Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Một số giải pháp hình thành động cơ, ý thức học tập, rèn luyện cho học sinh lớp chủ nhiệm ở trường THPT yên định 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.83 KB, 13 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo là nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với các
nhà trường nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Có nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng giáo dục, đào tạo, trong đó động cơ, ý thức học tập, rèn luyện là
yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động học tập, tự học của người học. Khi người
học xây dựng được cho mình động cơ học tập đúng đắn sẽ học tập một cách tích cực,
hứng thú, say mê. Ngược lại, việc học tập mang tính chất đối phó, miễn cưỡng thường
xuất phát từ động cơ học tập không phù hợp. Do vậy, nghiên cứu để xây dựng động
cơ học tập đúng đắn cho học sinh là rất cần thiết để nâng cao chất lượng dạy và học
trong nhà trường.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn
diện Giáo dục và Đào tạo xác định mục tiêu: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về
chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam
phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá
nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả…”
Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã và đang ảnh hưởng xấu tới
nhiều mặt trong đời sống xã hội của Việt Nam. Ngành giáo dục không thể đứng ngoài
cuộc. Có rất nhiều ý kiến mang nặng sự lo lắng, trăn trở về những thách thức hiện nay
mà ngành giáo dục đang phải đối mặt: Đâu đó vẫn còn tình trạng học sinh vi phạm nội
quy, thiếu lễ độ với người lớn, thầy cô giáo, ham chơi, thờ ơ vô cảm hoặc phai nhạt lý
tưởng, đặc biệt là tình trạng bạo lực học đường gây nên sự bức xúc lớn trong dư luận
xã hội. Việc giáo dục đạo đức cho học sinh, giáo dục truyền thống cùng những đạo lý
về đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn… là vô cùng quan trọng trong nội dung
giáo dục của các nhà trường để hình thành nên phẩm chất cho những chủ nhân tương
lai của đất nước. Làm sao để sau khi ra trường mỗi học sinh đều phải có lý tưởng đẹp,
có tình yêu Tổ quốc và lòng tự hào tự tôn dân tộc, tự hào về truyền thống, lịch sử nhà
trường, phát triển về trí tuệ và thể chất, kỹ năng sống tốt, năng động, sáng tạo, là
nguồn nhân lực chất lượng cao, đóng góp tích cực vào sự phát triển của quê hương,
đất nước, hướng tới công dân toàn cầu.


Việc hình thành động cơ, ý thức học tập, rèn luyện cho học sinh ở trường THPT
có vai trò đặc biệt quan trọng bởi đây là những năm tháng quan trọng nhất quyết định
về tương lai, sự nghiệp và sự thành công của các em, trong đó công tác giáo dục tư
tưởng chính trị của nhà trường nói chung và của giáo viên chủ nhiệm nói riêng sẽ góp
phần rất lớn trong việc hình thành nhân cách, đạo đức lối sống, kết quả học tập, định
hướng nghề nghiệp…

1


Được phân công làm công tác chủ nhiệm lớp là một vinh dự nhưng cũng là
trách nhiệm lớn lao, với mong muốn nâng cao chất lượng giáo dục của lớp mình tôi
đã mạnh dạn chọn đề tài:“ Một số giải pháp hình thành động cơ, ý thức học tập, rèn
luyện cho học sinh lớp chủ nhiệm ở trường THPT Yên Định 2”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Qua quá trình phân tích, nghiên cứu, thu thập thông tin về động cơ, ý thức học
tập, rèn luyện của học sinh, rút ra một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp,
giáo dục học sinh phát huy những mặt mạnh, khắc phục hạn chế trong quá trình học
tập và rèn luyện.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Những yếu tố tác động tới việc hình thành động cơ ý thức học tập, rèn luyện của học
sinh
- Chất lượng giáo dục của lớp chủ nhiệm
- Các tư liệu về truyền thống, lịch sử nhà trường
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Cơ sở lý luận và thực tiễn trong
việc hình thành động cơ ý thức học tập, rèn luyện của học sinh
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Khảo sát tình hình dạy học, khảo sát chất
lượng giáo viên và học sinh.
- Phương pháp thu tập thông tin: Thu thập các thông tin cần thiết trong quá trình

nghiên cứu.
- Phương pháp thống kế, xử lý số liệu: Thống kê số liệu về học tập và rèn luyện của
học sinh.
2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1.1. Tìm hiểu về động cơ
Động cơ trong tiếng Latin là Motif, có nghĩa là nguyên nhân thúc đẩy con
người hành động. Nguyên nhân này nằm bên trong chủ thể có thể xuất phát từ nhu cầu
sinh lý hay tâm lý (vì đói khát mà con người đi tìm thức ăn, nước uống; vì yêu quý
thầy cô mà trẻ học hành…)
Theo từ điển Tiếng Việt: “Động cơ là những gì thôi thúc con người có những
ứng xử nhất định một cách vô thức hay hữu ý và thường gắn liền với những nhu cầu”.
Theo Nguyễn Quang Uẩn: “Động cơ là cái thúc đẩy con người hoạt động nhằm
thoả mãn nhu cầu, là cái làm nảy sinh tính tích cực và quy định xu hướng của hướng

2


tích cực đó. Động cơ là động lực kích thích trực tiếp, là nguyên nhân trực tiếp của
hành vi”.
Theo Phan Trọng Ngọ: “Động cơ học tập là cái mà việc học của họ phải đạt
được để thoả mãn nhu cầu của mình. Nói ngắn gọn, học viên học vì cái gì thì đó chính
là động cơ học tập của học viên”
Như vậy, động cơ học tập là yếu tố định hướng, thúc đẩy hoạt động học tập, nó
phản ánh đối tượng có khả năng thỏa mãn nhu cầu chiếm lĩnh tri thức của người học.
2.1.2. Sự hình thành động cơ học tập
Theo Nguyễn Thạc: Tất cả sự kiện, vật chất hay hành động đều trở thành động
cơ nếu chúng liên quan đến nguồn gốc tích cực (các nhu cầu) của con người. Theo
Piaget: Động cơ là tất cả các yếu tố thúc đẩy cá thể hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu
và định hướng cho hoạt động đó. Động cơ tồn tại ở hai dạng: động cơ bên trong và

động cơ bên ngoài. Động cơ bên trong của mỗi người được hình thành từ sự thích thú
đối với hoạt động học tập nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết. Động cơ bên ngoài được
hình thành không phải do sự hứng thú của bản thân trong việc học mà là sự hứng thú
từ kết quả của việc học tập mang lại (được điểm cao, được khen thưởng, tránh bị phạt,
để làm vui lòng ai đó,…). Willis J. Edmondson cho rằng: Động cơ học tập bên trong
do xuất phát từ đam mê, yêu thích, niềm vui và có nhu cầu thực sự, động cơ học tập
bên ngoài do chịu tác động của ngoại cảnh như khen ngợi của thầy cô và cha mẹ, môi
trường giảng dạy, tài liệu học tập.
Nguồn gốc bên trong của động cơ như: hứng thú, chú ý, ý chí, nhu cầu… trong
đó quan trọng nhất là nhu cầu của con người. Nhu cầu gặp được đối tượng có điều
kiện thực hiện sẽ trở thành động cơ. Đối tượng của hoạt động học là những tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo. Đối tượng này tồn tại bên ngoài chủ thể, có ý nghĩa đối với chủ thể, làm
nảy sinh chủ thể nhu cầu chiếm lĩnh nó. Khi nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng được chủ
thể ý thức sẽ trở thành động cơ thúc đẩy, định hướng, duy trì hoạt động học tập. Như
vậy động cơ gắn liền với nhu cầu, mong muốn của cá nhân. Nói cách khác nhu cầu,
mong muốn chính là yếu tố bên trong quan trọng hình thành nên động cơ của chủ thể.
Động cơ học tập hình thành từ những xúc cảm, nhu cầu, và hoài bão làm cho
học sinh suy nghĩ và hành động học tập, là yếu tố kích thích, nung nấu thúc đẩy tính
tích cực trong học sinh nhằm tiếp thu kiến thức và phát triển nhân cách, nó không có
sẵn hay tự phát mà hình thành dần trong quá trình học tập của học sinh dưới hướng
dẫn của cha mẹ và thầy cô; vì vậy cha mẹ, thầy cô và nhà trường thông qua chương
trình, kế hoạch hoạt động đã được chuẩn bị trước mà tác động một cách tích cực, có
tập trung lên con em, học sinh của mình nhằm tạo nên hưng phấn, hứng thú, lòng ưa
khen ngợi, quý mến, thương mến. Học sinh có động cơ học tập tốt có những phẩm
chất như tính tích cực, tự giác, chăm chỉ, siêng năng học tập; học sinh không có động
cơ học tập thì chán nản, bỏ học, lưu ban. Một học sinh chán học do một trong nhiều
nguyên nhân và hoàn cảnh, những yếu tố như nội dung môn học nặng, bài vở dồn nén
3



không đủ thời gian học bài- làm bài, sức khỏe yếu, do bị bệnh hoặc hoàn cảnh gia
đình có khó khăn kinh tế, thiếu hụt tình cảm cha mẹ, gia đình do đó không thể tiếp thu
kiến thức dẫn đến ức chế, tụt hậu. Ngoài động cơ học tập, mỗi người còn có ý chí mới
thành công; Ý chí tạo nên từ động cơ học tập có định hướng tương lai và mục đích
cuộc sống. Ông bà ta có câu “Có chí thì nên”, ông Nguyễn Bá Ngọc có nói “Người
không chí như ngựa không cương, trôi dạt bông lông, không ra gì cả”;
2.1.3. Ý thức học tập, rèn luyện.
Ý thức học tập là nhận thức của học sinh về vai trò và lợi ích của việc học đối
với sự phát triển con người và toàn xã hội. Ý thức học tập thể hiện qua mục đích,
động cơ, phương hướng và cách thức học tập ở trường lớp, trong công việc và ngoài
đời sống. Ý thức học tập tích cực chính là động lực đưa con người đến thành công.
2.2. THỰC TRẠNG VỀ ĐỘNG CƠ, Ý THỨC HỌC TẬP, RÈN LUYỆN CỦA
HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
2.2.1. Thực trạng
Nhìn chung đa số các em học sinh trong trường đều ngoan ngoãn, có ý thức học
tập và rèn luyện. Tuy nhiên bên cạnh những em chăm chỉ học tập, rèn luyện, có động
cơ ý thức tốt thì vẫn còn có những em ý thức chưa cao, còn lười biếng học bài, làm
bài; học tập lơ là, bỏ học, trốn học vẫn còn diễn ra. Có những em không còn hứng
thú với việc học, các em thấy việc học rất nhàm chán. Đến lớp là một việc làm miễn
cưỡng, không có niềm vui. Học sinh xem thường việc học tập tri thức và rèn luyện kĩ
năng. Nhiều học sinh lại không biết học để làm gì. Nhiều học sinh không tìm thấy
động lực, mục tiêu và định hướng trong học tập. Có những em còn thụ động trong
học tập, học để lấy điểm, học để lên lớp, học để lấy bằng cấp chứ không phải là
chiếm lĩnh và làm chủ tri thức. Vào lớp còn thiếu nghiêm túc, hay nói chuyện và gây
mất trật tự trong giờ học, thường xuyên vi phạm nội quy quy chế của trường lớp, ảnh
hưởng lớn đến hiệu quả học tập và rèn luyện, ảnh hưởng đến phong trào thi đua của
lớp.
2.2.2. Nguyên nhân của hiện trạng học sinh có ý thức học tập lơ là hiện nay
Nguyên nhân đầu tiên chính là do sự phát triển của nền kinh tế xã hội, đặc biệt
ảnh hưởng mặt trái của nền kinh tế thị trường. Cuộc sống thay đổi khiến cho các giá

trị truyền thống bị phá bỏ. Các giá trị mới phù hợp với thời đại chưa kịp hình thành.
Khi con người kiếm tiền dễ hơn và trở nên giàu có hơn, họ lơ là việc học và rèn luyện
bản thân. Con người trở nên buông thả, học đòi lối sống thời thượng một cách sáo
rỗng. Họ lấy sự giải trí tầm thường và lối sống vật chất thực dụng làm mục đích sống.
Việc học trở nên nhàm chán, vô nghĩa. Sự phát triển của nền công nghệ truyền thông
và phương tiện giải trí làm bùng phát nhu cầu hưởng thụ, giải trí tầm thường khiến
học sinh chán ghét việc học tập căng thẳng, không còn hứng thú với việc học nữa. Sự
xâm nhập của các nền văn hóa ngoại lai, sự lan truyền của các lối sống tôn sùng vật
chất, trào lưu nổi loạn gây ảnh hương đến văn hóa và tinh thần học tập của đông đảo
4


học sinh. Sự suy thoái đạo đức của một số học sinh trong trường học, kéo theo nó là
sự lan tỏa của các thói hư tật xấu của nhiều học sinh khác, hình thành băng nhóm
chống đối, học sinh quậy phá rất ngang tàng, bướng bỉnh ở một số trường học. Số vụ
bạo lực học đường từ đó cũng tăng cao, gây mất trật tự trường lớp, ảnh hưởng đến ý
thức học tập của học sinh. Quy chế nhà trường chưa thật sự nghiêm khắc trong vấn
đề xử lí hành vi vi phạm của học sinh khiến học sinh vi phạm còn tiếp tục tái diễn,
nêu gương xấu trong nhà trường. Chương trình học tập và phương pháp giảng dạy
còn nhiều bất cập. Bài học thiên về giảng dạy lý thuyết, ít các giờ thực hành sinh
động. Học sinh thiếu các giờ hoạt động ngoại khóa năng động. Trường học thiếu
trang thiết bị, phòng tâm lí để hỗ trợ học sinh. Nhiều khi, học sinh vi phạm cần tư vấn
tâm lí, hỗ trợ tinh thần nhưng không có người hỗ trợ. Sự khủng hoảng tâm lí lứa tuổi
khiến các em bất mãn, không còn thiết tha học tập nữa. Gia đình và xã hội chưa thật
sự quan tâm đến việc nhắc nhở, rèn luyện ý thức học tập cho học sinh. Sự lơ là này
khiến nhiều học sinh mất định hướng, thiếu niểm tin, không có động lực để học tập
tốt. Học sinh xem việc học là một việc làm miễn cưỡng, không hữu ích.
2.2.3. Hậu quả của việc học sinh thiếu động cơ, ý thức học tập và rèn luyện.
Ý thức học tập, rèn luyện thiếu nghiêm túc dẫn đến kết quả học tập thấp kém.
Chất lượng giáo dục cũng ngày càng giảm sút. Học sinh học tập yếu kém, lớp học

mất ổn định. Ý thức học tập kém làm nảy sinh nhận thức lệch lạc, đạo đức suy thoái
dễ dẫn đến các hành vi phạm pháp, tệ bạo lực học đường càng trở nên phổ biến. Học
sinh lười học, học tủ, học vẹt, học đối phó ngày càng phổ biến. Tuy có bằng cấp
nhưng lại thiếu năng lực và kinh nghiệm làm việc. Điều này gây ảnh hưởng đến chất
lượng và an toàn lao động khi làm việc. Đây là vấn đề nan giải trong nền kinh tế
nước ta hiện nay. Ý thức học tập kém của học sinh khiến gia đình lo lắng. Xã hội
thiếu nguồn lao động chất lượng. Áp lực nguồn lao động ảnh hưởng nghiêm trọng
đến chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Hầu hết những học sinh có ý thức học tập
sai lệch dễ sa vào các tệ nạn xã hội, trở thành người xấu, bị xã hội lên án. Nhiều em
trong lớp thiếu động cơ, ý thức dẫn đến kết quả học tập và rèn luyện thấp, ảnh hưởng
đến chất lượng chung của lớp và nhà trường.
2.3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH ĐỘNG CƠ, Ý THỨC HỌC TẬP
CHO HỌC SINH
2.3.1. Biện pháp 1: Tuyên truyền về lịch sử, truyền thống nhà trường
Công tác giáo dục truyền thống là một phần không thể thiếu để phát triển đạo đức,
nhân cách học sinh. Hiện nay, trong bối cảnh đất nước đang hội nhập sâu rộng với thế
giới trên mọi lĩnh vực, việc giáo dục truyền thống cho học sinh càng có vai trò quan
trọng. Đây là một hoạt động thể hiện sự quan tâm đối với công tác giáo dục truyền
thống cho học sinh và thiết thực hưởng ứng phong trào xây dựng “Trường học thân
thiện, học sinh tích cực”. Việc này sẽ giúp học sinh trong lớp nắm được lịch sử hình
thành và phát triển của nhà trường qua đó xác định trách nhiệm của mình phải gìn giữ

5


và đóng góp thành tích để trang truyền thống của nhà trường ngày một vẻ vang góp
phần khẳng định vị thế của nhà trường.
Đầu năm học, giáo viên chủ nhiệm đã xin ý kiến của Ban giám hiệu nhà trường có
kế hoạch tổ chức cho các em tìm hiểu về truyền thống nhà trường, thăm quan và khai
thác các tư liệu tại phòng truyền thống. Tại phòng truyền thống các em được nghe về

Lịch sử truyền thống nhà trường, biết được những gian khổ, khó khăn khi trường mới
thành lập. Trải qua những thăng trầm và quá trình phấn đấu lâu dài, bền bỉ, trường đã
gặt hái được rất nhiều thành tích, đã đào tạo được nhiều người tài giỏi cho quê hương
đất nước. Sau khi nghe về truyền thống của nhà trường, các em được tham quan
phòng truyền thống. Ở đó, lưu giữ phần lớn những chặng trường mà trường đã đi qua.
Trên bảng vàng danh dự, có tên nhiều người các em chưa biết…và có cả những dòng
chữ thân quen. Những bức ảnh quý giá, những tấm bằng khen, giấy khen, những trang
thơ, những dòng lưu bút, những bài báo, tập san về nhà trường…để lại trong các em
nhiều cảm xúc. Tất cả đều có tính chất giáo dục hết sức to lớn, mang đến cho các em
học sinh một niềm tin, lòng tự hào và thôi thúc các em cố gắng để xứng đáng với
truyền thống của ngôi trường mà mình theo học.
(Hình 1)
2.3.2. Biện pháp 2: Nêu gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt.
Lịch sử truyền thống nhà trường mặc dù trải qua những thăm trầm của lịch sử
và những biến cố của thời gian, những vất vả gian lao nhưng luôn có rất nhiều gương
điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt về mọi mặt. Việc nêu gương tốt giúp các em tự
hào về truyền thống – tiếp bước cha anh, vun đắp động cơ ý thức học tập và rèn luyện
Những tấm gương về các thế hệ học sinh đã và đang học tập và rèn luyện dưới
mái trường, nhất là những tấm gương về học sinh nghèo vượt khó vươn lên trong học
tập, tấm gương về các thế hệ thầy cô âm thầm cống hiến cho sự nghiệp trồng người,
tấm gương về học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách hồ Chí Minh, tấm
gương về công dân gương mẫu tiêu biểu, thi đua yêu nước… là những minh chứng
tiếp thêm ngọn lửa say mê học tập và rèn luyện cho các thế hệ học sinh hôm nay và
mai sau .
Tấm gương về các cựu học sinh của trường đã nuôi dưỡng ước mơ và trưởng
thành, bay tới mọi miền Tổ quốc, công tác, làm việc trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Hàng trăm học sinh của trường đã trưởng thành, người là sĩ quan cao cấp trong quân
đội, người trở thành kĩ sư, bác sĩ, người trở thành các giảng viên đại học, giáo viên
các trường phổ thông, người thì trở thành nhà lãnh đạo trong bộ máy của Đảng, nhà
nước từ cấp xã đến cấp tỉnh, cấp trung ương luôn hướng về quê hương và mong muốn

góp sức xây dựng quê hương ngày càng phát triển.
Qua các buổi sinh hoạt lớp hoặc các buổi hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
giáo viên dành thời gian để chia sẻ với các em những tấm gương điển hình tiên tiến.
Hoặc có thể thông qua các buổi giao lưu thắp sáng ước mơ tạo cho các em được giao
6


lưu với các cựu học sinh thành đạt…từ đó sẽ hun đúc và nung nấu thêm động cơ cho
các em phấn đấu vươn lên trong học tập, rèn luyện
(Hình 2)
Hay những tấm gương tiêu biểu cùng trang lứa với các em như bạn Nguyễn
Hoàng Phúc và Nghiêm Lê Minh Anh học sinh lớp 11A1….đã xuất sắc trong cuộc thi
“Âm vang xứ thanh”. Ở nhà các bạn ấy là những người con ngoan ngoãn, tự lập và
chăm chỉ học tập, giúp đỡ bố mẹ nhiều việc trong cuộc sống trong gia đình. Ở trường,
Phúc và Minh Anh là những học sinh nghị lực, không ngại khó, sẵn sàng giúp đỡ mọi
người. Các hoạt động đoàn, hội đều nhiệt tình tham gia.
(Hình 3)
2.3.3. Biện pháp 3: Khơi dậy niềm tự hào về truyền thống quê hương
Yên Định là một huyện thuộc vùng đồng bằng bán sơn địa, tiếp giáp với vùng
trung du, miền núi của tỉnh, cách thành phố Thanh Hoá 28 km về phía Tây
Bắc. Huyện có 24 xã, 2 thị trấn, với diện tích tự nhiên 228km 2, dân số 163.151
người; kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, trong đó đất nông nghiệp 14.414
ha; Qua quá trình lao động sáng tạo không ngừng của nhân dân Yên Định đã xây đắp
nên một vùng quê có bề dày lịch sử, truyền thống yêu nước và cách mạng, một huyện
anh hùng cả trong chiến đấu và lao động sản xuất. Đặc biệt trên chặng đường 10 năm
đầu của thế kỷ XXI (2000 - 2010) xây dựng huyện trở thành đơn vị Anh hùng Lao
động thời kỳ đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Yên Định đã đoàn kết thống nhất, lao
động sáng tạo, cần kiệm để xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp.
Trong quá trình xây dựng CNXH, Yên Định có nhiều điển hình tiên tiến, trở thành
điểm sáng để cả tỉnh, cả nước tham khảo, học tập, rút kinh nghiệm, như: Yên Trường,

Định Công, Quý Lộc, Định Tường... được Bác Hồ và nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp
của Đảng, Nhà nước về thăm, biểu dương, khen ngợi. Với những thành tích đặc biệt
xuất sắc đạt đã được, nhân dân và cán bộ huyện Yên Định, xã Định Tường, xã Quý
Lộc và 1 số cá nhân đã vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lao
động trong thời kì đổi mới”.
Sau khi được công nhận là huyện đạt chuẩn nông thôn mới đầu tiên của tỉnh, từ
năm 2016 đến nay, huyện Yên Định đã tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu
chí. Đáng chú ý, tháng 6 năm 2018, huyện Yên Định đã ban hành Đề án "xây dựng
thôn, làng, xã nông thôn mới kiểu mẫu giai đoạn 2018- 2020" và triển khai trên địa
bàn toàn huyện, xem đây là nền tảng để xây dựng huyện nông thôn mới kiểu mẫu.
Về truyền thống cử nghiệp ở Yên Định phát triển vào loại sớm nhất Việt Nam,
khi đạo Nho mới có mặt ở một số vùng. Vào thế kỷ VIII, hai anh em Khương Công
Phụ và Khương Công Phục, người làng Sơn Ôi (nay là Tường Vân – Định Thành) thi
đỗ tiến sĩ ở đất Trung Hoa thời Đường Đức Tông (780-804), nắm giữ nhiều cương vị
quan trọng trong triều đình. Khi đạo Nho phát triển chế độ khoa cử bắt đầu từ cuối thế
kỷ XI, thì liền trong vài ba thế kỷ, Yên Định vẫn chưa có người nối được bước chân
7


của người đi trước mà phải đợi đến cuối thời Trần vào năm 1384, mới có người giành
được học vị Thái học sinh. Dưới triều Lê, Mạc và Lê Trung hưng, sự nghiệp khoa cử
ở Yên Định được dịp khai hoa kết trái. Theo số liệu thống kê (có thể chưa đầy đủ) thì
trong mấy trăm năm thi cử Hán học, cả huyện Yên Định có 11 vị đỗ đại khoa.
Ngoài ra, Yên Định còn có gần 20 cử nhân đỗ vào thời Nguyễn: Trịnh Nguyên Thục
(Yên Định), Phạm Xuân Bích (Tràng Lang), Trịnh Trí Viễn (Yên Định), Nguyễn Văn
Giai (Văn Bái), Trịnh Đình Diễn (Diên Thượng), Nguyễn Tư Thành (Phượng Lai),
Trịnh Xuân Dương (Yên Định), Trịnh Thiện Dự (Yên Định), Phạm Viết Khởi (Hương
Thị), Phạm Hữu Thi (Yên Hoành), Hà Duy Cán (Yên Cứu), Hoàng Trung Thông
(Đông Lý), Trịnh Tuần, Trịnh Bưu (Yên Định), An Đôn Tố (Đa Lộc), Bùi Văn Đồng
(Diên Hy), Hà Phạm Huy (Đan Nê)… Trường học ở Yên Định đã có rất sớm, từ năm

Minh Mệnh thứ 7 (1827).
Để đạt được thành tựu về cử nghiệp, nhiều làng xã, đã đề ra hình thức khuyến học
như miễn phu đài, tạp dịch, đặt học điền. Nhiều người như ông nghè Trần Ân Chiêm,
trở thành thầy dạy nổi tiếng, có 3 học trò thi đỗ đại khoa.
Truyền thống hiếu học của Yên Định ngày nay vẫn được kế tục. Các xã Yên Trường,
Định Hải, Định Thành, Định Liên… vẫn có hàng chục nhà khoa học đạt học vị Tiến sĩ
ở trong nước và nước ngoài; đã có cả học trò đạt giải cao kỳ thi toán quốc tế.
Ngoài ra, Yên Định có nhiều nhà quản lý, chính trị, quân sự, ngoại giao và văn học lỗi
lạc, tiêu biểu như Khương Công Phụ, Hoàng Hối Khanh, Ngô Kinh, Trịnh Thiết
Trường, Hà Tông Huân, Lê Đình Kiên…
Đội ngũ nhân tài của Yên Định ngày càng nối tiếp đông đảo và có mặt trên nhiều lĩnh
vực.
(Hình 4)
Thông qua các giờ sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, các buổi
nói chuyện, các bài dạy tích hợp, giáo viên lồng ghép những nội dung về địa
phương…Điều này sẽ rất hữu ích trong việc bồi dưỡng tâm hồn, thắp sáng ước mơ,
tạo động cơ, ý thức học tập, rèn luyện cho học sinh.
2.3.4. Biện pháp 4: Phát huy, khơi dậy truyền thống hiếu học của học sinh
Nhiệm vụ thường xuyên và liên tục của mỗi thầy cô giáo là phải khơi dậy được
niềm ham mê học tập của học sinh, phải truyền được ngọn lửa học tập trong học sinh
“muốn truyền lửa phải có lửa”. Giáo viên chủ nhiệm luôn coi trọng công tác giáo dục
truyền thống, lòng tự hào quê hương, ý chí quyết tâm học tập để có một tương lai tươi
sáng làm rạng danh bản thân, gia đình, dòng họ, quê hương. Phối hợp tổ chức các
chương trình hoạt động Đoàn như: Thắp sáng ước mơ, hoạt động về nguồn, thi tìm
hiểu về quê hương đất nước.
Giáo viên chủ nhiệm phối hợp tổ chức tốt chương trình thắp sáng ước mơ tuổi trẻ
Yên Định, các em được gặp gỡ, giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm với những cựu học sinh
8



thành đạt giúp cho các em hình thành động cơ ý thức học tập, lòng tự hào về các thế
hệ cha anh, về quê hương, từ đó sẽ hình thành nên những hoài bão, ước mơ trở thành
những công dân tốt giúp ích cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã
hội chủ nghĩa…
Bên cạnh đó, việc thăm hỏi, chia sẻ, giúp đỡ kịp thời những học sinh có hoàn
cảnh khó khăn vươn lên trong học tập sẽ giúp các em cảm nhận được sự quan tâm của
thầy cô, cố gắng vươn lên trở thành người hữu ích cho xã hội.
(Hình 5)
2.3.5. Biện pháp 5: Phối hợp tốt với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà
trường
Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên bàn bạc, trao đổi với Ban đại diện cha mẹ học sinh
của lớp khi đề ra các biện pháp giáo dục, rèn luyện học sinh có liên quan đến quyền lợi và
nghĩa vụ của học sinh, gia đình học sinh để được Ban đại diện cha mẹ học sinh đóng góp ý
kiến; đồng thời báo cáo kết quả đạt được trong các hoạt động của lớp để Ban đại diện cha mẹ
học sinh hiểu rõ.
Định kỳ hằng quý có mời Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp để thảo luận, trao đổi bàn
bạc, báo cáo tình hình kết quả giáo dục học sinh hoặc kiến nghị các giải pháp giáo dục để Ban
đại diện cha mẹ học sinh cộng tác, nhất là trong việc giáo dục, rèn luyện học sinh
Lắng nghe, tiếp thu ý kiến phản ánh, đóng góp của học sinh và cha mẹ học sinh về các
vấn đề có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của học sinh, cha mẹ học sinh.
Kết hợp chặt chẽ với Ban đại diện cha mẹ học sinh trường để giải quyết thoả đáng các
quyền lợi chính đáng, hợp pháp cho học sinh và cha mẹ học sinh.
Hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chủ trương chính sách về giáo dục đến với
cha mẹ học sinh nhằm nâng cao trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ, giáo dục học sinh;
Thường xuyên gặp gỡ và trao đổi với các lực lượng trong nhà trường để giải quyết có
hiệu quả các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục đào tạo học sinh.
Tham gia cùng với giáo viên bộ môn, giáo viên trực ban trong nhà trường để giải quyết các vụ
việc khi học sinh có tranh chấp nhau hoặc có mời cha mẹ học sinh vào để giải quyết các tranh
chấp giữa học sinh với nhau.
Tham gia vận động các nguồn lực để hỗ trợ cho các hoạt động của lớp với mục đích vì

lợi ích của học sinh.
Giáo viên liên lạc với cha mẹ học sinh nhiều hơn. Trong thời gian học, học sinh
có vắng một buổi hoặc vi hạm nội quy nhà trường, có thái độ vi phạm đạo đức thì
điện thoại thông báo cho gia đình hoặc mời phụ huynh đến trao đổi và có hướng giải
quyết, từ hai buổi trở lên thì giáo viên chủ nhiệm đến nhà tìm nguyên nhân để có biện
pháp giúp đỡ, vận động gia đình quan tâm, tìm hiểu nguyên nhân và tìm hướng khắc
phục.

9


Việc giáo dục đạo đức học sinh trong giai đoạn hiện nay rất quan trọng, không
phải là một việc làm đơn giản. Nó là công việc cần phải có thời gian dài và công sức ở
những người làm công tác giáo dục, của gia đình và của toàn xã hội.
Có thể nói, vai trò của gia đình nhà trường, gia đình và xã hội đều rất quan trọng
trong việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Truyền thống văn hóa, đạo đức gia đình
ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nhân cách của các con. Khi gia đình coi trọng việc
dạy dỗ đạo đức cho con, bắt đầu bằng những bài học rất đầu tiên như lễ phép trong
ứng xử, văn minh trong ăn uống, lịch sự nơi công cộng,… sẽ giúp các em ý thức được
mỗi lời nói cũng như từng hành vi cử chỉ của mình. Vì vậy trong công tác giáo dục
đạo đức học sinh phải có sự phối hợp hiệu quả, đồng bộ và thống nhất giữa nhà
trường, gia đình và xã hội.
(Hình 6)
2.3.6. Biện pháp 6: Làm tốt các phong trào thi đua, khen thưởng.
Công tác thi đua khen thưởng sẽ tạo những động lực cho sự cố gắng của học
sinh, thúc đẩy các em tích cực học tập và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao trong
trường học. Vì vậy, giáo viên cần phải phối hợp tốt cùng nhà trường tổ chức hết sức
hợp lý mới có tác dụng động viên, khích lệ và có tính giáo dục cao.
Giáo viên chủ nhiệm đề xuất với nhà trường trao phần thưởng kịp thời cho học
sinh nghèo vượt khó, học sinh có thành tích tốt, học sinh khá giỏi, tôn vinh học sinh

đạt giải trong các cuộc thi cấp huyện, cấp tỉnh, quốc gia. Giáo viên tham mưu, đề xuất
với phụ huynh, các tổ chức đoàn thể đa dạng hóa các hình thức khen thưởng như:
thưởng nóng, thưởng định kỳ, thưởng bằng hiện vật, tổ chức cho các học sinh xuất sắc
đi thăm quan du lịch…sẽ tạo động lực cho các em luôn luôn cố gắng
(Hình 7)
2.4. Hiệu quả của việc hình thành động cơ, ý thức học tập, rèn luyện cho học
sinh
Trong những năm qua trong quá trình dạy học, giáo dục học sinh bản thân tôi
không ngừng nỗ lực, tâm huyết, trách nhiệm “vì học sinh thân yêu”. Tuy thành công
chưa lớn, nhưng bản thân luôn tự hào vì học sinh của mình tiến bộ hàng ngày góp
phần nhỏ bé vào sự nghiệp trồng người của nhà trường. Một số kết quả trong năm học
2018- 2019 và 2019-2020 như sau:
2.4.1. Chất lượng đại trà
Kết quả xếp loại học lực – hạnh kiểm năm học 2018-2019 của lớp 10A6 như sau:
(Lớp đối chứng)
Số
Tốt
Lớp

Hạnh kiểm
Khá
T.Bình

Yếu

Giỏi

Khá

Học lực

T.Bình

Yếu

Kém

học
SL

%

SL

%

SL

%

SL % SL

%

SL

%

SL

%


SL % SL

%

sinh

10


10A6 39

32

82

5

12,8 2

5,

0

0

0

0


19

48,7 20

51,3

0

0

0

0

2

Qua bảng số liệu trên cho thấy tỉ lệ học sinh khá, giỏi còn chưa cao, tỉ lệ học
sinh trung bình còn nhiều. Số học sinh xếp loại hạnh kiểm trung bình, khá vẫn chiếm
tỉ lệ không nhỏ. Không những vậy về xếp loại thi đua và các phong trào của lớp cũng
còn nhiều hạn chế.
Kết quả xếp loại học lực – hạnh kiểm năm học 2019-2020 của lớp 11A6 như sau:
(Lớp thực nghiệm sau khi áp dụng tổng hợp một số giải pháp hình thành động cơ, ý
thức học tập, rèn luyện cho học sinh lớp chủ nhiệm ở trường THPT Yên Định 2 )
Số

Hạnh kiểm
Khá
T.Bình

Tốt


Lớp

học

11A6

SL %
sinh
39
37 94,
8

Yếu

Giỏi

SL

%

SL % SL % SL

2

5.

0

0


0

0

1

2

Khá

%

SL

%

2,5

31

79,4

6

8

Học lực
T.Bình
SL

7

%
17,9

Yếu

Kém

SL % SL
0

0

0

%
0

4

Kết quả trên được minh họa qua biểu đồ sau:
(Hình 8)
2.4.2. Chất lượng mũi nhọn và phong trào thi đua
Mặc dù chỉ là lớp cơ bản nhưng chất lượng mũi nhọn và phong trào thi đua đã đạt
nhiều thành tích đáng kể.
- Lớp có 4 em trong đội tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh các môn văn hóa
- Lớp có 2 em đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh môn Thể Dục
- Đạt lớp Tiên tiến xuất sắc học kỳ I, Kỳ II và Cả Năm với tổng điểm nề nếp cao
nhất toàn trường(mặc dù lớp chủ nhiệm chỉ là lớp cơ bản)

(Hình 9)
Tuy kết quả còn chưa cao nhưng cũng đã đánh dấu một bước chuyển biến về việc
học tập và rèn luyện của các em trong lớp cũng như góp phần chung vào chất lượng
của nhà trường.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Trước hết, gia đình, nhà trường và xã hội phải đề cao vai trò và ý nghĩa của việc
học tập, rèn luyện đối với con người. Một đất nước vững mạnh là một đất nước ai
cũng được đi học. Khi được thụ hưởng nền giáo dục tốt nhất sẽ cải thiện được chất
lượng nguồn lực lao động. Giáo dục phát triển, con người có học thức, tệ nạn xã hội
11


sẽ giảm. Họ đem sức mình cống hiến cho công việc, xã hội sẽ ổn định, đất nước giàu
mạnh. Nâng cao chất lượng giáo dục bằng cách cải cách chương trình học tập và
phương pháp giảng dạy, giáo dục sao cho ngắn gọn mà hiệu quả, phù hợp với xu thế
phát triển của thế giới. Tăng cường sự hứng thú học tập cho học sinh bằng những hoạt
động ngoại khóa. Lấy thực hành thú vị, sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn, có tính giáo dục
cao thu hút học sinh.
Nhà trường có chiến lược và giải pháp cụ thể để giáo dục học sinh, giúp các em
tìm thấy động cơ học tập, rèn luyện và tiến bộ. Các thầy cô giáo phải thực sự là những
tấm gương sáng để học sinh noi theo, thầy cô tích cực tìm hiểu, nắm bắt năng khiếu,
sở trường, những khó khăn của học sinh, yêu thương, quan tâm và chia sẻ, động viên
các em nhiều hơn. Lấy tình thương yêu và sự khích lệ giúp các em phấn đấu học tập,
rèn luyện. Giáo viên tránh dùng lời lẽ xúc phạm, đe dọa, khiển trách quá đáng khiến
các em bất mãn không hợp tác.
Bản thân mỗi học sinh phải tự rèn luyện mình theo những chuẩn mực tốt đẹp.
Phải phấn đấu học tập nghiêm túc. Nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng
của việc học tập đối với nhân cách và tương lai của mỗi con người. Nâng cao ý chí,
xác định mục tiêu rõ ràng, sống có ước mơ. Học sinh biết hướng đến lý tưởng cao

đẹp, hoài bão lớn lao. Nghiêm khắc rèn luyện mình và nhắc nhở, động viên, thi đua
với bạn bè cùng học tập tiến bộ. Lấy học tập tích cực làm mục đích phấn đấu. Tạo
niềm vui trong học tập để bản thân ngày càng tiến bộ hơn.
Về phía nhà trường cần xây dựng một kế hoạch lồng ghép cụ thể, đưa vào quy
chế chuyên môn đối với giáo viên, triển khai đồng bộ trong tất cả các hoạt động giáo
dục của mình, có cơ chế kiểm tra đánh giá việc thực hiện và khen thưởng, khích lệ kịp
thời. Về phía giáo viên trong quá trình dạy học, giáo dục ngoài việc cung cấp kiến
thức cho học sinh thì thông qua đó phải coi trọng và đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giáo
dục đạo đức, giáo dục truyền thống, hình thành động cơ, ý thức học tập – rèn luyện
cho học sinh. Muốn thực hiện một cách hiệu quả, bản thân mỗi giáo viên cần phải có
ý thức đổi mới phương pháp giáo dục, để đưa những nội dung giáo dục truyền thống
vào bài học tạo sân chơi, hoạt động nhóm một cách nhẹ nhàng, sáng tạo.
Gia đình và xã hội là môi trường vun đắp, nuôi dưỡng có ảnh hưởng trực tiếp
đến sự hình thành giá trị đạo đức cho học sinh. Cần sớm khắc phục tình trạng giáo
dục đạo đức cho học sinh giao phó chủ yếu cho nhà trường “Trăm sự nhờ thầy cô”.
Tấm gương đạo đức của cha mẹ, người thân trong gia đình cũng như tấm gương đạo
đức của thầy cô giáo luôn có tác dụng giáo dục vô cùng to lớn, hiệu quả hơn ngàn vạn
lời lí thuyết suông.
Tóm lại, động cơ học tập, rèn luyện không có sẵn, cũng không thể áp đặt mà
được hình thành dần dần trong quá trình học sinh đi sâu chiếm lĩnh đối tượng học tập.
Từ nhu cầu với các đối tượng học tập, từ những yếu tố bên ngoài mà hình thành nên
12


động cơ thúc đẩy hoạt động học tập của học sinh. Thầy cô có thể tạo động cơ học tập
cho học sinh thông qua nội dung bài giảng, sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức
dạy học… nhằm kích thích tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho các em để việc học
trở thành nhu cầu không thể thiếu được của người học.
3.2. Kiến nghị
1.Với Sở Giáo dục và Đào tạo:

Tăng cường tổ chức hội thảo về việc hình thành động cơ, ý thức học tập, rèn
luyện cho học sinh để nâng cao chất lượng giáo dục. Nhân rộng các điển hình tiên tiến
để tạo động lực cho các nhà trương, giáo viên và học sinh.
2. Đối với phụ huynh:
Quan tâm, chăm sóc động viên và tôn trọng con em mình. Làm tốt công tác hối
hợp Nhà trường – Gia đình – Xã hội.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Yên Đinh, ngày 05 tháng 07 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT

Lê Thị Thanh Vân

13



×