Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Kinh nghiệm tích hợp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 10 qua giảng dạy truyện an dương vương và mỵ châu trọng thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.15 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT LÊ VĂN HƯU

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÍCH HỢP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
LỚP 10 QUA GIẢNG DẠY TRUYỆN AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ
MỴ CHÂU TRỌNG THỦY

Người thực hiện: Lữ Thị Thanh Thủy
Chức vụ: Giáo viên.
Đơn vị công tác: Trường THPT Lê Văn Hưu
SKKN môn: Ngữ Văn

Thanh Hóa, năm 2020


MỤC LỤC
1.1. Lí do chọn đề tài.........................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu..................................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................2
1.5. Điểm mới của sáng kiến.............................................................................2
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm....................................................3
2.1.1. Khái niệm “Kĩ năng sống”..................................................................3
2.1.2. Khái niệm “Tích hợp” trong hoạt động giáo dục................................4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm....................4
2.2.1. Thực trạng............................................................................................4
2.2.2. Thuận lợi..............................................................................................5
2.2.3. Khó khăn.............................................................................................6
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh


lớp 10 qua giảng dạy Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy
nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học đoạn trích...............................................7
2.3.1. Bám sát mục tiêu dạy học tác phẩm để xác định đúng các kĩ năng
sống cần tích hợp giáo dục cho học sinh trong tiết học.................................7
2.3.2. Lựa chọn phương pháp/kĩ thuật dạy học phù hợp với nội dung tích
hợp giáo dục kĩ năng sống.............................................................................9
2.4. Ứng dụng một số kinh nghiệm của bản thân trong dạy học tích hợp giáo
dục kĩ năng sống vào thiết kế giáo án giảng dạy Truyện An Dương Vương và
Mị Châu- Trọng Thủy......................................................................................11
2.5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm........................................................18
2.5.1. Về phía giáo viên:..............................................................................18
2.5.2. Về phía học sinh:...............................................................................18
3.1. Kết luận....................................................................................................19
3.2. Kiến nghị..................................................................................................20


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa thế giới (UNESCO) xác định mục
tiêu của giáo dục thế kỉ XXI là: Học để biết, học để làm, học để chung sống với
nhau, học để tự khẳng định mình. Luật Giáo dục Việt Nam, năm 2005 cũng
khẳng định, mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh “phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị
cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây
dựng bảo vệ Tổ Quốc” (Điều 2). Theo đó, trong những năm gần đây mục tiêu
giáo dục của Việt Nam đã chuyển từ cung cấp kiến thức là chủ yếu sang mục
tiêu hình thành và phát triển những năng lực và kĩ năng sống cần thiết cho người
học, nhằm giúp học sinh có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức

của cuộc sống.
Tuy nhiên, một thực tế đang tồn tại là một bộ phận lớn học sinh ngày nay
thiếu kĩ năng sống trầm trọng. Thiếu kĩ năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào các
hành vi tiêu cực, theo tà đạo, ứng xử bạo lực, sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, ...
từ đó mà dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Vì vậy, dạy học tích hợp giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học là vô cùng cần thiết, giúp
các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng;
giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống,
xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực,
chủ động, an toàn, hài hòa và lành mạnh, từ đó góp phần làm giảm các tệ nạn xã
hội, làm cho xã hội phát triển, văn minh.
Ở nhà trường phổ thông, tất cả các môn học đều có nhiệm vụ cung cấp tri
thức và giáo dục nhân cách. Tuy nhiên, môn Ngữ văn lại là môn có nhiều ưu thế
trong việc lồng ghép tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Bởi, đây là
một môn học nghệ thuật - nghệ thuật ngôn từ. Và giáo dục bằng nghệ thuật là
cách giáo dục hiệu quả nhất, vì người được giáo dục thông qua sự hứng thú, say
mê, thăng hoa cùng nghệ thuật mà hình thành và phát triển nhân cách. Tuy vậy,
trong thực tế dạy – học môn Ngữ văn, khi dạy các tác phẩm văn học ra đời từ xa
xưa, khoảng cách thời gian, lịch sử, văn hóa, thời đại là rào cản lớn khiến học
sinh không tha thiết với các bài học này. Vậy nên việc tìm phương pháp dạy học
thích hợp nhằm lôi cuốn học sinh vào các hoạt động học nhằm phát triển các
năng lực giúp các em nhận thấy quá trình học bộ môn cũng là quá trình khám
phá, đánh thức các năng lực của bản thân, đem tri thức trong sách vở ứng dụng
vào thực tiễn phục vụ cho cuộc sống của chính mình là việc làm tối quan trọng,
cần thiết của quá trình dạy học.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy là một truyền thuyết
đặc sắc trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Nhưng một bộ phận lớn học
sinh “ngại học” truyền thuyết vì nhiều lí do khác nhau. Một lí do chính là người
thầy chưa tạo được hứng thú học tập cho học sinh, chưa mạnh dạn làm mới
1



mình qua việc đổi mới phương pháp/kĩ thuật dạy học, chưa mạnh dạn thử
nghiệm những phương pháp/kĩ thuật dạy học tích cực, hiện đại nhằm phát huy
tính chủ động, tích cực của học sinh thông qua các hoạt động học khiến các em
thụ động lĩnh nhận kiến thức một chiều. Điều đó đã làm giờ học thiếu sự tương
tác cần thiết, khả năng sáng tạo của người học không có cơ hội thể hiện, phát
huy, giờ học trở nên “nhạt”, “nhàm”. Mục tiêu bài học, những năng lực, kĩ năng
sống có trong bài học do đó cũng không được học sinh tiếp nhận, lĩnh hội.
Từ những lí do trên, người viết chọn đề tài: Tích hợp giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh lớp 10 qua giảng dạy Truyện An Dương Vương và Mị
Châu – Trọng Thủy.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nâng cao hiệu quả giờ dạy học Truyện An Dương Vương và Mị Châu –
Trọng Thủy. Từ đó, góp phần đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn
trong nhà trường.
- Góp phần hoàn thiện thêm một số kĩ năng sống cho học sinh như : Kĩ
năng giao tiếp, ứng xử, kĩ năng hợp tác, thể hiện sự tự tin, kĩ năng từ chối, ...
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Tìm hiểu lí luận về phương pháp dạy học tích hợp trong giáo dục THPT
- Thực trạng dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT Lê Văn Hưu trước
khi ứng dụng tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong dạy học bộ môn.
- Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp
sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Chúng tôi nghiên cứu
các tài liệu, chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên về phương pháp dạy học tích
hợp và lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn học. Từ đó
khái quát thành những khái niệm cụ thể, quy thành phương pháp dạy học của

bản thân.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Chúng tôi tiến
hành khảo sát thực tế, thu thập thông tin ở 02 lớp: 10A7 (lớp ứng dụng dạy học
tích hợp giáo dục kĩ năng sống) và 10A4 (lớp không ứng dụng dạy học tích hợp
giáo dục kĩ năng sống) – cả hai lớp có trình độ năng lực tiếp nhận, điều kiện
hoàn cảnh sinh sống tương đương nhau, bằng hai hình thức:
+ Một là, trắc nghiệm khách quan.
+ Hai là, trả lời ngắn cho một tình huống ứng xử trong cuộc sống.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Trên cơ sở thu phiếu trả lời khảo sát
thực nghiệm của học sinh, chúng tôi đánh giá mức độ thành công của giờ học có
vận dụng tích hợp giáo dục kĩ năng sống và sự tiến bộ của học sinh, rút ra kinh
nghiệm tối ưu cho bản thân, ghi chép lại và nghiên cứu sâu hơn ở đề tài này
1.5. Điểm mới của sáng kiến
Chúng tôi ứng dụng những phương pháp/kĩ thuật dạy học tích cực,
hiện đại để tích hợp một cách hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp
2


10 qua giảng dạy Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy. Chúng tôi
cũng có những hướng dẫn, minh hoạ cụ thể cho từng ứng dụng để đảm bảo giờ
dạy học đạt hiệu quả cao nhất.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Tích hợp giáo dục kĩ năng sống là một nội dung hết sức quan trọng cần
được thực hiện một cách có hệ thống và thường xuyên trong các nhà trường.
Việc đưa giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường có ý nghĩa như một sự thức tỉnh
để các nhà giáo dục chú ý nhiều hơn đến tính hữu dụng, thiết thực của chương
trình nhà trường, đồng thời tăng khả năng đáp ứng yêu cầu đào tạo con người
mới năng động , tích cực, tự tin, đạt được thành công trong xã hội hòa nhập.
Môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông nói chung và ở trường THPT nói

riêng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục này. Tuy
nhiên, để thực hiện hiệu quả mục tiêu giáo dục ấy trong từng tiết học, bản thân
mỗi người thầy, người cô cần hiểu đúng bản chất của các khái niệm này.
2.1.1. Khái niệm “Kĩ năng sống”

Trên thế giới hiện nay đã và đang tồn tại nhiều định nghĩa và quan niệm
khác nhau về kĩ năng sống. Mỗi định nghĩa được thể hiện dưới những cách thức
khác nhau. Thông thường, kĩ năng sống được hiểu là những kĩ năng thực hành
mà con người cần để có được sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng
cao.
Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), “Kĩ năng sống là khả năng sống để có
hành vi thích ứng (adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể ứng
xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày” [3; tr 7]
Theo tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO),
“Kĩ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết (Learning to
know) gồm các kĩ năng tư duy như: kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng tư duy
sáng tạo, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng nhận thức
được hậu quả ...; Học để làm người (Learning to be) gồm các kĩ năng cá nhân
như: Ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin; Học để
sống với người khác (Learning to live together) gồm các kĩ năng xã hội như:
giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự
cảm thông; Học để làm (Learning to do) gồm các kĩ năng thực hiện công việc và
các nhiệm vụ như: kĩ năng đặt mục tiêu, kĩ năng đảm nhận trách nhiệm; kĩ năng
quản lí thời gian; kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin ....”[3; tr 7, 8].
Tóm lại, khái niệm “kĩ năng sống” được hiểu không đơn giản chỉ ở nhận
thức mà quan trọng hơn là con người phải biết tích cực vận dụng những kiến
thức đã học vào xử lí các tình huống thực tiễn có hiệu quả, qua đó giúp con
người sống một cuộc sống có ý nghĩa, vui vẻ, thân thiện.
Có nhiều cách phân loại kĩ năng sống khác nhau. Tuy nhiên, kĩ năng sống
thường không tồn tại độc lập mà thường có mối quan hệ mật thiết với nhau, đan

xen và bổ sung cho nhau. Qua nghiên cứu tài liệu và hoạt động thực tiễn của bản
3


thân tôi nhận thấy cần tích hợp cho học sinh thông qua môn Ngữ Văn ở bậc
THPT những kĩ năng sống cơ bản sau:
- Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các KNS
cụ thể như: tự nhận thức, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự tin…
- Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm: giao tiếp,
thương lượng, bày tỏ cảm thông, hợp tác…
- Nhóm các kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, bao gồm: tìm kiếm và
xử lí thông tin, ra quyết định, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo…
2.1.2. Khái niệm “Tích hợp” trong hoạt động giáo dục
“Tích hợp là lắp ráp, nối kết các thành phần của một hệ thống theo quan
điểm tạo nên một hệ thống toàn bộ” [4, tr 891]. Trong lí luận dạy học, tích hợp
(integration) được hiểu là là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở những
mức độ khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống
nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong
các môn học hoặc các hợp phần của môn đó.
Trong chương trình THPT, môn Ngữ Văn, năm 2002 của Bộ GD&ĐT, khái
niệm “tích hợp” cũng được hiểu là “sự phối hợp các tri thức gần gũi, có quan hệ
mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác động vào nhau, phối
hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững chắc”[1; tr
27].
Và như vậy, “tích hợp” chính là sự hợp nhất, sự nhất thể hóa để đưa tới một
đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những nét bản chất nhất của các
thành phần đối tượng, chứ không phải là một phép cộng giản đơn những thuộc
tính của các thành phần ấy. Hiểu như vậy, “tích hợp” có hai tính chất cơ bản, liên
hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau:
Một là, tính liên kết. Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không

còn sự phân chia giữa các thành phần kết hợp.
Hai là, tính toàn vẹn. Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại các
thành phần liên kết, chứ không phải sự sắp đặt các thành phần bên cạnh nhau.
Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ được thụ đắc, tác động
riêng rẽ, không có sự liên kết, phối hợp với nhau trong lĩnh vực nội dung hay
giải quyết một vấn đề, tình huống.
Tóm lại, hiểu đúng bản chất khái niệm “kĩ năng sống” và “tích hợp” có ý
nghĩa quan trọng giúp người giáo viên xác lập được phương pháp dạy học phù
hợp, đúng với tinh thần đổi mới phương pháp, đáp ứng yêu cầu mang tính bức
thiết của thời đại ngày nay.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng
Những năm gần đây, nhiều học sinh rất thiếu những kĩ năng cơ bản như: kĩ
năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp với ông bà, cha mẹ... Các em rất rụt rè, thiếu tự
tin ... bởi các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử và cuộc sống ảo trên các
trang mạng xã hội. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, không
quan tâm đến cộng đồng. Ở một khía cạnh khác, mỗi kì học, trường chúng tôi
4


đều phải tổ chức những buổi họp Hội đồng kỉ luật để xử lí những vụ đánh nhau
mà đôi khi vì những lí do chẳng đâu vào đâu các em cũng “thượng cẳng tay, hạ
cẳng chân” với nhau.. Vấn đề cốt lõi của cái gốc thực trạng đau lòng ấy chính là
do các em thiếu những kĩ năng sống quan trọng: kĩ năng làm chủ cảm xúc, kĩ
năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng tìm
kiếm sự hỗ trợ… Câu hỏi đặt ra cho chúng ta là: Phải dạy học Văn như thế nào để
giúp các em không chỉ “biết” mà còn phải “làm” được để “chung sống” thân thiện
với cộng đồng.
Tích hợp giáo dục kĩ năng sống là một vấn đề không mới trong dạy học và
cũng không xa lạ trong thực tiễn cuộc sống vì nó là lĩnh vực giáo dục liên

ngành. Song, qua thực tế dự giờ và trao đổi, thảo luận cùng bạn bè, đồng nghiệp
những năm qua, tôi nhận thấy, nhiều giáo viên đã quan niệm: Tích hợp giáo dục
kĩ năng sống là vô hình dung làm nặng thêm nội dung kiến thức bài học, biến
dạng môn học dưới hình thức đơn điệu khô cứng. Mặt khác, các giáo viên ngại
thực hiện tích hợp trong dạy học văn còn bởi phương pháp này luôn đòi hỏi gắn
liền những kĩ thuật dạy học tích cực, đòi hỏi sự sáng tạo, linh hoạt trong tư duy
dạy học của người thầy, đòi hỏi sự đầu tư công phu với biết bao trăn trở của
người thầy trong từng tiết học… cũng vì thế mà nhiều thầy cô ngại làm mới
mình, chỉ thích quen với phương pháp dạy học cũ: đọc – chép.
Thực tế giảng dạy và dự giờ dạy học Truyện An Dương Vương và Mị
Châu- Trọng Thủy của các đồng nghiệp ở trường THPT Lê Văn Hưu những năm
qua, bản thân tôi thấy một bộ phận lớn học sinh chưa hứng thú tham gia các hoạt
động học. Các em thường chủ yếu “lắng nghe” và ghi chép bài, không khí giờ
học không sôi nổi, hào hứng mà trầm, buồn, nặng nề, uể oải. Cũng vì lẽ đó mà
hiệu quả giờ học không cao, bởi hoạt động của giờ học đơn điệu, chỉ chú trọng
truyền thụ kiến thức còn năng lực của người học không được chú trọng phát huy.
Những lí do trên đã làm cho giờ dạy học tác phẩm văn chương nói chung,
giờ dạy học Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy nói riêng trở
thành nặng nề, kém hiệu quả, gây ra tâm lí mệt mỏi, làm giảm bớt hứng thú học
tập ở học sinh. Kết quả thăm dò, phỏng vấn 213 học sinh ở 05 lớp 10 (10 A2,
10A3, 10A5, 10A8, 10A9) của trường THPT Lê Văn Hưu (năm học 2018-2019)
thì có tới 196 em không thích giờ dạy học Truyện An Dương Vương và Mị
Châu- Trọng Thủy, chiếm 92.02 %; chỉ có 7.98 % (tức 17 em thích học ).
2.2.2. Thuận lợi
Một là, Bộ GD - ĐT đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân
thiện - học sinh tích cực”. Sở GD&ĐT Thanh Hóa cũng đã có kế hoạch từng
năm học với những biện pháp cụ thể để rèn kĩ năng sống cho học sinh, đây chính
là những định hướng giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kĩ năng ứng xử
hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kĩ năng làm việc, sinh
hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kĩ năng phòng,

chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện
kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn
xã hội, ...
5


Mặt khác, căn cứ vào chỉ thị số 1088/KH-BGDĐT tháng 8 năm 2011, Bộ
GD - ĐT đã xây dựng kế hoạch hoàn thiện bộ tài liệu giáo dục kĩ năng sống
trong một số môn học và hoạt động giáo dục cấp Tiểu học, Trung học cơ sở
(THCS), Trung học phổ thông (THPT) trên toàn quốc để nâng cao chất lượng
giáo dục và đảm bảo tính thiết thực trong hoạt động giảng dạy. Đây là một trong
những kế hoạch quan trọng để xây dựng một chương trình kĩ năng sống (KNS)
lâu dài phù hợp với mục tiêu giáo dục của nước ta.
Hai là, trường THPT Lê Văn Hưu - nơi tôi công tác là ngôi trường đã đạt
chuẩn quốc gia, nên thuận lợi trong việc thực hiện nội dung “Xây dựng trường
học thân thiện - học sinh tích cực”. Cơ sở vật chất phòng học được trang bị
tương đối đầy đủ, hiện đại; khuôn viên trường học xanh - sạch - đẹp; Ban lãnh
đạo nhà trường luôn theo sát, quan tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong công tác
giảng dạy cũng như giáo dục học sinh; luôn chỉ đạo và khuyến khích giáo viên
ứng dụng đổi mới phương pháp - kĩ thuật hiện đại, tích cực trong dạy học nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường.
Bên cạnh đó, sự giúp sức của các phương tiện nghe nhìn, sự đầy đủ về sách
vở, đặc biệt là sách tham khảo giúp giáo viên và học sinh có thêm cơ hội tìm
hiểu, đào sâu hơn nội dung giảng dạy và học tập, tư duy của người thầy và
người học cũng được mở rộng, nâng cao, sáng tạo, linh hoạt.
Ba là, Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy là truyền thuyết
dân gian thân thuộc, gắn bó với đời sống con người Việt Nam. Trước khi tiếp
cận với Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy ở Sách giáo khoa
Ngữ văn 10, các em học sinh đã được làm quen, đã yêu mến tác phẩm qua lời kể
của bà, của mẹ. Thứ tình cảm bền vững ấy là một tiền đề quan trọng, thuận lợi

cho các em học sinh đi vào thế giới tác phẩm. Đối với phần lớn giáo viên Văn,
việc được dạy, được hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu cái hay, cái đẹp của
Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy là một niềm tự hào,
một niềm hạnh phúc lớn lao. Nhờ những giờ dạy học như thế, người giáo viên
dạy Văn sẽ phát huy được khả năng sư phạm của mình, đồng thời truyền lại một
cách hiệu quả nhất cho học sinh tình yêu, lòng say mê với Truyện An Dương
Vương và Mị Châu- Trọng Thủy.
Bốn là, hai lớp tôi lựa chọn khảo sát thực nghiệm (10A4, 10A7) là hai lớp
tôi giảng dạy theo học chương trình Ngữ văn cơ bản; trình độ năng lực tiếp
nhận, điều kiện hoàn cảnh sinh sống tương đương nhau, cùng một độ tuổi, cùng
một môi trường học tập nên kết quả khảo sát đảm bảo tính chính xác, khách
quan cao.
2.2.3. Khó khăn
Một là, thực tế vẫn còn một bộ phận giáo viên chỉ tập trung dạy kiến thức
còn việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong dạy học chưa được chú trọng đã
dẫn đến tình trạng còn nhiều học sinh thiếu hụt vẫn những hiểu biết về môi
trường xung quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Trong khi để học sinh
phát triển toàn diện, bắt nhịp được với phương pháp dạy học mới nhanh nhất thì
6


rất cần sự thực hiện tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong các hoạt động dạy học
một cách đồng bộ của tất cả các giáo viên bộ môn.
Hai là, Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy là tác phẩm văn
học dân gian nên dẫu hay và hấp dẫn mà vẫn có “khoảng cách” trong tâm lí tiếp
nhận của học sinh. Một thời lượng tương đối hạn hẹp nên việc thực hiện lồng
ghép giáo dục kĩ năng sống trong tiết học này vẫn là một bài toán cần nhiều suy
nghĩ, trăn trở của nhiều giáo viên, trong đó có bản thân tôi.
Ba là, do xu thế của thời đại, khi kinh tế đất nước chuyển sang nền kinh tế
thị trường, nhiều ngành nghề mới được mở, khả năng sau khi ra trường kiếm thu

nhập cao hơn, cơ hội xin việc dễ hơn... Trong khi môn Văn chỉ thi được một số
ngành mà cơ hội việc làm lại thấp. Vì thế, các môn tự nhiên là đối tượng các em
yêu thích hơn, đầu tư nhiều hơn. Còn môn Văn, đúng như nhận định của báo
Giáo dục Việt Nam () ngày 16/9/2019: “Sự thật là học trò
học Văn chỉ để thi, không vì một mục đích nào khác”. Vì vậy, học sinh thường
hời hợt, ngại học, không có sự đầu tư đúng mực cho môn học, tâm lí tiếp nhận
bài học trên lớp cũng vì thế mà uể oải, chán nản, nặng nề.
Từ thực trạng, với những thuận lợi và khó khăn như trên, chúng tôi nghiên
cứu, tìm ra một số biện pháp mang tính khả thi, giúp các giáo viên bộ môn Ngữ
văn trong nhà trường thực hiện lồng ghép tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh thông qua giờ dạy học Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng
Thủy nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học đoạn trích này cũng là góp phần nâng
cao chất lượng giảng dạy bộ môn trong nhà trường.
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp 10 qua giảng dạy Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học đoạn trích.
2.3.1. Bám sát mục tiêu dạy học tác phẩm để xác định đúng các kĩ năng sống
cần tích hợp giáo dục cho học sinh trong tiết học
Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi nó giúp người giáo viên tránh
được chuyện lan man, xa rời mục tiêu trọng tâm bài học. Đồng thời, chủ động
hình dung trước những kĩ năng sẽ hình thành cho học sinh trong tiến trình tổ
chức các hoạt động học trên lớp. Sự chủ động, có kế hoạch trước bao giờ cũng
đem lại hiệu quả cao trong công việc.
Để làm tốt phần này, trước khi khi tiến hành soạn giáo án Truyện An
Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy chúng tôi đã đặt ra 03 câu hỏi:
(1) Mục tiêu trọng tâm của bài học là gì? (Vấn đề cơ bản mà hs cần nắm qua
bài học/ tiết học này là gì?)
(2) Bài học này cần lồng ghép giáo dục những kĩ năng sống nào?
(3) Thực hiện tích hợp ở phần nào (địa chỉ tích hợp nào)?
Câu hỏi (1) hướng đến xác định rõ yêu cầu cần đạt được về mặt kiến thức
bài học. Câu hỏi (2) và (3) thể hiện rõ hình dung của người thầy về các kĩ năng

sống cơ bản cần tích hợp trong tiến trình thực hiện các hoạt động dạy học. Nghĩa
là, người thầy cần cụ thể rõ ràng các kĩ năng sống được tích hợp trong một địa
chỉ tích hợp cụ thể. Điều này vừa có ý nghĩa tránh được sự ôm đồm, chồng chéo
7


quá nhiều các kĩ năng làm mất đi chất văn thực sự của một giờ dạy học tác phẩm
văn chương; vừa đảm bảo thời gian biên chế cho bài học theo quy định.
Cụ thể, khi dạy Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy chúng
tôi xác định rõ mục tiêu cần đạt được của tiết học này là:
2.3.1.1. Về kiến thức
Giúp học sinh:
- Hiểu được bài học giữ nước, nguyên nhânn mất nước mà người xưa gửi gắm
trong câu chuyện về thành Cổ Loa và mối tình Mỵ Châu - Trọng Thuỷ
- Nắm được đặc trưng cơ bản của truyền thuyết.
2.3.1.2. Các kĩ năng sống cơ bản cần tích hợp:
- Kĩ năng hợp tác, kĩ năng thể hiện sự tự tin (qua phần giới thiệu bài học; học
sinh đóng vai, nhập vai diễn kịch; qua hoạt động nhóm …).
- Kĩ năng thấu hiểu, kĩ năng thể hiện sự cảm thông (qua việc hướng dẫn tìm
hiểu các nhân vật An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy, đánh giá công – tội
của nhân vật ...)
- Kĩ năng nhận thức, kĩ năng giao tiếp hiệu quả, kĩ năng từ chối (qua việc
hướng dẫn học sinh tìm hiểu các nhân vật, đặt các em vào tình huống của nhân
vật...).
- Kĩ năng tư duy sáng tạo, phân tích so sánh: Học sinh học cách phân tích, bình
luận, bày tỏ ý kiến cá nhân về việc giải quyết mối quan hệ giữa riêng và chung,
ý nghĩa cao cả của tình yêu, nghĩa vợ chồng, về tính cách và lối sống đẹp của
một bậc anh hùng, về các vai diễn của các bạn...
- Kĩ năng ra quyết định, kĩ năng đánh giá (qua phần tổng kết, củng cố, luyện
tập).

Thực tế trên cho thấy, chúng tôi sẽ thực hiện tích hợp giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh lớp 10 qua văn bản này ở 03 địa chỉ tích hợp, cụ thể:
Một là, tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong hoạt động mở đầu bài học. Ở
địa chỉ tích hợp này, chúng tôi đã thực hiện tích hợp giáo dục kĩ năng hợp tác
trong tổ chức trò chơi bằng các bước sau:
- Bước 1: Giáo viên tổ chức trò chơi khởi động.
Yêu cầu: Bốn nhóm (tương ứng với 4 tổ) cùng tham gia thi “Đuổi hình bắt chữ”.
Mỗi nhóm có 10s để thảo luận cho mỗi câu hỏi, tìm ra các từ khóa.
- Bước 2: Các nhóm thảo luận, thống nhất đáp án, giáo viên quan sát hs làm việc nhóm.
- Bước 3: Nhóm có đáp án nhanh nhất trả lời.
- Bước 4: GV nhận xét, chốt lại, dẫn vào bài mới.
Một số lưu ý đối với giáo viên:
+ Lời giới thiệu bài mới phải ngắn gọn, súc tích, chỉ trong khoảng thời gian
từ 1 đến 5 phút.
+ Phải thể hiện sự nhiệt tình, tạo sự gần gũi, thân thiện, hài hước đúng mực.
+ Nên đứng ở giữa lớp và gần với người học.
Hai là, tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong hoạt động hướng dẫn đọc –
hiểu văn bản. Phần này được thực hiện thông qua hai bước:
8


- Bước 1: Giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh chủ động,
tích cực khám phá bài học theo mức độ tăng dần: từ phát hiện -> đọc hiểu kĩ ->
đọc hiểu sâu văn bản. Có thể minh họa các mức độ theo tiến trình câu hỏi sau:
+ Câu hỏi phát hiện (Ví du: Tìm chi tiết kì ảo... ).
+ Câu hỏi nhận biết cao (Ví dụ: ý nghĩa của các chi tiết kì ảo? )nhằm gợi mở,
kích thích trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng, liên hệ, khả năng cảm thụ văn
học của học sinh.
- Bước 2: Giáo viên lồng ghép tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
thông qua hình thức câu hỏi. Tuy nhiên, đó phải là những câu hỏi có nội dung

liên quan đến bài học, yêu cầu học sinh giải quyết. Từ đó rút ra bài học yêu cầu
giáo dục học sinh.
Ví dụ, chúng ta có thể tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua
hệ thống câu hỏi gợi mở như: Mị Châu đã hành động thế nào trước lời thăm dò
của Trọng Thủy? Em có đồng tình với cách giải quyết/ứng xử của nhân vật Mị
Châu/ An Dương Vương/ Trọng Thủy không ? Vì sao? Nếu là em, em sẽ giải
quyết/ứng xử vấn đề này như thế nào? Từ ứng xử của nhân vật, em học được
cách khắc phục hạn chế của bản thân như thế nào? ...
Qua những câu hỏi như trên, giáo viên có thể giúp học sinh có được kĩ năng
ứng phó vấn đề, kĩ năng đàm phán, thương lượng ...
Ba là, tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong hoạt động củng cố kiến thức bài
học và luyện tập. Ưu điểm của việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
ở phần này là rất lớn, nó giúp các em khắc sâu hơn các nội dung tích hợp và
lồng ghép qua thực hành, luyện tập.
Với truyền thuyết này, chúng tôi đã củng cố bài học dưới hình thức: trả lời
ngắn (2 dòng) cho một câu hỏi mang tính đánh giá nhân vật (nhằm tích hợp giáo
dục kĩ năng nhận xét, đánh giá về nhân vật). Chẳng hạn: Qua tiết học, em đã rút
ra bài học gì cho bản thân mình?(2 dòng) (hoặc) Bài học rút ra cho bản thân qua
câu chuyện tình yêu của/Mị Châu/Trọng Thủy? (02 dòng)
Ở phần luyện tập, chúng ta tùy thuộc vào lượng thời gian của tiết học
dành cho phần luyện tập như thế nào thì sẽ có những hướng dẫn cụ thể, phù hợp.
2.3.2. Lựa chọn phương pháp/kĩ thuật dạy học phù hợp với nội dung tích hợp
giáo dục kĩ năng sống
Sau khi xác định được mục tiêu bài học và chọn lựa được các kĩ năng sống
cơ bản cần tích hợp trong dạy học Truyền thuyết An Dương Vương và Mị ChâuTrọng Thủy chúng tôi cũng đồng thời nghiên cứu kĩ lưỡng các phương pháp/kĩ
thuật dạy học phù hợp để phát huy tốt nhất năng lực của người học. Từ đó mà
nâng cao hiệu quả của giờ dạy học tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
PP DH, KT DH sử Nội dung bài dạy Mục đích hướng tới (phát triển
dụng
học được áp dụng năng lực và kĩ năng sống)

- Trò chơi: Chia lớp
- Giáo dục kĩ năng tự nhận thức,
làm 04 nhóm, tổ
kĩ năng tư duy, kĩ năng giao tiếp
chức cho các nhóm
hiệu quả, kĩ năng ra quyết định, kĩ
tham gia thi “Đuổi - Giới thiệu về năng thể hiện sự tự tin.
9


hình bắt chữ” trong
thời lượng 90s, yêu
cầu hs phải trả lời
được 9 câu hỏi, tìm
ra 9 từ khóa
- PP thuyết trình
PP thảo luận nhóm

PP DH WebQuest –
Khám phá trên mạng

KT giao nhiệm vụ

KT bản đồ tư duy

Kĩ thuật đặt câu hỏi:
câu hỏi biết, câu hỏi
hiểu, câu hỏi phân
tích, câu hỏi áp
dụng,câu hỏi đánh

giá, câu hỏi sáng tạo

truyền thuyết, về di
tích lịch sử Cổ Loa
- Hướng tìm hiểu
tác phẩm
- Quá trình xây
thành, chế nỏ, đánh
giặc của An Dương
Vương
-Thái độ của nhân
dân đối với sự kiện
lịch sử và nhân vật
lịch sử.
-Tìm hiểu về khu di
tích lịch sử Cổ Loa
- Tìm hiểu về thời
đại
An
Dương
Vương
- Nội dung chuẩn bị
cho cả bài, cho từng
phần của bài học.
- Chuẩn bị của cá
nhân, của nhóm...
- Giới thiệu bài học
- Tóm tắt tác phẩm.
- Trình bày nội dung
phần đọc hiểu.

- Khái quát nội dung
từng phần.
- Tổng kết bài học
-Khái quát về truyền
thuyết
-Đánh giá về An
Dương Vương
-Suy nghĩ về vai trò
người lãnh đạo
-Biểu hiện của bi
kịch nước mất...
-Nguyên nhân của
bi kịch.
-Bài học rút ra từ bi
kịch

- Giáo dục kĩ năng ra quyết định,
kĩ năng thể hiện sự tự tin, kĩ năng
tư duy phê phán, kĩ năng lắng
nghe, kĩ năng tư duy, kĩ năng giao
tiếp hiệu quả, , kĩ năng thể hiện sự
cảm thông, kĩ năng kiềm chế cảm
xúc
- Phát triển năng lực sử dụng công
nghệ thông tin và truyền thông,
năng lực tự quản, kĩ năng ra quyết
định, kĩ năng xác định giá trị.
- Giáo dục kĩ năng tư duy phê
phán, kĩ năng lắng nghe, kĩ năng
xác định giá trị, kĩ năng giao tiếp

hiệu quả, kĩ năng ra quyết định, kĩ
năng thể hiện sự tự tin,
- Giáo dục kĩ năng tự nhận thức,
kĩ năng tư duy, kĩ năng giao tiếp
hiệu quả, kĩ năng ra quyết định

- Giáo dục kĩ năng tự nhận thức,
kĩ năng tư duy, kí năng xác định
giá trị, kĩ năng giao tiếp hiệu quả,
kĩ năng ra quyết định, kĩ năng thể
hiện sự tự tin, kĩ năng thể hiện sự
cảm thông, kĩ năng kiềm chế cảm
xúc, kĩ năng ứng phó với căng
thẳng,

10


Kĩ thuật động não và - Đánh giá về nhân - Giáo dục kĩ năng tự nhận thức,
kĩ thuật trình bày 1 vật.
kĩ năng tư duy, kĩ năng ra quyết
phút
- Đánh giá giá trị định, kĩ năng thể hiện sự tự tin...
của tác phẩm
- Liên hệ thực tế, rút
ra bài học
2.4. Ứng dụng một số kinh nghiệm của bản thân trong dạy học tích hợp
giáo dục kĩ năng sống vào thiết kế giáo án giảng dạy Truyện An Dương
Vương và Mị Châu- Trọng Thủy
I. Mục tiêu cần đạt

1. Kiến thức (Giúp học sinh)
- Hiểu được bài học giữ nước, nguyên nhânn mất nước mà người xưa gửi
gắm trong câu chuyện về thành Cổ Loa và mối tình Mỵ Châu - Trọng Thuỷ
- Nắm được đặc trưng cơ bản của truyền thuyết.
2. Về kĩ năng:
- Đọc - kể truyền cảm truyền thuyết dân gian
- Phân tích văn bản truyền thuyết theo đặc trưng thể loại.
3. Về thái độ, phẩm chất:
- Thái độ: Lòng yêu nước, và tinh thần cảnh giác trong cuọc sống.
- Phẩm chất: Sống yêu thương, sống tự chủ và sống trách nhiệm...
II. Tích hợp giáo dục các kĩ năng sống cơ bản
1. Kĩ năng hợp tác, kĩ năng thể hiện sự tự tin
2. Kĩ năng thấu hiểu, kĩ năng thể hiện sự cảm thông
3. Kĩ năng nhận thức, kĩ năng giao tiếp hiệu quả, kĩ năng từ chối
4. Kĩ năng tư duy sáng tạo, phân tích so sánh ...
III. Chuẩn bị của GV và HS.
Chuẩn bị của GV
- SGK, thiết kế bài học
- Máy tính, máy chiếu, các slides trình chiếu
- Phiếu học tập: có in câu hỏi, bài tập dùng để kiểm tra.
- Phân công nhóm diễn kịch và nhóm trọng tài.
Chuẩn bị của HS (Chuẩn bị bài ở nhà theo các yêu cầu sau)
- Soạn bài theo các câu hỏi của phần Hướng dẫn học bài
- Một nhóm viết kịch bản và tập diễn xuất theo nội dung truyền thuyết.
- Một nhóm gồm một số HS khá giỏi nhận nhiệm vụ nhóm Trọng tài,
chuẩn bị kĩ lưỡng các nội dung liên quan đến bài học (đọc kĩ tác phẩm, sưu tầm
tư liệu phê bình, nghiên cứu về văn bản Truyện An Dương Vương và Mị ChâuTrọng Thủy)
IV. Tiến trình dạy học:
* Ổn định lớp và kiểm tra bài cũ: Có thể lồng ghép trong tiến trình tổ
chức các hoạt động học, nhằm:

+ Kiểm tra, khuyến khích các em học sinh chuẩn bị bài kĩ lưỡng trước
khi đến lớp.
11


+ Khuyến khích các em tích cực tham gia các hoạt động học, từ đó mà
phát huy tốt nhất năng lực bản thân ở cả phương diện lĩnh hội tri thức lẫn hình
thành những kĩ năng sống cơ bản thông qua bài học.
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Hoạt động 1: Khởi động (4 phút)
Tích hợp giáo dục “kĩ năng hợp tác”
trong tổ chức trò chơi.
Hình thức: cả lớp
Kĩ thuật: Trò chơi
- Bước 1. GV tổ chức trò chơi Đuổi
hình bắt chữ, tìm từ khóa liên quan dến
bài học, với 9 câu hỏi , mỗi câu hỏi có
thời gian 10s để suy nghĩ và trả lời. Chia
lớp làm 4 đội tương ứng 4 tổ, tổ nào ra
tín hiệu trước được trả lời trước
Bước 2: HS tham gia trò chơi: Đuổi
hình bắt chữ tìm từ khóa liên quan đến
bài học. Kết nối các thông tin trên bức
tranh, tìm ra đáp án trong thời gian
sớm nhất.
Bước 3: GV tổng hợp các đáp án.
Công bố, khen ngợi đội thắng cuộc.
Bước 4. GV hướng dẫn HS kết nối
các từ khóa tìm được, dẫn vào bài mới
Hoạt động 2:Hình thành kiến thức .

Thao tác 1: Tìm hiểu chung:
- Kĩ thuật dạy học: Công não, phòng
tranh, thông tin - phản hồi
- Hình thức tổ chức: hoạt động nhóm.
- Phát triển năng lực sử dụng công
nghệ thông tin và truyền thông, năng
lực tự quản, kĩ năng ra quyết định, kĩ
năng xác định giá trị
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ học
tập
GV: Chia lớp thành 4 nhóm
Nhóm 1: Giới thiệu ngắn gọn về thể
loại truyền thuyết
Nhóm 2: Giới thiệu xuất xứ văn bản
và di tích thành Cổ Loa
PP DH WebQuest – Khám phá trên
mạng
Nhóm 3: Tìm hiểu bố cục văn bản

Nội dung cần đạt

- HS tìm ra các từ khóa: Cổ Loa, Nhà
vua, vô tư, mắc lừa, gián điệp, bi kịch,
mất nước, đồng cảm, tỉnh táo.

- HS kết nối các từ khóa, phát hiện ra
chủ đề bài học

I. Tìm hiểu chung:
1. Thể loại: Truyền thuyết

- Định nghĩa: Là truyện kể dân gian
về sự kiện có ảnh hưởng lớn lao đến
lịch sử dân tộc.
- Đặc trưng: có sự kết hợp
+ Yếu tố lịch sử
+ Yếu tố hư cấu
- Giá trị, ý nghĩa:
+ Phản ánh những vấn đề nổi bật của
lcịh sử dân tộc
+ Phản ánh theo quan điểm, tư tưởng
tình cảm của nhân dân.
- Môi trường diễn xướng:
+ Tại các địa danh có liên quan
+ Trong các dịp sinh hoạt văn hoá (lễ
hội)
-> Muốn hiểu rõ tác phẩm phải đặt nó
trong mối quan hệ giữa lịch sử và đời
12


Sơ đồ hóa nội dung (có thể sử dụng sống.
sơ đồ tư duy hoặc sơ đồ grap)
2. Văn bản:
a. Xuất xứ:
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
Truyện được trích từ Truyện Rùa Vàng
HS: suy nghĩ, ghi câu trả lời vào giấy trong Lĩnh Nam trích quái. Đây là 1 tập
nháp.
truyện ra đời vào cuối thế kỉ XV.
Bước 3: Báo cáo kết quả thảo luận

b. Bố cục:
HS: Cử đại diện trình bày, HS khác bổ * Phần 1: Từ đầu …. “bèn xin hoà”->
sung.
Quá trình xây thành chế nỏ của An
Nhóm 4: Sân khấu hóa tác phẩm
Dương Vương
Tích hợp giáo dục các KN:
* Phần 2: Còn lại -> Bi kich nước mất
- “Kĩ năng thể hiện sự tự tin” ; “kĩ nhà tan và bi kịch tình yêu tan vỡ.
năng hợp tác” (qua đóng vai, nhập vai c. Chủ đề:
diễn kịch);
- Miêu tả quá trình xây thành chế nỏ
- “Kĩ năng tư duy sáng tạo” (qua bảo vệ đất nước và bi kịch của An
nhận xét, đánh giá vai diễn của học Dương Vương
sinh với các bạn diễn).
- Thái độ, tình cảm của nhân dân đối
Hình thức: cá nhân và nhóm
với từng nhân vật.
Phương pháp, kĩ thuật: đóng vai, đặt
câu hỏi.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá kết quả
thực hiện nhiệm vụ
GV: Nhận xét đánh giá kết quả và
chuẩn hóa kiến thức
Thao tác 2: Đọc hiểu chi tiết văn
bản
1. Quá trình xây thành, chế nỏ,
đánh thắng Triệu Đà
Tích hợp giáo dục những KN chính:
- Kĩ năng nhận thức (Nhận thức được

công lao của nhân vật An Dương
Vương).
- Kĩ năng hợp tác, kĩ năng đảm nhiệm
trách nhiệm (qua việc tích cực tham
gia thảo luận nhóm).
- Kĩ năng giao tiếp hiệu quả”, kĩ năng
thể hiện sự tự tin, kĩ năng đảm nhận
trách nhiệm”... (học sinh trình bày kết
quả thảo luận của nhóm trước tập thể
lớp)
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ học
tập:

II. Đọc hiểu văn bản
1. Quá trình xây thành, chế nỏ, đánh
thắng Triệu Đà:
a . Xây thành:
+ Thành xây tới đâu lở tới đó.
+ Lập đàn trai giới, giữ mình trong
sạch, cầu đảo bách thần.
+ Nhờ cụ già mách bảo, sứ Thanh
Giang - tức Rùa Vàng giúp nhà vua
xây thành công Lao Thành.
-> có lòng kiên trì quyết tâm xây dựng
đất nước, có ý thức đề cao cảnh giác
với kẻ thù
b. Chế nỏ:
+ Nỗi băn khoăn:
“Nhờ ơn thần, thành đã được xây
xong. Nay nếu có giặc ngoài biết lấy gì

13


GV sử dụng PPDH thảo luận nhóm
(còn gọi là dạy học hợp tác, dạy học
theo nhóm).GV chia 3 nhóm
- Nhóm 1: Thảo luận về vấn đề: Quá
trình xây thành của An Dương Vương
diễn ra như thế nào? Do đâu Vua
được thần linh giúp đỡ?
- Nhóm 2: Thảo luận về vấn đề: Xây
thành xong, An Dương Vương băn
khoăn về điều gì và được giúp đỡ ra
sao? Ý nghĩa của chi tiết này?
- Nhóm 3: Thảo luận về vấn đề: Kể
về việc xây thành, chế nỏ, dân gian
sáng tạo những yếu tố kì ảo nào? Qua
đó tác giả dân gian gửi gắm thái độ
đối với nhà vua như thế nào? (Câu hỏi
1 SGK Ngữ văn 10, tập 1)
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
HS: suy nghĩ, ghi câu trả lời vào giấy
nháp.
Bước 3: Báo cáo kết quả và thảo
luận
HS trả lời, HS khác bổ sung.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá kết quả
thực hiện nhiệm vụ
GV: Nhận xét đánh giá kết quả và
chuẩn hóa kiến thức

Câu hỏi mở rộng: Qua phần vừa tìm
hiểu em hãy trình bày suy nghĩ của
mình về vấn đề vai trò, trách nhiệm
của người đứng đầu quốc gia (người
lãnh đạo)
Muốn thành công trong công việc, con
người cần phải có những kĩ năng gì?
HS bày tỏ ý kiến của mình:

2: Bi kich nước mất, nhà tan và bi
kịch tình yêu tan vỡ
- Giáo viên sử dụng PP nêu và giải
quyết vấn đề và kĩ thuật đặt câu hỏi.
Trước hết là dạng câu hỏi biết và hiểu

mà chống?”
-> được Rùa Vàng tặng móng vuốt
làm lẫy nỏ thần
c. Đánh thắng Triệu Đà:
+ Nhờ có thành ốc kiên cố
+ Nhờ có nỏ thần lợi hại
+ Nhờ có ý thức đề cao cảnh giác với
kẻ thù
 An Dương Vương là vị vua anh
minh sáng suốt, có lòng yêu nước sâu
sắc.
=> An Dương Vương được thần linh
giúp đỡ vì đã có ý thức đề cao cảnh
giác, lo xây thành, chuẩn bị vũ khí từ
khi giặc chưa đến. Tưởng tượng ra sự

giúp đỡ của thần linh là cách để nhân
dân ca ngợi nhà vua, tự hào về chiến
công xây thành, chế nỏ, chiến thắng
ngoại xâm của dân tộc
-> Nghệ thuật: Kể với giọng tự nhiên,
các chi tiết được sắp xếp logic, có sự
xen lẫn yếu tố hoang đường với yếu tố
hiện thực.

Mở rộng: kĩ năng cần có để thành
người lãnh đạo, để thành công
+ Người đứng đầu (quốc gia, hoặc một
tổ chức nào đó) cần có tài, có tâm, có
đức, có chí ...
+ Muốn thành công trong bất cứ công
việc gì con người cần có ý chí, có nghị
lực, có lòng quyết tâm, có sự kiên trì,
nhẫn nại, có lòng dũng cảm, có tinh
thần tập thể…
2. Bi kich nước mất, nhà tan
a) Biểu hiện của bi kịch nước mất, nhà
tan
- Vua để Loa Thành thất thủ, phải bỏ
14


để hướng dẫn HS tìm hiểu về bi kịch
nước mất, nhà tan qua tác phẩm
Câu hỏi: Nêu biểu hiện của bi kịch
nước mất, nhà tan, tình yêu tan vỡ

được đề cập đến trong tác phẩm?
- HS: Thảo luận, ghi câu trả lời vào
giấy nháp.
HS: Cử đại diện trình bày
GV: Nhận xét đánh giá kết quả và
chuẩn hóa kiến thức

- GV tiếp tục sử dụng PP nêu và giải
quyết vấn đề và kĩ thuật đặt câu hỏi.
Dạng câu hỏi hiểu và câu hỏi phân
tích:
Câu hỏi: Những sai lầm nào của An
Dương Vương và Mị Châu dẫn đến
thảm hoạ mất nước?
+ Sự mất cảnh giác của Vua thể hiện
như thế nào? Câu hỏi 1b SGK Ngữ
văn 10, tập 1)

GV cho HS trình bày ý kiến của
mình giải quyết câu hỏi 2 trong SGK.
Việc Mị Châu lén đưa cho Trọng Thủy
xem nỏ thần,có hai cách đánh giá:

chạy, cùng đường, bị kết tội “để giặc
sau lưng”, phải tự tay chém con gái
yêu, rồi đi vào lòng biển. Đất nước vào
tay giặc, dân chúng lầm than.
- Công chúa ngây thơ, trong sáng, một
lòng hiếu nghĩa. Nhưng bị kết tội là
giặc , bị chém đầu.

- Người vợ yêu thương, tin tưởng
chồng tuyệt đối. Kết cục bị chồng lừa
dối, trước khi chết mới nhận ra mình là
nạn nhân của chồng, và coi tình yêu
của mình là mối nhục thù.
- Chồng yêu thương vợ, muốn ấm êm,
hạnh phúc. Nhưng lại lừa vợ, mất vợ,
mất tình yêu, mất hạnh phúc, sống
trong ân hận dày vò rồi cuối cùng phải
tự vẫn.
b) Nguyên nhân:
- Sai lầm của An Dương Vương:
+ Chấp thuận lời cầu hòa của Triệu
Đà, nhận lời cầu hôn của Triệu Đà cho
Mị Châu lấy Trọng Thủy.
+ Cho Trọng Thủy ở rể.
+ Để Trọng Thủy và Mị Châu tự do,
không đề phòng, giám sát, không giữ
bí mật quốc gia
-> mơ hồ về bản chất ngoan cố và âm
mưu thâm độc của kẻ thù.
+ An Dương Vương lơ là việc phòng
thủ, ham vui. Khi giặc đến sát chân
thành vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, ý
thế vào nỏ thần.
+ An Dương Vương chủ quan coi
thường địch. ( Câu nói : Đà không sợ
nỏ thần sao ? thể hiện rõ điều đó)
Như vậy nguyên nhân mất nước
từ phía An Dương Vương là do chủ

quan, mất cảnh giác, mơ hồ về bản
chất của kẻ thù.Nhà Vua đã thất bại
trước mưu kế thâm hiểm của chúng.
- Do Mị Châu:
+ Tin Trọng Thủy cho Trọng Thủy
xem nỏ thần, Trọng Thủy tráo lẫy thần
15


Ý kiến 1: Mị Châu chỉ thuận theo tình
cảm vợ chồng mà quên nghĩa vụ quốc
gia
Ý kiến 2: Mị Châu làm theo ý chồng là
lẽ tự nhiên, hợp đạo lí.
Ý kiến của em như thế nào?
HS trình bày trước lớp, HS khác nêu ý
kiến của mình . Sau đó GV nhận xét và
chốt những ý chính
- Phương pháp : thảo luận nhóm kết
hợp đặt câu hỏi
- Tích hợp giáo dục kĩ năng thấu hiểu,
thể hiện sự cảm thông
GV chia 2 nhóm
Nhóm 1: Thảo luận về vấn đề :Thái độ
của nhân dân đối với An Dương
Vương ( Sáng tạo chi tiết kì ảo thể
hiện thái độ của nhân dân đối với An
Dương Vương như thế nào? So sánh
với hình ảnh Thánh Gióng về trời em
thấy có điểm gì giống và khác nhau?

(Câu hỏi 1c, sgk Ngữ văn 10 tập 1)
Nhóm 2: Thảo luận về vấn đề :Thái độ
của nhân dân đối với nhân vật Mị
Châu? ( Chi tiết máu Mị Châu trai sò
ăn phải đều biến thành hạt châu, xác
hoá thành ngọc thạch. Chi tiết này thể
hiện thái độ của dân gian như thế nào
đối với Mị Châu?và nhắn nhủ điều gì
đối với thế hệ trẻ đời sau?
(Câu hỏi 3, sgk Ngữ văn 10 tập 1)
HS làm việc nhóm 5 đến 7 phút, trên
cơ sở nội dung cá nhân HS đã chuẩn bị
ở nhà trên phiếu học tập của mình,
HS nghe, HS khác có thể đặt câu hỏi
phản biện, hoặc bổ sung ý kiến.
GV nhận xét và chiếu sơ đồ tư duy lên
màn hình, kết hợp với lời giảng chốt
lại những ý chính, giúp học sinh nắm
những ý cơ bản

mà không biết
+ Mị Châu chưa ý thức được đầy đủ vị
thế một công chúa, về bí mật quốc gia.
 Như vậy nguyên nhân dẫn đến mất
nước nhà tan là do cả 2 cha con An
Dương Vương và Mị Châu đều chủ
quan, mất cảnh giác với kẻ thù, không
nhận ra dã tâm nham hiểm của kẻ thù.
c. Thái độ của nhân dân
* Đối với An Dương Vương:

- Dân gian có thái độ vừa ngưỡng mộ,
kính trọng vì có công lập nước Âu Lạc,
vừa phê phán vì sai lầm dẫn đến mất
nước.
+ Hành động chém con của An Dương
Vương: nghiêm khắc mà đau đớn
chứng tỏ nhà vua đã đứng trên quyền
lợi của dân tộc để thẳng tay trừng trị kẻ
có tội. Cũng là hành động thể hiện sự
tỉnh ngộ muộn màng.
+ Với công xây dựng và bảo vệ đất
nước Âu Lạc, với hành động dũng cảm
khi lựa chọn nghĩa nước trên tình nhà
nên trong lòng nhân dân, An Dương
Vương không chết mà cầm sừng tê
giác bước vào thế giới vĩnh cửu và
được nhân dân đời đời thờ phụng.
* Đối với Mị Châu
Nhân dân không đồng tình với sự chủ
quan, mất cảnh giác của MC.
- Phê phán hành động vô tình phản
quốc của MC, đồng thời rất độ lượng
với nàng, hiểu nàng là con gái nhẹ dạ
cả tin, ngây thơ nên bị lợi dụng.
-> Nhân dân vừa nghiêm khắc, vừa độ
lượng, nhân ái đối với các nhân vật
trong truyện.
-> Nhân dân đã đưa ra bài học lịch sử
về việc giữ nước, cùng cách xử lí đúng
đắn mối quan hệ giữa nước với nhà,

riêng với chung, cá nhân với cộng
đồng.
16


Câu hỏi mở rộng;
? Từ thái độ của nhân dân đối với An
Dương Vương và Mị Châu, em rút ra
bài học gì về cách đánh giá một con
người? Xử lý mối quan hệ giữa riêng
và chung?

Mở rộng:
- Khi đánh giá con người, sự việc cần
có cái nhìn toàn diện, tránh phiến diện,
một chiều.
- Cần có cái nhìn nhân ái, bao dung,
đặt mình vào hoàn cảnh người khác.
- Giải quyêt đúng đắn mối quan hệ cá
nhân với cộng đồng v.v

Hoạt động 3: Tổng kết - Luyện tập
(5 phút)
Tích hợp giáo dục “kĩ năng nhận
thức”, “kĩ năng tư duy sáng tạo”, “kĩ
năng đánh giá” thông qua trong câu
hỏi
- Em hãy khái quát lại giá trị nọi dung,
nghê thuật của văn bản?
- Có ý kiến cho rằng hình ảnh ngọc

trai - giếng nước dùng để ca ngợi mối
tình chung thủy của hai người. Ý kiến
của em như thế nào?

- Ghi nhớ (SGK).
- Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước”:
+ Không nhằm ca ngợi kẻ thù cũng
như tình yêu chung thủy
+ Là sự minh oan cho tấm lòng trong
sáng của Mị Châu
+ Nhân dân mong muốn hóa giải tội
lỗi cho Trọng Thủy
 Cách ứng xử thấu lí đạt tình của
nhân dân

Hoạt động 4: Vận dụng
GV yêu cầu HS thảo luận, trả lời câu
hỏi
-Từ câu chuyện của các nhân vật
trong tác phẩm, em rút ra cho mình
bài học gì trong việc giữ gìn và bảo vệ
đất nước hiện nay?
- Từ câu chuyện tình bi đát của MCTT, theo em, để có một tình yêu chân
chính cần phải có những yếu tố nào?
GV: Nhận xét đánh giá kết quả của các
nhóm và chuẩn hóa kiến thức
Hoạt động 5: Mở rộng, sáng tạo
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ học
tập
Nhập vai nhân vật Mị Châu kể lại

truyện An Dương Vương và Mị Châu,
Trọng Thủy.
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
HS: suy nghĩ câu trả lời
Bước 3: Báo cáo kết quả vào buổi

- HS cần có trách nhiệm và nghĩa vụ
với đất nước trong mọi hoàn cảnh:
+ Chăm chỉ học tập
+ Rèn luyện đạo đức
+ Cảnh giác trước âm mưu của kẻ thù
- Tình yêu chân chính cần xuất phát
tình cảm chân thành, tránh vụ lợi, toan
tính,..

Gợi ý: Mị Châu giới thiệu được về
mình và kể lại câu chuyện tình yêu và
hôn nhân vì nền hoà bình của hai nước.
- Câu chuyện tình nghĩa vợ chồng: tâm
trạng cả tin khi tiết lộ bí mật nỏ thần,
sự nhớ nhung đợi chờ khi xa chồng và
nỗi lo lắng khi nhớ tới lời chồng dặn.
- Câu chuyện về cuộc chiến giữa hai
quốc gia và niềm đau xót khi phải
17


học sau
cùng cha chạy trốn.
Bước 4:Nhận xét, đánh giá kết quả - Sự thức tỉnh theo tiếng thét của rùa

thực hiện nhiệm vụ
vàng.
GV: Nhận xét đánh giá kết quả và
chuẩn hóa kiến thức.
*Lưu ý: Phân chia thời gian mang tính gợi ý. Gv có thể linh hoạt tuỳ theo
từng đối tượng hs.
2.5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài này được tôi áp dụng thường xuyên trong thực tế giảng dạy những
năm qua theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học văn. Và bước đầu đã thu
được những kết quả đáng mừng.
2.5.1. Về phía giáo viên:
Thứ nhất, bản thân tôi thấy tự tin, chủ động nắm bắt hệ thống kiến thức, kĩ
năng lồng ghép tích hợp trong dạy học đoạn trích này, làm giàu thêm vốn sống
và nghệ thuật xử lí các tình huống sư phạm, những tình huống trong cuộc sống.
Thứ hai, thông qua mỗi giờ dạy học đoạn trích, bản thân tôi cũng hiểu rõ
hơn năng lực, tính cách, những tâm tư và nguyện vọng của các em. Trên cơ cở
đó, khuyến khích, ngợi khen kịp thời những suy nghĩ và hành động tích cực của
các em; Uốn nắn, điều chỉnh những suy nghĩa và hành vi chưa đúng của một số
học sinh... Vì vậy mà khoảng cách giữa cô và trò cũng được rút ngắn, trở nên
gần gũi và thân thiết hơn.
Thứ ba, giờ hướng dẫn đọc hiểu Truyền thuyết An Dương Vương và Mị
Châu- Trọng Thủy trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bởi vai trò của người học
được phát huy tối đa và hiệu quả. Vai trò của người thầy cũng được khẳng định
ở tầm cao hơn, bởi người thầy thông qua mỗi tiết học không đơn thuần là cung
cấp kiến thức mới lạ cho học sinh mà quan trọng hơn chính là đã bồi đắp cho
các em những kĩ năng thiết yếu nhất.
2.5.2. Về phía học sinh:
Thứ nhất, học sinh sôi nổi, hứng thú hơn trong học tập. Đặc biệt nhất là
năng lực của học sinh ngày càng được thể hiện rõ nét như: năng lực hợp tác,
năng lực giao tiếp, xử lí các tình huống (những tình huống mà giáo viên đặt ra,

các em đã giải quyết hợp lí, nhanh nhạy, thông minh), ...
Thứ hai, lời nói và ứng xử hàng ngày của các em trở nên tốt đẹp hơn. Các
em biết tôn trọng nhau, sống đoàn kết, yêu thương và biết giúp nhau. Tích cực
tham gia các phong trào tình nguyện như phong trào phong trào “ủng hộ học
sinh nghèo ăn tết”, “Chia khó với học sinh vùng cao”, ... Các em cũng tự tin
tham gia các hoạt động văn nghệ tại trường trong các đợt thi đua chào mừng
ngày nhà giáo Việt Nam 201/11, ngày Thành lập Đoàn TNCSHCM, trong lễ bế
giảng năm học…
Kết quả trên được cụ thể qua kết quả khảo sát cuối năm học 2018-2019 ở
02 lớp 10 tôi giảng dạy như sau:
18


Lớp

Sỉ số

10A7

42

10A4

42

Khảo sát trắc nghiệm
Yêu thích giờ học
Không yêu
thích giờ học
SL

TL
SL
TL
39
92.86 %
03
7.14 %
6

14.29 %

36

85.71 %

Ghi chú
Lớp có ứng
dụng tích hợp
GDKNS
Lớp không ứng
dụng tích hợp
GDKNS

Khảo sát lựa chọn ứng xử trước một tình huống trong đời sống
Lớp
Sỉ số
Biết cách ứng xử hài hoà,
Chưa biết cách
Ghi chú
khá phù hợp

ứng xử/ ứng xử
không phù hợp
SL
TL
SL
TL
Lớp có ứng
10A7
42
40
95.24 %
02
4.76 %
dụng tích
hợp GDKNS
Lớp không
10A4
42
11
26.19 %
31
73.81 %
ứng dụng
tích hợp
GDKNS
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Từ thực tế giảng dạy những năm qua, tôi nhận thấy môn Ngữ Văn là môn
học thực sự có ưu thế trong việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Quá trình giảng dạy môn học theo hướng nhấn mạnh tới kĩ năng sống ở trường

THPT có khả năng tạo điều kiện giúp học sinh nâng cao năng lực lĩnh hội trong
học tập, hình thành thái độ, hành vi; giúp các em học sinh có động lực tìm hiểu,
cân nhắc lựa chọn và có quyết định đúng đắn để giải quyết các vấn đề trong
cuộc sống một cách hợp lí, hiệu quả, từ đó mà hoàn thiện nhân cách của bản
thân. Và chúng tôi đã chọn giảng dạy Truyện An Dương Vương và Mị ChâuTrọng Thủy làm minh chứng thực nghiệm điển hình và đã đạt được những thành
công đáng kể.
Song, để làm tốt việc này tôi nghĩ rằng mỗi giáo viên cần phải không
ngừng nâng cao kiến thức nhiều mặt, nắm chắc chương trình, mục tiêu đào tạo
giáo dục của Đảng và nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Đây là điều không dễ
dàng bởi nó đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của mỗi giáo viên. Xuất phát từ mục
đích đổi mới phương pháp, mong muốn từng bước nâng cao hiệu quả giảng dạy
19


của bản thân từ một bài giảng cụ thể, tôi đã viết sáng kiến kinh nghiệm này, xin
được chia sẻ với các đồng nghiệp để cùng trao đổi, rút kinh nghiệm để chúng ta
ngày càng vững bước hơn trong sự nghiệp trồng người, xứng đáng với niềm tin
của Đảng, nhà nước và nhân dân.
3.2. Kiến nghị
Để học sinh được phát triển toàn diện thì học trên sách vở, qua mỗi tiết
học định biên là chưa đủ. Thiết nghĩ, các em còn rất cần nhiều những sân chơi
bổ ích của hoạt động ngoài giờ lên lớp, phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi, tạo
môi trường cho những ý tưởng sáng tạo, tài năng của các em cũng có cơ hội
được bộc lộ nhiều hơn. Vì vậy, nhà trường cần tổ chức đa dạng hóa các loại hình
câu lạc bộ. Bên cạnh các câu lạc bộ có tính nghiên cứu như : câu lạc bộ môn
Ngữ văn, câu lạc bộ môn Toán, Lịch sử, Địa lí, Sinh học, ... cũng rất cần thêm
các câu lạc bộ mang tính giải trí như: Câu lạc bộ rèn luyện kĩ năng, câu lạc bộ
tình bạn, câu lạc bộ thể thao, Câu lạc bộ đàn ghi ta, câu lạc bộ thơ...
Sở GD&ĐT nên tổ chức thêm các buổi hội thảo về những tiết dạy tích
hợp giáo dục kĩ năng sống được đánh giá cao để giáo viên chúng tôi được giao

lưu, học hỏi những kinh nghiệm của đồng nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thiệu Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2020.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết đề tài:
Lữ Thị Thanh Thủy

20


Tài liệu tham khảo
[1]. Chương trình THPT, môn Ngữ văn, 2002.
[2]. Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, nhà xuất bản Giáo
Dục, 2006).
[3]. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ Văn ở trường THPT, NXB GD
Việt Nam, 2010.
[4]. Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2000.


MỘT SỐ TRANH ẢNH MINH HỌA SỬ DỤNG TRONG TIẾT HỌC



×