Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp rèn kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4b trường tiểu học quảng hùng, thành phố sầm sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.52 KB, 19 trang )

1

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong thời kì phát triển vượt bậc về công nghệ thông tin và khoa học kĩ thuật
như hiện nay, xã hội cần có những chủ nhân tương lai không chỉ có đạo đức tốt
và nhiệt tình mà còn phải giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ. Ngành Giáo dục là cái
nôi đào tạo thế hệ trẻ thành những con người có cả đức lẫn tài. Trước yêu cầu
thực tế đó, chất lượng dạy học trong mỗi nhà trường, nhất là bậc Tiểu học là vấn
đề quan tâm của toàn xã hội. Bậc Tiểu học là bậc đặt nền móng ban đầu trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Như vậy, Tiếng Việt là môn học, là công cụ góp phần
đắc lực vào việc thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện.
Không những thế, phân môn Tập làm văn còn là sự kết nối một cách tổng hợp
các kiến thức, kỹ năng Tiếng Việt mà các phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Chính
tả, Luyện từ và câu,… đã hình thành. Nhờ có phân môn Tập làm văn mà học
sinh tiểu học mới có khả năng hoàn thiện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Đồng thời
góp phần rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách học sinh .
Học Tập làm văn, nhất là văn miêu tả, các em sẽ có cảm giác rất thú vị.
Những bất ngờ về các bức tranh miêu tả đồ vật, con vật, cây cối, tả cảnh và tả
người rất gần gũi với các em; được các em miêu tả một cách chân thực nhưng
chứa đựng sự lung linh, huyền ảo như một bức tranh động để tâm hồn luôn luôn
được rộng mở. Quan sát cảm nhận thế giới xung quanh, đồ dùng phương tiện,
ngôn ngữ, nói viết để tái hiện là cả một quá trình tư duy. Mỗi bài văn miêu tả
phần nào có thể xem là sáng tác thể hiện trí thông minh, sự quan sát tinh tế, khả
năng cảm thụ cái đẹp và nhu cầu tạo ra cái đẹp nhưng lại rất gần gũi trong bản
thân mỗi học sinh.
Ở trường Tiểu học, văn miêu tả chiếm một vị trí quan trọng vì nó giúp các
em nhìn nhận thêm về thế giới xung quanh một cách thực tế nhưng có “hồn” và
phù hợp với lứa tuổi thơ ngây, hồn nhiên và đầy cảm xúc .
Trong thực tế dạy học nói chung của cấp Tiểu học cũng như của trường Tiểu
học nơi tôi công tác nói riêng, việc viết văn miêu tả của học sinh Tiểu học còn


nhiều hạn chế. Để khắc phục những hạn chế trong viết văn miêu tả, đồng thời
góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn trong nhà trường,
là giáo viên được phân công dạy lớp 4, tôi có nhiều trăn trở và luôn thử nghiệm,
tìm tòi những phương pháp nhằm nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học
sinh lớp 4. Qua nhiều lần thử nghiệm tôi thấy một số biện pháp mình đưa ra có
hiệu quả rõ rệt, vì vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: "Một số biện pháp rèn kĩ
năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4B Trường Tiểu học Quảng Hùng”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng dạy học viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4 ở trường
Tiểu học.
- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận
dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hiệu qu.
- Đề xuất một số biện pháp dạy viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4
- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh
các em.


2

1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4 Trường Tiểu học Quảng
Hùng
- Biện pháp rèn kĩ năng văn miêu tả cho học sinh lớp 4
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu viết sáng kiến, tôi đã sử dụng những phương
pháp đó là:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.

- Phương pháp thực nghiệm.
2. Nội dung nghiên cứu Sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của dạy văn miêu tả lớp 4
2.1.1 Mục tiêu, nội dung dạy văn miêu tả lớp 4
* Mục tiêu của dạy viết văn miêu tả lớp 4
a) Yêu cầu kiến thức:
- Thể loại văn miêu tả.
- Học sinh phải hiểu thế nào là miêu tả?
- Miêu tả đồ vật: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả đồ vật.
- Miêu tả cây cối: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả cây cối.
- Miêu tả con vật: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả con vật.
b) Yêu cầu kỹ năng: Chương trình TLV miêu tả (nhằm trang bị cho học sinh
những kĩ năng sản sinh ngôn bản), cụ thể:
- Kĩ năng định hướng hoạt động giao tiếp: Nhận diện đặc điểm văn bản; phân
tích đề bài, xác định yêu cầu.
- Kĩ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp: Xác định dàn ý của bài văn đã
cho; quan sát đối tượng tìm ý và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu tả
- Kĩ năng thực hiện hoá hoạt động giao tiếp: Đối chiếu văn bản nói, viết của
bản thân với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt; sửa lỗi về nội dung và hình
thức diễn đạt.
* Nội dung chương trình TLV miêu tả lớp 4 Chương trình TLV lớp 4 được thiết
kế tổng cộng 62 tiết/năm. Trong đó, văn miêu tả gồm có 30 tiết
2.1.2. Cơ sở của việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4
Văn miêu tả là một trong những thể loại văn rất quen thuộc và phổ biến
trong cuộc sống cũng như trong các tác phẩm văn học. Đây là loại văn có tác
dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển trí tưởng
tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của con người. Với đặc trưng
của mình, những bài văn miêu tả làm cho tâm hồn, trí tuệ người đọc thêm phong
phú, giúp ta cảm nhận được văn học và cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu sắc
hơn. Chính vì thế, văn miêu tả được đưa vào nhà trường từ rất lâu và ngay từ bậc

Tiểu học. Đề tài của văn miêu tả với các em là những gì gần gũi, thân quen với
thế giới trẻ thơ, các em có thể quan sát được một cách dễ dàng, cụ thể như: chiếc


3

cặp, cái bàn, những vườn cây ăn quả mình yêu thích, những con vật nuôi trong
nhà. Với học sinh lớp 4, chủ yếu là các em viết được một bài văn miêu tả ngắn.
2.2.Thực trạng dạy học văn miêu tả lớp 4B ở Trường tiểu học Quảng Hùng
- Qua thực tế giảng dạy lớp 4, tôi thấy chất lượng học tập của học sinh về
phân môn Tập làm văn chưa cao mà nhất là văn miêu tả. Chỉ được một số ít học
sinh biết viết văn miêu tả có bố cục rõ ràng, chân thực, giàu cảm xúc. Còn lại
phần lớn các bài văn miêu tả của các em có bố cục chưa cân đối, mang tính liệt
kê các chi tiết, bộ phận một cách đơn giản, rời rạc. Trình tự miêu tả chưa hợp lí,
chọn lọc chi tiết chưa tiêu biểu đặc sắc, thiếu hình ảnh, diễn đạt chưa mạch lạc.
Đặc biệt là học sinh chỉ nói - viết theo cách cảm, cách nghĩ của mình.
- Qua tiến hành khảo sát lớp 4B của Trường Tiểu học Quảng Hùng ở tuần
học 14, năm học 2019-2020. Đề bài: "Hãy tả một đồ vật mà em yêu thích ”
* Kết quả thu được là:
Lớp 4B

Số bài

28

28

Hoàn thành tốt
SL
TL(%)

1

3.6

Hoàn thành
SL
TL(%)
22

78,6

Chưa hoàn thành
SL
TL(%)
5

17,8

2.2.1.Hạn chế:
Như ta đã biết, sản phẩm của TLV là các ngôn bản ở dạng nói, dạng viết theo
các dạng lời nói, kiểu bài văn do chương trình quy định. Sản phẩm của việc học
văn miêu tả thường ở dạng viết. Năng lực viết chứng tỏ trình độ văn hoá, văn
minh của một người, đối với học sinh, chứng tỏ tư duy logic, tư duy hình tượng
đã phát triển ở một mức độ nhất định.
Nhưng lên lớp 4, các em mới bắt đầu học cách lập dàn ý, dựng đoạn và viết
thành bài văn hoàn chỉnh. Hơn nữa, khả năng ngôn ngữ của các em còn hạn chế,
nhất là với học sinh ở trường vùng ven biển như địa bàn chúng tôi. Mỗi bài văn
miêu tả hay lại đòi hỏi khả năng tưởng tượng và sử dụng ngôn ngữ diễn đạt thật
sinh động. Thực tế cho thấy, đa số học sinh lớp 4 viết văn miêu tả chưa hay hoặc
sắp xếp ý còn lộn xộn, lủng củng, hình ảnh trong bài văn chưa gợi tả, ít liên

tưởng hoặc chỉ là sao chép một cách sống sượng bài văn mẫu. Vậy nguyên nhân
tại đâu? Đó là điều trăn trở của tôi cũng như các giáo viên khác trong khối.
Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy, tôi đã luôn tìm tòi, tham khảo tài liệu,
trao đổi với đồng nghiệp giàu kinh nghiệm, với giảng viên ở trường Đại học để
nắm bắt những phương pháp tối ưu nhất phục vụ quá trình giảng dạy.
Mỗi bài văn miêu tả là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, là sự đúc kết
việc tiếp thu và vận dụng những kiến thức đã học. Đọc một số bài văn của học
sinh, ta có thể thấy ngay được kết quả của việc dạy và học.
Qua kết quả điều tra chất lượng viết văn miêu tả của học sinh lớp 4B , tôi xin
nêu lên những phương pháp, biện pháp tiến hành trên cơ sở các phương pháp
đặc trưng của phân môn mà Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định nhằm nâng cao
chất lượng dạy học sinh lớp 4 viết văn miêu tả mà tôi áp dụng có hiệu quả.


4

2.2.2. Một số lỗi thường gặp khi viết văn miêu tả của học sinh lớp 4
a. Trong phần cơ sở thực tiễn tôi đã đề cập những vấn đề chung thường gặp ở
bài văn miêu tả của học sinh lớp 4: bài văn ngắn, kể lể, ít hình ảnh,…Ví dụ 1:
- Cái cặp của em nhiều màu. Mặt trước có siêu nhân rất đẹp. Nó có ba ngăn.
Một ngăn em để bút, một ngăn em để vở, một ngăn để sách.
- Cây bàng cao đến mái nhà. Thân nó to, xù xì. Cây bàng có nhiều cành, tán
rộng. Lá màu xanh. Quả ăn có vị chát.
Đoạn văn như vậy được coi là tạm được vì đúng ý. Câu văn rõ nghĩa. Nhưng
miêu tả như vậy chỉ cần vài câu là tả xong một đồ vật, một cây. Và nó cũng rất
chung chung, không làm nổi bật được nét riêng của đồ vật đó, cây đó.
b. Đọc bài văn miêu tả của các em, ta còn thấy sự khô khan, nghèo cảm xúc, sự
liệt kê lan man, dài dòng, lủng củng, lộn xộn, không lột tả được đối tượng miêu
tả, đôi khi còn bịa đặt.
- Nhiều em muốn bắt chước cho bài văn hay hơn đã sử dụng biện pháp so

sánh, nhân hoá một cách tuỳ tiện. VD: Quả bàng to như con lợn con.
- Hình thức câu lặp lại nhiều lần: Mắt của nó màu đen. Râu của nó dài. Lông
thì đen…
- Chưa liên kết chặt chẽ giữa các câu trong đoạn, trong dài.
- Chưa biết sử dụng dấu câu nhằm nâng cao hiệu quả diễn đạt. VD: Cún con
mới dễ thương làm sao. (!)………
c. Bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 hầu hết mắc những lỗi: Lỗi chính tả, lỗi
dấu câu, lỗi diễn đạt, lỗi chủ đề. Cụ thể như sau:
- Lỗi chính tả: Học sinh chủ yếu vẫn thường sai phụ âm đầu l/n (chủ yếu), s/x,
d/r/gi.
Ở đây, tôi sẽ không đề cập sâu vấn đề này.
- Lỗi dấu câu:
+ Không dùng dấu câu: Xảy ra nhiều với học sinh Chưa đạt chuẩn kiến thức
kĩ năng. Các em không sử dụng hoặc ít sử dụng dấu chấm, dấu phẩy trong một
câu hoặc trong một bài văn.
+ Sử dụng dấu câu sai. Ví dụ: Cây bàng cao thân cây. Xù xì.
- Lỗi diễn đạt:
+ Lỗi dùng từ không phù hợp. VD: Con mèo có bộ lông trắng tinh.
+ Câu không đủ thành phần. VD: Có nhiều cành, nhiều lá rậm rạp
+ Câu thừa thành phần( lặp lại thành phần một cách không cần thiết). VD:
Em rất yêu quý con mèo nhà em.
+ Câu có nội dung trùng lặp với câu khác trong bài văn.VD: Con gà trống
dậy rất sớm. Nó dậy sớm để báo thức mọi người.
+ Câu không phân định được thành phần. VD: Em phải giữ gìn chiếc đồng hồ
để trên mặt tủ.
+ Câu sai nghĩa. VD: Con mèo nặng khoảng 2 tạ.
+ Câu không rõ nghĩa. VD: Con mèo lông trắng mắt nó em yêu chú lắm.
+ Câu không có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các vế
câu.
Ví dụ 2: Chiếc cặp của em màu đỏ giúp em học giỏi.



5

+ Các câu trong bài mâu thuẫn nhau: Cây bàng to, mập mạp. Thân cây khẳng
khiu.
- Lỗi lạc chủ đề. Ví dụ: Tả chiếc cặp: Ngăn ngoài của cặp em đựng bút. Chiếc
bút màu đỏ rất đẹp.
Như vậy, ta thấy bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 mắc rất nhiều lỗi. Tuỳ
theo mức độ, học sinh có khả năng hạn chế hơn một số lỗi cơ bản. Ở đây đặt ra
một vấn đề cấp thiết là dạy học sinh viết văn sao cho mạch lạc, giàu hình ảnh, tái
hiện được cụ thể, sinh động đối tượng miêu tả.
* Nguyên nhân
- Giáo viên chưa khơi gợi được sự ham học, yêu thích miêu tả đồ vật, con vật,
cây cối,...xung quanh, chưa tạo được động cơ học văn miêu tả ở các em.
- Các em chưa hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả, chưa phân biệt được
sự khác biệt giữa văn bản miêu tả với các kiểu bài văn khác.
- Khả năng quan sát và lựa chọn hình ảnh để quan sát và miêu tả chưa tinh tế.
- Vốn từ miêu tả còn nghèo nàn. Chưa có thói quen tích luỹ các từ ngữ gợi tả.
- Kĩ năng lựa chọn từ ngữ, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn, kĩ năng diễn đạt,…
còn hạn chế. Các em chưa biết cách sắp xếp ý khi viết bài, bố cục thiếu rõ ràng,
chưa khoa học.
- Không có thói quen sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá khi viết văn.
- Khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế; cảm xúc, tình cảm
không tự nhiên, có sự gượng ép.
- Trong tiết trả bài, học sinh chưa được sửa lỗi và tự sửa lỗi kĩ, đầy đủ; các em
cảm thấy nặng nề, thất vọng về bài viết của mình.
- Các em chưa thực sự cảm thấy yêu môn học.
2.3. Một số biện pháp rèn viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4
Xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân trên, đồng thời thấy rõ vai trò, nhiệm

vụ của một giáo viên đang đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn đưa ra 8 giải pháp
sau đây, hy vọng sẽ nâng cao được chất lượng phân môn Tập làm văn cho lớp
tôi:
2.3.1. Học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả
- Miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho
người nghe người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật,
sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những
phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện
được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết với đối tượng được
miêu tả
Tả đồ vật:
Đối tượng của văn miêu tả đồ vật ở lớp 4 là những vật học sinh thường thấy
trong đời sống hàng ngày gần gũi với các em, vì vậy cũng dễ trở thành gần gũi
với các em. Đó có thể là cái trống, cái bút, quyển vở, cặp sách, cái đồng hồ báo
thức…Chúng là những đồ vật vô tri, vô giác nhưng gần gũi và có ích đối với học
sinh.
Mỗi đồ vật đều có một hình dáng, màu sắc, kích thước, chất liệu cụ thể. Học
sinh miêu tả những đặc điểm này trong bài văn của mình. Với những đồ vật có


6

nhiều bộ phận, các em cần tập trung tả những bộ phận quan trọng nhất. Đó chính
là những nét tiêu biểu để phân biệt đồ vật này với đồ vật khác.
Đồ vật lại thường gắn liền với cuộc sống con người nên khi miêu tả phải nói tới
công dụng, lợi ích của đồ vật cũng như tình cảm của con người đối với nó. Có
như vậy, đồ vật mới hiện lên một cách sinh động và có hồn.
Tả cây cối:
Đối tượng của văn miêu tả cây cối là những cây trồng xung quanh học sinh. Đó
có thể là một cây hoa, cây ăn quả hay cây cho bóng mát,… những cây có ích và

gần gũi với các em. Mỗi loại cây có một hình dáng, đặc điểm, lợi ích nhất định.
Vì vậy, khi miêu tả chúng, học sinh phải làm nổi bật những đặc điểm này. Tả cây
ăn quả cần tập trung miêu tả hình dáng của cây, mùi vị của qủa; tả cây lấy hoa
cần tả hương sắc của hoa; tả cây cho bóng mát phải làm rõ dáng cây, tán lá,…
Cây cối luôn sống trong thiên nhiên. Khi miêu tả, cần gắn chúng với miêu tả sơ
lược khung cảnh xung quanh như mặt trời, đám mây, chim chóc, ao hồ và cả con
người. Ta cũng cần chú ý tới lợi ích của chúng và tình cảm yêu mến gắn bó của
người tả đối với cây.
Tả con vật:
Đối tượng của văn miêu tả loài vật là những con vật quen thuộc gần gũi với
học sinh. Đó là những con gà mái, gà trống, cún con, chú mèo,…Mỗi con vật
đều có đặcđiểm về hình dáng, đặc tính giống nòi riêng. Khi miêu tả, ta miêu tả
cái chung, và cả những nét tiêu biểu của loài vật như màu sắc, vóc dáng, tính
nết. Những con vật miêu tả là những con vật gần gũi thân thiết và có nhiều lợi
ích nên bài văn phải thể hiện được sự chăm sóc, tình cảm yêu mến của học sinh
đối với chúng.
Ở Tiểu học, phân môn TLV có nhiệm vụ rèn kĩ năng nói theo nghi thức lời nói,
nói, viết các ngôn bản thông thường, viết một số văn bản nghệ thuật như miêu
tả. Viết văn miêu tả, học sinh phải có kĩ năng đặc thù là quan sát, diễn đạt một
cách có hình ảnh. TLV cũng góp phần rèn luyện tư duy hình tượng, từ óc quan
sát đến trí tưởng tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã quan sát được. Khả
năng tư duy logic của học sinh cũng được phát triển trong quá trình phân tích đề,
lập dàn ý viết đoạn. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết cách vận dụng
các giác quan để quan sát, biết cách lựa chọn vị trí và thời gian quan sát, biết
cách liên tưởng và tưởng tượng khi nhận xét sự vật và phải biết diễn đạt điều
quan sát được một cách gợi tả, gợi cảm, tức là có hình ảnh và cảm xúc…
Dù miêu tả đối tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì văn miêu tả cũng
không bao giờ sao chép, chụp ảnh máy móc những sự vật hiện tượng mà là kết
quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả
thể hiện được cái mới, cái riêng biệt của đối tượng thông qua cảm nhận của mỗi

người.
Chẳng hạn, Trần Đăng Khoa nhìn trăng bằng con mắt tinh tế bằng tình yêu
của tâm hồn trẻ thơ, hồn nhiên, trong sáng:
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà



7

Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi

Trăng bay như quả bóng
Bạn nào đá lên trời…
Nhà văn Thép Mới lại lấy cảm hứng của anh chiến sĩ đang mơ về tương lai
của đất nước khi ngắm trăng trong đêm Trung thu độc lập đầu tiên: Trăng sáng
mùa thu vằng vặc chiếu khắp thành phố, làng mạc, núi rừng,…
Cùng là vầng trăng, hay một sự vật nhưng mỗi người cảm nhận theo cách
riêng của mình, mà những người khác không phát hiện được hoặc chưa phát
hiện được.
Với mỗi học sinh, mỗi bài tập làm văn là một sản phẩm của từng cá nhân các
em trước một đề tài. Sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong
cách suy nghĩ, cách tả, cách diễn đạt,…Giáo viên cần có thái độ tôn trọng sự độc
lập suy nghĩ sáng tạo nếu nó không biểu lộ những lệch lạc.
Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo của
người viết, nhưng không có nghĩa là cho phép người viết “bịa” một cách tuỳ ý.
Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật. Giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh
thái độ giả tạo, sáo rỗng…
2.3.2. Cách quan sát đối tượng miêu tả, cách lựa chọn hình ảnh, nội dung

miêu tả.
* Quan sát đối tượng miêu tả cần chú ý:
- Quan sát tổng thể đối tượng; chú ý cả trạng thái động và tĩnh; quan sát bằng
tất cả các giác quan thính giác, thị giác, xúc giác,…
- Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát thật
kĩ.
- Quan sát và so sánh điểm giống và khác nhau với các đối tượng khác có ở
xung quanh bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó.
- Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các sự vật
xung quanh.
- Ghi chép cẩn thận, đầy đủ khi quan sát.
* Lựa chọn hình ảnh miêu tả và nội dung miêu tả
- Căn cứ vào hình ảnh đã lựa chọn khi quan sát.
- Căn cứ vào nội dung đã ghi chép.
- Chọn lọc những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng, đẹp
và khácbiệt của đối tượng để miêu tả chi tiết.
- Lựa chọn hình ảnh, hoạt động khác của đối tượng để tả khái quát, bổ trợ tạo
nên hình ảnh tổng thể về đối tượng; có thể lồng ghép các hình ảnh, sự việc gắn
bó mật thiết với đối tượng.
* Sắp xếp ý, đoạn:
- Căn cứ vào nội dung đã lựa chọn để sắp xếp từng ý (theo một thứ tự nào đó:
từ ngoài vào trong, từ trước ra sau, từ xa đến gần, từ trên xuống dưới,…)
- Sắp xếp các ý theo đoạn với thứ tự đã lựa chọn cho phù hợp. Để viết được
bài văn,học sinh cần tập viết đoạn. Trong chương trình TLV, bài tập viết đoạn


8

chiếm số lượng nhiều. Đoạn văn được phân loại theo chức năng: đoạn mở bài,
đoạn thân bài, đoạn kết bài. Cách phân loại này chi phối cách xây dựng các kiểu

bài viết đoạn mở bài, viết đoạn thân bài và đoạn kết bài. Mỗi đoạn văn theo chức
năng này lại được phân loại nhỏ hơn: mở bài trực tiếp, mở bài gián tiếp, kết bài
mở rộng, kết bài tự nhiên (không mở rộng).
2.3.3. Tạo động cơ học văn miêu tả ở học sinh bằng nhiều kỹ năng khi học
tập làm văn
- Trước hết, hãy tạo tình huống khiến các em háo hức khám phá điều thú vị
trong đối tượng miêu tả. Ví dụ: Giáo viên cho học sinh quan sát bức tranh cây
hoa phượng đang ra hoa đỏ rực và hỏi: Quan sát tranh, em thấy cây hoa có đặc
điểm gì mà nhà văn Xuân Diệu đã ví “như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít
nhau.”?
- Học sinh sẽ phân tích tìm ra đặc điểm tương đồng của bộ phận nào đó của
cây hoa với muôn ngàn con bướm đậu khít nhau. Qua đây cũng rèn cho các em
óc quan sát tinh tế, sự liên tưởng và tư duy phân tích, kích thích các em suy luận.
- Dạy học sinh viết văn miêu tả phải gắn liền với việc hình thành những kĩ
năng sống khác. Như dạy các em biết giữ gìn đồ vật, tổ chức học sinh trồng,
chăm sóc và bảo vệ cây…
- Khi ra đề TLV, giáo viên nên chú ý đề bài yêu cầu viết về những gì gần gũi,
thân thiết với học sinh, tạo ra được động cơ nói năng, kích thích các em muốn
nói, viết về nội dung mà đề bài đã yêu cầu. Ví dụ:
Đề 1: Hãy tả một cây ở trường gắn với nhiều kỉ niệm của em.
Đề 2: Hãy tả một cây do chính tay em vun trồng.
Đề 3: Em thích loài hoa nào nhất? Hãy tả loài hoa đó.
- Khi học sinh đã có hứng thú học văn miêu tả, ta tiếp tục duy trì điều đó
trong suốt quá trình học tập và tích cực rèn các kĩ năng khác theo yêu cầu khi
viết văn.
Ngoài ra, bên cạnh yêu cầu duy trì chủ đề, để đạt mục đích giao tiếp, bài
văn phải có sự phát triển, chủ đề phải được triển khai. Giáo viên cần chỉ ra các
hướng cho học sinh viết bài: viết theo trình tự thời gian, không gian hay từ toàn
thể đến bộ phận…
2.3.4. Tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong

làm văn miêu tả:
Muốn lựa chọn từ ngữ để đặt câu, viết thành những câu văn có hình ảnh,
học sinh phải có vốn từ phong phú. Do vậy, giáo viên cần giúp học sinh tích luỹ
vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả:
* Tích luỹ vốn từ:
- Vốn từ được tích luỹ từ nhiều nguồn: giao tiếp hàng ngày; đọc sách, báo;
xem, nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; cô giáo cung cấp;..
- Ghi chép khi được nhận các từ ngữ dùng để miêu tả theo các chủ đề, cụ thể
như:
+ Các từ thường dùng trong miêu tả cây cối: xanh mướt, mơn mởn; khẳng
khiu; xum xuê; rực rỡ; đo đỏ;…
+ Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật: tròn xoe, nhỏ nhắn,…


9

+ Các từ thường dùng trong miêu tả con vật: tinh nhanh, rón rén, oai vệ,…
- Các từ miêu tả đó thường là những từ láy, gợi lên hình ảnh, âm thanh,… để
miêu tả cho sinh động.
* Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng:
Tưởng tượng trong miêu tả rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh
hoàn chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng như một sự hình dung về đối
tượng mà ta nhắm mắt lại thì đối tượng sẽ hiện ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần gũi
hơn. Tưởng tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được những
điểm tương đồng với đối tượng khác, thấy được mối quan hệ của đối tượng với
sự vật hiện tượng xung quanh, với những kỉ niệm hay kí ức mang dấu ấn sâu sắc
trong lòng người viết. Từ tưởng tượng, học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng
miêu tả bằng tình cảm, tình yêu của chính mình, thấy được tầm quan trọng của
đối tượng được tả đối với chính mình và cả với những người xung quanh. Miêu
tả gắn với tưởng tượng là một cách bộc lộ cảm xúc, tình cảm và khả năng cảm

thụ cái đẹp của người viết văn miêu tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng miêu tả
hoàn thiện hơn, sống động và gần gũi hơn. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh
tưởng tượng theo cách:
- Không trực tiếp quan sát, tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng.
- Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng,
những ảnhhưởng, tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh.
- So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng.
- Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng.
- Nhân hoá hay tự nhiên hoá một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng.
- Dự đoán trước khả năng và những điều tốt đẹp mà đối tượng có thể vươn
tới.
- Liên tưởng với những điều mình đã biết; đã nghe, đọc, cảm nhận được về
đối tượng từ trước tới nay.
- Ghi chép lại những gì mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào
bài viếtcủa mình.
2.3.5. Xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và xây dựng bố cục bài
văn.
Bài tập luyện viết văn miêu tả là những bài tập viết thành đoạn, bài.
Khi học sinh thực hiện viết bài văn miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm cách
diễn đạt (dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá,…). Vì
vậy, yêu cầu đặt ra là lời văn cần rõ ý, miêu tả sinh động, bộc lộ được cảm xúc,
bố cục bài văn chặt chẽ, hợp lí trong từng đoạn, trong toàn bài để tạo ra một
“chỉnh thể”. Các bài tập được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngôn bản
và chứa đựng trong nó nhiều bài tập hình thành những kĩ năng bộ phận (xác định
yêu cầu nói, viết và tìm ý, sắp xếp ý thành bài đến viết đoạn văn, liên kết đoạn
văn thành bài,…). Kĩ năng viết của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài
tập viết đoạn văn trước khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Do đó, trong quá trình
thực hiện các bài tập rèn luyện kĩ năng viết, giáo viên cần giúp học sinh thực
hiện tốt những yêu cầu trong các nhóm bài tập sau:



10

- Nhóm bài tập tiền sản sinh ngôn bản: gồm các bài tập phân tích đề bài, xác
định nội dung viết, tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu câu viết (miêu tả).
Việc phân tích tìm hiểu đề giúp học sinh xác định được yêu cầu, nội dung, giới
hạn của đề bài. Với mỗi đề bài cụ thể, khi phân tích tìm hiểu đề, các em phải trả
lời được câu hỏi: Viết để làm gì? Viết về cái gì? Viết cho ai? Thái độ cần được
bộc lộ trong bài viết như thế nào? Tình cảm của người viết phải thể hiện được
qua cách miêu tả.
- Nhóm bài tập sản sinh ngôn bản gồm bài tập viết đoạn và bài tập viết bài
văn:
+ Bài tập viết đoạn văn: rèn cho học sinh kĩ năng tạo lập được đoạn văn đảm
bảo sự liên kết chặt chẽ về ý. Các đoạn văn được luyện viết là đoạn mở bài (trực
tiếp, gián tiếp), đoạn thân bài (mở rộng, không mở rộng). Các đoạn phải có sự
liền mạch về ý (không rời rạc, lộn xộn), các ý trong đoạn được diễn tả theo một
trình tự nhất định nhằm minh hoạ, cụ thể hoá ý chính (có mở đầu, triển khai và
kết thúc).
* Hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn:
- Đoạn văn mở bài: Học sinh được học hai cách mở bài: mở bài trực tiếp và
mở bàigián tiếp. Giáo viên nên để học sinh lựa chọn cách mở bài mà mình cho
là hợp lí nhất và phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất
phát từ một vấn đề khác rồi mới dẫn vào vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu
bằng một sự kiện, hoàn cảnh xuất hiện vật định miêu tả; hoặc bắt đầu bằng
những câu thơ, ca dao…có liên quan đến yêu cầu của đề bài.
- Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được
viết theo từng phần, từng ý đã được sắp xếp khi quan sát, chuẩn bị viết bài.
Trong đó, thể hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện
pháp nghệ thuật mà người viết vận dụng để miêu tả.
- Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong một bài văn nhưng

lại rấtquan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người
viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc
của mình làm phần kết bài khô cứng, gò bó, thiếu chân thực. Các em thường làm
kết bài không mở rộng, điều đó khiến bài văn chưa có sự hấp dẫn. Do đó, giáo
viên cần hướng dẫn, gợi ý để học sinh biết cách và viết được phần kết bài mở
rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên. Giáo viên có thể dùng câu hỏi
gợi mở để khêu gợi cảm xúc của học sinh trong quá khứ, hiện tại, tương lai;
hoặc trong hoàn cảnh nào đó đối với đốitượng được tả. Ví dụ: Tả cái trống
trường: Ngày mới vào lớp 1, khi nghe tiếng trống trường, em có cảm giác gì?
Bây giờ học lớp 4 rồi, ngày nào cũng nghe tiếng trống, em càng thấy như thế
nào?...
+ Bài tập viết bài văn: thường được thực hiện trong cả một tiết học. Chúng
luyện cho học sinh triển khai nhiệm vụ giao tiếp thành một bài. Bài văn phải có
bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại, các đoạn
văn trong bài phải liên kết với nhau thành một bài văn hoàn chỉnh, được bố cục
chặt chẽ theo ba phần: Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm,
quan hệ của người miêu tả với đối tượng miêu tả.


11

Thân bài: Dùng lời văn để tả, tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả
ở những góc nhìn nhất định. Có thể sử dụng các biện pháp nghệ thuật để lột tả
hình ảnh một cách sinh động.
Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của người
miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả. Nhóm bài tập
viết đoạn, bài là những bài tập khó nhất, đòi hỏi sự sáng tạo nhất, yêu cầu học
sinh phải vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết, cảm xúc về cuộc sống, về
các đối tượng được tả và các kĩ năng ngôn ngữ đã được hình thành trước đó để
tạo lập được đoạn, bài. Đây là một quá trình chuyển từ ý đến lời. Giáo viên phải

luyện cho học sinh diễn đạt đúng những gì muốn tả. Ý có thể được diễn tả thành
những lời khác nhau. Học sinh phải biết lựa chọn cách diễn đạt có hiệu quả nhất.
Để rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh, giáo viên phải giúp học
sinh xác định được mục đích của bài viết, chủ đề của bài viết và duy trì chủ đề
này trong suốt bài viết để bài văn không lan man.
Thật khó khi phân định đúng, sai ở một bài văn. Mà ta đánh giá bài văn đó
có hay không, có đặc sắc không? Vì thế, bài văn phải bộc lộ tình cảm chân
thành, hồn nhiên của các em ở từng câu, từng đoạn của bài, và cô đọng lại ở
phần kết bài. Do vậy, giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách tưởng tượng,
bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách thường xuyên, liên tục; từ tiết đầu tiên
của mỗi loại bài đến những tiết xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và cả trong tiết
trả bài.
2.3.6. Luyện tập cách sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật
trong viết văn
Để bồi dưỡng kĩ năng diễn đạt, học sinh sẽ thực hành một số bài tập luyện
viết như: với các từ cho sẵn, viết thành câu, luyện dùng từ bằng cách sửa lỗi
dùng từ; từ ý đã cho viết thành câu gợi tả, gợi cảm, viết có sử dụng biện pháp tu
từ theo yêu cầu, làm các bài tập mở rộng thành phần câu… để cách diễn đạt
được sinh động, gợi tả, gợi cảm hơn. Giáo viên cần tiến hành theo mức độ tăng
dần, bước đầu chỉ yêu cầu học sinh đặt câu đúng, sau yêu cầu cao hơn là phải
đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh. Ví dụ: Một học sinh tả chiếc bàn học:
Mỗi lúc học bài mệt em thường gối má lên mặt bàn để cảm nhận hương
thơm dìu dịu của một người bạn thân đã cần mẫn, miệt mài cùng em giải những
bài toán khó. Miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn
hút người đọc, người nghe.
Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng biết sử dụng các biện pháp nghệ
thuật khi miêu tả và cũng không phải tự các em có sẵn tâm hồn văn chương như
vậy. Học sinh có thể phát hiện tốt chi tiết có sử dụng biện pháp nghệ thuật gì
nhưng khi viết văn lại khó vận dụng được. Giáo viên cần có biện pháp nào giúp
các em? Tôi đã giúp các em bằng cách như sau:

Ví dụ: Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cả xã hội thắm tươi; người ta quên đoá
hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán lớn xoè ra như muôn ngàn con
bướm thắm đậu khít nhau.
- Cho học sinh phát hiện biện pháp nghệ thuật trong câu trên.
- Nêu tác dụng của việc so sánh như vậy.


12

- Giải thích vì sao có thể so sánh hoa phượng với muôn ngàn con bướm thắm
(mà không phải một con).
- Tập vận dụng so sánh tương tự: so sánh hoa phượng với hình ảnh khác theo
cảm nhận của các em, hoặc so sánh loài hoa hay cây khác với hình ảnh nào đó.
Chú ý giúp học sinh nhận ra những cách so sánh thú vị, giàu sức gợi tả và những
so sánh không có giá trị.
- Yêu cầu các em ghi chép vào sổ tay những câu văn, thơ có sử dụng hiệu quả
biện pháp nghệ thuật đó.
2.3.7. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn:
Kĩ năng TLV trước hết được chia thành kĩ năng nói, kĩ năng viết. Ở lớp đầu
cấp, khẩu ngữ của các em phát triển hơn còn kĩ năng viết mới được hình thành
nên bị ảnh hưởng của khẩu ngữ, các em nói thế nào, viết thế ấy, mắc các lỗi
được tính vào lỗi vi phạm phong cách. Về sau, kĩ năng viết sẽ phát triển và sẽ
ảnh hưởng tích cực trở lại với khẩu ngữ. Lên lớp 4,5 kĩ năng viết ngày càng phát
triển. TLV có vai trò hàng đầu trong việc phát triển kĩ năng này. Đặc biệt, khi
học viết văn miêu tả, học sinh lớp 4 bước đầu được học diễn đạt lưu loát, giàu
hình ảnh.
Mặt khác, sự liên kết nội dung là liên kết bên trong khó nhận thấy, nhiều
người thường chú ý đến hình thức ngôn từ mà không coi trọng đến lôgic của các
ý trong bài. Trong khi chữa văn cho học sinh, nhiều giáo viên thường chú ý chữa
lỗi chính tả, chữa lời mà không chữa ý.

Người giáo viên cần hiểu rõ mục tiêu của tiết trả bài để thực hiện một cách
nghiêm túc, kĩ lưỡng, tránh làm “lấy lệ”, không thể qua loa, đại khái. Muốn làm
được nhưvậy, giáo viên phải tiến hành như thế nào?
* Chuẩn bị:
- Chấm bài thật kĩ, thấy rõ ưu, nhược điểm của từng bài viết; chữa lỗi tiêu
biểu cần khắc phục ngay cho các em.
- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại: Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi đặt
câu, lỗidiễn đạt,…;
Ghi lại các từ, câu, đoạn văn hay. Kĩ năng TLV trước hết được chia thành kĩ
năng nói, kĩ năng viết.
Ở lớp đầu cấp,khẩu ngữ của các em phát triển hơn còn kĩ năng viết mới
được hình thành nên bị ảnhhưởng của khẩu ngữ, các em nói thế nào, viết thế ấy,
mắc các lỗi được tính vào lỗi vi phạm phong cách. Về sau, kĩ năng viết sẽ phát
triển và sẽ ảnh hưởng tích cực trở lạivới khẩu ngữ. Lên lớp 4,5 kĩ năng viết ngày
càng phát triển. TLV có vai trò hàng đầu trong việc phát triển kĩ năng này. Đặc
biệt, khi học viết văn miêu tả, học sinh lớp 4bước đầu được học diễn đạt lưu
loát, giàu hình ảnh.
Mặt khác, sự liên kết nội dung là liên kết bên trong khó nhận thấy, nhiều
người thường chú ý đến hình thức ngôn từ mà không coi trọng đến lôgic của các
ý trong bài. Trong khi chữa văn cho học sinh, nhiều giáo viên thường chú ý chữa
lỗi chính tả, chữa lời mà không chữa ý. Người giáo viên cần hiểu rõ mục tiêu
của tiết trả bài để thực hiện một cách nghiêm túc, kĩ lưỡng, tránh làm “lấy lệ”,


13

không thể qua loa, đại khái. Muốn làm được như vậy, giáo viên phải tiến hành
như thế nào?
Chuẩn bị:
- Chấm bài thật kĩ, thấy rõ ưu, nhược điểm của từng bài viết; chữa lỗi tiêu

biểu cần khắc phục ngay cho các em.
- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại: Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi đặt
câu, lỗi diễn đạt,…; Ghi lại các từ, câu, đoạn văn hay.
- Thống kê và phân loại bài. Nhận xét chung về ưu, nhược điểm trong bài viết
của học sinh.
* Trong giờ trả bài:
Đây là tiết học thực hiện nhóm bài tập kiểm tra điều chỉnh. Giáo viên yêu
cầu học sinh đọc lại đoạn đã viết, tự kiểm tra đối chiếu với mục đích yêu cầu đặt
ra lúc đầu để tự đánh giá, sửa chữa bài viết của mình. Giáo viên cần hướng dẫn
học sinh xem xét cả nội dung và hình thức diễn đạt. Có thể phải cho học sinh
luyện viết lại đoạn, bài.
- Tiến hành đúng như quy trình đã hướng dẫn (Linh hoạt về thời gian thực
hiện cácbước, hình thức tổ chức sửa lỗi như thảo luận nhóm, tuỳ theo kết quả bài
viết của học sinh).
- Lưu ý: Học sinh phải thấy được lỗi trong bài văn của mình và của bạn; sửa
được lỗi đó và ghi nhớ nó; hiểu rõ và có nhu cầu học hỏi những từ, câu, đoạn
văn hay, giàuhình ảnh và sức gợi tả. Tôi muốn nhấn mạnh rằng: Trước khi cho
học sinh học hỏi những từ, câu, đoạn văn hay cần lưu ý cho các em đọc lên
(thành tiếng và đọc thầm) một cách diễn cảm thì tất cả các em mới cảm nhận
được sự thú vị của cái hay đó.
Tuy nhiên, ta cũng không nên đòi hỏi quá cao ở học sinh. Tuỳ vào đối tượng
học sinh mà đặt ra các em sửa lỗi hay học từ, câu, đoạn hay ở mức độ nào. Giáo
viên cần kiên trì, bền bỉ, không thể nóng vội, kịp thời ghi nhận những tiến bộ
của học sinh dù là nhỏ nhất. Do vậy, khi học sinh biết viết văn miêu tả và viết
được hay là khi các em đã bước đầu hiểu được đặc điểm của văn miêu tả, biết
cách quan sát đối tượng, tích luỹ được vốn từ miêu tả nhất định, biết xây dựng
đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài; cách diễn đạt và xây dựng bố cục bài văn;
biết cách tưởng tượng và sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật
trong viết văn; được sửa lỗi kĩ lưỡng sau mỗi bài viết. Từ đó, các em viết bài dễ
dàng hơn, thích thú hơn, có cảm xúc hơn, chất lượng bài viết được nâng cao.

2.3.8. Thực hiện dạy học theo quan điểm tích hợp và giáo dục bảo vệ môi
trường
- Dạy học tích hợp với các môn học khác làm giàu vốn sống, vốn
hiểu biết của các em. VD: Thông qua học về chủ đề “Thực vật và động vật” của
môn Khoa học, học sinh có thêm hiểu biết về đặc điểm một số loài thực vật,
động vật, hiểu được cách chăm sóc và ích lợi của chúng. Vì vậy, khi làm bài văn
miêu tả (cây cối, con vật), các em sẽ tả cặn kẽ, sinh động và thể hiện tình cảm
của mình một cách. Khen ngợi, động viên kịp thời
Để kích thích học sinh học tập nói chung, học văn miêu tả nói riêng hãy
dành cho các em những lời khen thích đáng. Các em sẽ phấn khởi, tự tin hơn và


14

phát huy được khả năng tiềm tàng của bản thân, từ đó loại bỏ được những lo âu,
tự ti cố hữu.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua việc tiến hành soạn giảng, (như tiến hành ở trên) kết hợp các biện pháp
đã đề xuất vào thực tế giảng dạy ở lớp 4B thì kết quả giảng dạy của tôi khả quan
hơn rất nhiều. Điều đáng mừng là các tiết học này học sinh hào hứng hơn, tích
cực hoạt động hơn, biết tự nghiên cứu, tích cực làm việc theo nhóm một cách
chủ động, tự giác. Học sinh biết chăm chú lắng nghe bài làm của bạn và đánh
giá một cách tương đối chính xác, mạnh dạn, tự tin trình bày trước lớp. Đối với
giáo viên, đã hạn chế việc giảng giải, thuyết trình, hạn chế câu hỏi vụn vặt. Đặc
biệt về chất lượng bài viết có rất nhiều tiến bộ tăng lên rõ rệt.
Tôi đã tiến hành kiểm tra lại vào cuối học kì II năm học 2019-2020 và kết
quả rất khả quan.
Lớp 4B

Số bài


28

28

Hoàn thành tốt
SL
TL (%)
7

25

Hoàn thành
SL
TL(%)
21

75

Chưa hoàn thành
SL
TL(%)
0

0

Như vậy, qua bảng thống kê kết quả khảo sát so với đầu năm, tôi nhận thấy
số học sinh hoàn thành tốt đã tăng thêm 21,4 %, số học sinh chưa hoàn thành
giảm 17,8 %. Đây mặc dù chỉ là kết quả so sánh bước đầu thông qua 2 bài khảo
sát nhưng đó lại chính là cơ sở để tôi thấy rằng mình đã vận dụng tốt các biện

pháp vào dạy viết văn miêu tả và vận dụng đạt hiệu quả cao
3. Kết luận
3.1. Kết luận
Phân môn Tập làm văn là phân môn giàu sức sáng tạo cá nhân. Có nhiều
cách viết văn miêu tả và có nhiều biện pháp để dạy học văn miêu tả. Dạy học
sinh viết văn miêu tả có một ý nghĩa to lớn vì nó có nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo
dục và phát triển.
Qua việc nghiên cứu và thực nghiệm tôi thấy việc nâng cao chất lượng viết
văn miêu tả cho học sinh Tiểu học là một việc làm không dễ. Song tôi cũng rút
ra cho mình bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu đó là: Người giáo viên Tiểu
học cần nắm được phương pháp đặc trưng của phân môn Tập làm văn, biết lựa
chọn phương pháp phù hợp, kết hợp hình thức dạy học hợp lí nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh sẽ giúp các em phát huy cao về trí tuệ, cảm
xúc, sự vững yêu cầu, nội dung từng tiết dạy; luôn trau dồi, nghiên cứu những
dạng, những bài văn hay. Từ đó tổ chức giờ dạy- học văn miêu tả mới có hiệu
quả. Khi học sinh nắm được cách viết văn miêu tả, thì hầu hết các em làm văn
có bố cục rõ ràng, đủ ý, diễn đạt phong phú, câu văn có hình ảnh, sinh động. Bài
văn viết đã có “hồn”, các hình ảnh miêu tả được các em sử dụng một cách phong
phú, đa dạng nhưng vẫn giữ được những nét đặc trưng cơ bản của đối tượng


15

miêu tả. Từ đó các em yêu thích môn Tiếng Việt và có nhiều em thích viết văn,
không như trước đây, khi đến giờ viết văn là các em ngại không muốn viết bài.
3.2. Kiến nghị:
- Với giáo viên:
Để thành công trong việc dạy học sinh viết văn miêu tả mỗi giáo viên phải
thực hiện tốt những yêu cầu sau:
+ Năm chắc mục tiêu môn học, bài học.

+ Luôn tìm tòi trau dồi kiến thức, trình độ hiểu biết cho bản thân.
+ Linh hoạt trong phương pháp dạy học.
+ Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh.
+ Luôn thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học.
+ Luôn kiểm tra đánh giá thường xuyên, kịp thời động viên khích lệ học
sinh, ghi nhận sự tiến bộ của học sinh.
- Với nhà trường:
+ Trang bị đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ cho dạy học đạt
hiệu quả cao như tài liệu tham khảo, các thiết bị nghe, nhìn,
- Với phòng giáo dục:
+ Nên tổ chức nhiều buổi hội thảo cụm, thành phố; lên lớp các tiết Tập làm
văn khó để chúng tôi có điều kiện giao lưu, học hỏi kinh nghiệm của các
đồng chí, đồng nghiệp.
Trên đây là một số biện pháp nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học
sinh lớp 4. Điều này mới chỉ là thực nghiệm của cá nhân tôi. Tôi thấy rằng cùng
là cơ sở bước đầu khẳng định rằng: Để dạy tốt tiết Tập làm văn miêu tả cho học
sinh đòi hỏi người giáo viên cần phải vận dụng các tri thức, kỹ năng, nghiệp vụ
sư phạm một cách hợp lí. Đồng thời đưa ra áp dụng các biện pháp là hoàn toàn
có cơ sở khoa học và phù hợp với thực tế giảng dạy hiện nay.
Với thời gian có hạn và bản thân kinh nghiệm chưa nhiều nên sáng kiến
kinh nghiệm rất khó tránh khỏi thiếu sót. Kính mong hội đồng khoa học các cấp,
ban giám hiệu nhà trường và các đồng nghiệp góp ý thêm để sáng kiến kinh
nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


16
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ


Quảng Hùng, ngày 15 tháng 5 năm 2020
Tôi cam đoan SKKN này là do mình
viết, không sao chép của người khác
Người viết

Nguyễn Dương Cát

Nguyễn Thị Hương

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Tiếng Việt Lớp 4 Tập 1,2
2. Sách giáo viên Tiếng Việt Lớp 4 Tập 1,2
3. Chuyên đề : Những đổi mới về nội dung, phương pháp dạy học Tập làm
văn lớp 4
4. Báo Giáo dục và thời đại


17


18

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ SẦM SƠN

TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG HÙNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN MIÊU TẢ

CHO HỌC SINH LỚP 4B TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG
HÙNG THÀNH PHỐ SẦM SƠN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác :Trường TH Quảng Hùng
SKKN Thuộc lĩnh vực môn: Tiếng Việt

SẦM SƠN, NĂM 2020


19

MỤC LỤC
Mục
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.1.1
2.1.2
2.2
2.2.1
2.2.2
2.3
2.3.1
2.3.2

2.3.3
2.3.4
2.3.5
2.3.6
2.3.7
2.3.8
2.4
3
3.1
3.2

Nội dung

Trang

Mở đầu
Lý do chọn đề
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu Sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lý luận của dạy văn miêu tả lớp 4
Tìm hiểu mục tiêu, nội dung dạy văn miêu tả lớp 4
Cơ sở của việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4
Thực trạng dạy học văn miêu tả lớp 4B ở Trường tiểu học
Quảng Hùng
Hạn chế
Một số lỗi thường gặp khi viết bài văn miêu tả của học sinh
lớp 4
Một số biện pháp rèn viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4

Học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả
Cách quan sát đối tượng miêu tả, cách lựa chọn hình ảnh, nội
dung miêu tả.
Tạo động cơ học văn miêu tả ở học sinh bằng nhiều kỹ năng
khi học tập làm văn
Tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em
trong làm văn miêu tả:
Xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và xây dựng bố
cục bài văn.
Luyện tập cách sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ
thuật trong viết văn
Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn
Thực hiện dạy học theo quan điểm tích hợp và giáo dục bảo
vệ môi trường
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận
Một số kết quả đạt được
Bài học kinh nghiệm và kiến nghị

1
1
1
2
2
2
2
2
2
3
3

3
5
5
7
8
8
9
11
12
13
13
14
14
14



×