Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Hướng dẫn hoạt động tự học môn ngữ văn ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.56 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

HƯỚNG DẪN HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC MÔN NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG THPT

Người thực hiện: Trần Thị Mai
Chức vụ:
Giáo viên
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2020
3


4


MỤC LỤC
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
2.1.1. Tự học và một số yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học
2.1.2. Mục đích và yêu cầu, nguyên tắc cơ bản của việc tự học văn


2.2. Thực trạng của vấn đề
2.3. Giải pháp và`các biện pháp để tổ chức thực hiện
2.3.1. Tự học thông qua việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh
2.3.2. Tự học trên lớp của học sinh (trong các giờ học chính khoá)
2.3.3. Tự học thông qua hoạt động ngoại khoá, câu lạc bộ văn học
2.3.4. Tự học thông qua việc luyện đề thi
2.3.5. Hướng dẫn học sinh tự học tiết Ôn tập văn học dân gian
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Hiệu quả từ quan sát thực tế
2.4.2. Hiệu quả qua sản phẩm
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

2
2
3
3
3
4
4
4
4
6
7
8
8
9
11
13

13
18
18
18
20
20
20

1


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong số các giải pháp của “Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010”
nhằm đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
Đảng ta xác định: “Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục chuyển từ
việc truyền đạt tri thức thụ động, thầy giảng trò ghi sang hướng dẫn người học
chủ động tư duy trong quá trình tiếp nhận tri thức: dạy cho ngưới học phương
pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách hệ thống và có tư duy phân tích
tổng hợp; phát triển được năng lực của mỗi cá nhân, tăng cường tính chủ động,
tự chủ của học sinh”.
Nghị quyết 29 NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI
về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc
phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học,
cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới
tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ
chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên
cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong

dạy và học.
Như vậy, mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ
thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương
pháp dạy học tích cực tự giác nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ
năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong
thực tiễn. Làm cho Học là quá trình kiến tạo; học sinh tìm tòi, khám phá, phát
hiện, khai thác và xử lí thông tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn
luyện cho học sinh có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ
tạo cho học sinh lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết
quả sẽ được nhân lên gấp bội. Tuy nhiên, để phát huy tối đa hiệu quả của
phương pháp tự học, đáp ứng yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học lại là
vấn đề trăn trở của nhiều nhà trường hiện nay, nhất là với các trường mới thành
lập khi cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chất lượng đầu vào của học sinh còn rất
thấp, độ ngũ giáo viên còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm giảng dạy thì lại
càng là vấn đề băn khoăn, bức xúc hơn bao giờ hết.Trong đó, môn ngữ văn lại là
bài toán nan giải với các nhà trường hơn cả. Bởi dưới tác động của nền kinh tế
thị trường, xu thế phát triển của xã hội, nhiều học sinh ngại học văn, nhiều phụ
2


huynh không muốn cho con em mình thi vào các ban khoa học xã hội, vì cho
rằng học ban này sẽ thi được ít vào các trường đại học, cao đẳng và cơ hội tìm
việc làm sau khi ra trường là rất khó.
Mặc dù cũng đứng trước những khó khăn, thách thức chung như các nhà
trường hiện nay, song vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích
cực tự học trong môn ngữ văn ở trường THPT Nga Sơn bước đầu đã vượt qua
khó khăn, đạt được một số kết quả đáng tự hào, chất lượng môn ngữ văn đã
được nâng lên vượt bậc so với các môn học khác trong nhà trường.Trở thành

một trong những bộ môn đạt kết quả cao trong các kì thi học sinh giỏi, thi tốt
nghiệp, thi vào các trường đại học, cao đẳng và tốt nghiệp.Tuy chất lượng giải
chưa cao nhưng so với một trường còn non trẻ thì kết quả đó là bằng chứng của
quá trình học hỏi, đúc rút kinh nghiệm, đổi mới phương pháp dạy học và sự nổ
lực cố gắng của thầy và trò.
Đặc biệt, các giờ học ôn tập với đặc thù khô khan, yêu cầu củng cố, hệ
thống hóa kiến thức và vận dụng kĩ năng lớn nên việc đổi mới phương pháp dạy
học, hướng dẫn học sinh tự học là vô cùng cần thiêt, có tính khả thi cao.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đề cập đến một số kinh nghiệm, phương
pháp Hướng dẫn hoạt động tự học môn Ngữ văn qua một số tiết ôn tập nhằm
trao đổi với đồng nghiệp, giúp ích trong quá trình giảng dạy, góp phần tháo gỡ
những khó khăn trong việc dạy học văn hiện nay, đặt biệt là để thực hiện có hiệu
quả việc đổi mới phương pháp dạy học theo phương pháp dạy học tích cực.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối với phạm vi một sáng kiến kinh nghiệm do yêu cầu riêng, bài viết này
không đề cập những vấn đề ở cấp lí luận, mà tôi chỉ trình bày một số kinh
nghiệm nhỏ về vấn đề Hướng dẫn học sinh tự học môn Ngữ văn ở trường THPT
Nga Sơn đáp ứng yêu cầu đối mới phương pháp dạy học hiện nay.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Là phương pháp cơ bản nhằm
tổng kết kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy để tìm ra những
biện pháp, cách thức tối ưu
- Phương pháp điều tra: Tìm hiểu thực tế từ công việc giảng dạy của
đồng nghiệp trong nhà trường, tổ bộ môn. Lấy ý kiến góp ý, tham khảo tài
liệu sách báo, các phương tiện thông tin…
- Phương pháp đối chiếu, so sánh: Thông qua các bài dạy, tiết dạy cụ thể
tìm ra những mặt ưu, nhược điểm.
3



- Phương pháp phân tích - tổng hợp: phân tích các cứ liệu đã thu thập để
làm sáng tỏ từng luận điểm, khái quát thành các luận điểm.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Trên cơ sở kế thừa những kinh nghiệm đã được đúc kết từ đề tài “ Một số
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả tính tự học môn Ngữ văn’’ được xếp giải C
cấp Ngành năm học 2012 - 2013, đã áp dụng có hiệu quả trong các năm học vừa
qua, đề tài này tôi đi sâu hướng dẫn hoạt động tự học qua một số tiết ôn tập của
chương trình Ngữ văn lớp 10, cụ thể là Ôn tập văn học dân gian.

2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
2.1.1. Tự học và một số yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học
2.1.1.1. Tự học
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học
sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục
tiêu dạy học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin,
khoa học, kĩ thuật công nghệ phát triển như vũ bão- thì không thể nhồi nhét vào
đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều, mà phải quan tâm dạy
cho học sinh phương pháp học.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi, trọng tâm là phương pháp tự
học.Tự học là phương pháp học tích cực. Dưới sự thiết kế, tổ chức, hướng dẫn
của giáo viên, học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục
tiêu, kiến thức, kĩ năng, thái độ của chương trình, bài học.Tự học giúp học sinh
phát huy tính tính cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, tìm tòi, phát hiện, khai thác,
xử lí thông tin, tự hình thành hiểu biêt, năng lực và phẩm chất. Đặt biệt, nó còn
tạo cho học sinh lòng ham học, khơi dậy nội lực, khả năng vốn có của mỗi
người, kết quả học tập sẽ được nâng lên.

Tự học không chỉ là việc tự học ở nhà trước và sau bài học trên lớp mà tự
học trong cả tiết học trên lớp có sự hướng dẫn của người thầy.
2.1.1.2. Một số yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học
* Yêu cầu chung
- Dạy học tiến hành thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của học
sinh.
- Dạy học kết hợp giữa học tập cá thể với học tập hợp tác; giữa hình thức
học cá nhân với hình thức học theo nhóm, theo lớp.
4


- Dạy học thể hiện mối quan hệ tích cực giữa giáo viên và học sinh, giữa
học sinh và học sinh.
- Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực, tăng cường
thực hành và gắn nội dung bài học vào thực tiễn cuộc sống.
- Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực tự
học, tự nghiên cứu; tạo niềm vui, hứng thú, nhu cầu hành động và thái độ tự tin
trong học tập của học sinh.
- Dạy học chú trọng đến việc sử dụng có hiệu quả phương tiện, thiết bị
dạy học, đặc biệt chú ý đến những ứng dụng của công nghệ thônh tin.
- Dạy học chú trọng đến việc đa dạng nội dung, các hình thức, cách thức
đáng giá và tăng cường hiệu quả việc đánh giá.
* Yêu cầu đối với học sinh
- Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động để tự khám phá và
lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng đắn.
- Tích cực sử dụng thiết bị, đồ dùng học tập; thực hành vận dụng kiến
thức đã học để phân tích, đáng giá, giải quyết các tình huống và các vấn đề đặt
ra từ thực tiễn.
- Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm các nhân, tích cực thảo
luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho thầy, cho bạn.

- Biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản phẩm hoạt
động học tập của bản thân và bạn bè.
* Yêu cầu đối với giáo viên
- Thiết kế, tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập
với các hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài
học, với đặc điểm và trình độ học sinh, với điều kiện cụ thể của lớp, trường và
địa phương.
- Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và tạo điều kiện cho học sinh được
tham gia một cách tích cực, chủ động, sáng tạo vào quá trình khám phá và lĩnh
hội kiến thức; tạo niềm vui, hứng khởi, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong
học tập cho học sinh; giúp các em phát triển tối đa năng lực tiềm năng của bản
thân,
- Thiết kế và hướng dẫn học sinh thực hiện đa dạng các câu hỏi và bài tập
phát triển tư duy và rèn luyện kĩ năng; tổ chức có hiệu quả các giờ thực hành;
hướng dẫn học sinh có thói quen vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề
thực tiễn.
- Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lí,
hiệu quả, linh hoạt, phù hợp với đặc trưng môn học; nội dung, tính chất của bài
học…
5


2.1.2. Mục đích và những yêu cầu, nguyên tắc cơ bản của việc tự học
văn.
Phát huy tính tự học trong môn ngữ văn có một ý nghĩa cực kì quan trọng,
đáp ứng yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học. Để khuyến khích và phát
huy tính tự học văn của học sinh,người giáo viên phải dựa trên những nguyên
tắc chung của lí luận dạy học, đổi mới phương pháp dạy học( như đã nêu ở phần
1.1) và đặc trưng bộ môn.
Thứ nhất, phải dạy học theo đặc trưng bộ môn. Môn ngữ văn trong nhà

trừơng là một bộ môn khoa học nghệ thuật. Cho nên điều mà người ta quan tâm
trước hết là tính chất văn, tính nghệ thuật ngôn từ, bản chất thẩm mĩ của nó, đây
cũng là điểm khác với các bộ môn khác. Nhưng điều không kém phần quan
trọng cần nêu lên nữa là tính chất môn học, tính chất sư phạm của môn văn. Mỗi
một phân môn, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tự học theo đặc trưng của phân
môn đó. Chẳng hạn, với các tiết đọc văn, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc
tác phẩm từ trước, hay tìm đọc các tác phẩm có cùng chủ đề, đề tài… thiên về
khả năng tự cảm thụ, tự chiếm lĩnh các vấn đề đặt ra trong tác phẩm và trong đời
sống. Các tiết làm văn thiên về rèn luyện kĩ năng thực hành…
Thứ hai, phát huy chủ thể học sinh trong quá trình tự học. Không có sự
vận động của bản thân chủ thể học sinh thì mọi hoạt động từ phía giáo viên đều
trở thành áp đặt. năng lực chủ quan. Những năng lực chủ quan của học sinh có
được phát huy thực sự thì việc chiếm lĩnh tri thức, việc thưởng thức tác phẩm,
hứng thú học tập mới thực sự có được và hiệu quả giảng dạy mới bền vững. Yêu
cầu phát huy chủ thể học sinh trong quá trình tự học gắn liền với tài năng sáng
tạo của giáo viên làm sao có thể khơi động được hoạt động tâm lí học sinh nhất
là tâm lí cảm thụ, khả năng tự nắm bắt khiến thức để học sinh từng bước lớn lên
về mặt hiểu biết, tâm hồn, kĩ năng và nhân cách. Giáo viên là người nhạc trưởng
điều khiển mọi nhạc công sử dụng hài hoà nhạc cụ của mình. Nhạc trưởng
không biến thành nhạc công. Học sinh không phải là bình chứa mà là những
ngọn lửa. Giáo viên là người thắp sáng lên những ngọn lửa.
Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng có khả năng tự học giống
nhau.Vì thế, trong các tiết học, bài học, giáo viên phải phân loại đối tượng học
sinh, để từ đó mới có thể hướng dẫn học sinh tự học theo khả năng của mình.
Nếu không sẽ phản tác dụng của việc tự học.
Thứ ba, dạy văn gắn với đời sống. Vừa là khoa học vừa là nghệ thuật,
môn văn có những điều kiện thuận lợi để kết hợp việc học tập trên lớp với hoạt
động xã hội. Học văn, ngoài việc cung cấp tri thức văn học cho học sinh, giáo
viên thường xuyên hướng dẫn, rèn luyện và kiểm tra những kĩ năng cơ bản cho
học sinh trên lớp. Sau quá trình lĩnh hội, học sinh có thể vận dụng tri thức và kĩ

6


năng đã học vào hoạt động ngoài đời. Có thể xem hoạt động văn học ngoài xã
hội của học sinh là khâu vận dụng tri thức và kĩ năng tự do để phát huy năng
khiếu và thiên hướng văn học của học sinh. Vận dụng tri thức vào hoạt động học
tập trên lớp là bắt buộc với mọi học sinh, đồng thời giáo viên khuyến khích học
sinh tham gia công tác xã hội bằng hoạt động văn học, Công việc này vừa có ý
nghĩa gắn liền việc dạy- học văn gắn với đời sống vừa có ý nghĩa vận dụng cụ
thể tri thức học sinh đã lĩnh hội vào thực tiễn.
Thứ tư, phối hợp các phương pháp. Mỗi phương pháp có vị trí và tính
năng riêng của nó cần được vận dụng sáng tạo trong từng bài học và từng trường
hợp cụ thể. Để tránh tâm lí mệt mỏi thụ động và gây được hứng thú, ấn tượng
cho học sinh, giáo viên cần thay đổi hình thức hoạt động tự học của học sinh.
Cũng cần nói thêm là việc sử dụng phương pháp nào cũng còn tuỳ thuộc vào sở
thích, sở trường của mỗi giáo viên. Nghề dạy văn là một nghề sáng tạo, cho
phép cá nhân giáo viên được tương đối tự do trong việc lựa chọn những phương
pháp tối ưu.
2.2. Thực trạng của vấn đề
Nói một cách tổng quát thì nhiệm vụ của môn văn trong nhà trường phổ
thông là góp phần hình thành và phát triển nhân cách xã hội chủ nghĩa cho học
sinh bằng phương tiện đặc thù của môn văn. Khái niệm phát triển trong giáo dục
được hiểu một cách động và toàn diện trên nhiều phương diện( hiểu biết, tâm
hồn, kĩ năng, phẩm chất và hành động). Nói đến tính chất của bộ môn văn trong
nhà trường là nói đến yêu cầu về nội dung nhận thức cho học sinh. Dạy văn có
nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thế giới bên ngoài, xã hội và
con gười.Hiểu biết thế giói bên ngoài để hiểu chính bản thân mình. Nhận thức để
tự nhận thức.Tác phẩm văn chương chỉ thực sự phát huy được sức mạnh của nó
khi nào nó khơi dậy được từ bên trong người tiếp nhận những hoạt động tâm lí
sáng tạo. Cho nên cung cấp kiến thức cốt là để từ đó học sinh tự ý thức về mình

để sống có nhân cách hơn, cao thượng hơn, trong sạch hơn, có bản lĩnh hơn.
Mục đích cao nhất của dạy văn không phải chỉ là thông báo một số kiến thức
mà là cung cấp những khả năng tự học sinh giải quyết các vấn đề bài toán cuộc
đời của bản thân họ.
Tuy nhiên, để thực hiện được vấn đề này lại là điều không đơn giản khi
mà trong thực tế hiện nay một bộ phận không nhỏ học sinh và chính cảc bản
thân phụ huynh ngại, thậm chí không muốn cho con em mình học văn nói riêng
và ban KHXH nói chung trước áp lực thi cử và chọn ngành nghề. Bởi thế, công
việc giảng dạy môn ngữ văn trong các nhà trường phổ thông hiện nay gặp rất
nhiều khó khăn. Các em học theo kiểu đối phó để có đủ điểm điều kiện dự thi tốt
nghiệp.Trong các giờ học thường không tập trung, chú ý, không có ý thức phát
7


biểu xây dựng bài thậm chí còn mang môn khác ra làm( tình trạng này thường
xảy ra ở học sinh học các lớp chọn của ban KHTN, các em chỉ đầu tư vào môn
thi đại học mà không quan tâm đến môn trái ban); về nhà không soạn bài, chuẩn
bị bài trước khi đến lớp. Trong các giờ kiểm tra thường sao chép tài liệu... Làm
thế nào để các em yêu thích môn học? Làm thế nào để bản thân các em học sinh
thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của bộ môn văn?...Đây quả là những câu
hỏi làm đau đầu những người thầy, người cô trực tiếp đứng lớp.
Ngoài ra, về phía giáo viên trước áp lực của cuộc sống và tâm lí ngại học
văn của học sinh thì một bộ phận đã không chuyên tâm vào công việc giảng dạy,
đầu tư chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học, chỉ dạy cho bài, hết tiết cho
nên nhiều giờ học trở nên buồn tẻ, không cuốn hút được học sinh, hiệu quả
không cao...
Bên cạnh đó, ở một số trường phổ thông cơ sở vật chất còn nghèo nàn
chưa trang bị đủ các điều kiện về máy móc, băng đĩa, tranh ảnh, phim tư liệu,
các phương tiện hỗ trợ khác đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học.
Chính vì vậy mà việc đổi mới phương pháp dạy học- tự học môn văn nói chưa

được chú ý, quan tâm thoả đáng của cả hai phía người dạy và người học.
Trong chương trình, có thể khẳng định tiết ôn tập là tiết khó thực hiện và
thường gây lúng túng cho giáo viên, nhất là giáo viên mới ra trường. Vì các tiết
ôn tập có lượng kiến thức lớn với yêu cầu, mục tiêu cần đạt vô cùng cao nhưng
thời gian dành cho tiết học lại hạn hẹp. Chẳng hạn: Ôn tập văn học dân gian Ngữ văn 10 (1 tiêt); ôn tập văn học trung đại Việt Nam - Ngữ văn 11 (2 tiết).
Thực tế các tiết ôn tập này thường bị giáo viên dạy một cách qua loa. Học sinh
không mấy hứng thú với giờ học. Vì thế, đề tài này tôi mạnh dạn trao đổi quan
điểm của bản thân về hoạt động hướng dẫn học sinh tự học tiết ôn tập văn học
dân gian đạt hiệu quả cao.
2.3. Giải pháp và các biện pháp để tổ chức thực hiện
2.3.1. Tự học thông qua việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh
Qua thực tế giảng dạy, chúng ta thấy khâu chuẩn bị bài ở nhà của học
sinh thường bị coi phụ, giáo viên không hướng dẫn cụ thể cho học sinh. Mấy
phút còn lại cuối cùng còn lại của giờ học, giáo viên chỉ dặn học sinh soạn
những câu hỏi trong sách giáo khoa và kết quả học sinh chuẩn bị đến đâu giáo
viên cũng không quan tâm. Việc chuẩn bị của học sinh ở nhà thường không ăn
khớp gì hoặc có liên quan gì mấy đến hoạt động của thầy và trò trên lớp. Nhưng
thực tế đã chứng minh ngược lại, sự thành công của một giờ học trên lớp phụ
thuộc rất lớn vào sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh. Bởi thời gian học ở trên
lớp là rất hạn chế mà kiến thức bài học đòi hỏi phải lĩnh hội là vô cùng lớn. Do
vậy việc tự học ở nhà của các em là hết sức quan trọng.
8


Chuẩn bị bài ở nhà là bước tập dượt cho sự cảm thụ, tiếp nhận, lĩnh hội, tri
thức trên lớp được sâu sắc hơn. Bằng kinh nghiệm sống và kinh nghiệm văn học
của bản thân, học sinh trực tiếp đi sâu vào thế giới tác phẩm, vào vấn đề trọng
tâm của bài học một cách dễ dàng.
Ngay từ bước chuẩn bị bài ở nhà, vẫn cần được định hướng vào quỹ đạo
cần thiết. Điều đó không hề mâu thuẫn gì với xu hướng tự bộc lộ, tự học của học

sinh nếu giáo viên biết khơi gợi, dẫn dắt sự cảm thụ chủ quan trực tiếp của bản
thân các em. Nội dung công việc chuẩn bị ở nhà của học sinh có nhiều mặt, đa
dạng,tuỳ thuộc vào từng bài học, tiết học.Có thể là đọc tác phẩm, đọc trước bài
học, trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa hay câu hỏi, bài tập do giáo viên
định hướng trước hoặc tìm hiểu điển cố, từ ngữ khó, suy nghĩ về chi tiết nghệ
thuật, một kiến thức cụ thể, cần thiết có liên quan đến bài học v.v… Nhưng nội
dung chủ yếu vẫn là nhằm khơi dậy hứng thú, tâm thế của học sinh và định
hướng học sinh vào những vấn đề then chốt của nội dung bài học trên lớp. Câu
hỏi chuẩn bị tuyệt đối không được tuỳ tiện. Mỗi câu hỏi cho học sinh vừa có tác
dụng khơi gợi hứng thú, vừa hướng dẫn đi vào thế giới trung tâm của tác phẩm,
của bài học, vừa có tác dụng chuẩn bị cho hoạt động khám phá của giáo viên và
học sinh ở trên lớp.
Đến lớp giáo viên phải kiểm tra công việc chuẩn bị bài của học sinh ở
nhà.Đây không chỉ là một công việc thường nhật của thầy giáo trước khi bắt tay
vào dạy bài học mới. Đây còn là bước cần thiết để tạo tâm thế,dẫn dắt học sinh
đi vào bài học mới một cách đầy hứng khởi, say mê.
Ngoài ra,giáo viên còn phải giới thiệu các tài liệu tham khảo, hướng dẫn
các em tự học, tự đọc một cách có hiệu quả.
2.3.2. Tự học trên lớp của học sinh (trong các giờ học chính khoá)
Tự học không chỉ là việc tự học ở nhà trước và sau mỗi bài học trên lớp
mà tự học trong cả tiết học trên lớp có sự hướng dẫn của người thầy.Trước đây,
nhiều người có quan niệm sai lầm cho rằng tự học chỉ là việc học ở nhà của học
sinh.Hiện nay trước yêu cầu của đổi mới giáo dục, đổi mới phương pháp dạy
học, chúng ta đang nỗ lực chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ
động, dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp và phát huy năng lực tự học
của học sinh.Trong các tiết học trên lớp, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ
chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập theo nhóm nhỏ để học sinh tự chiếm lĩnh
nội dung học tập.Trên lớp, học sinh hoạt động là chính. Giáo viên với vai trò là
người gợi mở, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận
sôi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình độ sư phạm lành nghề, có trình độ

chuyên môn sâu rộng và có sự chuẩn bị bài dạy thật chu đáo mới có thể tổ chức,
9


hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm của
giáo viên.
Một giờ học chính khoá trên lớp của các em là vô cùng quan trọng và hữu
ích. Vì thế, giáo viên phải tổ chức, điều khiển tốt việc tự học của học sinh.Trước
hết, giáo viên cần phải tạo được tâm thế, hứng thú cho học sinh vào bài học
mới.Tuỳ thuộc vào nội dung, yêu cầu của bài học mà sử dụng các hình thức,
phương pháp cho phù hợp. Có thể sử dụng phương pháp phát vấn, thảo luận
nhóm, phiếu học tập… nhưng điều quan trọng, giáo viên phải đưa ra được ra
được những câu hỏi có vấn đề, câu hỏi gợi mở, liên quan đến vấn đề trọng tâm
của bài học để thu hút sự tranh luận, tìm tòi của học sinh và tạo ra được khoảng
lặng để học sinh suy nghĩ và những phút ồn ào, sôi nổi của học sinh thảo luận:
tránh sự áp đạt, khiên cưỡng.
Ví dụ: 1. Khi dạy tác phẩm“Vợ chồng A Phủ” - Tô Hoài ( Sách giáo khoa,
ngữ văn 12, tập 2 chương trình cơ bản), giáo viên có thể đặt ra vấn đề: Hãy tìm
và chọn những chi tiết được lặp lại nhiều lần trong tác phẩm mà em cho là đặc
sắc, tập trung thể hiện chủ đề tác phẩm, số phận và tính cách nhân vật chính.
Thực tế học sinh tìm được nhiều chi tiết nhưng một số không tập trung theo yêu
cầu. Giờ học, giáo viên thống nhất chọn ba chi tiết: Mị bị so sánh với thân trâu
ngựa (tập trung thể hiện số phận bất hạnh, bi thương), tiếng sáo gọi bạn (sức
sống tiềm tàng trỗi dậy mãnh liệt), ngọn lửa (niềm khao khát tự do cháy bỏng
thổi bùng thành hành động phản kháng). Sau đó chia ba nhóm trình bày, cuối
cùng giáo viên chốt lại các vấn đề.
2. Hoặc khi dạy “Vợ nhặt” - Kim Lân ( Sách giáo khoa, ngữ văn 12 tập
2 chương trình cơ bản), giáo viên có thể đưa ra vấn đề để học sinh thảo luận: Có
hay không chuyện đám cưới và hôn nhân trong tác phẩm “Vợ nhặt” (Kim Lân).
Kết quả là 100% học sinh sau khi làm việc nhóm đã thống nhất không có chuyện

đám cưới nhưng có một cuộc hôn nhân thực sự. Sau đó đại diện của một nhóm
học sinh lên trình bày, bảo vệ quan điểm. Các nhóm khác phản biện, bổ sung.
Giáo viên sẽ chốt lại ba vấn đề: 1. không có chuyện đám cưới để khái quát hiện
thực cuộc sống và thân phận con người bị rẻ rúng đến thảm hại; 2. Có một cuộc
hôn nhân thực sự để khái quát giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm: tình yêu
thương chia sẻ, cưu mang của những người cùng cảnh ngộ, niềm khao khát hạnh
phúc gia đình, ý thức vươn lên trên cái đói, cái chết để vui và hi vọng; 3. Câu
hỏi thảo luận có hay không chuyện đám cưới và hôn nhân trong tác phẩm chính
là tình huống truyện đặc sắc thể hiện tài năng sáng tạo của Kim Lân khiến tác
phẩm sống mãi trong lòng bạn đọc.
Mặt khác, để việc tự học phát huy tối đa hiệu quả, còn phải luôn chú ý đến
đối tượng học sinh, làm thế nào mà tất cả học sinh trong lớp từ giỏi - khá - trung
bình - yếu đều có cơ hội được thể hiện hiểu biết của mình, cơ hội được tiếp nhận
10


kiến thức bài học.Cuối mỗi giờ học, giáo viên phải luôn chú ý đến việc củng cố
nâng cao kiến thức bài học và chuẩn bị cho việc học tập bài mới... Đây không
phải là công việc vội vã lấy lệ khi trống hết giờ đã điểm mà là khâu quyết định
phần lớn hiệu quả của giờ học sắp tới. Học sinh có hứng thú chờ đợi giờ văn
hay không, những vấn đề trong bài học đã lay động suy nghĩ của học sinh hay
chưa… Đó là những tiền đề tâm lí cần thiết để học sinh bước vào giờ học tới.
Ví dụ: 1. Khi dạy bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
( Sách giáo khoa, ngữ văn 12 chương trình cơ bản), giáo viên có thể đặt ra câu
hỏi để học sinh thảo luận: - Từ bi kịch của người đàn bà hàng chài trong tác
phẩm em có suy nghĩ gì về vấn đề bạo lực gia đình trong cuộc sống hiện nay?
- Những giải pháp mà chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng giúp người đàn bà
hàng chài theo em có thiết thực và khả thi hay không? Hay em có suy nghĩ gì về
mối quan hệ giữa văn học và đời sống trong sáng tác văn chương hiện nay?...
2. Dạy tác phẩm Chí phèo của Nam Cao ( Ngữ văn 11, tập 1 chương trình

cơ bản), giáo viên đưa ra các câu hỏi gợi mở:
- Cảm nhận của em về nước mắt và tiếng khóc của nhân vật Chí Phèo?
- Chi tiết bát cháo hành của thị Nở và câu nói của nhân vật Chí Phèo với
thị Nở “Giá cứ như thế này thì thích nhỉ? ,“Hay cậu sang đây ở một nhà với tớ
cho vui”có ý nghĩa như thế nào?Từ đó giúp em có suy nghĩ gì về vấn đề sự sẻ
chia, đồng cảm của con người trong cuộc sống ngày hôm nay?
Rõ ràng với những kiểu câu hỏi, cách đặt vấn đề như thế này trong các giờ
học, tiết học sẽ rất thú vị và hấp dẫn. Nó sẽ phát huy quả tính tự học của học
sinh hiệu quả, kích thích suy nghĩ sáng tạo, mạnh dạn bộc lộ nhận thức, quan
điểm của bản thân học sinh. Đặc biệt, các em được rèn luyện, trau dồi kĩ năng
nói, thuyết trình, hùng biện trước đám đông. Sau này trong cuộc sống các em sẽ
mạnh dạn và tự tin hơn. Từ đó các em sẽ thấy được vai trò to lớn của việc học
văn và có tác dụng tích cực lâu dài đến các thế hệ học sinh sau này.
2.3.3. Tự học thông qua hoạt động ngoại khoá, câu lạc bộ văn học
Ngoài các giờ học chính khoá trên lớp, giáo viên cần tổ chức cho học
sinh tự học thông qua các hoạt động hữu ích ngoài giờ lên lớp. Bởi thực tế, theo
phân phối chương trình của bộ quy định có nhiều tiết, nhiều bài không thể trong
45 phút của tiết học, giáo viên có thể hướng dẫn, tổ chức cho học sinh có thể tự
lĩnh hội hết được các yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng và thái độ trong bài
học.
Mặt khác, là môn học có tính nghệ thuật,văn học có quan hệ gần gũi với
các môn nghệ thật khác như sân khấu, kịch, điện ảnh, các phương tiện nghe nhìn
khác như đài truyền thanh, vô tuyến truyền hình nên khả năng mở rộng hoạt
đông văn học cho học sinh ngoài đời sống là có cơ sở thực tế. Có nhiều hình
11


thức để kết hợp việc tự học trên lớp và tự học qua các hoạt động văn học ngoài
xã hội học sinh sẽ được mở rộng và khơi sâu khiến thức văn học đã được thu
nhận ở trường. Hình thức thứ nhất, có thể cho học sinh đi xem phim, xem kịch

chuyển thể từ văn bản để nhận thức rõ hơn, cảm thụ sâu hơn những phương tiện
ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau. Qua đó cảm xúc thể loại của học sinh cũng
được thử thách nhiều hơn. Chẳng hạn, khi học đến thể loại chèo của văn học dân
gian, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh xem các trích đoạn từ các vở chèo
tiêu biểu như: Kim Nham, Quan âm thị Kính…Hay khi học đến thể loại kịch, học
sinh có thể xem các trích đoạn từ các vở kịch: Vũ Như Tô-Nguyễn Huy Tưởng,
Hồn Trương Ba, da hàng thịt- Lưu Quang Vũ…
Hình thức thứ hai là bằng các hoạt động văn học: ngâm thơ, đọc thơ hoặc
sắm vai trên khấu.Các em có thể thuyết trình tác phẩm, kể chuyện, nói chuyện
văn học, gặp gỡ bạn yêu văn v.v…Hình thức này có thể tổ chức thông qua các
buổi ngoại khoá theo các chuyên đề (có thể theo từng lớp, khối lớp). Chẳng hạn:
- Lớp 10: Chuyên đề ca dao Việt Nam, truyện cổ tích Việt Nam, tác gia
Nguyễn Trãi, tác gia Nguyễn Du, Thơ Đường v.v…
- Lớp 11: Chuyên đề Thơ mới, văn học hiện thực Việt Nam 1930- 1945,
văn xuôi lãng mạn Việt Nam, tác gia Xuân Diệu, Nam Cao v.v…
- Lớp 12: Chuyên đề hình ảnh người lính trong thơ ca Việt Nam 19451975, Tình yêu quê hương đất nước trong thơ ca kháng chiến v.v…
Hoặc thông qua hình thức các câu lạc bộ văn học như: câu lạc bộ văn học
dân gian, Vườn ươm văn học, hay các cuộc thi, các liên hoan, hội diễn văn nghệ.
Ở đây, các em vừa được kiểm tra kiến thức đã học, vừa được thể hiện tài năng,
năng khiếu văn chương và các khả năng khác của bản thân mà sau này rất có ích
trong cuộc sống như: tập làm người dẫn chương trình, làm diễn viên, khả năng
tổ chức, điều khiển các hoạt động tập thể, khả năng thuyết trình trước đám đông
v.v…
Hình thức thứ ba là bằng các hoạt động tham quan, píc níc, học tập thực tế
ngay trên quê hương. Ở quê hương Nga Sơn, giáo viên có thể tổ chức cho các
em đi đến các địa chỉ: động Từ thức, đền- núi Mai An Tiêm… kết hợp học tập và
tham quan.
Đây sẽ là những sân chơi bổ ích giúp các em thay đổi không khí học tập
sau những giờ học tập căng thẳng trên lớp, nhưng quan trọng là sẽ giúp các em
tự học một cách có hiệu quả, mở rộng, khắc sâu kiến thức ngoài các tiết học trên

lớp, rèn luyện các kĩ năng giao tiếp ứng xử,áp dụng kiến thức trong sách vở vào
thực tiễn cuộc sống,tìm được niềm say mê. yêu thích môn học. Tuy nhiên, muốn
thực hiện và tổ chức thành công hình thức tự học này, bản thân giáo viên phải
đầu tư thơì gian, công sức, trí tuệ. Phải hết sức linh hoạt, chủ động lên kế hoạch
12


báo cáo tổ chuyên môn, Ban giám hiệu,phối hợp với đồng nghiệp,tổ chuyên
môn, các tổ chức đoàn thể: thanh niên, công đoàn… mới có thể được hỗ trợ về
cả về vật chất lẫn tinh thần.
2.3.4. Tự học thông qua việc luyện đề
Ngoài các tiết kiểm tra theo phân phối chương trình học trên lớp, để phát
huy tính tự học, đặc biệt là rèn luyện kĩ năng viết bài, giáo viên cần cho học sinh
làm quen với các dạng đề thi các cấp như: đề thi học sinh giỏi, tốt nghiệp, đại
học, cao đẳng. Qua việc luyện đề như vậy chắc chắn các em rèn luyện được
năng lực phân tích đề, diễn đạt,cách sắp xếp ý, cách huy động kiến thức ở bề sâu
cũng như bề rộng… Tất nhiên, hình thức tự học này không phải bắt buộc cho tất
cả các đối tượng học sinh mà chỉ dành cho học sinh khá, giỏi.
Và điều quan trọng là giáo viên không phải chỉ ra đề cho học sinh tự làm,
rồi các em muốn làm hay không làm cũng không quan tâm. Mà giáo viên phải
thu, chấm bài cho học sinh và phải tranh thủ trong các tiết học phụ đạo, học bồi
dưỡng chữa một số đề khó cho các em. Có như vậy thì hình thức tự học này mới
mang lại hiệu quả.( Hình thức tự học này bản thân tôi đã áp dụng rất có hiệu quả
trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Văn cấp trường, cấp tỉnh hàng năm
trong hoàn cảnh các em phải học nhiều môn học, lịch học ở trên trường dày kín.
2.3.5. Hướng dẫn học sinh tự học tiết Ôn tập văn học dân gian, Tiết 32
theo PPCT Ngữ văn 10, tập 1.
Đây là tiết ôn tập với rất nhiều nội dung cần đạt : củng cố, hệ thống hóa
các kiến thức về văn học dân gian Việt Nam đã học : kiến thức chung, kiến thức
về thể loại và kiến thức về tác phẩm ; biết vận dụng các đặc trưng cơ bản các thể

loại của văn học dân gian để phân tích các tác phẩm cụ thể ; nuôi dưỡng giáo
dục cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn hóa, văn học dân tộc... Tuy nhiên với
khuôn khổ một tiết học (45 phút) thì rất khó để giáo viên có thể truyền tải và học
sinh có thể lĩnh hội hết tất cả các mục tiêu trên. Vì vậy, giáo viên phải đổi mới
phương pháp dạy học bằng cách hướng dẫn học sinh tự học.
* Tự học thông qua bước chuẩn bị bài của học sinh.
Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài cho tiết Ôn tập văn học dân
gian của buổi tới, với các nội dung :
1. Trình bày các đặc trưng cơ bản của VHDG.
2. Lập bảng tổng hợp các thể loại văn học dân gian theo mẫu :
Truyện
dân gian

Câu nói dân gian

Thơ ca dân gian

Sân khấu
dân gian

3. Lập bảng tổng hợp, so sánh các thể loại VHDG theo mẫu:

Thể loại

Mục đích

Hình thức

Nội dung


Kiểu nhân

Đặc điểm
13


sáng tác

lưu truyền

phản ánh

vật chính

nghệ thuật

Sử thi
Truyền
thuyết
Truyện cổ
tích
Truyện
cười

4. Ca dao than thân thường là lời của ai ? Vì sao ? Thân phận của những
con người ấy hiện lên như thế nào, bằng so sánh ẩn dụ gì ?
5. Nêu những biện pháp nghệ thuật thường sử dụng trong ca dao.
6. Căn cứ vào tấn bi kịch của Mị Châu - Trọng Thủy trong Truyện An
Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy, hãy lập bảng ghi nội dung và trả lời
theo mẫu :

Những chi tiết
Cái cốt lõi sự Bi kịch được
Kết cục của bi
hoang đường,
Bài học rút ra
thật lịch sử
hư cấu
kịch
kì ảo

7. Về truyện cười, lập bảng và ghi nội dung theo mẫu :
Tên truyện

Đối tượng cười

Nội dung
cười

Tình huống
gây cười

Cao trào để
tiếng cười trào
ra

Tam đại con

Nhưng nó
phải bằng hai
mày

8. Tìm các bài ca dao có các từ mở đầu « Thân em như... » và « Chiều
chiều... »
9. Thống kê các hình ảnh so sánh, ẩn dụ trong các bài ca dao đã học và
cho biết người bình dân thường lấy các hình ảnh đó từ đâu ?
10. Tìm thêm các bài ca dao nói về :
+ Chiếc khăn, chiếc áo
+ Nỗi nhớ của những đôi lứa đang yêu.
+ Biểu tượng cây đa, bến nước - con thuyền...
11. Chuẩn bị giấy A4, bút viết bảng, ...
Giáo viên có thể giao việc cho học sinh sau tiết học hoặc đưa lên trang
nhóm học văn của lớp do giáo viên lập ra.
14


* Tự học trên lớp của học sinh.
Trong thời lượng 45 phút của tiết học, giáo viên hướng dẫn học sinh ôn
tập đạt cả hai yêu cầu ôn tập kiến thức và vận dụng kiến thức nên không thể ôm
đồm mà phải xác định trọng tâm vào một số câu hỏi đã yêu cầu chuẩn bị trước.
Cụ thể : - Các câu : 1, 4, 5 : phát vấn - đàm thoại
- Các câu : 2, 3, 6, 7 : tổ chức thảo luận ( chia tổ, mỗi tổ làm một câu)
làm bài tập ngắn trên bảng, trên giấy. - Các câu còn lại hướng dẫn học sinh về
nhà tự học.
Các tổ trình bày, cả lớp bổ sung, GV chốt lại kiến thức cơ bản.
* Tự học thông qua hoạt động ngoại khoá
- Chương trình buổi ngoại khoá
Phần 1. Kiểm tra kiến thức - Hình thức trắc nghiệm khách quan (10 điểm)
Giáo viên dựa vào phần câu hỏi tổng hợp đã cho học học sinh chuẩn bị ở
trên, ra 10 câu hỏi ngắn cho học sinh trả lời nhanh trong 1 phút, mỗi câu trả lời
đúng được 1 điểm.
Câu 1: Văn học dân gian được gọi là “Sách giáo khoa về cuộc sống” bởi

vì:
a. Cung cấp nhiều tri thức về tự nhiên, xã hội.
b. Phát huy truyền thống yêu nước, nhân đạo.
c. Kho tàng tiếng Việt phong phú
d. Cả a, b, c đều đúng.
Câu 2. Dòng nào sau đây thể hiện chính xác nhất đặc điểm của nhân vật
trong truyện truyền thuyết
a. Là những nhân vật anh hùng kết tinh sức mạnh, vẻ đẹp cộng đồng dân
tộc
b. Là những nhân vật lịch sử gắn với các sự kiện lịch sử
c. Là những con người thấp cổ bé họng có số phận bất hạnh trong xã hội
d. Là những vị thần
Câu 3: Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy thuộc chủ đề
nào?
a. Dựng nước và giữ nước
c. Tình yêu lứa đôi thời dựng nước
b. Nguồn gốc dân tộc
d. Giải thích nguyên nhân mất nước Âu Lạc
Câu 4: Chi tiết nào trong Truyện An Dương Vương, Mị Châu- Trọng
Thủy có tính chất kỳ ảo?
a. Áo lông ngỗng
b. Xây Loa Thành
c. Nỏ thần
d. Đà cầu hôn
Câu 5: Trình bày ý nghĩa của hình ảnh ngọc trai- giếng nước trong
truyền thuyết An Dương Vương- Mị Châu – Trọng Thủy
15


Ý nghĩa của hình ảnh ngọc trai- giếng nước:

a. Hóa giải nỗi oan cho Mị Châu
b. Thể hiện truyền thống ứng xử bao dung nhân hậu của nhân dân ta đối
với hai nhân vật Mị Châu- Trọng Thủy
c. Tạo nên màu sắc thẩm mĩ cho truyện
Câu 6: Văn học dân gian là
a. Những sáng tác cổ xưa, lưu truyền qua nhiều thế hệ
b. Những sáng tác tập thể, truyền miệng
c. Những sáng tác hội hè, đình đám
d. Những sáng tác có tính tôn giáo, ma thuật
Câu 7: Truyện Tấm Cám phản ánh xung đột gì trong xã hội?
a. Mẹ ghẻ, con chồng
b. Giàu- nghèo
c. Thiện- ác
d. Lợi ích cá nhân- quan hệ tập thể
Câu 8: Nét chung nhất giữa văn học dân gian và văn học viết là:
a. Sử dụng ngôn ngữ chọn lọc, trau chuốt
b. Thể hiện rõ phong cách của người viết
c. Có nhiều dị bản khác nhau
d. Sử dụng lời ăn, tiếng nói hàng ngày.
Câu 9: Sự hóa thân của nhân vật Tấm trong truyện cổ tích Tấm Cám có ý
nghĩa gì?
Sự hóa thân của Tấm thể hiện ý nghĩa:
a. Thể hiện sự chủ động tích cực của Tấm trong quá trình đấu tranh
b. Thể hiện sức sống mãnh liệt bền bỉ đấu tranh giành hạnh phúc
c. Thể hiện niềm tin, niềm lạc quan của người lao động xưa với quan niệm
ở hiền gặp lành
Câu 10: Tại sao ca dao thường ngắn gọn, hàm súc?
a.Vì ca dao thường sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc
b. Vì ca dao thường sử dụng hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa tượng trưng
c. Vì ca dao là tiếng nói tình cảm của nhân dân

d. Vì ca dao thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc.
Phần 2. Năng khiếu - Hình thức đóng kịch, hoạt cảnh hoặc sân khấu hóa
các tác phẩm văn học dân gian (20 điểm)
Giáo viên cho học sinh lựa chọn diễn 2 trích đoạn:
+ Truyện cổ tích Tấm Cám - ( chặng 1- Từ đầu cho đến khi Tấm trở thành
hoàng hậu) và Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy ( Bi
kịch Mị Châu - Trọng Thủy)
+ Truyện Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày.
Phần 3. Tài năng - Hùng biện (20 điểm)
16


Giáo viên cho học sinh bốc thăm câu hỏi và thuyết trình trong khoảng 5-7
phút (câu hỏi đã được gợi ý chuẩn bị), mỗi đội chọn một học sinh tiêu biểu nhất)
- Hình thức tổ chức:
Có thể chia làm 2,3 hoặc 4 đội tuỳ vào tình hình cụ thể ở từng lớp, trường.
Xen kẽ là các tiết mục văn nghệ : nhảy, hát, múa “ Cây đa quán dốc”, “ Bống
bống bang bang”, “ Trống cơm”. Và có cả phần thi dành cho khán giả là những
câu hỏi ngắn, trả lời nhanh.
* Tự học thông qua việc luyện đề thi
Nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức đặc biệt là rèn luyện năng lực cảm thụ
văn học, kĩ năng viết bài văn nghị luận, giáo viên ra hệ thống đề ôn luyện
khuyến khích cho học sinh viết bài ở nhà. Sau đó, giáo viên thu chấm, chữa bài
cho các em. Tất nhiên, tùy vào đối tượng học sinh để giáo viên giao đề cho phù
hợp, chủ yếu dành cho đối tượng khá, giỏi. Một số đề tham khảo:
Đề 1: Có ý kiến cho rằng: “Chủ thể trữ tình của ca dao khi cảm nghĩ về
thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ; nhưng khi cảm nghĩ về những người
thương mến, về những nơi, những vật thân thuộc là thấy yêu, thấy thương...”.
Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua những bài ca dao than thân,
yêu thương tình nghĩa đã học ở chương trình Ngữ văn 10.

Đề 2: Trong cuốn Đaghetxtan của tôi, nhà thơ Nga Raxun Gamzatop đã
viết:
“ Những chiếc bình đẹp nhất
Nặn từ đất bình thường
Như câu thơ đẹp nhất
Từ những chữ bình thường...”
Ý thơ trên đã gợi cho anh/chị suy nghĩ như thế nào về vẻ đẹp của ca dao?
Đề 3: Bàn về văn học dân gian, nhà văn Gorki nói: “Rất cần nêu lên
rằng, trong văn học dân gian hoàn toàn không có bóng dáng của chủ nghĩa bi
quan mặc dầu những người sáng tác văn học dân gian sống trong nhọc nhằn,
cực khổ. Tập thể dường như vẫn có ý thức về tính bất diệt của mình và tin rằng
mình sẽ chiến thắng tất cả những lực lượng thù địch”.
Bằng những hiểu biết về truyện cổ tích Việt Nam, hãy làm sáng tỏ nhận
xét trên.
Đề 4. Đọc truyện cổ Việt Nam, nhà thơ Lâm Thị Mĩ Dạ có những dòng
cảm nhận như sau:
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa”
(“Truyện cổ nước mình”)
17


Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua truyện cổ tích
“Tấm Cám”.
Đề 5. Bàn về văn học dân gian Việt Nam, Hồ Chủ Tịch có nhận xét:
“Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quí”.
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng hiều biết của mình về truyện
cổ tích, ca dao Việt Nam, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Hiệu quả từ quan sát thực tế

Quan sát việc học tập trong các giờ học, giờ ôn tập, ngoại khoá và vở
soạn, vở bài tập về nhà của học sinh kết quả như sau :
- Trong các giờ học không khí học tập sôi nổi, nghiêm túc và có tinh thần
tự giác cao.
- Học sinh chủ động ,tự tin và sáng tạo trong các giờ học. Đặc biệt nhiều
tiết ngoại khoá đã để lại trong lòng các em những ấn tượng sâu đậm, những kỉ
niệm khó quên (tâm sự của học sinh sau các buổi học)
- Bài tập, câu hỏi giao về nhà, đa phần các em đều hoàn thành ; các
phương tiện, dụng cụ chuẩn bị cho bài học các em đều có ý thức chuẩn bị chu
đáo. - Các em học sinh đã mạnh dạn, chủ động trong giao tiếp, nhiều em có kĩ
năng nói, diễn thuyết trước đám đông.
2.4.2. Hiệu quả của sản phẩm
Trong quá tình giảng dạy môn ngữ văn, chúng tôi đã áp dụng triệt để
phương pháp trên. Kết quả, kể từ khi thành lập trường, tháng 8 năm 2004 đến
nay, đặc biệt từ năm 2006, khi chúng ta tiến hành thay SGK, đổi mới phương
pháp dạy học trải qua các kì thi học sinh giỏi tỉnh, thi vào các trường đại học,
cao đẳng và thi tốt nghiệp, môn văn của chúng tôi luôn có những thành tích đáng
khen ngợi.
Bảng 1: Kết quả các kì thi
Năm học
2009- 2010
2012- 2013
2015- 2016
2017-2018
2019-2020

HS giỏi tỉnh
3 giải
3 giải
2 giải

2 giải
Không thi

Kết quả thi
Đại học
27 học sinh
19 học sinh
21 học sinh
24 học sinh
Chưa thi

Tốt nghiệp
100 %
100 %
100 %
100 %
Chưa thi

Bảng 2: Kết quả giảng dạy (trung bình chung cho các lớp dạy qua các năm học)
Điểm
Năm học
8.0- 10
6.5- 7.9
5.0- 6.4
4.9- 3.0 Dưới 3.0
18


2015- 2016
2016- 2017

2017- 2018
2018- 2019
2019- 2020

8%
10 %
9%
11 %
10 %

45 %
46 %
46 %
47 %
60 %

40 %
39 %
41 %
39%
39%

7%
5%
4%
3%
1%

0%
0%

0%
0%
0%

Hàng năm, số lượng học sinh đăng kí vào các lớp ban KHXH rất đông,
trung bình mỗi khối các năm trước là 3 lớp; hai năm trở lại đây là 5 lớp, trong
khi đó nhiều trường số lượng các em đăng kí học ban này là rất ít, nhiều khi
không đủ đủ để xếp một lớp. Con số đó đã nói lên kết quả giảng dạy đổi mới
phương pháp dạy học, phát huy tinh tự học môn ngữ văn ở trường chúng tôi đã
tạo được niềm tin, sự say mê, yêu thích môn học của học sinh.

3.Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Dạy học là một nghệ thuật.Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính
tự học môn ngữ văn là công việc không giản đơn, có con đường chung nhưng
cũng có nghệ thuật riêng ở từng người, từng trường, áp dụng cho từng lứa học
sinh qua mỗi năm. Do vậy, ở đây chúng tôi chỉ xin nêu ra một số kinh nghiệm
trong việc phát huy tính tự học môn ngữ văn ở một trường THPT còn non trẻ
nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn ngữ ngữ văn, khơi dậy niềm đam mê,
yêu thích môn học của học sinh hướng tới mục tiêu giáo dục của bộ môn là góp
phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh. Muốn làm được
điều này, nó đòi hỏi người giáo viên phải có sự kiên trì, phấn đấu không mệt mỏi
và một niềm lạc quan, tin tưởng, yêu nghề, yêu người.
3.2. Kiến nghị
* Đối với trường:
- Tăng cường chăm lo, xây dựng cơ sở vật chất, đồ dùng, thiết bị, tài liệu
phục vụ giảng dạy và học tập.
- Hỗ trợ kinh phí các buổi ngoại khoá, hoạt động ngoài giờ lên lớp…
* Đối với Sở GD&ĐT Thanh Hoá
- Tổ chức các chuyên đề, hội nghị trao đổi phổ biến kinh nghiệm, phương

pháp đổi mới dạy học văn.
Trên đây là một số kinh nghiệm, phương pháp đổi mới phương pháp dạy
học, phát huy tính tự học môn ngữ văn mà chúng tôi đã thực hiện trong quá trình
19


giảng dạy nhằm khơi dậy niềm đam mê, yêu thích môn học, giúp các em học
sinh nắm vững kiến thức tham dự các kì thi học sinh giỏi, tốt nghiệp, đại học …
Tuy rằng đã đạt một số kết quả ban đầu, nhưng đây chỉ là một sáng kiến kinh
nghiệm của bản thân và tổ chuyên môn được áp dụng ở trường THPT Nga Sơn,
chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót hạn chế. Vì vậy, chúng tôi rất mong
được bạn bè đồng nghiệp tham khảo và cho ý kiến để chúng tôi có thể giảng dạy
đạt kết quả cao hơn./.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
Nga Sơn, ngày 04 tháng 7 năm 2020
THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện

Trần Thị Mai
Tài liệu tham khảo
1. Lưu Đức Hạnh ( 2007), Để học tốt Ngữ văn 10, NXB Thanh Hóa.
2. Phan Trọng Luận (2007), Ngữ văn 11, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Phan Trọng Luận (2007), Ngữ văn 10, NXB Giáo dục, Hà Nội
4. Phan Trọng Luận (2007), Ngữ văn 11, nâng cao, NXB Giáo dục, Hà Nội
5. Phan Trọng Luận (2007), Ngữ văn 12, NXB Giáo dục, Hà Nội
6. Phan Trọng Luận (2007), Sách giáo viên Ngữ văn 10, NXB Giáo dục, Hà
Nội
7. Phan Trọng Luận (2007), Sách giáo viên Ngữ văn 11, NXB Giáo dục, Hà

Nội
8. Phan Trọng Luận (2007), Sách giáo viên Ngữ văn 12, NXB Giáo dục, Hà
Nội
10. Nguyễn Đăng Mạnh ( 2010), Muốn viết được bài văn hay, NXB Văn
học, Hà Nội.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), những vấn đề đổi mới giáo dục Trung
học phổ thông, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
20


10. Nghị quyết 29 - NQ/TW năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục, Thư viện Pháp luật,

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Trần Thị Mai
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường THPT Nga Sơn

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD
TT
Tên đề tài SKKN
cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)
1 Hướng dẫn ôn tập văn học nước

Ngành
ngoài - lớp 12 trên hệ thống câu
hỏỉ
2 Một số biện pháp bồi dưỡng học
Ngành
sinh giỏi văn ở trường THPT
Bán công
3 Một số biện pháp nhằm nâng cao
Ngành
hiệu quả tính tự học môn ngữ văn

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

C

2004 - 2005

C

2007 - 2008

C


2012 - 2013
21


4
5

Đổi mới PPDH Ngữ văn ở
trường THPT qua khâu chuẩn bị
lên lớp của giáo viên.
Đổi mới phương pháp dạy học
Ngữ văn ở trường THPT qua
khâu chấm chữa làm văn của học
sinh

Ngành, Tỉnh

B

2014 - 2015

Ngành

C

2015 - 2016

22




×