Khe hở đường ray

7


Hình 7: Khe hở các nhịp cầu
Câu 3: Khi rót nước vào cốc thủy tinh dày thì cốc thủy tinh dày, lớp thủy tinh
bên trong đã nóng lên và bắt đầu nở ra, trong khi đó lớp thủy tinh bên ngoài
chưa nóng lên và chưa nở ra, vậy nên lớp thủy tinh bên trong nở ra làm vỡ cốc,
với thủy tinh mỏng thì sự dẫn nhiệt dễ dàng hơn nên khó vỡ hơn.
Câu 4: Các con đường bê tông không đổ liền thành một dải mà đổ thành các
tấm tách biệt với nhau bằng các khe hở vì khi nóng lên bê tông nở ra, nếu không
để hở, bê tông ngăn cản sinh ra lực lớn làm nứt đường.

Hình 8: Đường bê tông

8


Câu 5: Khi lắp khâu dao, khâu liềm người ta phải nung nóng khâu lên rồi mới
lắp vào chuôi dao, chuôi liềm, sau đó dội nước lạnh vào. Khi nung nóng khâu,
chúng sẽ nở ra để có thể lắp vào chuôi dao(liềm) dễ dàng, sau đó dội nước lạnh,
chúng co lại bó chặt vào chuôi dao (liềm)

Phiếu học tập bài 37: Các hiện tượng bề mặt của chất lỏng.
Câu 1: Dân gian thường có câu;“ nước đổ đầu vịt” dùng cho những người
không nghe lời dạy bảo của cha mẹ, thầy cô, câu này liên quan đến kiến thức vật
lý nào? Em hãy giải thích? [3]
Câu 2: Trong nông nghiệp, tại sao người nông dân thường xuyên xới đất giữa
những hàng cây mới trồng, làm mất lớp đất cứng trên mặt đi? [3]
Câu 3: Tại sao khi trời vừa mưa xong, nước đọng lại trên các tàu lá sen, lá khoai
lại có dạng hình cầu dẹt? [2]
Hướng dẫn học sinh giải thích.
Câu 1: Câu “ nước đổ đầu vịt” liên quan đến kiến thức vật lý là hiện tượng
không dính ướt, nước không dính ướt đầu con vịt.
Câu 2: Đất chưa xới có nhiều lổ nhỏ giống như ống mao dẫn làm cho nước ở
dưới bị hút lên và bay hơi, vậy thì đất sẽ bị khô đi, người nông dân thường
xuyên xới đất giữa những hàng cây mới trồng, làm mất lớp đất cứng trên mặt là
mục đích làm mất các “ống mao dẫn”, giữ nước lại trong đất để nuôi cây.
Câu 3: Tại sao khi trời vừa mưa xong, nước đọng lại trên các tàu lá sen, lá khoai
lại có dạng hình cầu dẹt

Hình 9: Nước đọng lại trên các tàu lá sen
2.3.2 Giao các câu hỏi về nhà để học sinh tự vận dụng giải thích sau đó
kiểm tra vào đầu tiết học sau.
Vì thời lượng mỗi tiết học có hạn nên giáo viên ra các câu hỏi về nhà và yêu
cầu học sinh vận dụng kiến thức đã học giải thích, khi học xong bài học mà hoc

9


sinh thấy được kiến thức đó được ứng dụng trong thực tiễn thì sẽ chú ý hơn, sẽ
hứng thú, tò mò và chủ động tư duy để tìm hiểu, qua đó kiến thức sẽ nhớ lâu
hơn, và cũng nhờ thế giúp giáo viên thu được thông tin phản hồi từ học sinh về

mức độ hiểu bài của học sinh.
Sau đây là một số câu hỏi mà học sinh về nhà đã giải thích được khá tốt.
Câu hỏi về nhà bài 10: Ba định luật Niu-Tơn.
Câu 1: Có nhiều động vật khi ở dưới nước lên đều lắc mình rũ nước. Các động
vật đó đã áp dụng định luật vật lý nào, giải thích? [3]
Câu 2: Tại sao ô tô chở nặng đi trên các đoạn đường đá gồ ghề lại êm hơn ô tô
không chở hàng? [1]
Câu 3: Định luật III Niu-Tơn đã được vận dụng thế nào trong sự chuyển động
của con cá trong nước. [5]
Câu 4: Màng bơi ở chân vịt hay ngỗng có tác dụng gì?
Học sinh giải thích.
Câu 1: Có nhiều động vật khi ở dưới nước lên đều lắc mình rũ nước. Các động
vật đó đã áp dụng định luật quán tính, khi lắc mình thì các hạt nước chuyển động
theo quán tính nên bắn ra ngoài.

Hình 10: Động vật đều lắc mình rũ nước
Câu 2: Ô tô chở nặng đi trên các đoạn đường đá gồ ghề lại êm hơn ô tô không
chở hàng vì ô tô chở hàng có tổng khối lượng lớn hơn nên theo định luật II NiuTơn thì gia tốc thu được khi tương tác với đường ( chổ gồ ghề) bé hơn, sự thay
đổi vận tốc theo phương thẳng đứng của xe rất bé nên xe đi cảm giác êm hơn.
10


Câu 3: Các con cá bơi được nhờ đuôi vẫy đi, vẫy lại nên đẩy nước về đằng sau, theo
định luật III Niu-Tơn nước phản lại một lực, nhờ thế chúng chuyển động được.

Hình 11: Cá vẫy đuôi để bơi trong nước
Câu 4: Muốn chuyển dịch được nhanh về phía trước, cần phải đẩy lại phía sau
một lượng lớn nước, do đó các chân bơi hầu như bao giờ cũng rộng và phẳng.
Khi chân chuyển động về phía trước thì màng bơi bị uốn cong, nên chân chịu
một lực cản nhỏ. Khi chân chuyển động về phía sau thì con vật dang rộng bàn

chân để đẩy đủ nước và do đó tiến nhanh lên phía trước
Câu hỏi về nhà bài 12: Lực đàn hồi;
Câu 1: Một quả bóng nếu bơm căng quá khi đá sẽ rất khó khăn, thậm chí cầu
thủ có thể bị đau chân khi đá vào quả bóng này. Vì sao vậy? [2]
Câu 2: Cân đồng hồ lò xo hoạt động dựa trên nguyên tắc nào? Giải thích? [5]

Hình 12: Cân đồng hồ lò xo

11


Hình 13: Bên trong cân đồng hồ lò xo
Học sinh giải thích.
Câu 1: Khi bơm căng quá, bóng khó biến dạng nên giảm tính đàn hồi.
Câu 2: Cân hoạt động dựa trên nguyên lý đàn hồi của lò xo, tạo trạng thái cân
bằng khi lò xo chịu tác dụng nén (cân đĩa) hoặc kéo ( cân móc treo), bên trong
có cơ cấu bánh răng, thanh răng sẽ chuyển đổi chuyển động thẳng( do kéo hoặc
nén) của lò xo sang chuyển động xoay tròn, kết hợp với kim chỉ, mặt đồng hồ để
chỉ thị kết quả đo.
Câu hỏi về nhà bài 14: Lực hướng tâm.
Câu 1: Tại sao những đoạn đường cong người ta lại làm mặt đường nghiêng về
phía tâm cong? [2]

Hình 14: Các đoạn đường cong được làm nghiêng

12


Câu 2: Tại sao khi đi xe đạp và xe máy đến đoạn đường cong chúng ta phải
giảm tốc độ và nghiêng người? [1]


Hình 15: Xe máy và xe đạp nghiêng người khi đến đoạn đường cong
Câu 3:Tại sao khi làm các cây cầu thường người ta làm cầu vồng lên? [2]

Hình 16: Các cây cầu được thiết kế vồng lên
Học sinh giải thích.
Câu 1: Những đoạn đường cong người ta lại làm mặt đường nghiêng về phía
tâm cong vì khi xe đi đến đoạn cong, phản lực của mặt đường và trọng lực của
xe không cân bằng nữa, hợp của hai lực này nằm ngang hướng vào tâm của quỹ
đạo làm cho các phương tiện chuyển động được dễ dàng.
Câu 2: Khi đi xe đạp và xe máy đến đoạn đường cong chúng ta phải nghiêng
người tương tự câu 1 ở trên thì phản lực của mặt đường và trọng lực của xe
không cân bằng nữa, hợp của hai lực này nằm ngang hướng vào tâm của quỹ
đạo làm cho các phương tiện chuyển động được dễ dàng, tuy nhiên việc nghiêng
người và xe chỉ tạo ra được lực hướng tâm có giá trị nhất định, nên để đảm bảo
xe không bị văng đi theo phương tiếp tuyến với đường cong thì cần phải giảm
tốc độ xe.

13


Câu 3: Khi làm các cây cầu thường người ta làm cầu vồng lên là để giảm áp lực
của các phương tiện lên mặt cầu:
Ví dụ khi ôtô chuyển động đến vị trí cao nhất trên mặt cầu vồng lên :
P = N + Fq
v2
 N = P – Fq = mg – maht = mg - m
R
2
v

 N = m(g ) < P , nếu trường hợp cầu thẳng thì N = P.
R

Câu hỏi về nhà bài 20: Các dạng cân bằng. Cân bằng của một vật có mặt
chân đế.
Vì sao búp bê "lật đật" lại không đổ ngã ? [5]
Học sinh giải thích.
Búp bê " lật đật " sở dĩ không đổ ngã, một mặt vì kết cấu của nó có bộ phận
trên nhẹ, bộ phận dưới nặng nên trọng tâm của nó ở rất thấp. Mặt khác bộ phận
đế vừa chiếm diện tích rộng, vừa có hình thù tròn nhẵn. Khi nó bị nghiêng về
một bên, trọng tâm của nó và điểm nó tiếp xúc với mặt bàn không nằm trên cùng
một trục thẳng đứng thì tác dụng của trọng lực sẽ làm nó được kéo trở lại thế ổn
định thẳng đứng nhanh chóng. Nghĩa là khi đường tác dụng của trọng lực đi qua
điểm tiếp xúc của búp bê " lật đật " với mặt bàn, động năng và thế năng trong
quá trình nghiêng ngã, chao đảo của nó dần dần giảm tới 0.
2.3.3. Lồng ghép các câu hỏi vận dụng thực tế khi dạy một tiết lý thuyết
mới.
Để tăng sự hứng thú, tránh nhàm chán cho học sinh trong giờ học giáo viên đưa
ra các câu hỏi vận dụng thực tế xen kẽ trong giờ dạy.
Bài 10: Ba định luật Niu-Tơn.
Câu hỏi: Vì sao xe đạp dễ phanh hơn xe máy, ô tô và tàu hỏa? [2]
Hướng dẫn học sinh giải thích: Vì khối lượng tàu hỏa, ô tô, xe máy lớn hơn xe
đạp nên có mức quán tính lớn hơn, vận tốc lớn hơn nên khi muốn dừng lại cần
phải có thời gian dài, nên việc phanh cũng khó khăn hơn xe đạp, chính vì vậy
khi đi qua các chổ rẽ nhất là nơi giao nhau với tàu hỏa cần quan sát kỹ vì xe
máy, ô tô và đặc biệt tàu hỏa có quán tính lớn không thể dừng lại lập tức để
tránh được. Các xe phóng nhanh vượt ẩu, lạng lách trên đường rất nguy hiểm vì
chúng có đà rất mạnh, khi gặp chướng ngại vật xe cũng lết đi chứ không dừng
ngay được.
Bài 13: Lực ma sát.

Câu hỏi : Khi chế tạo dây cáp, người ta không dùng một sợi to mà dùng nhiều
sợi nhỏ bện với nhau. Vì sao cần như vậy? [2]

14


Hình 17: Dây cáp
Hướng dẫn học sinh giải thích:
Khi các dây xoắn lại với nhau, thì lực ma sát dọc theo mỗi dây là rất lớn, lực
đặt vào đầu dây để kéo các dây cáp đó phải lớn thì mới làm cho các dây thẳng ra
và mới làm cho chúng đứt được. Nếu số dây bện của cáp càng nhiều, dây càng
xoắn chặt, lực ma sát càng lớn thì dây càng bền.
Bài 18: Cân bằng của một vật có trục quay cố định. Momen lực
Câu hỏi 1 : Khi gập khuỷu tay ta có thể nâng được một vật nặng hơn so với
trường hợp duỗi thẳng tay theo phương ngang. Tại sao? [5]
Câu hỏi 2:tại sao người làm vườn khi vung cuốc, người thợ rèn khi vung búa,
người bổ củi khi vung rìu... đều thực hiện gập tay ở khớp khuỷu, còn khi giáng
cuốc, đập búa, giáng rìu... thì lại vươn tay ra (duỗi tay ở khớp khuỷu)? [5]
Câu hỏi 3: Tại sao khi mở cổng loại có bản lề thì ta hay kéo những điểm cách xa bản
lề ?Giải thích? [5]
Hướng dẫn học sinh giải thích:
Câu 1: Khi gập khuỷu tay, “cánh tay đòn” được thu ngắn lại nên có thể giữ được
với lực lớn hơn.
Câu 2: Trong tư thế gập tay ở khớp khuỷu, khoảng cách giữa khớp vai (tâm
quay) và trọng tâm của hệ thống tay và công cụ, tức bán kính quán tính giảm đi,
nhờ đó mà mô men quán tính của hệ thống giảm, làm cho cử động được phát
động dễ dàng. Ngược lại, vươn hai tay ra, làm cho hệ thống tay và công cụ càng
dài càng tốt, nhờ đó vận tốc dài của chuyển động quay tăng lên và động năng
sinh ra sẽ lớn, làm cho lao động có hiệu quả hơn.
Câu 3: Momen lực đối với một trục quay là đại lượng đặc trưng cho tác dụng

làm quay của lực và được đo bằng tích của lực với cánh tay đòn của nó.. càng xa
bản lề cánh tay đòn càng lớn nên tác dụng làm quay của bản lề khá đáng kể.
Bài 28: Cấu tạo chất. Thuyết động học phân tử chất khí.
Câu hỏi 1. Muối cà, dưa..là dựa vào hiện tượng vật lý nào? [3]
15


Câu hỏi 2. Tại sao từ xa ta ngửi thấy mùi thơm của hoa? [3]
Hướng dẫn học sinh giải thích:
Câu 1: Các phân tử muối chuyển động khuếch tán vào cà, rau.
Câu 2: Trong các bông hoa có chứa nhiều chất thơm, các phân tử chất thơm đã
khuếch tán vào không khí.
Bài 28: Sự chuyển thể của các chất
Câu hỏi 1.Tại sao quả dưa chuột bao giờ cũng có nhiệt độ lạnh hơn môi trường
xung quanh từ 1-2oC? [3]
Câu hỏi 2. Tại sao khi nóng bức da người có mồ hôi? [3]
Câu hỏi 3.Tại sao mặc quần áo có tráng một lớp cao su ta chịu nóng kém hơn?
[3]
Hướng dẫn học sinh giải thích:
Câu 1: Dưa chuột có chứa tới 98% là nước. Nước không ngừng bay hơi làm cho
dưa chuột luôn luôn mát lạnh.
Câu 2: Sự ra mồ hôi lúc trời nóng là khả năng của cơ thể chống lại nóng. Mồ
hôi do các tuyến phân bố khắp bề mặt cơ thể tiết ra bay hơi và làm mát cơ thể.
Câu 3: Quần áo có tráng lớp cao su gây trở ngại cho việc bay hơi trên bề mặt cơ
thể, do đó mà cơ thể càng bị nóng thêm và khi trời nóng thấy khó chịu hơn.
2.4. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
Từ thực tế giảng dạy trong năm học 2018-2019 khi áp dụng phương pháp giảng
dạy này ở các lớp 10C2, 10C4 thì kết quả học tập của các em tăng lên ( so sánh
đầu năm với cuối năm). So sánh giữa các lớp áp dụng 10C2,10C4 và lớp không
áp dụng 10C5 cũng có kết quả khác nhau rõ rệt.

Số liệu cụ thể so sánh theo các bảng sau:
Thống kê kết quả giảng day và so sánh giữa đầu học kỳ 1 và cuối năm học
2018-2019 tại hai lớp áp dụng phương pháp giảng dạy trên.

TT

Lớp

Sỹ
Số

Thời điểm và
so sánh
Đầu kỳ 1
(2018-2019)

1

10C2 42

Cuối năm
So sánh tăng,
giảm
Đầu Kỳ 1
(2018-2019)

2

10C4 42


Cuối năm
So sánh tăng,
giảm

Thống kê và so sánh
Giỏi

Khá

SL
2

%
4,76

SL
30

11

26,19 31

TB
%
SL
71,43 10

%
23,81


73,81 0

0

tăng tăng

tăng tâng

1

2,38

30

8

19.05 33

tăng tăng

giảm

Giảm

71,43 11

26,19

78,57 1


2,38

tăng tăng

giảm

Giảm

16


Thống kê kết quả giảng dạy và so sánh giữa đầu học kỳ 1 và cuối năm học
2018-2019 tại lớp không áp dụng phương pháp giảng dạy trên.

TT

1

Lớp

Sỹ
Số

10C5 42

Thống kê và so sánh

Thời điểm và
Giỏi
so sánh

SL
Đầu kỳ 1
2
(2018-2019)
Cuối năm
2
So sánh tăng, khôn
giảm
g

%
4,76
4,76
khôn
g

Khá
TB
SL %
SL
30
71,43 12

%
28,57

33
78,57 7
tăng tăng giảm


23,81
giảm

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận
Trong năm học vừa qua khi lồng ghép thêm phương pháp này vào giảng dạy
tôi nhận thấy kết quả đạt được là rất tốt, số học sinh yêu thích bộ môn tăng lên
rõ rệt, giờ học sôi nổi hơn, ý thức tự học của học sinh được nâng cao hơn. Qua
cách học trên giúp học sinh củng cố được kiến thức của bài học, dễ nhớ và nhớ
được lâu kiến thức hơn, đồng thời nắm chắc được kiến thức qua đó giúp học
sinh làm quen dần với việc nghiên cứu khoa học.
Nói chung đa số học sinh rất thích cách học này, cách học này giúp các em
hiểu sâu hơn kiến thức, các em biết tư duy, tự tìm tòi, sáng tạo. Có nhiều em
mặc dù có thể chưa tự vận dụng giải thích được các câu hỏi, nhưng qua sự vận
dụng giải thích của các bạn mà các em học hỏi được hiểu được. Có nhiều em
chép các câu trả lời ở một số sách tham khảo, hoặc mạng internet để nạp lại cho
cô, mặc dù vậy thì các em cũng đã có ý thức tham khảo tìm tòi, qua đó rèn luyện
tính tự học cho các em.
Phương pháp này tôi mới vận dụng vào chương vật lý 10 cơ bản nhưng ta cũng
có thể vận dụng vào các chương trình vật lý 11, vật lý 12.
Trên đây tôi đã đưa ra phương pháp mới và vận dụng vào giảng dạy trong năm
học vừa qua.có thể phương pháp của tôi đưa ra còn nhiều điểm hạn chế, chưa
phù hợp với một số nơi, một số đối tượng, nhưng với mong muốn góp phần nhỏ
vào công cuộc đổi mới phương pháp giảng dạy môn Vật Lý, tôi đã mạnh dạn
tiến hành thực nghiệm và trao đổi.
3.2. Kiến nghị
Nhà trường cần có biện pháp chỉ đạo cho tổ chuyên môn thực hiện sáng kiến
kinh nghiệm này trong đơn vị.
Tuy đã có sự cố gắng nhưng đề tài trên không tránh khỏi những khiếm khuyết
và hạn chế. Vì vậy tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của các bạn đồng

nghiệp để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
17


Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của nhà trường

Thọ Xuân ngày 10 /07/2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do mình viêt,
không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Anh

18


Tài liệu tham khảo
1. Những bài tập định tính về vật lý cấp ba tập 1 - Tác giả M. E. Tultrinxki.
Người dịch: Nguyễn Phúc Thuần- Phạm Hồng Tuất- NXB GD 1978.
2. Bài tâp định tính và câu hỏi thực tế Vật lí 10-- Tác giả Vũ Thanh Khiêt và
Nguyễn Thanh Hải. NXB GD 2002.
3. Vật lý trong thế giới sinh vật - Tác giả L.M. Vanikaso, B.A. Kimbaro, V.M.
Varikaso – NXB GD 1978.
4. Dạy và học tích cực. Một số phương pháp và kỹ thuật dạy học- Tác giả
Nguyễn Lăng Bình, Đỗ Hương Trà- NXB đại học sư phạm 2014.
5. Các tài liệu trên mạng internet.

19



MỤC LỤC
Mục
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.4
3
3.1
3.2

Nội dung
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài.
Mục đích của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Cơ sở lý luận
Thực trạng vấn đề
Giải quyết vấn đề
Đặt vấn đề vào bài mới bằng các câu hỏi, sau khi học sinh

tiếp thu kiến thức mới giáo viên tổ chức cho học sinh thảo
luận nhóm vận dụng kiến thức trả lời các câu hỏi.
Giao các câu hỏi về nhà để học sinh tự vận dụng giải thích
sau đó kiểm tra vào đầu tiết học sau.
Lồng ghép các câu hỏi vận dụng thực tế khi dạy một tiết lý
thuyết mới.
Hiệu quả sáng kiến đạt được
KẾT LUẬN
Kết luận
Kiến nghị

Trang
1
1
1
2
2
2
2
2
3
3
9
14
16
17
17
17

20




×