TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
======
PHẠM THỊ TRÀ
PHÁT TRIỂN LỜI NÓI MẠCH LẠC CHO
TRẺ 5 - 6 TUỔI THÔNG QUA CÁC
BÀI CA DAO, ĐỒNG DAO
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục mầm non
Người hướng dẫn khoa học
Th.S VŨ THỊ TUYẾT
HÀ NỘI - 2018
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học sư phạm Hà
Nội 2, các thầy cô giáo khoa Giáo dục mầm non đã giúp đỡ em rất nhiều trong
quá trình học tập tại trường và tạo điều kiện tốt cho em thực hiện khóa luận tốt
nghiệp đại học.
Đặc biệt, em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo –
TH.S Vũ Thị Tuyết, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn giúp đỡ
động viên em trong quá trình học tập và thực hiện khoá luận.
Qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các cô giáo trường mầm
non Xuân Hòa đã giúp đỡ em có những tư liệu tốt.
Quá trình nghiên cứu và xử lí đề tài, em không thế tránh khỏi những hạn
chế, em kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và các bạn
để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2018
Sinh viên
Phạm Thị Trà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề........................................................................................................................ 2
2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................... 5
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................ 5
6. Cấu trúc khóa luận ............................................................................................................. 6
PHẦN 2: NỘI DUNG............................................................................................................. 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA PHÁT
TRIỂN LỜI NÓI MẠCH LẠC CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI THÔNG QUA
CÁC BÀI CA DAO, ĐỒNG DAO ................................................................................... 7
1.1. Cơ sở lý luận....................................................................................................................... 7
1.1.1 Một số đặc điểm của trẻ mẫu giáo lớn ............................................................. 7
1.1.2 Lời nói mạch lạc và đặc trưng lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo lớn
1.1.3 Một số vấn đề về ca dao, đồng dao ...................................................................... 19
1.2 Cơ sở thực tiễn ................................................................................................................. 34
1.2.1 Thuận lợi và khó khăn của việc sử dụng các bài ca dao, đồng dao
nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn ........................................ 34
1.2.2 Vai trò của lời nói mạch lạc.................................................................................... 36
1.2.3 Vai trò của việc phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi thông qua
các bài ca dao, đồng dao ...................................................................................................... 36
Kết luận chương 1 ................................................................................................................. 38
CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN LỜI NÓI MẠCH LẠC CHO
TRẺ 5 - 6 TUỔI THÔNG QUA CÁC BÀI CA DAO, ĐỒNG DAO ............ 39
2.1 Nguyên tắc đề xuất biện pháp.................................................................................. 39
2.1.1 Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích ..................................................................... 39
2.1.2 Nguyên tắc đảm bảo tính tích cực của trẻ……………………...…….41
2.1.3 Nguyên tắc đảm bảo phù hợp với vốn sống và kinh nghiệm của trẻ.. 43
2.2 Biện pháp phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi thông qua các
bài ca dao, đồng dao ....................................................................................... 44
2.2.1 Biện pháp dạy trẻ đọc diễn cảm ca dao, đồng dao ....................................... 44
2.2.2 Biện pháp dùng lời ...................................................................................................... 47
2.2.3 Biện pháp dạy trẻ đọc đồng dao kết hợp chơi trò chơi dân gian ........... 48
2.2.4 Biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan mô phỏng lại sự vật hiện tượng
.......................................................................................................................................................... 61
2.2.5 Biện pháp tổ chức ngoại khóa về ca dao, đồng dao cho trẻ..................... 63
KẾT LUẬN ............................................................................................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 67
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôi là cô giáo mầm non
Dạy con học nói, dạy con làm người
Giáo dục mầm non là mắt xích quan trọng trong hệ thống giáo dục Quốc
dân, là giai đoạn khởi đầu đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách trẻ em, thời kỳ mầm non còn được gọi là thời kỳ vàng của cuộc đời. Sự
phát triển của trẻ em trong thời kỳ này rất đặc biệt, chúng hồn nhiên non nớt,
buồn vui, khóc cười theo ý thích. Những gì trẻ được học, được trang bị ở trường
mầm non có thể sẽ là những dấu ấn theo trẻ suốt cuộc đời.
Ngôn ngữ cũng chính là mô ̣t trong những phương tiêṇ thúc đẩ y trẻ trở
thành mô ̣t thành viên của xã hô ̣i loài người. Ngôn ngữ là mô ̣t công cụ hữu hiêụ
để trẻ có thể bày tỏ những nguyê ̣n vọng của mình từ khi còn rấ t nhỏ để người
lớn có thể chăm sóc, điề u khiể n, giáo dục trẻ là mô ̣t điề u kiêṇ quan trọng để trẻ
tham gia vào mọi hoạt đô ̣ng và trong hoạt đô ̣ng hình thành nhân cách của trẻ.
Ngôn ngữ là công cụ phát triể n trí tuê ̣, hiê ̣n thực của tư duy. Ngoài ra ngôn ngữ
còn là công cụ để trẻ học tâ ̣p, vui chơi, ngôn ngữ được tích hợp trong tấ t cả các
loại hình hoạt đô ̣ng giáo dục, ở mọi lúc, mọi nơi. Như vâ ̣y ngôn ngữ cầ n cho
tấ t cả các hoạt đô ̣ng và ngược lại, mọi hoạt động tạo điề u kiêṇ cho ngôn ngữ
trẻ phát triể n
Dạy trẻ nói mạch lạc cũng là một trong những nội dung của công tác phát
triển ngôn ngữ, đó là phát triển ở trẻ khả năng nghe hiểu ngôn ngữ của người
khác, khả năng biết trình bày, thể hiện sự hiểu biết, suy nghĩ, ý muốn, nguyện
vọng của mình cho người khác biết một cách có trình tự, có logic, có nội dung
đúng, đúng và biểu cảm. Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi góp phần
phát triển tư duy trực quan hình tượng ở giai đoạn cao hơn, hình thành những
cơ sở ban đầu cho sự xuất hiện kiểu tư duy logic ở giai đoạn phát triển tiếp theo.
1
Ca dao, đồng dao là những câu hát, câu vè mộc mạc, gần gũi, dễ thuộc,
dễ nhớ bởi vần điệu vui tươi, rộn ràng. Trong quá trình phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mẫu giáo, ca dao, đồng dao có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thông qua các
bài ca dao, đồng dao giáo viên có thể tiến hành phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu
giáo ở các nội dung như: giáo dục chuẩn mực ngữ âm; hình thành và phát triển
vốn từ; phát triển lời nói mạch lạc; phát triển ngôn ngữ nghệ thuật. Như vậy, ca
dao, đồng dao sẽ là một phương tiện hữu hiệu để giáo dục ngôn ngữ cho trẻ.
Lứa tuổi 5 - 6 tuổi là lứa tuổi cuối cùng của tuổi mẫu giáo, là giai đoạn
then chốt để trẻ tới trường phổ thông, là bước ngoặt trong cuộc đời trẻ. Vì
thế cần chuẩn bị tốt các mặt tâm lí để trẻ sẵn sàng đi học trong đó ngôn ngữ là
thành phần cốt yếu. Khi sử dụng ngôn ngữ, khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ, khả
năng trình bày có lô gíc, có trình tự, chính xác và có hình ảnh nội dung là những
tiêu chí mà trẻ cần đạt được; hay nói chung, lời nói mạch lạc là điều vô cùng
quan trọng mà trẻ cần rèn luyện.
Xuất phát từ những lí do trên, nên chúng tôi đã chọn đề tài : “ Phát triển
lời nói mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi thông qua các bài ca dao, đồng dao” là đề
tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Trẻ em là đối tượng luôn nhận được rất nhiều sự quan tâm từ gia đình,
nhà trường và xã hội. Những vấn đề về trẻ em đã được đã được các nhà khoa
học hết sức quan tâm. Riêng về phát triển ngôn ngữ và lời nói mạch lạc cho trẻ
đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu khoa học với những công trình nghiên cứu
được xã hội ghi nhận.
Trong cuốn Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo,
NXBĐHSP, năm 2014, Nguyễn Xuân Khoa đã nghiên cứu rất kỹ sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo. Trên cơ sở những đánh giá chung về đặc điểm sinh
lý của trẻ ở lứa tuổi này và dựa trên mối quan hệ của bộ môn ngôn ngữ học và
2
những bộ môn khác ông đã đưa ra đưa ra được một số phương pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mầm non, trong đó bao gồm cả vấn đề phát triển lời nói mạch
lạc cho trẻ. Cuốn sách là tài liệu bổ ích cho cả giáo viên và sinh viên ngành
mầm non, cũng như các nhà nghiên cứu về lĩnh vực này.
Cùng với Nguyễn Xuân Khoa, cuốn Giáo trình phương pháp phát triển
lời nói trẻ em của Đinh Hồng Thái, NXBĐHSP, năm 2007 đã viết rất chi tiết
về lời nói mạch lạc và các hình thức, phương pháp phát triển lời nói mạch lạc
cho trẻ mẫu giáo.
Qua quá trình tìm hiểu về sự tác động của ca dao, đồng dao trong việc làm
phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo(5 - 6 tuổi) và xây dựng một số biện
pháp phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các bài ca dao,
đồng dao, tôi đã tiếp cận với một số công trình nghiên cứu trong cũng như ngoài
nước. Ở những công trình này, theo những mục đích nghiên cứu khác nhau,
chúng tôi nhận thấy các tác giả chủ yếu quan tâm đến những vấn đề khái quát
về ca dao,đồng dao hoặc vai trò của ca dao, đồng dao đối với đời sống tinh thần
của trẻ em chứ chưa đi sâu nghiên cứu tác động đặc biệt của ca dao, đồng dao
đối với việc phát triển lời nói mạch lạc ở trẻ lứa tuổi mầm non, từ đó đưa ra các
biện pháp cụ thể để phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ thông qua các bài ca dao,
đồng dao.
Ngôn ngữ là tài sản quý báu của văn minh nhân loại. Ngôn ngữ là
điểm mốc then chốt giúp cho nhiều công trình nghiên cứu được tỏa sáng.
Không những vậy ngôn ngữ có sức hút mạnh mẽ, lôi cuốn sự tham gia nghiên
cứu của rất nhiều nhà khoa học, từ những lĩnh vực khác nhau: Triết học, tâm lí
học, ngôn ngữ học, giáo dục học, xã hội học,…Vai trò phát triển ngôn ngữ cho
trẻ từ lâu được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Có
thể kể đến các tác giả như: Borodis.A.M với cuốn Phương pháp phát triển tiếng
cho trẻ em (NXBGD Matxcơva - 1974). Xôkhin với tác phẩm Phương pháp
3
phát triển lời nói trẻ em( NXBGD Matxcơva). Hay E.Ti.Khêiva với tác phẩm
Phát triển ngôn ngữ trẻ em (NXBGD - 1997). Các tác giả: Phedorenco.L.P,
Phomitreva.G.A, Lomarep.V.K cũng có những cuốn sách tương tự. Ngay từ
những năm 80 của thế kỉ trước, chúng ta đã có những cuốn giáo trình đầu tiên
về phương pháp phát triển lời nói trẻ em trong các trường đào tạo giáo viên
mầm non như: Phan Thiều với cuốn Dạy nói cho trẻ trước tuổi cấp 1 (NXBGD
- 1973). Nguyễn Xuân Khoa (1997) về Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ Mẫu giáo (0 - 6 tuổi). Các tác phẩm trên đều đề cập đến nội dung và các
phương pháp nhằm hình thành và phát triển vốn từ ngữ cho trẻ. Đây chính là
cơ sở, là tiền đề cho các nhà khoa học sau này nghiên cứu, tìm tòi, khám phá
về vấn đề ngôn ngữ của trẻ.
Về ca dao, đồng dao, một số công trình nghiên cứu từ việc sưu tầm tư
liệu ca dao, đồng dao dành cho trẻ em đã đi vào nghiên cứu ý nghĩa giáo dục
của thể loại này đối với trẻ em như cuốn : Vào đời cùng lời ca dao của tác giả
Phạm Đình Vân. Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt Nam của Nguyễn
Thúy Loan. Trò chơi dân gian cho trẻ em dưới 6 tuổi của Trương Kim Oanh.
Lời đồng dao trong trò chơi cổ truyền của trẻ em của Phan Đăng Nhật (1992).
Các công trình này đều đi đến kết luận đồng dao có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ em. Trong bài Văn
học thiếu nhi Việt Nam tác giả Trần Đức Ngôn- Dương Thu Hương đã khẳng
định: “Ca dao là đại bộ phận dành cho người lớn tuy nhiên tác giả dân gian
khi sáng tác ca dao vẫn không quên trách nhiệm đối với thế hệ trẻ nên đã dành
trọn một phần ca dao cho các em được gọi là đồng dao”[16, tr.76]. PGS.TS
Nguyễn Ánh Tuyết đã nghiên cứu tác dụng của đồng dao đối với trẻ em trong
cuốn Giáo dục mầm non những vấn đề lý luận và thực tiễn. Tác giả cho rằng:
"Đồng dao có tác động giáo dục mạnh mẽ đối với trẻ em, trước hết là nó giáo
dục thái độ văn hóa đối với hai mối quan hệ chủ yếu của con người đó là con
4
người với thiên nhiên và con người với xã hội”[12, tr.18]. Đây là những vấn
đề hết sức quan trọng đối với sự hình thành, phát triển nhân cách con người.
Qua khảo cứu các bài viết, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
chúng tôi đã nhận thấy như sau: Các công trình nghiên cứu đã đánh giá căn bản
về vai trò của ca dao, đồng dao đối với trẻ em. Những đánh giá này cho thấy sự
cần thiết đưa các bài ca dao, đồng dao có giá trị vào chương trình giáo dục trẻ
ngay từ bậc học mầm non. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu
riêng về phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi thông qua các bài ca dao,
đồng dao. Nhận ra khoảng trống đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Phát
triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi thông qua các bài ca dao, đồng dao”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm đề xuất các biện pháp phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 56 tuổi thông qua các bài ca dao, đồng dao.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu một số cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận liên quan đến vấn đề
phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi thông qua ca dao, đồng dao.
- Đề xuất một số phương pháp dạy trẻ 5-6 tuổi đọc ca dao, đồng dao
nhằm phát triển lời nói mạch lạc
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.2 Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5-6
tuổi thông qua các bài ca dao, đồng dao
4.1 Phạm vi nghiên cứu: Trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi
5. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp so sánh,tổng hợp
- Phương pháp thống kê
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp tra cứu, đánh giá
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Nội dung của khóa luận gồm 2
chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của phát triển lời nói mạch
lạc cho trẻ 5-6 tuổi thông qua các bài ca dao, đồng dao
- Chương 2 : Biện pháp phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi thông
qua các bài ca dao, đồng dao.
6
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
CỦA PHÁT TRIỂN LỜI NÓI MẠCH LẠC CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI
THÔNG QUA CÁC BÀI CA DAO, ĐỒNG DAO
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số đặc điểm của trẻ mẫu giáo lớn
1.1.1.1 Đặc điểm tâm lý
Nhân cách hình thành trong suốt thời kỳ ấu thơ và niên thiếu của con
người. Trong đó, với điều kiện phát triển bình thường thì bước vào năm tuổi
thứ ba ý thức bản ngã bắt đầu nảy sinh và đến đầu tuổi thanh niên thì nhân cách
của con người cơ bản được hình thành. Giai đoạn đầu tiên của quá trình hình
thành nhân cách con người là giai đoạn hình thành nhân cách của trẻ mẫu
giáo. Ở độ tuổi mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi), nhân cách của trẻ tiếp tục hình thành
và phát triển mạnh mẽ với những đặc điểm nổi bật sau: Ý thức bản ngã được
xác định rõ ràng để giúp trẻ điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với chuẩn
mực của qui tắc xã hội. Đồng thời, ý thức bản ngã còn cho phép trẻ thực hiện
các hoạt động một cách chủ quan. Nhờ đó, quá trình tâm lý mang tính chủ động
rõ rệt. Cuối tuổi mẫu giáo, ngôn ngữ của trẻ có tốc độ phát triển nhanh về số
lượng và chất lượng. Ngôn ngữ phát triển giúp trẻ biết tự giác hướng sự chú ý
của mình vào đối tượng nhất định. Cho nên, mỗi một đối tượng được tiếp nhận
trong thời kỳ này đều có tác động sâu sắc đối với sự phát triển nhân cách và trí
tuệ của trẻ.
Giai đoạn 5-6 tuổi là giai đoạn cuối cùng của trẻ lứa tuổi mầm non. Ở
giai đoạn này những cấu tạo tâm lý đặc trưng của con người được hình thành ở
giai đoạn trước vẫn tiếp tục được phát triển mạnh. Với sự giáo dục của người
lớn, những chức năng tâm lý đó sẽ được hoàn thiện một cách tốt đẹp về mọi
7
phương diện hoạt động tâm lý (nhận thức, tình cảm, ý chí), để hình thành việc
xây dựng cơ sở nhân cách ban đầu của con người.
Trẻ ở giai đoạn này, có nhu cầu nói mạch lạc, nhu cầu nghe, hiểu ngôn
ngữ, nhu cầu trình bày có lô gíc, có trình tự, chính xác và có hình ảnh nội
dung; trẻ rất thích nghe ca nhạc, thích nghe những bài thơ có vần nhịp rõ ràng
và có nội dung gắn liền với cuộc sống của trẻ như những bài vè, ca dao, đồng
dao.
Tóm lại, lứa tuổi mầm non, nhất là độ tuổi 5-6 là lứa tuổi rất nhạy cảm
với cái đẹp và luôn khao khát được tiếp xúc, khám phá cái đẹp phong phú, đa
dạng trong cuộc sống. Ca dao, đồng dao là một thể loại văn học dân gian có
khả năng đáp ứng nhu cầu này của trẻ. Tuy nhiên, trẻ lứa tuổi mầm non thường
hát xướng lên các bài đồng dao trong những lúc vui chơi đơn thuần chỉ để giải
trí, mà chưa phát huy hết được vai trò to lớn của chúng trong việc phát triển
ngôn ngữ đặc biệt là việc làm giàu vốn từ. Có nhiều trẻ hát, đọc các bài đồng
dao thuộc lòng mà không hiểu nội dung ý nghĩa của các từ ngữ trong các bài
đồng dao đó. Chính vì vậy, các cô giáo mầm non đều cần phải hiểu những đặc
điểm tâm lý rất cơ bản của trẻ, có như thế thì mới có thể phát huy được sức
mạnh của văn học nói chung, đồng dao nói riêng trong việc giáo dục trẻ thơ.
1.1.1.2 Đặc điểm sinh lý
Ở trẻ mẫu giáo lớn, sự phát triển diễn ra chậm hơn so với giai đoạn mẫu
giáo nhỡ và mẫu giáo bé.
- Chiều cao trung bình tăng từ 4-6cm, đạt được từ 105,5-125,5cm; cân
nặng tăng khoảng 1-1,25kg, đạt được khoảng 15,7kg, có sự thay đổi rõ rệt về
chất lượng.
- Về hệ thần kinh: Trẻ 5-6 tuổi cường độ và tính linh hoạt của các quá
trình thần kinh tăng lên rõ rệt. Trẻ có thể tập trung chú ý vào một đối tượng
nhất định trong thời gian 25-30 phút. Đồng thời ở lứa tuổi này, vai trò của hệ
8
thống tín hiệu thứ hai ngày càng tăng, tư duy bằng từ ngày càng tăng, ngôn ngữ
bên trong xuất hiện. Ngoài ra, do sự phát triển của hệ thần kinh nên số lần ngủ
trong ngày và thời gian ngủ của trẻ cũng giảm xuống còn khoảng 11h trên ngày.
- Về hệ vận động: Trẻ 5-6 tuổi có sự phối hợp vận động của nhiều nhóm
cơ lớn. Việc tiếp thu những thói quen và vận động hàng ngày của trẻ phụ thuộc
vào đặc điểm của từng cơ thể trẻ, nhất là sự luyện tập phù hợp.
- Về hệ tuần hoàn: Thành phần trong máu của trẻ cũng tăng lên và có sự
biến đổi về chất: Huyết sắc tố 80 - 90%; hồng cầu 4,5 – 5 triệu đơn vị; bạch cầu
7 – 10 nghìn; tiểu cầu 200-300 nghìn.
Ngoài ra, tần số co bóp của tim cũng tăng lên từ 80 – 110 lần trên một
phút. Về hệ hô hấp: Nhịp thở của trẻ giảm dần, cơ quan phát âm của trẻ cũng
phất triển và hoàn thiện làm cho ngôn ngữ của trẻ cũng phát triển.
1.1.1.3 Đặc điểm ngôn ngữ
Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục trẻ trở thành
con người phát triển toàn diện. Sự phát triển chậm trễ về mặt ngôn ngữ có ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển của trẻ, đặc biệt là trẻ 5 – 6 tuổi. Cho nên cần phải
xác định rõ các đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ như : phát âm, vốn từ, ngữ
pháp… để đề ra nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức phát triển ngôn
ngữ cho trẻ đúng lúc và phù hợp.
a. Đặc điểm phát âm (ngữ âm, ngữ điệu)
- Trẻ 5 – 6 tuổi đã dần hoàn thiện về mặt ngữ âm. Các phụ âm đầu, âm
cuối,
âm đệm, thanh điệu dần được định vị. Trẻ 5-6 tuổi phát triển khả năng tri giác
âm thanh nhanh nhạy và khả năng phát âm mềm dẻo, tự nhiên. Trẻ phát âm
đúng hầu hết các hình thức của âm thanh ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ và phát âm
đúng ngay cả những âm và vần khó, khả năng sử dụng giọng nói biểu cảm hơn.
Ví dụ: Khúc khuỷu, thuyền buồm, nghênh ngang, loanh quanh…
9
- Trẻ học và bắt chước ngữ điệu của người lớn rất tốt, bước đầu đã biết
sử
dụng các phát triển đơn giản của giọng như cao độ, cường độ, trường độ.
Ví dụ: Khi kể chuyện diễn cảm trẻ biết lên giọng, xuống giọng, biết ngắt,
nghỉ
đúng chỗ
b. Đặc điểm vốn từ
- Trẻ mẫu giáo lớn vốn từ đang ở thời kỳ phát cảm. Vì vậy, số lượng từ
tăng
nhanh khoảng 1300 – 2000 từ; danh từ và động từ vẫn chiếm ưu thế, số lượng
tính từ và các loại từ khác đã tăng dần lên; có khả năng sử dụng tính từ chỉ mức
độ, đặc điểm tính chất của sự vật hiện tượng; trẻ sử dụng từ rất nhanh và sáng
tạo.
- Về từ loại: Đối với trẻ 5-6 tuổi, tỷ lệ từ loại (động từ, tính từ, danh từ...)
tăng lên, ý nghĩa của từ phong phú hơn, khả năng nắm bắt nghĩa của từ phát
triển hơn...Những đặc điểm này phản ánh mức độ phát triển của trẻ mẫu giáo
lớn ( vốn hiểu biết của trẻ tăng nhanh, các quá trình tâm lý, nhận thức của trẻ
phát triển, đặc biệt là tư duy...).
- Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ tính chất không gian như: Cao thấp, dài - ngắn, rộng - hẹp; các từ chỉ tốc độ như: Nhanh - chậm; các từ chỉ
màu sắc: Xanh, đỏ, vàng, đen, trắng... Ngoài ra các từ có khái niệm tượng đối
như: hôm qua, hôm nay, ngày mai... trẻ dùng còn chưa chính xác.
Ví dụ: Hôm qua con được đi chơi công viên với bố.
Thời điểm trẻ đi chơi công viên với bố diễn ra cách thời điểm trẻ nói 1
tuần. Trẻ đã dùng từ chưa chính xác do không biết phân biệt thời gian trong quá
khứ.
10
Một số trẻ còn biết sử dụng các từ chỉ màu sắc khó hơn như: xanh lá cây,
da cam, tím, xám. Tuy nhiên trẻ sử dụng một số từ còn chưa chính xác.
Ví dụ: Hoa có thít ăn kem không? (thích)
c. Đặc điểm ngữ pháp
- Trẻ đã biết dùng câu chính xác và dài hơn.
+ Câu ghép chính phụ:
Ví dụ: Con thích bông hoa vàng thôi, màu bông hoa đẹp mà bạn Mai lại
hái rồi.
+ Câu phức đẳng lập:
Ví dụ: Vân đi chơi, Vân không làm bài tập.
- Trẻ ít sử dụng câu cụt hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp trẻ dùng
từ
không chính xác.
Ví dụ: Mẹ ơi, con muốn cái váy kia!
Chủ yếu trẻ vẫn sử dụng câu đơn mở rộng.
d. Đặc điểm ngôn ngữ mạch lạc
Trẻ ở độ tuổi này, ngôn ngữ mạch lạc phát triển và đạt được trình độ khá
cao. Trẻ biết sử dụng các câu tương đối ngắn gọn, chính xác, đầy đủ để trả lời
câu hỏi. Ở trẻ phát triển kỹ năng nhận xét lời nói và câu trả lời của các bạn, bổ
sung hoặc sửa chữa các câu trả lời đó. Tre đã dần cải thiện lời nói mạch lạc,
không bị va vấp, lắp, ngọng như các lứa tuổi trước.
1.1.1.4 Đặc điểm tư duy
Sự phát triển tư duy ở độ tuổi 5 – 6 tuổi mạnh mẽ về kiểu loại, các thao
tácvà thiết lập nhanh chóng các mối quan hệ giữa các sự kiện, hiện tượng; thông
tin giữa mới và cũ, gần và xa…
11
Tư duy trực quan – hành động và tư duy trực quan – hình ảnh vẫn tiếp
tụcphát triển, nghĩa là trẻ em giải quyết nhiệm vụ vẫn phải dựa vào các thao
tácbằng tay và các hình ảnh trực quan.
Đặc điểm nổi trội của trẻ ở giai đoạn này là xuất hiện một loại tư duy
trực quan mới: tư duy trực quan – sơ đồ. Đây là trình độ phát triển cao nhất của
tư duy trực quan – hình ảnh, đây cũng là cơ sở để trẻ em phát triển tư duy tưởng
tượng.
Kiểu tư duy này tạo ra cho trẻ một khả năng phản ánh những mối liên hệ
tồn tại khách quan, không bị phụ thuộc vào hành động hay ý muốn chủ quan
của bản thân đứa trẻ.
Có nhiều dạng tri thức nếu chỉ giải thích bằng lời hay tổ chức hành động
với đồ vật trẻ vẫn không thể lĩnh hội được. Nhưng nếu tổ chức cho trẻ hành
động với sơ đồ trực quan thì trẻ sẽ lĩnh hội được một cách dễ dàng.
1.1.2 Lời nói mạch lạc và đặc trưng lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo lớn
1.1.2.1 Khái niệm lời nói mạch lạc
Phát triển lời nói mạch lạc là nhiệm vụ quan trọng nhất trong các nhiệm
vụ phát triển lời nói của trẻ em. Tuy nhiên, hiểu lời nói mạch lạc là gì thì có
nhiều ý kiến còn chưa chính xác xuất hiện trong các nghiên cứu gần đây. Lời
nói mạch lạc là một khái niệm công cụ quan trọng nhất trong các nghiên cứu
phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ nhỏ. Làm sáng tỏ khái niệm này sẽ giúp cho
các nhà sư phạm có định hướng đúng đắn trong các nghiên cứu về lĩnh vực
này.Có rất nhiều các nhà giáo dục học, tâm lý học đã nghiên cứu về lời nói
mạch lạc và đã nêu ra định nghĩa về lời nói mạch lạc của trẻ em và chúng có
những điểm giống và khác nhau. Trong cuốn “Giáo trình phát triển ngôn ngữ
tuổi mầm non” của PGS.TS Đinh Hồng Thái đã nêu ra định nghĩa của tiến sĩ
ngôn ngữ học Xôkhin người Nga – tác giả của nhiều cuốn sách giáo khoa,
phương pháp về phát triển ngôn ngữ trẻ em. Ông đã định nghĩa như sau:
12
“Lời nói mạch lạc được hiểu là sự diễn đạt mở rộng một nội dung xác định,
được thực hiện một cách logic, tuần tự, chính xác, đúng ngữ pháp và có tính
biểu cảm”. Chúng tôi sẽ sử dụng khái niệm này làm cơ sở lý luận xuyên suốt
trong khóa luận của mình.
1.1.2.2 Các kiểu lời nói mạch lạc
Các nhà ngôn ngữ học đã nghiên cứu và cho rằng có 2 kiểu lời nói mạch
lạc đó là hội thoại và độc thoại.
- Lời nói hội thoại là câu chuyện giữa hai hay nhiều chủ thể nói năng,
bao gồm những phản ứng tương hỗ của các cá nhân giao tiếp với nhau, các phản
ứng tự phát một cách bình thường được xác định bởi hoàn cảnh hoặc lời nói
của những người tham gia đối thoại. Có 2 hình thức hội thoại đó là nói chuyện
và đàm thoại
+ Nói chuyện là câu chuyện giữa hai hay nhiều người không nhất thiết
phải theo một chủ đề nhất định, được phát triển nhưng không được chuẩn bị kĩ
từ trước. Đây là hình thức đơn giản nhất của ngôn ngữ nói. Nó mang tính hoàn
cảnh và những người nói chuyện hiểu được nhau. Cần nhờ các hình thức diễn
đạt khác như nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, giọng nói…
Ví dụ: Cuộc hội thoại giữa 2 bạn nhỏ vừa đến lớp học:
Minh: Hôm nay bố tớ đưa tớ đi học đấy Lan.
Lan: Vậy à, còn tớ thì được mẹ chở đi vì bố tớ bận đi làm sớm.
Ở ví dụ này chúng ta thấy, cuộc nói chuyện giữa Minh và Lan được nảy
sinh khi vừa đến lớp, không có sự chuẩn bị trước.
+ Đàm thoại là câu chuyện về một chủ đề nào đó được chuẩn bị kĩ càng
với một hệ thống câu hỏi được sắp xếp, tổ chức theo kế hoạch. Nó sử dụng
nhiều hình thức ngôn ngữ tỉnh lược, những phương tiện biểu cảm phi ngôn ngữ,
các đặc tính biểu cảm của lời nói đóng vai trò quan trọng. Lời nói hội thoại trẻ
nắm tượng đối dễ vì chúng được nghe nhiều trong đời sống hàng ngày.
13
Ví dụ: Trong một tiết hoạt động góc, cuộc hội thoại diễn ra giữa trẻ đóng
vai bác sĩ ở góc phân vai và trẻ đóng vai bác thợ xây ở góc xây dựng:
Hoa: Cho hỏi bác thợ xây bị thương ở đâu?
Nam: Thưa bác sĩ, tôi bị thương ở chân.
Hoa: Vì sao bác bị thương?
Nam: Vì tôi xây chuồng gà nhưng trượt ngã trên cao xuống.
Hoa: Mời bác mang chân lại gần để tôi khám.
Nam: Được ạ!
Hoa: Bác đau lắm không?
Nam: Tôi rất đau!
Hoa: Bác vào đây để tôi băng bó nhé!
Nam: Vâng ạ!
Hoa: Bác đã bị gãy chân, mời bác uống thuốc và nghỉ ngơi nhé!
Ở ví dụ này, ta thấy được cuộc đàm thoại diễn ra với chủ đề động vật với
hoạt động góc. Trẻ đóng vai bác sĩ đã chuẩn bị sẵn hệ thống câu hỏi được sắp
xếp, có kế hoạch với bệnh nhân. Bác sĩ hỏi bệnh nhân đau ở đâu? Vì sao đau?
Đề nghị bệnh nhân cho mình khám, chẩn đoán bệnh và cho bệnh nhân uống
thuốc.
- Lời nói độc thoại là câu chuyện của một chủ thể nói năng trước nhiều
đối tượng giao tiếp. Đây là hình thức ngôn ngữ phức tạp nhất về tư duy và hình
thức. Người nói phải có vốn kiến thức rộng, chuẩn bị bài nói cẩn thận về nội
dung, kỹ năng ngôn ngữ tốt. Biết trình bày một cách sáng tỏ, biết kiểm tra, kiểm
soát các hình thức ngôn từ. Trẻ học độc thoại khó vì ít nghe trong đời sống hàng
ngày.
Ví dụ: Trong buổi ngoại khóa về chủ đề thực vật, cô cho trẻ ra thăm vườn
rau, cô mời bạn Hùng nói trước cả lớp về vườn rau nhà mình, cách mẹ bạn
Hùng tưới rau, có những loại rau gì, bạn Hùng đã giúp mẹ mình chăm sóc rau
14
như thế nào? Lúc này, cả lớp sẽ im lặng để nghe bạn Hùng nói, hình thức đọc
thoại của Hùng sẽ giúp Hùng tự tin hơn trong giao tiếp.
1.1.2.3 Đặc trưng lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo lớn
Ở trẻ mẫu giáo lớn, lời nói mạch lạc đã đạt trình độ cao hơn so với trẻ ở
các lứa tuổi trước là mẫu giáo bé và mẫu giáo nhỡ. Chẳng hạn:
Trẻ mẫu giáo bé phù hợp với hình thức đơn giản của lời nói đối thoại (trả lời
câu hỏi) những đứa trẻ thường xa rời với nội dung câu hỏi. Chúng mới chỉ bắt
đầu nắm được kỹ năng bày tỏ một cách mạch lạc những ý nghĩ của mình, mắc
nhiều lỗi trong xây dựng câu đặc biệt là câu phức. Lời nói của trẻ mang tính
tình huống, chủ yếu là diễn đạt một cách vội vàng. Những lời nói mạch lạc đầu
tiên của trẻ được cấu tạo từ hai đến ba câu nhưng cũng được xem đó chính là
sự thể hiện mạch lạc. Dạy lời nói đối thoại cho trẻ mẫu giáo bé và sự phát triển
của nó sau đó là cơ sở để hình thành lời nói độc thoại.
Sự phát triển lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo nhỡ lại chịu ảnh hưởng
lớn của việc tích cực hóa vốn từ (khối lượng từ lúc này đạt khoảng 700 từ), lời
nói của trẻ đã được mở rộng hơn, có trật tự hơn mặc dù cấu trúc còn chưa hoàn
thiện. Trẻ mẫu giáo nhỡ bắt đầu học hát những câu vè, câu ca dao, đồng dao.
Nhưng phần lớn các bài ca dao, đồng dao thường ngắn gọn và mô phỏng lại
công việc trong cuộc sống của con người lao động hay các trò chơi dân gian
như: “Thả đỉa ba ba”, “Bịt mắt bắt dê”, “ Chi chi chành chành”. Trong độ
tuổi này diễn ra sự phát triển mạnh mẽ lời nói văn cảnh, có nghĩa là nói mà chỉ
tự mình hiểu được. Ở trẻ mẫu giáo lớn để trả lời các câu hỏi trẻ đã sử dụng các
câu tương đối chính xác ngắn gọn và khi cần thì mở rộng. Ở trẻ phát triển kỹ
năng nhận xét lời nói và câu trả lời của các bạn, bổ sung hoặc sửa chữa các câu
trả lời đó.
Ví dụ 1: Trẻ thưa với cô:
15
- Thưa cô, bạn Nam trả lời sai rồi ạ. Bông hoa mướp có màu vàng chứ
không phải màu xanh ạ!
Trẻ nhận xét nội dung câu trẻ lời của bạn sai vì trẻ nhận thấy bông hoa
mướp có màu vàng chứ không phải màu xanh. Câu nói của trẻ có thái độ biểu
cảm ngoan ngoãn, lễ phép vì trẻ biết đối tượng giao tiếp là cô giáo hay là người
lớn. Câu nói của trẻ vừa mang tính khẳng định, vừa mang tính phủ định, vì trẻ
đã biết sửa chữa câu trả lời của bạn sau khi trẻ nêu quan điểm của mình về câu
hỏi của cô giáo.
Rõ ràng, ở trẻ mẫu giáo lớn, câu nói đã đem cả nhận thức, thái độ biểu
cảm lẫn cả ý thức câu chữ vào lời nói của mình.Trẻ đã rèn được kỹ năng nói
câu hoàn thiện, logic, có đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ, biểu cảm với người nghe, và
trẻ hiểu ý nghĩa nội dung câu nói của mình. Trẻ biết nhận định được đối tượng
trò chuyện có quan hệ như thế nào với bản thân để xưng hô ( Thưa cô - với cô
giáo, bạn ơi - với bạn bè...) và biểu lộ cảm xúc vào lời nói của mình ( vâng ạ,
dạ - với người lớn).
Ví dụ 2: Cô đàm thoại với trẻ:
Cô giáo: Các con thấy hôm nay cô buộc tóc có đẹp không?
Trẻ: Con thấy ngày nào cô cũng buộc tóc đẹp ạ.
Ở ví dụ này, chúng ta thấy rằng, trẻ không chỉ biết trả lời câu hỏi của cô
một cách đầy đủ các thành phần của câu, biểu lộ được cảm xúc vào lời nói, mà
trẻ còn biết liên hệ thời gian giữa "hôm nay" với "ngày nào" khác với câu hỏi
của cô để khen ngợi và bày tỏ cảm xúc tích cực với đối tượng giao tiếp.
Qua các ví dụ cho chúng ta thấy, lời nói của trẻ đã phát triển theo độ tuổi, theo
thời gian qua hình thức câu nói, thái độ cảm xúc, nội dung ý nghĩa của câu và
cả ý thức của trẻ khi trau chuốt từng chữ trong câu.
1.1.2.4 Sự cần thiết phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn
16
Phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn góp phần chuẩn bị
phương tiện phát triển tư duy trực quan hình tượng ở giai đoạn cao hơn, hình
thành những cơ sở ban đầu cho sự xuất hiện kiểu tư duy logic ở giai đoạn phát
triển tiếp theo; giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh mình một cách đầy đủ,
chính xác và sâu sắc hơn. Đồng thời góp phần mở rộng phạm vi giao tiếp, phát
triển cảm xúc, tình cảm và tâm lý trẻ nói chung; nâng cao kỹ năng ngôn ngữ
nói chung của trẻ lứa tuổi
Bước sang tuổi này trẻ nảy sinh nhu cầu phải giải thích nội dung, chủ đề
và lựa chọn bức tranh, đồ chơi và giải thích để người lớn hiểu được những điều
trẻ mong muốn. Ở lứa tuổi này trẻ biết trình bày theo một trật tự xác định làm
nổi bật được những ý cơ bản để người lớn đồng tình hay không đồng tình.
Yêu cầu trẻ có ngôn ngữ mạch lạc là trước khi giải thích một điều gì đó
thì trẻ phải nghĩ trong đầu, nghĩa là có sự tham gia của tư duy này. Trước hết
lời nói mạch lạc có ý nghĩa to lớn, góp phần phát triển 5 mặt cho trẻ, cụ thể là:
“Giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, phát triển trí tuệ , phát triển thể lực, và
rèn luyện lao động”. Bên cạnh đấy, môn học này còn có nhiệm vụ quan trọng
là : Cung cấp cho trẻ những kiến thức, trí thức về thế giới xung quanh trẻ. Mở
rộng hiểu biết và tích luỹ vốn kinh nghiệm cá nhân; làm giàu vốn từ, phát triển
ngôn ngữ giàu hình tượng, giàu sức biểu cảm đồng thời rèn luyện khả năng tri
giác đối tượng, khả năng trình bày lời nói một cách mạch lạc, logic, có trình tự
chính xác, và rèn kỹ năng nghe, đọc, kể diễn cảm. Lời nói mạch lạc còn giáo
dục thái độ cách ứng xử cho trẻ thông qua các bài học, dạy trẻ biết yêu quê
hương, đất nước, yêu thiên nhiên và con người.
Như vậy, lời nói mạch lạc là một hình thức ngôn ngữ rất cần thiết cho trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi. Nó là phương tiện thỏa mãn hàng loạt nhu cầu của trẻ (nhu
cầu nhận thức, giao tiếp, phối hợp hoạt động…) đáp ứng sự phát triển của trẻ ở
giai đoạn này. Chính vì vậy, một trong những nội dung phát triển ngôn ngữ cho
17
trẻ ở trường mầm non là cần phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo, đặc
biệt là mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi).
1.1.2.5 Nhiệm vụ phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn
Phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo tức là phát triển kỹ năng diễn
đạt mạch lạc trong hai kiểu lời nói (đối thoại và độc thoại) thông qua ba nhiệm
vụ sau :
- Nhiệm vụ thứ nhất là phát triển vốn từ và kỹ năng sử dụng từ ngữ trong
lời nói của trẻ. Từ là một thể thống nhất giữa âm thanh và ý nghĩa, cho nên khi
cung cấp cho trẻ một từ mới cần phải tiến hành song song các nhiệm vụ như:
giúp trẻ nhận thức mặt ý nghĩa của từ, dạy trẻ phát âm đúng từ đó đồng thời
giúp trẻ biết sử dụng từ để nói năng rõ ràng, mạch lạc, có nội dung. Việc phát
triển nội dung từ ngữ, mở rộng vốn từ và dạy trẻ biết cách sử dụng từ ngữ để
diễn đạt ý nghĩ của mình được tiến hành đồng thời trong mối quan hệ tương hỗ
lẫn nhau, không thể tách rời nhau trong quá trình trẻ tham gia vào các hoạt động
ở trường mầm non.
- Nhiệm vụ thứ hai là hình thành và phát triển cấu trúc ngữ pháp của trẻ.
Trẻ mẫu giáo 5–6 tuổi học nắm cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt không phải bằng
cách phân tích các thành phần câu, đặc điểm ngữ pháp tiếng Việt… mà trẻ học
bằng cách trực tiếp tham gia vào các hoạt động ở trường mầm non (hoạt động
vui chơi, hoạt động học tập, lao động, tham quan, dạo chơi…). Dưới sự hướng
dẫn của cô giáo, trẻ được nghe cô nói, bạn nói sau đó trẻ ghi nhớ các cấu trúc
ngữ pháp một cách tổng quát. Nhờ sự lặp đi lặp lại các cấu trúc ngữ pháp mà
trẻ nghe được, trẻ nhập tâm, bắt chước và tập sử dụng vào các tình huống khác
trong hoạt động ngôn ngữ của trẻ.
- Nhiệm vụ thứ ba là giáo dục ngữ âm cho trẻ mẫu giáo lớn
18
Giáo dục ngữ âm cho trẻ mẫu giáo 5–6 tuổi là giáo dục kỹ năng ghi nhận,
phân biệt các loại âm thanh và quá trình tái hiện âm thanh. Hai quá trình này
được phát triển đồng thời trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Phát triển ngữ
âm cho trẻ mẫu giáo lớn được tiến hành dựa trên cơ sở trực quan và hành động.
Để phát triển khả năng ghi nhận và phân biệt các loại âm thanh cho trẻ, cô giáo
không cần phát âm rõ ràng các âm tiết rời rạc cho trẻ nghe mà phải gắn với lời
nói của mình. Với các tình huống cụ thể trong quá trình tổ chức các hoạt động
đa dạng của trẻ ở trường mầm non nhằm giúp trẻ được nghe các âm thanh đa
dạng, các ngữ điệu khác nhau trong lời nói. Đồng thời, để rèn luyện kỹ năng tái
hiện âm thanh, cô giáo có thể tổ chức cho trẻ kể lại chuyện theo tác phẩm văn
học, đọc thơ, diễn kịch hoặc thông qua hoạt động vui chơi.
Tóm lại, việc phát triển lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo 5–6 tuổi được
thực hiện thông qua ba nhiệm vụ: phát triển vốn từ, đặc biệt là mặt ngữ nghĩa
của từ; hình thành cấu trúc ngữ pháp tiếng việt và rèn luyện kỹ năng phát âm.
Ba nhiệm vụ này được tiến hành đồng thời trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
tương hỗ lẫn nhau. Sự mạch lạc trong lời nói của trẻ 5–6 tuổi được thể hiện ở
cách dùng từ ngữ, cách sử dụng câu và cách cấu âm như thế nào để người nghe
hiểu một cách trọn vẹn, đầy đủ ý nghĩa, tình cảm của trẻ. Cùng với việc trao
đổi, đàm thoại giữa cô giáo với trẻ, giữa trẻ với trẻ, thì ca dao, đồng dao cũng
là hình thức phát triển khả năng mạch lạc trong lời nói đối thoại.
1.1.3 Một số vấn đề về ca dao, đồng dao
1.1.3.1 Khái niệm ca dao, đồng dao
Có nhiều ý kiến khác nhau khi bàn về khái niệm ca dao, đồng dao như:
Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” của Phan Canh, xuất bản 1999, NXB Mũi Cà
Mau định nghĩa:“Đồng dao là câu hát của trẻ con”. [3, tr.444]. Cuốn “Từ điển
văn học Việt Nam” của tác giả Lại Nguyên Ân, NXBĐH Quốc gia Hà Nội định
nghĩa về đồng dao: “ Đồng dao là loại dân ca sinh hoạt đặc thù hầu như chỉ
19
dùng cho trẻ em hát . Tuy có khi người lớn cùng hát và bao giờ cũng do người
lớn đặt ra rồi dạy cho trẻ em. Ở dạng thông thường mỗi bài đồng dao gắn với
một trò chơi, mỗi câu ứng với một hành động trong trò chơi, vừa giống phần
thanh âm đệm theo và cầm nhịp cho phần diễn xướng, vừa giống như lời chỉ
dẫn cho động tác” [1, tr.155].
Theo cuốn “Tìm hiểu đồng dao người Việt” của tác giả Triều Nguyên,
NXB Thuận Hóa năm 2009:“Đồng dao là thể loại văn học dân gian, thuộc
phương thức diễn đạt tự sự bằng văn vần, gồm phần lời của những bài hát dân
gian trẻ em trong cuốn sách” [8, tr20].
Nhìn chung, các tác giả trên có quan điểm khác nhau về ca dao, đồng dao nhưng
họ có chung nhận định:
“Ca dao, đồng dao là thơ ca truyền miệng của trẻ em Việt Nam trong xã hội
xưa hay những câu hát, câu vè mộc mạc, gần gũi, dễ thuộc, dễ nhớ bởi vần điệu
vui tươi, rộn ràng”.
Ca dao, đồng dao bao gồm nhiều loại: các bài hát, câu hát trẻ em, lời hát
trong các trò chơi, bài hát ru em… Thường gặp nhất là các bài đồng dao gắn
liền với các trò chơi của trẻ. Tuy chỉ được lưu truyền qua các thế hệ bằng
phương thức truyền miệng, nhưng ca dao, đồng dao và trò chơi đồng dao đã
mang lại cho trẻ em đời sống tinh thần phong phú qua những cảm xúc vui tươi,
hồn nhiên, trong sáng cũng như một môi trường giáo dục mang tính học tập
cộng đồng.
Trong quá trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo, ca dao, đồng dao
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thông qua các bài ca dao, đồng dao giáo viên
có thể tiến hành phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo ở các nội dung như: Giáo
dục chuẩn mực ngữ âm; hình thành và phát triển vốn từ; phát triển lời nói mạch
lạc; phát triển ngôn ngữ nghệ thuật; với ưu thế như vậy nên trong quá trình phát
triển ngôn ngữ cho trẻ, giáo viên mầm non cần nắm được nội dung các bài ca
20