Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật đất đai từ thực tiễn quận bình tân, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

THÂN TRỌNG NHÂN

BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC
TIỄN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

THÂN TRỌNG NHÂN

BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC
TIỄN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
PGS. TS. NGUYỄN QUANG TUYẾN

Hà Nội, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN


Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới
sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Quang Tuyến. Các số liệu, những
kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Học Viên

Thân Trọng Nhân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………….… 1
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ………………………..………………..…… 9
1.1. Lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ……………. 9

1.1.1. Khái niệm bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ……..… 9
1.1.2. Ý nghĩa của bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất…….…12
1.1.3. Các phương thức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
………………………………………………………………………………….. 14
1.1.4. Cơ sở của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất…… 16
2.2. Lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
….…………………………………………………………………………….… 21
2.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất…….…………………………………………………………………………..…. 21
2.2.2. Cấu trúc của pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
…………………………………………………………………………………………….. 23
2.2.3. Tiêu chí đánh giá pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất ………………………………………………………………………………. 26

Kết luận Chương 1 …………………………………………………..……………. 32
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH
CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI QUẬN
BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..……………………………....….33

2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất .…………………………..………………………………………………….…. 33


2.1.1. Về quy định chung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư về đất khi Nhà nước thu hồi
đất…..………………………………………….……………..…………….…… 33
2.1.2. Quy định cụ thể về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất...…………… 38
2.1.3. Quy định về xác định giá đất tính bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất ……………………………………………………………...…………..... 41
2.1.4. Các trường hợp Nhà nước thu hồi đất mà người sử dụng đất được bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư…………………………………..…….…………………….…… 46
2.1.5. Về thẩm quyền thu hồi đất ….……..……………………………….………… 48
2.1.6. Về trình tự, thủ tục thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng .…………………………..…… 49
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất tại Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh ……………………… 51
2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Quận Bình Tân và sự tác
động đến việc thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất ………………………………..……….……………….……………………. 51
2.2.2. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất tại Quận Bình Tân - Thành phố Hồ Chí Minh ………...……….… 56
Kết luận Chương 2 …………………………….………………………………….. 66
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THI HÀNH TẠI QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

…………………………………………………………………………….... 67
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thực hiện tại Quận Bình Tân, Thành phố
Hồ Chí Minh ………………………………………………………………………. 67


3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thực hiện tại Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí
Minh …………………………………………….………………………………. 70
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất …………………………………………………………………………..70
3.2.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất tại Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh……………..73
Kết luận Chương 3 ……………………………………………...………………... 78

KẾT LUẬN …………………..………………………………………...…….….. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………….….. 83


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ Luật Dân Sự

SX-KD

Sản Xuất - Kinh Doanh

GCNQSDĐ


Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng
Đất

CNH-HĐH

Công Nghiệp Hóa - Hiện Đại Hóa

GPMB

Giải Phóng Mặt Bằng

KT - XH

Kinh Tế - Xã Hội

BCHTW

Ban Chấp Hành Trung Ương

TN&MT

Tài Nguyên Và Môi Trường

HDND

Hội Đồng Nhân Dân

UBND


Ủy Ban Nhân Dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (sau đây gọi
chung là bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất) là một chế định cơ bản của pháp luật đất
đai. Chế định pháp luật này ra đời với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh
tế - xã hội (KT - XH) vì lợi ích quốc gia, cộng cộng. Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng
chế định này gặp nhiều khó khăn, thách thức; bởi lẽ, nó trực tiếp “đụng chạm” đến lợi ích
thiết thực của người dân nói chung và của người sử dụng đất nói riêng. Không phải ở bất
cứ lúc nào, ở bất cứ đâu, việc thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất cũng xử lý và giải quyết hài hoà lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và lợi
ích của người bị thu hồi đất. Sự không đồng thuận của người bị thu hồi đất đối với phương
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân
nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản là các quy định của pháp luật hiện hành về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất chưa phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn
cho dù chế định này thường xuyên được sửa đổi, bổ sung với việc ra đời các đạo Luật Đất
đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo Báo cáo của Thanh tra Chính phủ, khiếu nại về đất
đai chiếm khoảng 50% các khiếu nại, tố cáo của công dân/ năm; trong đó, chiếm đến khảng
70% các khiếu nại đất đai liên quan đến việc bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất.
Quận Bình Tân, trên cơ sở tách ra từ Huyện Bình Chánh cũ là một quận mới vừa
được thành lập. Đây là quận có tuổi đời còn non trẻ so với nhiều quận, huyện khác của
Thành phố Hồ Chí Minh. Để phát triển mọi mặt về KT-XH, trên địa bàn Quận Bình Tân
đang triển khai thực hiện nhiều dự án xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hệ thống hạ
tầng xã hội; nên việc thu hồi đất là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, một trong những công việc
mà các cấp chính quyền của Quận Bình Tân đang phải giải quyết là tiến hành bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Trên thực tế, việc áp dụng pháp luật để xử lý
vấn đề này gặp nhiều khó khăn, trở ngại do nhiều nguyên nhân; trong đó, có nguyên nhân
là một số quy định của pháp luật mặc dù được sửa đổi, bổ sung song vẫn chưa phù hợp với
1


thực tế của địa phương. Để góp phần tháo gỡ khó khăn này và thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ phát triển KT-XH của Quận trong nhiệm kỳ 05 năm (2015 - 2020) thì cần có sự
nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thực hiện tại Quận Bình Tân. Với ý nghĩa đó, em
lựa chọn đề tài “Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
đất đai từ thực tiễn Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ luật
học.
2. Tình hình nghiên cứu
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong pháp luật đất đai
là một chế định quan trọng. Giới khoa học pháp lý nước ta dành nhiều sự quan tâm
nghiên cứu cho chế định này. Thời gian qua đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu
về lĩnh vực này mà tiêu biểu phải kể đến một số công trình cụ thể sau đây: i) Trịnh Thị
Hằng Nga (1999), Chế định pháp luật về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; ii) Nguyễn Vinh Diện (2006),
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất - Luận
văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; iii) Nguyễn Duy Thạch (2007), Pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
(qua thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội) - Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; iv) Đặng Anh Quân (2005), Bàn về giá đất khi bồi thường Nên cao hay thấp?- Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 8; v) Hoàng Lộc (2005), Nông
dân góp vốn bằng …đất - Giải pháp đột phá trong đền bù giải toả - Thời báo Kinh tế
Việt Nam số 253, ngày 21/12; vi) Nhóm phóng viên thời sự (2005), Dự án khu đô thị
Nam Thăng Long (CIPUTRA): Từ những bất thường trong đền bù, giải phóng mặt bằng
của - Báo Pháp luật Việt Nam số 285, ngày 29/11; vii) Trường Đại học Luật Hà Nội
(2016), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; viii) Phạm Thu Thủy
(2014), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; ix) Hoàng Thị Nga

(2009), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước
thu hồi đất, Luận văn thạc sĩ luật học - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; x) Nguyễn
Thị Yến (2010), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
2


qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật
học - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; xi) Nguyễn Chí Mỳ và Hoàng Xuân Nghĩa
(đồng chủ biên) (2009), Hậu giải phóng mặt bằng ở Hà Nội - Vấn đề và giải pháp, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; xii) Nguyễn Quang Tuyến (2008), Vấn đề thu hồi đất và bồi
thường khi thu hồi đất trong Dự thảo Luật đất đai (sửa đổi, bổ sung) , Tạp chí Luật học,
số 12; xiii) Nguyễn Quang Tuyến (2009), Vấn đề lý luận xung quanh khái niệm bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất", Tạp chí Luật học, số 1; xiv) Đặng Đức Long (2009),
Giải bài toán lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể: Nhà nước, người có đất bị thu hồi và chủ
đầu tư khi bị thu hồi đất", Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 5; xv) Nguyễn Thị
Dung (2010), Chính sách đền bù khi thu hồi đất của một số nước trong khu vực và Việt
Nam, Tạp chí Cộng sản, số 6; xvi) Trần Quang Huy (2010), Chính sách hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất", Tạp chí Luật học, số 10; xvii) Ngân hàng Thế giới (2011), Cơ chế
Nhà nước thu hồi đất và chuyển dịch đất đai tự nguyện ở Việt Nam (Phương pháp tiếp
cận; định giá đất và giải quyết khiếu nại của dân), Hà Nội…
Các công trình nghiên cứu trên đã giải quyết được một số vấn đề lý luận và thực
tiễn cơ bản sau: Một là, phân tích khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa và kinh
nghiệm nước ngoài ... của bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Hai
là, phân tích cơ sở ra đời, khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cấu trúc và các điều kiện bảo
đảm thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất; Ba là, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành tại Việt Nam; Bốn là,
đề xuất định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thi hành.
Tuy nhiên, những công trình này chủ yếu nghiên cứu Luật Đất đai năm 2003 và

các văn bản hướng dẫn thi hành về các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất. Hiện nay, những quy định này đã bị thay thế bởi chế định bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Luật Đất đai năm 2013 và các
văn bản hướng dẫn thi hành. Mặt khác, dường như có ít các công trình được công bố
nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ, toàn diện về lý luận và thực tiễn pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tham chiếu
3


từ thực tiễn thi hành tại Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Kế thừa những thành
quả nghiên cứu của các công trình liên quan đến đề tài đã công bố, Luận văn đi sâu tìm
hiểu một cách có hệ thống, toàn diện về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất theo pháp luật đất đai tham chiếu từ thực tiễn Quận Bình Tân, Thành phố Hồ
Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu tổng quát của luận văn là đưa ra giải pháp tiếp tục hoàn
thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao
hiệu quả thi hành tại Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản như sau nhằm đạt được mục
đích nghiên cứu :
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất như lý
thuyết về vật quyền, lý thuyết về hài hòa lợi ích trong lĩnh vực đất đai, lý thuyết về
quyền sử dụng đất là tài sản …
- Tìm hiểu các quan điểm, đường lối của Đảng về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất ở nước ta.
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất, bao gồm khái niệm, đặc điểm và cơ sở xây dựng pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; phân tích các yếu tố tác động đến

việc xây dựng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ….;
- Nghiên cứu nội dung của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất và đánh giá thực trạng thi hành chế định pháp luật này ở Quận Bình Tân, Thành
phố Hồ Chí Minh;
- Đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thực thi ở Quận Bình Tân, Thành phố
Hồ Chí Minh.
4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau
đây:
- Các quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật đất đai
nói chung và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói
riêng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay;
- Các quy định của Bộ luận dân sự (BLDS) năm 2015 và các văn bản hướng dẫn
thi hành về bồi thường;
- Các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đặt trong mối liên hệ, so
sánh với Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản pháp luật khác có liên quan;
- Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất ở Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh…
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật đất đai
là đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau.
Trong khuôn khổ của bản luận văn thạc sĩ luật học này tác giả giới hạn phạm vi nghiên
cứu cụ thể như sau:
- Giới hạn về nội dung

Giới hạn luận văn trong phạm vi nghiên cứu ở việc nghiên cứu các quy định về
bồi thường về đất mà không tìm hiểu các quy định về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất. Nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất vì mục đích phát triển KT - XH vì lợi ích quốc gia, công cộng,
quốc phòng, an ninh của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Ba là, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc
phòng, an ninh; phát triển KT - XH vì lợi ích quốc gia, công cộng có nội hàm bao gồm

5


các nội dung bồi thường về đất, bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất; hỗ trợ,
tái định cư v.v. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của bản luận văn thạc sĩ này, tác giả đi sâu
nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất
mà không đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất; vấn đề hỗ
trợ, tái định cư. Những vấn đề này sẽ được nghiên cứu ở các công trình tiếp theo v.v.
- Giới hạn về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong phạm vi Quận Bình Tân,
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Giới hạn về thời gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất giới hạn về thời gian từ năm 2013 (năm ban hành
Luật Đất đai 2013) đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cơ bản được tác giả sử dụng trong quá trình làm
luận văn sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin trong việc nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của sự vật, hiện
tượng; nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đặt trong
mối quan hệ tương tác với các sự vật, hiện tượng khác;
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

i) Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp đối chiếu, phương
pháp diễn giải v.v được sử dụng tại Chương 1 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
ii) Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương
pháp tổng hợp v.v được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành tại Quận Bình
Tân, Thành phố Hồ Chi Minh;

6


iii) Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn giải v.v
được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu thực thi
tại Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chi Minh.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Về phương diện lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
liên quan đến thu hồi đất và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất dựa trên lý thuyết về vật quyền, lý thuyết về hài hòa lợi ích trong lĩnh vực
đất đai, lý thuyết về quyền sử dụng đất là tài sản …. Trên cơ sở đó, luận văn góp phần
củng cố và hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất ở Việt Nam.
- Về phương diện thực tiễn: Những bất cập được chỉ ra trong các quy định hiện
hành về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tham chiếu từ thực tiễn
Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chi Minh và những kiến nghị của luận văn có thể được
xem xét, tham khảo trong việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Đất đai năm 2013
trong thời gian tới.
Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích không chỉ đối với các nhà lập pháp, đối

với đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đất đai nói chung và các cán bộ, công chức
Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chi Minh nói riêng mà còn là tài liệu tham khảo có giá
trị cho các cơ sở đào tạo luật học ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm lời cam đoan, danh mục các từ viết tắt, mục lục, mở đầu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và ba chương luận văn cụ thể như sau:
- Chương 1. Lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
- Chương 2. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất và thực tiễn thi hành tại Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
7


- Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thực thi tại Quận Bình Tân, Thành phố Hồ
Chí Minh.

Chương 1

8


LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM
1.1. Lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
i) Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Khái niệm bồi thường được sử dụng phổ biến trong các quy định của pháp luật
và trên nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, như pháp luật dân sự, pháp luật lao động,

pháp luật hình sự, bồi thường nhà nước, pháp luật đất đai … Trong lĩnh vực pháp luật
đất đai thì bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được quan niệm:
“Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử
dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người sử dụng đất” theo Khoản 6 Điều 4
Luật Đất đai năm 2003.
“Bồi thường thiệt hại do thu hồi đất: Quyền của chủ thể đang sử dụng đất bị thu
hồi nhằm bù đắp thiệt hại về vật chất cho người sử dụng đất trong trường hợp bị thu
hồi đất để chuyển sang sử dụng vào mục đích khác hoặc vì nhu cầu của Nhà nước và
xã hội”1 v.v. Theo Từ điển Luật học do Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp xuất bản.
Từ các khái niệm trên đây có thể hiểu nội hàm của bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất trên một số khái cạnh cơ bản sau đây: Một là, bồi thường là hậu quả trực tiếp
của việc Nhà nước thu hồi đất. Có nghĩa là bồi thường chỉ được thực hiện sau khi có
quyết định thu hồi đất của Nhà nước; Hai là, không phải người nào bị thu hồi đất cũng
được Nhà nước bồi thường mà chỉ người sử dụng đất bị thu hồi vì lợi ích của Nhà nước,
của xã hội mới được bồi thường; Ba là, bồi thường là việc Nhà nước bù đắp lại những
thiệt hại cho người sử dụng đất do việc bị thu hồi đất gây ra …
Như vậy, theo tác giả, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được hiểu như sau:
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất,
Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa & Nxb Tư pháp, Hà
Nội, tr. 84
1

9


bù đắp những thiệt hại về tài sản gắn liền với đất và thiệt hại khác cho người có đất bị
thu hồi để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi
ích quốc gia, công cộng theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh các đặc điểm chung của bồi thường thì bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất còn có một số đặc điểm chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, cơ sở làm phát sinh việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc
Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng,
an ninh; phát triển KT - XH vì lợi ích quốc gia, công cộng. Điều này có nghĩa là việc
bồi thường cho người bị thu hồi đất chỉ được thực hiện khi đất bị thu hồi để sử dụng
vào các mục đích chung của Nhà nước và xã hội mà không do lỗi của người sử dụng
đất gây ra;
Thứ hai, về đối tượng được bồi thường thiệt hại. Không phải bất cứ người sử
dụng đất nào khi bị Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
phát triển KT - XH vì lợi ích quốc gia, công cộng cũng đều được bồi thường mà chỉ
những người sử dụng đất đủ điều kiện để được bồi thường theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, về giá đất bồi thường. Giá đất bồi thường phụ thuộc vào ý chí của Nhà
nước. Có nghĩa là người sử dụng đất không có quyền thỏa thuận với Nhà nước hoặc
đưa ra đòi hỏi về giá đất bồi thường mà họ phải chấp nhận việc bồi thường theo giá đất
cụ thể do Nhà nước quy định tại thời điểm thu hồi đất. Tuy nhiên, để đảm bảo sự đồng
thuận của người dân thì khi xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì tổ
chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng (GPMB) lấy ý kiến góp ý của
người bị thu hồi đất về phương án bồi thường.
Thứ tư, về phạm vi bồi thường. Người sử dụng đất không chỉ được bồi thường
về đất và bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất mà còn được Nhà nước giải quyết các
vấn đề mang tính xã hội như giải quyết chỗ ở mới, đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp, bố
trí sắp xếp công ăn việc làm…. để ổn định cuộc sống và sản xuất.
Thứ năm, trong nền kinh tế thị trường dưới tác động của các quy luật khách quan,
việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất không thể giải quyết dựa trên các
biện pháp chính trị - hành chính thuần túy mà phải sử dụng các biện pháp kinh tế. Hơn
10


nữa, đất đai là vấn đề phức tạp, nhạy cảm có ý nghĩa trên các khía cạnh chính trị, kinh
tế, xã hội. Vì vậy, cần giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước,
nhà đầu tư, người bị thu hồi đất và người được hưởng lợi từ việc thu hồi đất thông qua

việc sử dụng tổng hợp các biện pháp như vận động, giáo dục, thuyết phục, biện pháp
kinh tế …
ii) Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Tinh thần đoàn kết "tương thân, tương ái" trong thực tiễn đời sống, cộng đồng
thường thể hiện thông qua sự hỗ trợ về mọi mặt để giúp những người trong xã hội có
thể vượt qua những khó khăn như thiên tai, lũ lụt, hỏa hoạn,… hay những rủi ro mà họ
gặp phải để sớm ổn định cuộc sống. Thể hiện sự nhân văn “tương thân, tương ái” với
đồng loại trong truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt Nam . Hoạt động này được
gọi là hỗ trợ. “Hỗ trợ: Giúp thêm, góp thêm vào”2 theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng.
Như vậy, hỗ trợ là sự trợ giúp, giúp đỡ của cộng đồng nhằm san sẻ để giảm bớt một
phần khó khăn, rủi ro mà một thành viên hoặc một nhóm người gặp phải trong cuộc
sống, dưới góc độ ngôn ngữ . Hoạt động này bao gồm 2 hình thức: hỗ trợ về tinh thần
(quan tâm, động viên) và hỗ trợ về vật chất (gồm các hiện vật hoặc tiền) . Thuật ngữ hỗ
trợ được sử dụng trong đời sống xã hội và còn được sử dụng trong lĩnh vực pháp luật
nói chung. Sở dĩ pháp luật đất đai đề cập đến việc hỗ trợ là vì đất đai vừa là tư liệu sản
xuất (TLSX) đặc biệt trong sản xuất nông, lâm nghiệp; vừa là tư liệu tiêu dùng đối với
con người. Do vậy, khi Nhà nước thu hồi đất thì người sử dụng đất bị mất TLSX hoặc
tư liệu tiêu dùng; họ lâm vào hoàn cảnh khó khăn như mất công ăn, việc làm hoặc mất
nơi ở v.v. Để giúp họ vượt qua khó khăn ổn định sản xuất và đời sống thì bên cạnh việc
bồi thường, Nhà nước phải thực hiện việc hỗ trợ. Với ý nghĩa đó, Luật Đất đai năm
2013 quan niệm: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người
có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển” (khoản 14 Điều 3).
iii) Khái niệm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

2

Từ điển tiếng Việt thông dụng (2001), Sdd, tr.332

11



Hiến pháp năm 2013 quy định một trong những quyền cơ bản của công dân là
quyền có chỗ ở. Nhà nước phải có trách nhiệm thực hiện việc tái định cư cho người sử
dụng đất khi thu hồi đất của họ. Vậy nghĩa của tái định cư là gì?. Tái định cư được hiểu
theo Từ điển Tiếng Việt là: Đến một nơi nhất định để sinh sống lại một lần nữa. Dù đã
được pháp luật đất đai đề cập về thuật ngữ tái định cư nhưng lại chưa giải thích cụ thể
nội hàm của thuật ngữ này. Luật Đất đai năm 2013 quy định: “1. Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện dự án tái định
cư trước khi thu hồi đất; 2. Khu tái định cư tập trung phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng
bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng, phù hợp với điều kiện, phong tục, tập
quán của từng vùng, miền; 3. Việc thu hồi đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành
xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư; 4. Chính phủ quy định chi tiết
điều này” (Điều 85). Căn cứ nội dung quy định của pháp luật đất đai hiện hành, có thể
hiểu về tái định cư như sau: Tái định cư là việc người có đất bị Nhà nước thu hồi đất ở
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuẩn bị nơi ở mới đáp ứng đầy đủ các điều
kiện do pháp luật quy định để giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống.
1.1.2. Ý nghĩa của bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
i) Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trước hết là nhằm bảo đảm
lợi ích quốc gia, công cộng
Thu hồi đất là biện pháp nhằm chấm dứt quan hệ pháp luật của Nhà nước về sử
dụng đất giữa các bên là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao đất, cho thuê đất và
một bên là Nhà nước đại diện cho chủ sở hữu về đất đai. Nhờ vào việc thu hồi đất mà
Nhà nước có được một quỹ đất cần thiết để đáp ứng nhu cầu xây dựng, phát triển cơ sở
hạ tầng KT - XH đồng bộ; v.v... Làm tăng thêm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư
nhằm kêu gọi sự đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước để xây dựng phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hóa -hiện đại hóa (CNH-HĐH) của đất nước. Bên cạnh đó
thì ở một mức độ nhất định việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
cũng gián tiếp góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển tăng
tỷ trọng sản xuất công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp. Như vậy diện
tích đất nông nghiệp sẽ ngày càng bị thu hẹp, Nhà nước sẽ thực hiện các biện pháp hỗ

12


trợ trong việc đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cũng như giúp tìm kiếm việc làm mới cho
người nông dân bị mất đất sản xuất. Nhằm góp phần giúp cho lực lượng lao động ở nông
thôn chuyển sang làm việc trong các khu vực sản xuất phi nông nghiệp và dịch vụ.
ii) Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nhằm bảo đảm giải quyết hài
hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người bị thu hồi đất và lợi ích của nhà đầu tư
Vì lợi ích chung của cả cộng đồng, vì mục đích quốc phòng, an ninh và các mục
đích khác như phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, công cộng mà Nhà nước thực hiện
việc thu hồi đất của người sử dụng đất . Điều này sẽ gây ra thiệt hại và ảnh hưởng trực
tiếp đến cuộc sống của những người bị thu hồi đất. Cần thực hiện tốt việc bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư cho người có đất bị thu hồi, nếu không tốt sẽ dẫn đến tình trạng là
những diện tích đất bị thu hồi đó chỉ mang lại lợi ích cho số đông dân chúng trong xã
hội nhờ vào các công trình phúc lợi công cộng mà lại gây khó khăn, bất lợi cho người
bị thu hồi đất, rơi vào tình trạng khó khăn trong đời sống do bị mất nơi sinh sống, mất
nhà ở, mất đất sản xuất. Vì vậy, vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất cần phải được giải quyết hài hòa các mối quan hệ về lợi ích của người bị thu hồi
đất với lợi ích của Nhà nước, của xã hội để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất, bảo đảm sử dụng đất phục vụ cho nhu cầu quốc phòng, an ninh; phát
triển KT - XH của đất nước, cũng như bồi hoàn cho họ những thiệt hại do việc thu hồi
đất gây ra. Ở một khía cạnh khác, nếu việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất thực hiện không có hiệu quả hoặc không công khai, minh bạch, dân chủ và
đúng pháp luật khiến người bị thu hồi đất không đồng thuận dẫn đến việc chậm bàn giao
đất để thực hiện dự án; phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo dài v.v... Gây ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích của nhà đầu tư do tiến độ trong việc triển khai dự án bị chậm trễ và
làm lỡ cơ hội kinh doanh gây trở ngại đến chất lượng và tốc độ tăng trưởng của nền kinh
tế. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể coi trọng phát triển kinh tế, dành nhiều ưu đãi,
thuận lợi cho doanh nghiệp, các nhà đầu tư mà coi nhẹ, không quan tâm đúng mức đến
vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất mà phải giải quyết hài

hòa giữa lợi ích của doanh nghiệp, chủ đầu tư với lợi ích của người bị thu hồi đất. Từ
đó mà đảm bảo được việc phát triển mang tính bền vững, có thể giải quyết các vấn đề
13


an sinh xã hội mà vẫn chú trọng phát triển kinh tế.
iii) Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất góp phần vào trật tự an
toàn xã hội và duy trì ổn định chính trị
Dù bất kỳ mục đích gì thì việc thu hồi đất để sử dụng cũng là hành vi gây tác động
trực tiếp đến quyền và lợi ích của người sử dụng đất. Vì vậy, thu hồi đất luôn tiềm ẩn nhiều
nguy cơ mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và người được
hưởng lợi từ việc thu hồi đất. Các tranh chấp, khiếu kiện từ thực tế trong việc giải quyết thực
hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã cho thấy nếu không giải quyết
tốt việc cho người bị thu hồi đất về các vấn đề bồi thường tổn thất, hỗ trợ, tái định cư nhằm
giúp họ vượt qua khó khăn, nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất thì sẽ phát sinh các
vấn đề về khiếu kiện kéo dài, tranh chấp, vượt cấp với số đông người dân tham gia. Đây là
nguyên nhân cơ bản làm phát sinh những vấn đề gây mất trật tự an toàn xã hội và chính trị,
từ đó dễ bị những đối tượng xấu lợi dụng kích động, lôi kéo người dân không đồng thuận với
các quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về thu hồi đất để thực hiện các
công trình hạ tầng công cộng, các dự án đầu tư, v.v... phục vụ lợi ích của cộng đồng. Do đó,
để góp phần duy trì ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; tránh các nguy cơ gây phát sinh
xung đột xã hội thì việc thực hiện tốt bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
đóng vai trò quan trọng.
1.1.3. Các phương thức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
i) Phương thức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bằng việc giao đất mới
Đây được coi là phương thức “đất đổi đất”, tức là Nhà nước thu hồi đất thì bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư bằng đất cho người có đất bị thu hồi. Đây là phương thức
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mang lại nhiều lợi ích cho người sử dụng đất. Khi bị thu
hồi, người sử dụng đất bị mất hoặc bị thu hẹp không gian sống, sinh hoạt và nơi ở; mất
tư liệu sản xuất; mất tư liệu tạo ra nguồn thu nhập và nguồn sống; mất địa điểm kinh

doanh; mất đi không gian tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo ... Trên thực tế, đa phần người
có đất bị thu hồi mong muốn được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bằng đất. Điều này sẽ
giải quyết được vấn đề căn cơ do mất đất gây ra như nơi ở, tư liệu sản xuất, công ăn
14


việc làm, an ninh lương thực, tệ nạn xã hội, không gian tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo.
Mặt khác, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bằng đất sẽ có lợi hơn bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư bằng tiền do lợi ích lâu dài mà đất mang lại như giá trị đất tăng, giải quyết công
ăn việc làm, đảm bảo chỗ ở ổn định v.v.
ii) Phương thức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bằng tiền
Đây là phương thức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phổ biến hiện nay và trong
thời gian tới. Phương thức này được áp dụng khi quỹ đất không còn để bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư hoặc người sử dụng đất lựa chọn phương thức được bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư bằng tiền. Phương thức này tạo thuận lợi cho Nhà nước trong điều kiện quỹ
đất “công” ngày càng khan hiếm. Theo phương thức này, khi Nhà nước thu hồi đất sử
dụng vào mục đích quốc phòng - an ninh; phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, cộng
cộng thì người bị thu hồi đất được Nhà nước bồi thường, hỗ trợ, tái định cư với số tiền
tương ứng với giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi theo giá đất cụ thể do Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là UBND cấp tỉnh) quy
định tại thời điểm thu hồi đất.
iii) Phương thức bồi thường, hỗ trợ bằng chính sách tái định cư
Tái định cư là việc bồi thường thông qua phương thức Nhà nước giao đất ở mới
cho người bị thu hồi đất ở trong khu tái định cư hoặc nhà ở tại khu tái định cư để tạo
lập chỗ ở mới. Phương thức bồi thường này chỉ áp dụng đối với trường hợp Nhà nước
thu hồi đất ở của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng - an ninh;
phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, công cộng và áp dụng đối với các địa phương còn
quỹ đất để xây dựng khu tái định cư.
1.1.4. Cơ sở của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, quan điểm và đường lối của Đảng trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Kể từ khi thành lập, Đảng ta luôn quan tâm đến vấn đề đất đai và chính sách đất
đai. Trong Luận cương chính trị năm 1930 của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng coi
cách mạng ruộng đất cùng với cách mạng tư sản dân quyền là nhiệm vụ trọng tâm với

15


mục tiêu cụ thể là “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa, phong kiến, địa chủ, làm cho người cày
có ruộng”. Đảng ta trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, luôn đề ra các chủ trương,
quan điểm cho phù hợp với những thay đổi, phát triển của cách mạng Việt Nam.
Một là, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 100/CT-TƯ (ngày
13/01/1981) về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoản sản phẩm đến nhóm và người
lao động trong Hợp tác xã nông nghiệp”, với nội dung quan trọng là tổ chức tốt việc
giao diện tích ruộng đất cho đội sản xuất, cho nhóm người lao động … Khi diện tích
giao khoán cho người lao động được phân bố hợp lý, thì có thể ổn định trong vài năm
để xã viên yên tâm thâm canh trên diện tích đó.
Hai là, phát động công cuộc đổi mới toàn diện đất nước tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI năm 1986. Quán triệt sâu sắc quan điểm đổi mới của Đảng, chính sách
đất đai cũng có những thay đổi hết sức quan trọng. Ngày 05/4/1988, Nghị quyết số 10NQ/TƯ được Bộ Chính trị ban hành. Tiếp đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm
1991) và các Hội nghị Trung ương tiếp theo, Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (khóa VII,
tháng 12/1991) và sau đó là Hội nghị Trung ương lần 5 (khóa VI, tháng 6/1992), Đảng
ta tiếp tục chủ trương thực hiện “ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu dài,
Nhà nước quy định bằng pháp luật việc thừa kế, chuyển quyền sử dụng ruộng đất”.
Ba là, thể chế hóa quan điểm của Đảng trong việc sử dụng đất lâu dài, trao quyền
sử dụng đất ổn định cho hộ gia đình, cá nhân; quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng đất. Để giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra trong thời kỳ CNH-HĐH đất
nước, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX và các Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần 4 (khóa VIII), Hội nghị Trung ương 7
(lần 2), Hội nghị Trung ương 9 khóa IX đều khẳng định quan điểm của Đảng về bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi. Đặc biệt, Nghị quyết số 26NQ/TW ngày 12/3/2003 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (BCHTW)
Đảng khóa IX xác định những định hướng lớn về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất.
Bốn là, tiếp đó, Hội nghị lần thứ sáu BCHTW Đảng khóa XI đã thông qua Nghị
quyết số 19-NQ/TW ngày 06/11/2012 về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai
trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020
16


nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; trong đó, đưa ra nhiều
định hướng quan trọng về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; cụ thể:
- Nhà nước chủ động thu hồi đất, sử dụng đất hằng năm theo kế hoạch đã được
xét duyệt. Các trường hợp Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào các mục
đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát
triển KT-XH cần được quy định rõ ràng và cụ thể hơn.
- Cần đảm bảo tính dân chủ, công khai, khách quan, công bằng và đúng quy định
của pháp luật trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tổ chức
thực hiện có hiệu quả phương án tạo việc làm, đào tạo nghề, tổ chức lại sản xuất và bảo
đảm đời sống của người dân có đất bị thu hồi.
- Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thuộc trách nhiệm của UBND
các cấp và có sự tham gia của cả hệ thống chính trị. Kiện toàn, nâng cao năng lực của
tổ chức có chức năng phát triển quỹ đất để bảo đảm thực thi nhiệm vụ bồi thường, đấu
giá quyền sử dụng đất.
- Cần bố trí chỗ ở mới cho người có đất bị thu hồi trước khi bồi thường, giải tỏa
. Khu dân cư được xây dựng phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng,
miền…
Những quan điểm được nêu ở trên là cở sở chính trị của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc xây dựng các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất.
Thứ hai, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

Một là, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào
mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, công cộng (sau
đây gọi chung là bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất) được đặt ra dựa trên cơ sở quyền
sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ.
Hiến pháp năm 1946 ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân về tài sản: "Quyền
sở hữu về tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm" (Điều 12). Sau đó quyền này được
tiếp tục khẳng định trong bản Hiến pháp năm 1992. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp
17


pháp và quyền thừa kế của công dân" (Điều 58). Tiếp đó, Hiến pháp năm 2013 kế thừa và
ghi nhận:
1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư
liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức
kinh tế khác; 2. Quyền về thừa kế, quyền sở hữu tư nhân được pháp luật bảo hộ; 3. Nhà
nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị
trường 3 trong trường hợp thật cần thiết vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng,
chống thiên tai, vì lý do quốc phòng, an ninh.
Hơn nữa, Hiến pháp năm 2013 còn long trọng tuyên bố:
2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử
dụng đất. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của
luật như chuyển quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ; 3. Nhà
nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong các trường hợp đặc biệt thật
cần thiết do luật định. Phải công khai, minh bạch trong việc thu hồi đất và được bồi
thường theo quy định của pháp luật ; 4. Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật
cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ khẩn cấp, thiên tai 4…
Như vậy, quyền sở hữu về tài sản hợp pháp (bao gồm quyền sử dụng đất) được
Hiến pháp ghi nhận và bảo hộ với mọi cá nhân và tổ chức.
Thứ ba, xét về bản chất, một tổ chức là Nhà nước do người dân thiết lập ra để
thay mặt toàn dân thực hiện các quyền về quản lý xã hội. Nhà nước luôn xem việc phục

vụ và chăm lo cho lợi ích, sự phồn vinh của người dân là sứ mạng cao cả và mang đầy
tính nhân văn. Nhà nước phải có bổn phận và nghĩa vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi thu hồi đất của người dân để sử dụng vào bất kể mục đích gì (an ninh, quốc phòng;
phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, công cộng) nếu làm phương hại đến quyền và lợi

3

Hiến pháp năm 2013, Điều 32

4

Hiến pháp năm 2013, Điều 54

18


×