Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Khai thác một số kiến thức thơ văn để dạy tốt lịch sử việt nam lớp 9, góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở trường THCS quảng hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.87 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KHAI THÁC MỘT SỐ KIẾN THỨC THƠ VĂN
ĐỂ DẠY TỐT LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 9,
GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
Ở TRƯỜNG THCS QUẢNG HƯNG

Người thực hiện : Trịnh Thị Liên
Chức vụ
: Giáo viên
Đơn vị công tác : Trường THCS Quảng Hưng
SKKN thuộc môn : Lịch sử

THANH HOÁ NĂM 2020


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU:..........................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài:...........................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu:.....................................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu:....................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu:...............................................................................2
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:...........................................2
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:......................................................2
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:......................3
2.3. Giải pháp thực hiện:.......................................................................................4
2.4. Hiệu quả của đề tài đối với hoạt động giáo dục, với bản thân đồng nghiệp và


nhà trường...........................................................................................................17
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:........................................................................18
3.1. Kết luận:.......................................................................................................18
3.2. Kiến nghị......................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................20


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong nền giáo dục của các dân tộc nói chung, dân tộc Việt Nam xưa và
nay nói riêng môn Lịch sử chiếm một vị trí quan trọng. Với mục đích được xác
định “Truyền thụ cho học sinh ý nghĩa của quá khứ và sự tiếp tục trong hiện tại,
dắt dẫn học sinh hiểu vai trò con người trong cộng đồng và vai trò cộng đồng
trong thế giới nói chung” (UNESCO - 1963, tài liệu giảng dạy lịch sử). Từ lịch
sử, người học biết rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích cho cuộc sống hiện
tại.
Ở trường THCS hiện nay qua môn học Lịch sử giáo dục đạo đức, chính trị
tư tưởng, truyền thống, lòng tự hào dân tộc. Đồng thời phát triển tư duy, nhận
thức toàn diện cho học sinh theo mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục của Đảng.
Ngày nay, trong thời kỳ khoa học - kỹ thuật rất sôi động này, các nhà sử
học dù có ý kiến khác nhau nhưng đều công nhận bộ môn Lịch sử ở trường học
không những vẫn giữ nguyên mà còn tăng lên hơn vị trí, ý nghĩa của nó trong
việc đào tạo thế hệ trẻ. Nhà sử học Xô viết Pa-su-tô đã khẳng định rằng: “Muốn
đào tạo con người phù hợp với thời đại, chúng ta cần phải không ngừng cải tiến
và nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật,
sự hứng thú hấp dẫn ngày càng tăng đối với hiện tại không hề làm giảm bớt sự
chú ý của chúng ta đối với việc dạy học Lịch sử. Chính lịch sử là bằng chứng
hiển nhiên về sự toàn thắng của công cuộc xây dựng, sáng tạo đối với sự tàn
phá, chiến thắng của hoà bình đối với chiến tranh. Sự gần gũi hiểu biết các dân
tộc về văn hoá và các mặt khác khắc phục tình trạng biệt lập”.

Mặt khác, do đặc điểm của bộ môn Lịch sử khô khan, khó nhớ, khó học
bởi những con số, ngày tháng và sự kiện đã diễn ra trong quá khứ không nhìn
thấy được, đòi hỏi khi giảng dạy giáo viên phải tái hiện lại bằng ngôn ngữ và
hình ảnh làm sống lại những sự kiện đó. Hơn nữa một khó khăn lớn nhất của
môn Lịch sử hiện nay là nhận thức của học sinh và gia đình về bản thân môn
học xem là môn phụ không cần phải quan tâm mất thời gian mà chỉ tập trung
vào 3 môn chính Toán, Tiếng Anh và Ngữ Văn. Lên lớp 9, các em nặng gánh với
việc ôn thi và chọn trường phù hợp với năng lực của mình. Thực tế môn Lịch sử
giường như bị bỏ rơi, dần mai một làm cho việc dạy học lại càng khó khăn hơn,
hạn chế về mặt hiệu quả.
Trong những năm qua Đảng, Nhà nước và Bộ giáo dục và đào tạo đã hết
sức quan tâm, môn Lịch sử thường xuyên được đưa vào là một trong những môn
thi tốt nghiệp, có thể nói là hầu như liên tục nhưng chỉ ở cấp THPT. Còn ở cấp
THCS nó vẫn bị coi là môn học đối phó, kết quả thi cử chưa khả quan lắm vẫn
là một nỗi lo, băn khoăn.
Bên cạnh đó Lịch sử vẫn là môn học khó trong tư tưởng của học sinh. Vấn
đề cơ bản vẫn chưa làm được là xây dựng tình cảm, tình yêu Lịch sử đối với
những học sinh trên ghế nhà trường, hay trong các giờ học đối với môn học này.
Để giải quyết bài toán khó đó là một gánh nặng cũng là trách nhiệm đặt lên vai
người cô giáo dạy Lịch sử.
1


Chính vì thế, trong quá trình giảng dạy để thực hiện tốt nhiệm vụ trồng
người cho Đảng, giáo viên dạy Lịch sử cần tích cực tìm tòi những phương pháp
và phát huy tối đa việc phối hợp các phương pháp một cách linh hoạt để thiết kế
soạn, giảng dạy có hiệu quả, xây dựng tình cảm của học sinh đối với môn học
đồng thời đưa các em đến với những sự kiện lịch sử một cách tự nhiên, nhẹ
nhàng. Có như thế mới hoàn thành nhiệm vụ môn học. Xuất phát từ thực tiễn
nhận thức, trách nhiệm và thực tiễn nhiều năm giảng dạy tôi mạnh dạn nghiên

cứu đề tài: “Khai thác một số kiến thức thơ văn để dạy tốt Lịch sử Việt Nam
lớp 9, góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở trường THCS Quảng Hưng”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Sử dụng một số kiến thức thơ văn trong quá trình giảng dạy sẽ là một thế
mạnh để hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiến thức lịch sử góp phần nâng cao
chất lượng dạy học. Đồng thời thông qua đó giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối
với truyền thống, lãnh tụ cũng như những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã
đóng góp xương máu của mình để làm rạng rỡ thêm lịch sử nước nhà. Hơn nữa
dạy lịch sử qua một số tác phẩm văn học sẽ giúp cho các em học sinh hứng thú,
chăm chú và dễ hiểu hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng là học sinh lớp 9, Trường THCS Quảng Hưng – Thành phố
Thanh Hóa – Tỉnh Thanh hóa trong 2 năm học 2017 – 2018 và 2018 – 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu kỹ chương trình sách giáo khoa, phân phối chương trình đặc
biệt là các bài có thể khai thác vận dụng được.
- Liên hệ, so sánh đặt nó trong mối quan hệ liên quan với chương trình
văn học đã học.
- Tiến hành sưu tầm các bài thơ, bài văn, hồi ký phù hợp với nội dung các
bài lịch sử thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Chọn lựa phân loại các kiến thức thơ văn: Thơ về cuộc đời, nhân vật lịch
sử, thơ văn về diễn biến trận đánh hay biến cố lịch sử, thơ văn về tội ác của giai
cấp thống trị của bọn xâm lược… Sau khi phân loại tiến hành sắp xếp nguồn tư
liệu đó thành từng chủ đề.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Đổi mới giáo dục là vấn đề toàn cầu trong thời đại ngày nay trước tác
động của Cách mạng khoa học – công nghệ và xu thế toàn cầu hoá mạnh mẽ. Để
bắt kịp thời đại, những năm qua ta đã và đang thực hiện sự nghiệp đổi mới giáo
dục, phát triển toàn diện đất nước. Đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả

dạy học, thì phương pháp dạy học là cực kỳ quan trọng, chìa khoá của mọi sự
thành công, trong sự nghiệp giáo dục và tất nhiên việc đó không thể thoát ly
khỏi vai trò của người thầy giáo.
Lịch sử cũng như những môn học khác trong hệ thống giáo dục phổ thông
đều nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục của Đảng, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và phát triển đất nước. Muốn có chất lượng, hiệu quả người thầy trước hết
2


phải có phương pháp tốt, hữu hiệu để dẫn dắt học sinh đến với những mảng kiến
thức thích hợp, tiếp nhận chân lý tự nhiên. Tuy nhiên đổi mới phải tạo cơ sở sự
kế thừa, phát triển của các phương pháp truyền thống nhưng hiệu quả và phải
dựa trên những nguyên tắc cho phép của bộ môn. Đặc biệt với môn Lịch sử gắn
liền tư tưởng, tình cảm, giáo dục đạo đức truyền thống, một bộ môn nằm trong
các bộ môn xã hội nó không thể biệt lập mà có những mối quan hệ với Văn,
Giáo dục công dân, Địa lý. Cho nên vấn đề dạy học liên môn là một nguyên tắc
quan trọng và cần thiết giáo viên phải thực hiện, kết hợp trong quá trình dạyhọc mới có hiệu quả.
Mối liên hệ giữa lịch sử và các tác phẩm tài liệu Văn học rất gần gũi.
Trong Sử có Văn, trong Văn có Sử. Lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới từ
xưa đến nay các tác phẩm văn học có vai trò to lớn đối với việc giảng dạy. Đây
là một trong những tài liệu vô cùng quan trọng, không những thế còn góp phần
sinh động, hứng thú và nhẹ nhàng cho môn học Lịch sử. Trước hết, văn học
bằng hình tượng cụ thể như những bức tranh sinh động về lịch sử, có tác động
mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của người đọc, người học. Giữa văn học và
khoa học nói chung, sử học nói riêng có môi liên hệ khăng khít. Không ít tác
phẩm văn học tự nó là một tư liệu lịch sử. Ví dụ: Hịch Tướng Sỹ văn (Trần
Quốc Tuấn), Bài Cáo Bình Ngô (Nguyễn Trãi), Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí
Minh)… Các tác phẩm văn học (văn bản, bức thư, tuyện ngắn, tiểu thuyết hay
thơ ca, hồi kí...) góp phần quan trọng làm cho bài giảng lịch sử thêm sinh động,
hấp dẫn và tự nhiên hơn, dễ đi vào lòng người, tạo hứng thú và tình cảm cho học

sinh với môn học.
Trong chương trình Lịch sử 9 THCS hiện hành (Lịch sử Việt Nam 19192000), nhất là lịch sử cách mạng và giải phóng dân tộc gắn liền với một thời kỳ
phát triển mạnh mẽ của nền văn học cách mạng. Những chiến công lịch sử hào
hùng của dân tộc chính là mảnh đất màu mỡ ươm mầm cho các tác phẩm bất hủ.
Văn học gắn liền với Lịch sử, mỗi nhà văn, nhà thơ là một chiến sĩ hăng hái trên
mặt trận văn hoá. Nền văn học cách mạng đã tái hiện rõ nét hình ảnh lịch sử
oanh liệt của dân tộc trong thế kỷ XX. Việc dạy học liên môn Văn - Sử khá hiệu
quả để khắc phục tình trạng khô khan. Mặt khác, đối tượng thực hiện dạy học là
những học sinh lớp 9 đã có khả năng liên hệ, nhận thức tốt, có tầm khái quát vấn
đề đồng thời đã có vốn văn học. Chính vì thế cho phép giáo viên thực hiện được
và hiệu quả về phương pháp dạy học này trong quá trình giảng dạy cả chính
khóa và ngoại khóa.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Trước thực trạng đổi mới phương pháp giảng dạy ở nhiều bộ môn, với
việc lấy học sinh làm trung tâm, học sinh sẽ chủ động hơn trong việc tiếp thu
kiến thức. Kiến thức của từng đơn vị bài học vừa đòi hỏi học sinh tiếp cận ở
chiều sâu lại phải đặt ra yêu cầu về chiều rộng đối với người học, tức là có sự
tích hợp nhiều phân môn, cụ thể là ngành khoa học xã hội gần gũi nhau: Ngữ
văn và Lịch sử.
3


Nhiều năm nay, cứ sau mỗi lần thi tốt nghiệp THPT nhiều phương tiện
thông tin đại chúng, nhiều tờ báo từ trung ương đến địa phương liên tục thay
nhau đưa ra những thông tin … buồn! Về bài thi môn Lịch sử, nhiều bài viết các
em làm rất ngô nghê, hình như nghĩ sao làm vậy chứ không có tư duy thậm chí
còn có điểm 0. Phải chăng đó là do cách dạy của giáo viên hay học sinh theo xu
thế hiện nay đang quay lưng lại với lịch sử. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng có
lẽ không thể bỏ qua việc học tập tiếp thu kiến thức của hai phân môn Lịch sử và
Ngữ văn đối với các em vừa yếu, vừa thiếu.

Chương trình lịch sử hiện tại lại có sự phân bố không cân xứng giữa lịch
sử văn hoá và lịch sử chiến tranh. Các bài viết về chiến công và các trận đánh
chiếm tỷ lệ lớn hơn. Vậy làm sao cho học sinh học lịch sử đỡ nhàm chán, linh
hoạt, khắc sâu được kiến thức. Ngược lại, khi những học sinh này học môn ngữ
văn thì không bị nhầm lẫn những chi tiết của lịch sử?
Giáo viên của hai môn có quan hệ “họ hàng” này ít khi ngồi lại cùng nhau
để bàn bạc trao đổi thêm về chuyên môn. Nhiều giáo viên ngữ văn không nhớ
chính xác kiến thức lịch sử (phần lớn chỉ xem chú thích rồi giải nghĩa lại cho
học sinh, ít có sự trao đổi với giáo viên dạy lịch sử và ngược lại).
Vì vậy, tôi nghĩ: Là người trực tiếp điều khiển quá trình học tập của các
em tôi cần phải có những giải pháp thiết thực thúc đẩy động lực học tập của học
sinh, giúp các em yêu thích môn học, nắm được nội dung kiến thức một cách
nhẹ nhàng, dễ hiểu, có phương pháp học tập thật tốt. Từ đó mới nâng cao được
hiệu quả giáo giục trong nhà trường. Chính vì thế, tôi đã mạnh dạn đi sâu tìm
hiểu nghiên cứu sử dụng một số kiến thức văn học trong dạy học lịch sử giúp
các em yêu thích môn học và không còn cảm giác ái ngại khi học lịch sử.
2.3. Giải pháp thực hiện:
* Giải pháp 1: Đưa vào bài giảng một đoạn thơ, văn ngắn nhằm minh
họa những sự kiện đang học.
Một điểm quan trọng trong dạy học Lịch sử là tạo biểu tượng, tái hiện lại
lịch sử để làm cho những sự kiện khô khan trở thành những hình ảnh sinh động,
tác động thu hút trí tưởng tượng tư duy của học sinh, qua đó giúp học sinh ghi
nhớ. Bên cạnh đó những đoạn văn, thơ ngắn phù hợp nội dung kiến thức thực sự
là những bức tranh về ngôn ngữ hết sức sinh động mà không có ngôn từ hay đồ
dùng dạy học nào thay thế được, sự mềm mại uyển chuyển của Văn học sẽ dễ
dàng lôi cuốn và đi vào cảm xúc của học sinh hơn những sự kiện Lịch sử khô
khan.
Trong quá trình giảng dạy Lịch sử, giáo viên thực hiện biện pháp này
không quá khó mà lại có hiệu quả và ý nghĩa to lớn, hơn nữa làm cho nội dung
bài học phong phú, giờ học sinh động, khắc sâu kiến thức cơ bản và trọng tâm.

Ví dụ 1: Dạy bài 16: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trong
những năm (1919 -1925).
Giáo viên cần làm cho học sinh nắm được các mốc lịch sử quan trọng.
Những hoạt động từ 1919- 1925 cần khắc sâu sự kiện tháng 7- 1920 Bác Hồ đọc
Bản sơ thảo Luận cương của Lê - Nin về "Vấn đề dân tộc và thuộc địa". Nguyễn
4


Ái Quốc đã bắt gặp được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, cái mà
người đã tìm kiếm bao năm qua, mở ra con đường giải phóng, chấm dứt thời kỳ
khủng hoảng bế tắc về đường lối của phong trào cách mạng Việt Nam. Phút giây
đọc được Luận cương của Lê Nin đánh dấu sự thay đổi về chất trong tư tưởng
cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Sau này (năm 1960), Người kể lại cảm xúc của
mình khi đọc Luận cương: "Luận cương của Lê Nin làm cho tôi rất cảm động,
phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi
một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông
đảo: "Hỡi đồng bào bị đoạ đày, đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây
là con đường giải phóng chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lê Nin, tin theo
Quốc tế thứ 3". Khẳng định cho dân tộc một con đường đi đúng đắn - Cách
mạng vô sản, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng bế tắc về đường lối. Đây là công
lao to lớn nhất đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc đối với dân tộc Việt Nam. Sẽ
không có ngôn ngữ nào có thể sinh động hơn, cảm động hơn để diễn tả nỗi vui
mừng của Người, khắc sâu sự kiện và làm rõ được ý nghĩa của nó bằng những
câu thơ của Chế Lan Viên trong tác phẩm " Người đi tìm hình của nước":
"Luận cương đến với Bác Hồ và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê Nin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách
Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin".
Ví dụ 2: Dạy bài 18: Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
Giúp học sinh nắm được ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng: Là bước

ngoặt vĩ đại trong lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng Việt Nam, khẳng
định giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành đủ sức lãnh đạo cách mạng, là nhân
tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam về sau.
Để góp phần làm sinh động giờ học, ghi nhớ cho học sinh tránh sự nhàm
chán khô khan có tính chính trị, giáo viên phác hoạ bằng hình ảnh của đoạn
trích : Ba mươi năm đời ta có Đảng (Tố Hữu)
- Trước khi Đảng ra đời:
"Thưở nô lệ, thân ta mất nước
Cảnh cơ hàn trời đất tối tăm
Một đời đau suốt trăm năm
Chim treo trên lửa, cá nằm dưới dao
Giặc cướp hết non cao biển rộng
Cướp cả tên nòi giống tổ tiên
Lưỡi gươm cắt đất ngăn miền
Núi sông một khúc ruột liền chia ba”
- Đảng ra đời:
"Đảng ta sinh ở trên đời
Một hòn máu đỏ nên Người hôm nay
Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt
Đảng ta đây xương sắt da đồng
5


Đảng ta muôn vạn công nông
Đảng ta muôn vạn tấm lòng niềm tin
Đảng ta Mác - Lênin vĩ đại
Lại hồi sinh trả lại cho ta
Trời cao đất rộng bao la
Bát cơm, tấm áo, hương hoa hồn người".
Như thế học sinh sẽ dễ dàng nắm được: Đảng ra đời là sự chuẩn bị đầu

tiên, tất yếu quyết định mọi thắng lợi về sau cho cách mạng Việt Nam.
Ví dụ 3: Dạy bài 19: Phong trào cách mạng trong những năm 1930 –
1935 (Mục II: Phong trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao Xô Viết Nghệ
Tĩnh).
Để khắc sâu kiến thức trọng tâm và nhấn mạnh ý nghĩa của phong trào Cuộc tập dượt lần thứ nhất cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, giáo
viên dùng đoạn thơ sau để minh hoạ:
"Trống Xô Viết Nghệ An vang động
Bắc Trung Nam tràn sóng đấu tranh
Hầm than, xưởng máy, lều gianh
Đứng lên tự cứu mà giành ấm no
Đứng lên cứu tự do độc lập
Đứng lên giành ruộng đất áo cơm!
Đứng lên thân cỏ, thân rơm
Búa liềm không sợ súng gươm bạo tàn!
Máu có chảy xương tan thịt nát
Bớ công nông! tiếng hát càng cao"
Hoặc: khi nói về Xô Viết Nghệ Tĩnh có thể đọc cho học sinh mấy câu thơ
sau:
"Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước
Nọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên
Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên
Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi
Không có lẽ ta ngồi chịu chết
Phải cùng nhau cương quyết một phen..."
Giáo viên hỏi? Kết hợp với kiến thức đã học và đoạn thơ trên, em có nhận
xét gì về quy mô, lực lượng, mục tiêu, kết quả và ý nghĩa của phong trào 1930 1931? Sau khi học sinh trả lời, giáo viên có thể rút ra nhận xét: Thành quả lớn
nhất của cao trào cách mạng 1930 -1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh là đã khẳng
định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo cách mạng của giai cấp
công nhân thông qua chính đảng tiên phong của mình, đoàn kết với các tầng lớp
nhân dân yêu nước có đủ khả năng đánh đổ nền thống trị của đế quốc, phong

kiến tay sai, giải phóng dân tộc, đem lại tự do hạnh phúc cho nhân dân. Đây
chính là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, không chỉ đặt ra vấn đề liên minh công nông, vấn
đề ruộng đất và dân cày, mà còn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, vấn đề
6


đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, từng bước tạo thế và lực để
từng bước đi tới thắng lợi của Cách mạng tháng tám năm 1945.
Ví dụ 4: Dạy bài 20: Cuộc vận động dân chủ trong những năm 1936
-1939.
Để giúp học sinh rút ra nhận xét và ghi nhớ phong trào cách mạng 1936 1939 thực sự là một phong trào dân tộc dân chủ rộng lớn từ Bắc đến Nam, lôi
cuốn đông đảo các lực lượng tham gia với mục tiêu trước mắt "Tự do, cơm áo,
hoà bình". Trên cơ sở liên minh công nông Đảng đã tập hợp được đội quân
chính trị đông đảo thông qua Măt trận Dân chủ Đông Dương. Có ý nghĩa là cuộc
tập dượt lần thứ hai cho thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám. Giáo viên có thể
minh hoạ bằng đoạn thơ sau:
"Áo nâu liền với áo xanh
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên
Đòi cơm áo, đòi quyền dân chủ.
Đường càng đi đội ngũ càng đông.
Suối ngàn đã chảy thành sông!
Đố ai tát cạn được dòng nước xuôi"
(Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu)
Ví dụ 5: Dạy bài 22: Cao Trào cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa tháng
tám năm 1945. Mục (I): Mặt trận Việt Minh ra đời (19 -5 -1941).
Có sự kiện Bác Hồ về nước sau 30 năm bôn ba (28/1/1941) đồng thời
cũng là một mốc đánh dấu thời kỳ mới của lịch sử dân tộc gắn liền với Hội nghị
Trung ương Tám, quá trình chuẩn bị tích cực cho Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền, đòi hỏi giáo viên phải khắc sâu cho học sinh.

Chuyện tưởng chừng đơn giản, thế nhưng có những lúc ngay cả trong bài
thi tốt nghiệp quốc gia có nhiều em nhầm lẫn đáng buồn "năm 1924 Nguyễn Ái
Quốc về nước", có em lại viết năm 1944 mới về nước. Đó là một điều vô cùng
đáng tiếc. Chính vì thế để cho học sinh dễ nhớ hơn tránh bị nhầm lẫn giáo viên
sử dụng đoạn thơ trong bài “Theo Chân Bác” của Tố Hữu miêu tả về sự kiện
này:
"Ôi sáng xuân nay Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về… Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ…
Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi năm ấy chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi".
Ví dụ 6: Dạy bài 25: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp xâm lược 1946-1950. Mục I: Kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp bùng nổ.
Giáo viên cần phải giúp học sinh nắm được: Vì sao cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp bùng nổ ngày 19 tháng 12 năm 1946? Một mặt
7


hướng dẫn học sinh nắm các sự kiện bội ước và quyết tâm cướp nước ta một lần
nữa của Pháp, đồng thời phân tích "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ
tịch Hồ Chí Minh để thấy được khả năng đấu tranh ngoại giao hoà bình giữa ta
và Pháp là không còn nữa. Thực dân Pháp đã buộc ta phải cầm súng đứng lên để
bảo vệ nền độc lập dân tộc. Để góp phần ghi nhớ cho học sinh đồng thời làm giờ
học thêm sinh động giáo viên có thể sử dụng đoạn thơ sau:
“Hỡi quốc dân! Hỡi đồng bào !
Có gươm, có súng, có dao hãy dùng

Quyết kháng chiến đến cùng cứu nước!
Toàn dân trông phía trước, tiến lên!
Nửa đêm vang tiếng lệnh truyền
Phố giăng chiến lũy, đường xuyên chiến hào...
Hồn nước dựng thành cao muôn trượng
Tay Đảng rèn lực lượng muôn dân
Một dân tộc hai bàn tay trắng
Đồng tâm là chiến thắng thành công”
(Tố Hữu)
Mục V: Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân toàn diện.
Sau thất bại Việt Bắc, Pháp chuyển từ "Đánh nhanh thắng nhanh" sang
"Đánh lâu dài, thực hiện lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" làm cho phong trào
kháng chiến của chúng ta khó khăn. Trong những năm 1948 - 1949 ta thực hiện
kháng chiến toàn dân toàn diện, đặc biệt là: Đẩy mạnh chiến tranh du kích vùng
sau lưng địch, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta. Các đơn vị
bộ đội chủ lực phân tán thành đại đội độc lập đi sâu vào vùng địch tạm chiếm
tích cực hoạt động. Để giúp học sinh nắm được khái niệm "Chiến tranh du kích"
và ý nghĩa của chủ trương này, giáo viên có thể minh hoạ bằng bài thơ của Bác
viết năm 1948 về "Kinh nghiệm du kích Pháp":
"Bất kỳ trẻ hay già
Đàn ông hay đàn bà
Đều ra sức tham gia
Đánh du kích
Không có súng ta dùng dao
Ta dùng cuốc
Ta dùng cào
Ta lấy đòn gánh
Ta nhổ cọc rào
Đánh cho chúng nhào"
Và bài thơ: Chiến tranh du kích:

"Du kích đánh bí mật
Chúng có mắt như mù
Cắt dây thép quân thù
Chúng có tai như điếc
Đường sá ta phá hết
8


Chúng có chân như què
Lương thực dấu sạch đi
Chúng chết đói chết khát
Ta dùng lối đánh úp
Cướp súng thù giết thù
Dù tàu bay tàu bò
Cũng không làm gì được".
(Hồ Chí Minh).
Ví dụ 7: Dạy bài 28: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh
chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Miền Nam (1954- 1965). Mục III:
Miền Nam đấu tranh chống chế độ Mỹ - Diệm, giữ gìn và phát triển lực lượng
cách mạng, tiến tới Đồng khởi (1954- 1960).
Giáo viên cần khắc hoạ cho học sinh, nhấn mạnh về phong trào "Đồng
khởi" - đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của Cách mạng Miền Nam từ thế giữ
gìn lực lượng sang thế tiến công. Đồng thời giúp học sinh nắm được nguyên
nhân của phong trào Đồng khởi là do chính sách tàn bạo của Mỹ - Diệm, Luật
phát xít 10/59 làm cho nhân dân miền Nam hết sức căm phẫn, phong trào không
thể đấu tranh bằng chính trị được nữa mà tất yếu phải vùng lên dùng bạo lực
cách mạng. Để tái hiện lại những chính sách tàn bạo đó không có ngôn ngữ nào
hiệu quả hơn đoạn trích sau:
"Biết không anh, Giồng keo, Giồng Trôm
Thảm lắm anh à. Lũ ác ôn

Giết cả trăm người trong một sáng
Máu tươi lênh láng đỏ đường thôn.
Có những ông già nó khảo tra
Chẳng khai, nó chém giữa sân nhà
Có chị gần sinh không chịu nhục
Lấy vồ nó đập, vọt thai ra.
Anh biết không? Long Mỹ, Hiệp Hưng
Nó giết thanh niên ác quá chừng
Hai sáu đầu trai bêu cọc sắt
Ba hôm mắt vẫn mở trừng trừng!
Có em nhỏ nghịch ra xem giặc
Nó bắt vô vườn trói gốc cau
Nó đốt, nó cười… em nhỏ thét
Má ơi! Nóng quá, cứu con mau!"
(Lá thư Bến Tre - Tố Hữu).
Mục IV: Miền Bắc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất- kỹ thuật của Chủ
nghĩa xã hội (1961- 1965).
Đây là một nội dung kiến thức khô khan, giáo viên có thể khắc phục bằng
việc sử dụng đoạn thơ của Tố Hữu ca ngợi về những thành tựu của miền Bắc
trong thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội 05 năm (1961 - 1965) đã làm cho miền
9


Bắc thay da đổi thịt trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước, với
chế độ chính trị ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh.
“Năm năm mới bấy nhiêu ngày
Mà trông trời đất đổi thay đã nhiều…
Dân có ruộng dập dìu hợp tác
Lúa mượt đồng, ấm áp làng quê
Chiêm mùa, cờ đỏ ven đê

Sớm trưa tiếng trống đi về trong thôn.
Màu áo mới nâu non nắng chói
Mái trường tươi roi rói ngói son
Đã nghe nước chảy lên non
Đã nghe đất chuyển thành con sông dài
Đã nghe gió ngày mai thổi lại
Đã nghe hồn thời đại bay cao...
Núi rừng có điện thay sao
Nông thôn có máy làm trâu cho người”
(Ba mươi năm đời ta có Đảng – Tố Hữu).
Ví dụ 8: Dạy bài 30: Giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất
nước (1973 - 1975). Mục IV: Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của Cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975).
Phân tích về nguyên nhân truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc ta
giáo viên có thể minh hoạ bằng những đoạn thơ sau:
"Dân ta gan dạ anh hùng
Trẻ làm đuốc sống, già xông lửa đồn"
"Tuốt gươm không chịu sống quỳ
Tuổi xanh chẳng tiếc, sá chi bạc đầu
Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành"
"Ôi cửa Phật dầu sôi lửa nóng
Dẫu thiêu mình làm đuốc, vẫn cam!"
(Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ở ngã tư Sài Gòn năm 1963 để
phản đối chính sách của Ngô Đình Diệm đối với Phật giáo).
Rồi hình ảnh của những người mẹ, người phụ nữ kiên trung anh dũng:
"Một tay, lái chiếc đò ngang
Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày"
(Mẹ Suốt).
"O du kích nhỏ dương cao súng

Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu
Ra thế! To gan hơn béo bụng
Anh hùng đâu cứ phải mày râu".
Hình ảnh của anh công nhân Nguyễn Văn Trỗi hiên ngang trước họng
súng quân thù, chị Võ Thị Sáu vẫn bình tĩnh, lạc quan trên đường ra pháp
10


trường, những anh giải phóng quân "Hai mươi năm chẳng dừng chân trên
đường". .. Cuối cùng giáo viên kết luận:
"Ôi Việt Nam xứ sở lạ lùng
Đến em thơ cũng hoá những anh hùng
Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí".
Truyền thống yêu nước của nhân dân ta đã được phát huy cao độ trong
thời đại Hồ Chí Minh làm nên thế trận chiến tranh nhân dân, sức mạnh thần kỳ
mà vũ khí hiện đại của tên đầu sỏ đế quốc - "Sen đầm quốc tế" cũng phải khuất
phục.
* Giải pháp 2: Dùng một đoạn trích để cụ thể hoá sự kiện, nêu ra một
kết luận khái quát giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn một thời kỳ, một sự kiện
lịch sử.
Ví dụ 1: Bài 22: Cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa tháng tám
năm 1945.
Trước tình hình thế giới và trong nước ngày càng khẩn trương ngày
28/01/1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước triệu tập Hội nghị lần thứ 8 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị đã hoàn chỉnh
chủ trương chuyển hướng đấu tranh cách mạng đã được nêu ra từ Hội nghị TW
lần thứ VI tháng 9/1939, chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh. Để làm cho
giờ học nhẹ nhàng mà hiệu quả, giáo viên có thể thay cách dạy thông thường
bằng một đoạn trích kể về Hội nghị TW8 nhẹ nhàng theo hồi ký của Hoàng

Quốc Việt kể lại những nội dung cơ bản nhất của Cách mạng được thảo luận và
giải quyết trong Hội nghị kết hợp với kênh hình SGK.
Hội nghị TW8 họp từ 10-19/5/1941 tại rừng Khuổi Nậm - Pắc Bó - Cao
Bằng trong một căn nhà sàn nhỏ, trước nhà là một khóm hoa vàng rực. Trong
nhà kê một chiếc chõng tre và những khúc gỗ để ngồi. Đơn sơ là thế, vậy mà
đây lại là nơi tạo bước ngoặt lịch sử cho cách mạng Việt Nam. Mở đầu, Bác nêu
chương trình làm việc, rồi Bác nhận định ngay tình hình thế giới và trong nước,
rằng phát xít Đức sẽ tấn công Liên Xô. Chiến tranh Thái Bình Dương do phát xít
Nhật khởi xướng cũng sẽ bùng nổ. Thế giới loài người sẽ phải nung nấu trong
lửa sát sinh. Bọn phát xít sẽ làm cho loài người căm phẫn, phong trào cách mạng
sẽ phát triển, phe chống phát xít mà Liên Xô là trụ cột sẽ thắng lợi, phe phát xít
sẽ thất bại. Bác nói: “Chiến tranh thế giới thứ nhất đẻ ra Liên Xô, chiến tranh thế
giới lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa. Cách mạng giải phóng dân tộc
sẽ thành công ở nhiều nước thuộc địa. Nhưng muốn giành thắng lợi, mỗi nước
phải tự nỗ lực rất cao. Riêng đối với Đông Dương phải đặt nó trong hoàn cảnh
“Nước sôi lửa bỏng” phải tập trung, huy động mọi lực lượng vào giải phóng dân
tộc, đánh đuổi Nhật Pháp, lập Mặt trận dân tộc thống nhất trong cả nước, hướng
công tác cách mạng vào nhiệm vụ trung tâm: Cứu quốc, tên của Mặt trận thống
nhất là gì? vấn đề được nhiều người thảo luận nhất… Cuối cùng Bác nêu ý kiến.
Lúc này chúng ta phải mở rộng khối đoàn kết, phải tìm bạn đồng minh cần thiết
và cô lập những người không hợp với mình. Bác đề nghị lấy tên Việt Nam độc
11


lập đồng minh (Việt Minh). Đảng ta và Việt Minh phải hết sức giúp đỡ các dân
tộc Miên, Lào tổ chức Cao niên độc lập đồng minh, Ai lao độc lập đồng minh.
Từ giờ phút thiêng liêng này, hai chữ Việt Minh đã vang lên mạnh mẽ trong lòng
dân tộc, suốt cuộc trường chinh chống đế quốc, trong tâm trí mọi người Việt
Minh trở thành nơi hội tụ sức mạnh của dân tộc, nguồn cổ vũ thu hút hết thảy
các lực lượng yêu nước vào cuộc. Ngay tại cuộc họp Bác soạn thảo ra 10 chính

sách Việt Minh, định tên nước sau khi giành được là Chính phủ nhân dân của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Khi bàn đến công tác tổ chức, chúng tôi đề nghị Bác đảm nhiệm chức
Tổng bí thư, Bác trả lời “Tôi đang làm nhiệm vụ do Quốc tế cộng sản giao phó.
Quốc tế cộng sản có thể điều động tôi đi làm nhiệm vụ nơi khác, do đó tôi không
thể làm nhiệm vụ Tổng bí thư của Đảng được”. Hội nghị bầu BCH Trung ương
Đảng, Bác giới thiệu đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư, Ban thường vụ
TW Đảng gồm: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt”.
Kết hợp với đoạn trích trên giáo viên sử dụng Nghị quyết Hội nghị TW8:
"Cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc". "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt
dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không
giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho
toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp
ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được".
Sau khi trình bày xong, giáo viên hỏi: Em hãy nêu hoàn cảnh, nội dung và
ý nghĩa Hội nghị TW8 (05/1941) ? Học sinh trình bày và giáo viên kết luận ghi
trên bảng những vấn đề chính.
Sau Hội nghị TW8, ngày 6-6-1941 Bác Hồ đã gửi thư kêu gọi đồng bào
cả nước với nhan đề “Kính cáo đồng bào”:
“Hỡi đồng bào yêu quý! Việc cứu quốc là việc chung, ai là người Việt
Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm… Riêng phần tôi xin đem
hết tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành lại tự do độc lập dẫu phải hy
sinh tính mệnh cũng không nề”.
“Hỡi các phụ lão, các chí sĩ… hỡi tất cả các phú hào, binh sĩ, thợ thuyền,
dân cày, nhà buôn, công chức, thanh niên, phụ nữ một lòng yêu nước! Giờ đây
công cuộc giải phóng dân tộc là cao hơn tất cả! Chúng ta phải đoàn kết lại, đánh
đổ Pháp – Nhật tay sai của chúng, để cứu dân ta khỏi vòng nước sôi lửa bỏng!”
“Hỡi các chiến sĩ cách mệnh! Giờ giải phóng đã đến. Hãy phát cao cờ độc

lập, lãnh đạo toàn dân đánh tan thù chung. Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc
đang vang dội bên tai các đồng chí!”.
Bức thư này được in và phát hành khắp cả nước, đã tác động sâu sắc đến
tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước của các tấng lớp nhân dân ta. Từ sau Hội
nghị TW8, cả nước bước vào thời kỳ chuẩn bị tích cức toàn diện tiến tới khởi
nghĩa giành chính quyền - một thời kỳ lịch sử hết sức sôi nổi.
12


Thực hiện hai đoạn trích trên kết hợp cùng với Nghị quyết TW8 thì học
sinh sẽ hiểu sâu sắc và tầm quan trọng, ý nghĩa của Hội nghị TW8, vai trò của
Hồ Chí Minh và Đảng ta đối với sự thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945.
Ví dụ 2: Dạy bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành
lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Để phác hoạ, miêu tả tình cảnh nhân dân ta dưới hai tầng áp bức Pháp,
Nhật nhằm khắc sâu kiến thức cho học sinh để các em nhận thức được lúc này
nhiệm vụ giải phóng dân tộc là hàng đầu và bức thiết. Trong khi miêu tả tình
cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trước nạn đói khủng khiếp cuối 1944
đầu 1945 làm hai triệu người chết, giáo viên dùng đoạn trích trong tác phẩm
“Vợ Nhặt”: “Cái đói tràn đến xóm từ lúc nào. Những gia đình từ vùng Nam
Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt dìu nhau lên xanh xám như
những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ.
Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái
thây nằm quằn queo bên đường. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi
gây của xác người”. Chính trong hoàn cảnh đó Tràng nhặt được vợ. Sáng hôm
sau bà mẹ nấu bữa cơm đón con dâu mới với niềm vui phấn khởi. “Bữa cơm
ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái
rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành” “Niêu
cháo lõng bõng, mỗi người được có hai lưng bát đã hết nhẵn”. “Bà lão lật đật
chạy xuống bếp, lề mề bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút” bà múc cho con

dâu, cho Tràng và nói: “Cám đấy mày ạ! Hì. Ngon đáo để. Cứ thử ăn mà xem.
Xóm ta khối nhà chả còn cám mà ăn đấy!”. “Ngoài đình trống thúc thuế đánh
dồn…”. “Trong đầu Tràng thấp thoáng lá cờ đỏ sao vàng và đoàn người đi cướp
kho thóc của Nhật”. Giáo viên dừng lại và nhận xét: “Nông dân sống cầm hơi
bằng hớp cháo cám nhạt và mình trần chịu rét lúc đêm đông”, các tầng lớp giai
cấp khác cũng không kém phần khốn đốn… Mâu thuẫn dân tộc gay gắt “Cả Việt
Nam giống như một đồng cỏ khô. Chỉ cần một tàn lửa nhỏ sẽ bùng lên thiêu
cháy bè lũ cướp nước và bán nước”.
Ví dụ 3: Dạy bài 24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân
chủ nhân dân (1945- 1946). Mục V: Đấu tranh chống quân Tưởng và bọn phản
cách mạng và Mục VI: Hiệp định sơ bộ (6-3) và Tạm ước (14-9).
Để thực hiện giờ dạy hấp dẫn, hiệu quả, giúp học sinh dễ nhớ về Hiệp
định sơ bộ đồng thời không bị nhầm lẫn với nội dung của Hiệp định Giơ-ne-vơ
hay Pa-ri thì giáo viên có thể dạy học bằng cách sử dụng phương pháp dùng tài
liệu văn học, tái hiện lại tiến trình ký kết, khắc sâu nội dung và ý nghĩa của Hiệp
định, làm nổi bật tài năng vai trò chủ tịch Hồ Chí Minh trong thử thách gay gắt
của lịch sử bằng lời kể chuyện qua một đoạn trích Hồi kí của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp như sau:
“Từ khi hiệp ước Hoa - Pháp kí kết ( 28/2/1946) quan hệ giữa quân
Tưởng và Pháp ở Hà Nội có lúc căng thẳng. Với cái nhìn sâu sắc của Hồ Chủ
Tịch, Người đã thấy rõ sự căng thẳng trong bọn chúng lúc này chỉ là tạm thời …
13


Sớm muộn chúng sẽ giàn xếp với nhau. Dù mâu thuẫn ít thì chúng ta vẫn cần lợi
dụng”.
Trước những lựa chọn đặt ra đánh Pháp hoặc hoà Pháp để đuổi Tưởng.
Ngày 3/3/1946 Ban thường vụ Trung ương Đảng họp do Hồ Chí Minh chủ trì
chọn giải pháp “Hoà để tiến”. “Cuộc trao đổi giữa ta và Pháp xoay quanh hai
vấn đề lớn, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Tiếng độc lập đối

với nhà cầm quyền Pháp là điều đáng sợ. Pháp chỉ đồng ý “Tự trị” vấn đề thống
nhất ba “Kì” Pháp có thái độ rất phản động.
Đối với chúng ta, độc lập và thống nhất là nguyện vọng thiết tha, ta không
chấp nhận “Tự trị” và như thế là bỏ một phần tự do, lập trường của ta trước sau
bắt Pháp công nhận độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Chính vì thế đến tối 05/6/1946
vẫn bế tắc. Ngày 06/3/1946 sáng sớm, hạm đội Pháp tiến vào Cảng Hải Phòng
(8h30’) quân Tưởng đã nổ súng, bọn Pháp bắn trả, cuộc đấu tranh kéo dài đến
11h trưa. Đàm phán giữa ta và Pháp vẫn chưa được. Hồ Chủ Tịch thấy đã đến
lúc cần đi đến một quyết định. Sau khi hội ý với Thường vụ, Người đưa ra cách
giải quyết: “Nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do…” (từ độc
lập được thay bằng từ tự do), Phái bộ Pháp ưng thuận. 04h chiều 06/3/1646 Hiệp
định sơ bộ được ký kết tại ngôi nhà số 38 phố Lý Thái Tổ. Đây là văn bản Hiệp
định quốc tế đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ký với một nước
ngoài”.
Giáo viên yêu cầu học sinh nêu nội dung Hiệp định sơ bộ theo sách giáo
khoa và ý nghĩa của Hiệp định. Qua cách trình bày này, giáo viên sẽ khắc sâu
nội dung “Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia tự do….” Tránh nhầm lẫn với
văn bản Hiệp định khác. Đồng thời nhấn mạnh thêm ý nghĩa to lớn của nó.
Giáo viên kết luận bằng nhận xét: Hiệp định sơ bộ là một “Mẫu người
tuyệt vời của sách lược Mác Xít - Lê Nin Nít về lợi dụng những mâu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc” của Đảng ta và của Hồ
Chủ Tịch:
"Người trông gió, bỏ buồm chọn lúc
Nước cờ hay, xoay vạn kiêu binh".
(Tố Hữu)
Ví dụ 4: Dạy Bài 29: Mục V: Hiệp định Pari 1973 về chấm dứt chiến
tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam.
Ngày 27/1/1973 Bản hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở
Việt Nam đã được chính thức kí kết tại Pa-ri. Để đi đến sự kiện trên phải có cả
một quá trình giằng co và kiên định. Qua “Hồi ức Pa-ri”, giáo viên đưa vào bài

học một số đoạn trích sẽ làm cho học sinh có thể tái hiện lại “Những năm tháng
đàm phán ở Pa-ri”. Trước hết giáo viên cung cấp: “Trưởng phái đoàn Chính phủ
cách mạng lâm thời cộng hoà Miền Nam Việt Nam là Bà Nguyễn Thị Bình tên
thật là Nguyễn Thị Châu Sa, cháu gái của nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh
sinh ở Sa Đéc, là Luật sư đồng thời cũng là lãnh tụ phong trào học sinh, sinh
viên. Từ 1962-1968 tham gia nhiều Hội nghị quốc tế, đi nhiều nước với tư cách
đại diện cho Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam. Từ 1968-1973
14


Bà là trưởng phái đoàn ngoại giao ở Pa-ri với tên Nguyễn Thị Bình do các đồng
chí ở Trung ương lựa chọn. “Bình là hoà bình”. Mục đích của một phái đoàn cái
tên của trưởng đoàn là đầy thiện chí”. Cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao
không kém phần quyết liệt như trên chiến trường Bà Bình kể lại:
Tháng 11/1968, phái đoàn của ta lên đường sang Pa-ri, anh Xuân Thuỷ từ
Pa-ri gọi điện về Mát-xcơ-va dặn chị: "cứ tươi cười như trước nay cô vẫn cười,
xuống sân bay cô chớ mang kính, nguy hiểm, chịu khó một tý vậy. Sao vậy
anh? “Tới đó cô sẽ biết…” Anh Xuân Thuỷ chỉ trả lời vắn tắt. Xuống sân bay
Pari, 500 nhà báo chen lấn, hàng trăm chiếc micrô. Nếu đeo kính dứt khoát bị
rơi do các nhà báo chen lấn phỏng vấn. Nếu cúi xuống nhặt thì ôi thôi … Buộc
phải ngồi với Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, nhưng họ vẫn
tìm cách hạ thấp vị trí của Mặt trận. Là Hội nghị 4 bên nhưng mà Mĩ cố tình coi
như Hội nghị 2 bên, ghép thành 2 phái đoàn Miền Nam và Miền Bắc với nhau.
Mĩ và Sài Gòn một bên, ta phải đấu tranh gần 3 tháng cuối cùng Mĩ phải nhận
ngồi với ta trên một chiếc bàn tròn. “Cuộc đấu tranh trên bàn Hội nghị diễn ra
hết sức gay gắt giữa ta và Mỹ. Lập trường của ta trước sau như một, đòi Mỹ
chấm dứt ném bom vô điều kiện trên Miền Bắc và rút quân từ bỏ mọi hành động
chống nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhưng Mỹ đòi chấm dứt ném bom có
điều kiện, bộ đội Miền Bắc phải rút khỏi Miền Nam”.
“Thời điểm năm 1970, phía Mỹ, Sài Gòn ra rả” các ông bị đẩy khỏi Miền

Nam rồi, bằng cớ là phải rút quân sang Căm-Pu-Chia”. Chị nghe mà tức quá
nhưng phải tươi cười: “Tại sao bom Mỹ liên tục trút xuống Miền Nam ở nhiều
nơi? Nơi nào bom Mỹ thả xuống, chính là vùng giải phóng của chúng tôi đấy”.
Giờ giải lao Cyrus Vance giáo sư về luật của đoàn Mỹ nói với chị : ‘Tôi chịu cái
lý của bà”, còn anh Xuân Thuỷ thì cười: “Thông minh”. Với lập trường vững
vàng, chính nghĩa cùng những thắng lợi của ta trên mặt trận chính trị, quân sự,
Mỹ phải khuất phục ký Hiệp định Pa-ri công nhận độc lập chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam.
Sau khi giáo viên kết thúc đoạn hồi ký, đặt câu hỏi cho học sinh: Em hãy
trình bày hoàn cảnh, nội dung cơ bản và ý nghĩa của Hiệp định Pa-ri? Như thế
chắc chắn học sinh sẽ tích cực tham gia hoạt động học tập và tự nhận thức bài
học.
* Giải pháp 3: Sử dụng tài liệu văn học trong việc kiểm tra đánh giá
kết quả học sinh.
Trong giai đoạn hiện nay thực hiện đổi mới giáo dục toàn diện trong đó có
kiểm tra đánh giá. Đến thời điểm hiện tại Văn - Sử - Địa, đề thi một số nơi vẫn
theo phương pháp tự luận. Để đánh giá khách quan và chính xác học sinh thì
hướng đổi mới trong cách ra đề đang được nhiều người quan tâm. Đó là ra theo
lối “Đề mở” để đánh giá năng lực vận dung của học sinh trong quá trình làm bài.
Đối với môn Lịch sử, phương pháp ra đề mở giáo viên có thể dùng kiến thức
văn học để làm đề kiểm tra cho học sinh, vừa hấp dẫn vừa kiểm tra đánh giá
được thực chất kết quả dạy học. Đồng thời góp phần tác động vào tư tưởng tích
cực học tập, tìm tòi của học sinh, phát triển tư duy nhận thức cho các em.
15


Ví dụ 1:
“Quét Cao – Lạng mở biên cương
Mênh mông gió lớn bốn phương thổi vào”
Đó là câu thơ nói lên kết quả của chiến thắng nào trong cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp 1946-1954? Anh (chị) hãy trình bày hoàn cảnh, diễn biến,
kết quả và ý nghĩa của chiến thắng đó?
Ví dụ 2:
“Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơn vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!”
(Tố Hữu).
Là những câu thơ diễn tả về diễn biến chiến dịch nào? Anh (chị) hãy trình
bày hoàn cảnh, diễn biến, kết quả ý nghĩa của chiến dịch đó.
* Giải pháp 4: Dùng tài liệu văn học để tổ chức những buổi sinh hoạt
ngoại khoá:
Hoạt động ngoại khoá là một trong những hình thức tổ chức dạy học Lịch
sử ở trường phổ thông, được thực hiện một cách có mục đích, có kế hoạch, có tổ
chức, được tiến hành trong suốt năm học, theo các chuyên đề nhằm góp phần
thực hiện mục tiêu của chương trình môn học. Tuy là hoạt động ngoài trời nhưng
có ý nghĩa to lớn, tác dụng như một bài nội khoá trong việc giáo dục và giáo
dưỡng học sinh.
Đối với môn Lịch sử, trong năm có nhiều ngày lễ lớn như: Kỷ niệm thành
lập Đảng Cộng Sản Việt Nam 3/2; Ngày truyền thống Quân đội nhân dân Việt
Nam 22/12; Ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ 7/5; Ngày chiến thắng
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Miền Nam 30/4… Tất cả đều có thể
làm các chuyên đề ngoại khoá vừa hấp dẫn vừa có ý nghĩa to lớn.
Có thể có nhiều hình thức tổ chức ngoại khoá khác nhau, trong đó tổ Lịch
sử có thể kết hợp với tổ văn để tiến hành ngoại khoá Văn - Sử theo các chuyên
đề trên cho học sinh để đạt hiệu quả gấp bội sẽ không làm cho học sinh nhàm
chán, nặng nề vừa hiểu được nội dung Lịch sử vừa có kiến thức về Văn học.
Ngược lại bổ sung kiến thức toàn diện cho giáo viên, thực hiện học tập suốt đời
và nâng cao năng lực sư phạm, kỹ năng nghề nghiệp. Hiệu quả hai chiều.
(Tuỳ từng chuyên đề – giáo viên cần nghiên cứu, và tổ chức phù hợp – trong

giới hạn đề tài không đưa ra ví dụ).
* Giải pháp 5: Có thể sử dụng để ra bài tập cho học sinh về nhà.
Với cách này, sau mỗi chương, mỗi giai đoạn lịch sử giáo viên có thể ra
bài tập chuyên đề cho học sinh về nhà sưu tầm các bài văn, thơ, hồi ký về giai
đoạn lịch sử mà mình đã học. Có thể khuyến khích bằng cách chấm và cho điểm
15 phút. Sử dụng phương pháp này vừa phát huy tính tích cực tìm tòi cho học
sinh, nâng cao hiểu biết cho các em đồng thời qua đó giáo viên có thể học tập
thêm, nâng cao thêm những hiểu biết của mình. Có thể làm chuyên đề về lịch sử
địa phương để giáo dục truyền thống của quê hương cho các em.
16


2.4. Hiệu quả của đề tài đối với hoạt động giáo dục, với bản thân đồng
nghiệp và nhà trường.
Trong năm học 2017 – 2018 và năm học 2018 – 2019, trong quá trình
giảng dạy lịch sử khối 9 để đạt hiệu quả cao hơn, tôi đã mạnh dạn áp dụng:
“Khai thác một số kiến thức thơ văn để dạy tốt Lịch sử Việt Nam lớp 9 góp
phần nâng cao chất lượng dạy học ở trường THCS Quảng Hưng” và kết quả
đạt được như sau: Khoảng 80% học sinh mạnh dạn đóng góp ý kiến, nắm được
nội dung cần học ở lớp cũng như nội dung cần luyện tập ở nhà, đặc biệt các sự
kiện được khắc sâu trong tâm trí các em. Một số học sinh khá giỏi thuộc bài
ngay tại lớp. Học sinh đã có thói quen soạn trước những nội dung giáo viên giao
ở nhà trước khi đến lớp (kể cả bài tập và sưu tầm những câu thơ đoạn văn, hồi
ký). Khoảng 60% có khả năng trình bày diễn đạt kiến thức trước cả lớp, giúp
phong trào học tập của các em tích cực chủ động, phát biểu sôi nổi trong tiết
học. Tái hiện kiến thức nhanh và nhớ kiến thức được lâu. Kết quả cụ thể như
sau:
* Trước khi áp dụng các biện pháp trong đề tài:
Giỏi
Khá

TB
Yếu - Kém
Năm học
Lớp Sĩ số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
35
8
22,9
12
34,3
15
42,9
2016 - 2017 9B
32
5
15,6
10
31,3
17
53,1
9C
32

4
12,5
11
34,4
16
50,0
1
3.1
* Sau khi áp dụng các biện pháp trong đề tài:
Giỏi
Khá
Năm học
Lớp Sĩ số
SL
%
SL
%
9A
35
10 28,6
15
42,9
2017 - 2018 9B
32
7
21,9
15
46,9
9C
32

6
18,8
12
37,5
9A
35
15 42,9
18
51,4
2018 - 2019 9B
32
9
28,1
17
53,1
9C
32
8
25,0
15
46,9

TB
SL
10
10
14
2
6
9


%
28,6
31,3
43,8
5,7
18,8
28,1

Yếu - Kém
SL
%

Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sáng kiến kinh
nghiệm này vào các tiết dạy và đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản thân
đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách
giáo khoa và với những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học
tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất
linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kỹ năng.
Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng, học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi cũng
hy vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các
kỳ thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học này hơn.

17


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Dạy học là một nghệ thuật mà người thầy giáo là một nghệ sĩ. Để đạt
được hiệu quả và mục tiêu bài học đòi hỏi người thầy phải không ngừng tìm

kiếm những phương pháp dạy học phù hợp. Tuy nhiên không có phương pháp
nào là tối ưu mà phải biết kết hợp nhiều phương pháp.
Trong quá trình giảng dạy tôi luôn tìm tòi, học hỏi để không ngừng nâng
cao nghiệp vụ sư phạm và kỹ năng nghề nghiệp, đổi mới và tìm kiếm nhiều
phương pháp nhằm khắc phục những áp lực của môn học đối với học sinh nhằm
nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Phương pháp trên đây đã được sử dụng
trong thực tế và có nhiều kết quả khả quan, đặc biệt là làm cho không khí của
giờ học Lịch sử bớt phần căng thẳng, các em chú ý và phấn chấn hơn. Qua thực
tế kiểm tra chất lượng đã được nâng lên rõ rệt, đặc biêt là thái độ đối với môn
học.
Tuy nhiên, việc thực hiện phương pháp này cũng đòi hỏi người thầy giáo
phải thật sự say mê, có tâm huyết đầu tư thời gian, trí tuệ, nghiên cứu tìm tòi,
soạn giảng vì tốn rất nhiều thời gian. Ngược lại thực hiện nó có hiệu quả sẽ làm
cho sự hiểu biết của người thầy được mở rộng, tầm vóc của thầy được nâng lên
và người thầy giáo sẽ trở thành một tấm gương có tác động tích cực trong quá
trình giáo dục học sinh góp phần thực hiện thành công mục tiêu lớn của sự
nghiệp trồng người.
Trên đây là một vài phương pháp trong số rất nhiều phương pháp để vận
dụng kiến thức Văn học để giảng dạy bộ môn Lịch sử mà bản thân đã được áp
dụng và có hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, để có một kinh nghiệm tốt hơn bản
thân còn phải cố gắng suy nghĩ và thử nghiệm trong một thời gian dài. Kính
mong được sự góp ý của đồng nghiệp nhất là những giáo viên có kinh nghiệm
lâu năm trong quá trình giảng dạy.
3.2. Kiến nghị.
Hiện nay trong các trường đã được cấp rất nhiều các thiết bị dạy học. Tuy
nhiên đối với môn Lịch sử thì các đồ dùng thiết bị còn ít, vì vậy muốn đạt được
kết quả cao trong môn này theo tôi cần có những yêu cầu:
- Các cơ quan thiết bị trường học cần có đầy đủ tranh ảnh về các di tích lịch
sử và các di sản văn hóa hoặc chân dung của các nhân vật lịch sử có công với
cách mạng.

- Nhà trường cần trang bị cơ sở vật chất, phương tiện dạy học hiện đại giúp
giáo viên dạy tốt môn lịch sử.
- Tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học ở tất cả các
môn trong đó có môn Lịch sử.
- Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên có nhiều thời gian đầu tư cho bài dạy
đạt hiệu quả tốt nhất.
- Thông qua những lớp chuyên đề phổ biến những sáng kiến kinh nghiệm
có hiệu quả để các đồng nghiệp được học hỏi, trao đổi và cũng nên đưa ra những
18


thiếu sót, hạn chế của những sáng kiến kinh nghiệm chưa được để chúng tôi rút
kinh nghiệm cho lần sau.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của
thủ trưởng đơn vị

Thanh hóa, ngày
tháng năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Trịnh Thị Liên

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK Lịch sử lớp 9 - Nhà xuất bản giáo dục.

2. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Lịch sử THCS – Nhà
xuất bản giáo dục.
3. Một số vấn đề về Lịch sử - Trường Đại học sư phạm Hà Nội: - NXB Đại
học quốc gia Hà Nội.
4. Một số chuyên đề phương pháp dạy học Lịch sử - Phan Ngọc Liên – Trịnh
Đình Tùng – Nguyễn Thị Côi – NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
5. Website: Thư viện giáo án Violet.
6. Một số tài liệu văn học, địa lý.

20



×