Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường hàng không

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.94 KB, 20 trang )

̉

́́
̀
́
̀
̉
̉
̀
́
CHƯƠNG I: KHAI NIÊṂ VA VI T
̣ RI, VAI TRO CUA BAO HIÊM HANG HOA
́̉

̀

̀

̀

CHUYÊN CHƠ BĂNG ĐƯƠNG HANG KHÔNG
1.1. Khái niêṃ Bảo hiểm hàng hóa chuyên chởbằng đường hàng không
Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường hàng không là bảo hiểm những rủi ro
trên không, trên bộ,… liên quan tới đối tượng được bảo hiểm là hàng hóa xuất nhập khẩu
được vận chuyển trên một hành trình chuyên chở bằng đường hàng không.
Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường hàng không là một dạng bảo hiểm tài sản,
dành cho các chủ hàng có hàng vận chuyển bằng máy bay tự mua bảo hiểm cho mình trực
tiếp tại các công ty bảo hiểm mà không mua của các hãng hàng không thông qua cước.

Bảo hiểm hàng không hay các loại hình bảo hiểm khác đều được tổ chức, thiết kế
phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực bảo hiểm trong đời sống, kinh tế, xã hội. Các loại


hình bảo hiểm trong lĩnh vực hàng không dân dụng, bảo hiểm hàng không là một loại
hình khá phức tạp liên quan đến nhiều rủi ro và phạm vi trách nhiệm khác nhau (bảo
hiểm tài sản, con người và trách nhiệm dân sự). Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng
đường hàng không cung cấp những dịch vụ phù hợp với những đặc điểm của hoạt động
thương mại hàng hóa qua đường hàng không:













Hàng hóa vận chuyển qua đường hàng không thường là hàng hóa có giá trị cao, lô
hàng nhỏ, hàng hóa đòi hỏi giao hàng ngay, an toàn và chính xác hoặc hàng hóa có
cự ly vận chuyển dài.
Các tuyến đường vận tải hàng không hầu hết là những đường thẳng nối hai điểm
vận tải với nhau, chứa ít rủi ro trên tuyến đường vận chuyển (rủi ro cướp máy bay,
bắt cóc, kiềm chế...rất nhỏ)
Tốc độ của vận tải hàng không cao, tốc độ khai thác lớn, thời gian vận chuyển nhanh.
Vận tải hàng không đảm bảo an toàn cho hàng hóa tốt hơn các loại hình vận
chuyển khác.
Vận tải hàng không luôn đòi hỏi sử dụng công nghệ cao nên các chi phí dịch vụ
kèm theo cũng cao.
Vận tải hàng không cung cấp các dịch vụ tiêu chuẩn hơn hẳn các phương tiện vận

tải khác.
Vận tải hàng không đơn giản hóa về chứng từ thủ tục so với các phương thức vận
tải khác.
4




Vận tải hàng không phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu thời tiết, ảnh hưởng
đến lịch trình và sự đều đặn của hoạt động vận tải.

1.2. Vi tṛí, vai tròcủa Bảo hiểm hàng hóa chuyên chởbằng đường hàng không
Vai trò quan trọng của bảo hiểm với tư cách là một loại hình dịch vụ tài chính và là
một trong những cơ chế đảm bảo an sinh xã hội trong nền kinh tế quốc dân với các chức
năng: chuyển giao rủi ro, san sẻ và giảm thiểu tổn thất, thiệt hại, ổn định chi phí, tạo không
khí an tâm về mặt tinh thần, kích thích tiết kiệm đầu tư phát triển kinh tế, tạo công ăn việc
làm…Những chức năng trên thể hiện rõ trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng
hàng không, là một ngành có khối lượng vốn đầu tư lớn tới hàng trăm tỷ USD.

Xác suất rủi ro trong hoạt động hàng không là rất nhỏ, tuy nhiên mỗi khi xảy ra lại
mang tính chất nghiêm trọng, thiệt hại lớn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh
của ngành. Vì thế gắn liền với sự ra đời và phát triển của hàng không dân dụng, ngành
bảo hiểm hàng không là một ngành có sứ mệnh góp phần tạo ra sự an toàn, duy trì sự
hoạt động bình thường và liên tục của vận tải hàng không, phát triển các mối quan hệ,
giao lưu giữa các quốc gia, tăng cường mối quan hệ hợp tác hữu nghị trong bối cảnh mở
cửa và quốc tế hóa nền kinh tế đang được đẩy mạnh tại Việt Nam bắt kịp với xu hướng
toàn cầu hóa toàn thế giới.
1.2.1. Sự cần thiết của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu qua đường hàng không
Vài năm trở lại đây, các sự cố máy bay trong và ngoài nước xảy ra khá nhiều. Vụ
máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia rơi trên đất Ukraine, thảm họa MH17 này

xảy ra sau 4 tháng biến mất một máy bay khác của Hãng. Bên cạnh các thảm họa xảy đến
với hãng hàng không Malaysia, các máy bay bị tai nạn trong tuần qua ở Mali và Đài Loan
cũng sẽ góp phần tăng chi phí cho các hãng bảo hiểm. Các vụ rơi máy bay tại Nga làm
không ít người thiệt mạng, rơi máy bay ở Dubai làm ảnh hưởng năng suất làm việc tại các
khu dầu mỏ,… Những sự cố đáng tiếc gây thiệt hại như vậy liên tục xảy ra, khiến nhu cầu
về các phương pháp bảo hiểm tốt hơn cho từng hoạt động thương mại, giao dịch hàng
không ngày càng gia tăng.
Quá trình vận chuyển hàng hóa qua đường hàng không vì thế tuy có nhiều ưu điểm
vượt trội nhưng cũng có nhiều yếu tố đe dọa đến an toàn của hàng hóa, do đó các chủ hàng
phải mua bảo hiểm hàng hóa vận chuyển qua đường hàng không để đảm bảo sự ổn định tài
chính của mình. Vì những rủi ro xảy ra có thể gây nên thiệt hại lớn đối với hàng hóa, bảo
5


hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường hàng không ngày càng khẳng
định được sự cần thiết của mình.
1.2.2. Tác dungg̣ của bảo hiểm hàng hóa chuyên chởbằng đường hàng không








Bảo đảm sự an toàn ổn định cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu qua
đường hàng không, tạo tâm thế yên, nhanh chóng khôi phục kinh doanh khi không
may gặp rủi ro.
Nâng cao ý thức trách nhiệm của các bên trong quá trình vận chuyển và trong hoạt
động thương mại quốc tế.

Hàng hóa xuất nhập khẩu qua đường hàng không thường có giá trị lớn do đó phí bảo
hiểm thu được không hề nhỏ, tạo ra nguồn đầu tư lớn góp phần phát triển kinh tế, tăng
nguồn vốn cho ngân sách nhà nước và công ăn việc làm cho người lao động.
Hoạt động bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu qua đường hàng không góp phần
không nhỏ trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành vận chuyển hàng không dân
dụng.

6


CHƯƠNG II: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG
HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG

2.1. Phaṃ vi bảo hiểm của Bảo hiểm hàng hóa chuyên chởbằng đường hàng không
Theo ICC 1/2/1982, quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm như sau:
2.1.1. Rủi ro tổn thất bảo hiểm
Theo bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường hàng không, người bảo hiểm
chịu trách nhiệm về mọi rủi ro gây ra mất mát, hư hỏng cho hàng hoá được bảo hiểm, trừ
những trường hợp loại trừ được liệt kê ở phần sau đây:
2.1.2. Loaị trừ bảo hiểm













Các rủi ro loại trừ:
Tổn thất hay chi phí do lỗi của người được bảo hiểm;
Dò chảy thông thường, mất mát thông thường về trọng lượng, thể tích, khối lượng
hay hao mòn, rách thông thường của đối tượng bảo hiểm;
Mất mát, hư hại, hay chi phí do bao bì không đầy đủ hay ko phù hợp với đối tượng
BH,
Tổn thất hay chi phí do nội tỳ hay bản chất của đối tượng bảo hiểm;
Tổn thất hay chi phí phát sinh từ sự không phù hợp của máy bay, phương tiện vận
chuyển, container hay băng chuyền, đối với việc vận chuyển an toàn đối tượng bảo
hiểm, khi người được bảo hiểm hay người làm công của họ đã biết trước sự không
phù hợp như vậy vào lúc xếp hàng;
Mất mát, hư hại hay chi phí do chậm trễ gây ra bởi một rủi ro được bảo hiểm;
Mất mát, hư hại hoặc phát sinh chi phí do tình trạng thua lỗ tài chính mất khả năng
chi trả của những người chủ, người quản lý , người thuê hay người khai thác máy
bay.
Mất mát , hư hại do việc sử dụng vũ khí chiến tranh, hạt nhân nguyên tử;



Chiến tranh, nội chiến, cách mạng



Bị bắt, tịch thu, câu thúc, câu lưu;



Bom, mìn và các vũ khí chiến tranh




Tổn thất do những người khủng bố, hay bất cứ người nào hành động vì mục đích
chính trị

2.1.3. Thời haṇ bảo hiểm
7


Trách nhiệm bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường hàng không được xét
theo khía cạnh không gian và thời gian bảo hiểm
a. Không gian bảo hiểm:






Bảo hiểm có hiệu lực kể từ khi đối tượng bảo hiểm rời kho, nơi chứa hàng, hay nơi
lưu giữ để bắt đầu vận chuyển bình thường và kết thúc khi:
Giao vào kho của người nhận hàng, kho hay nơi chứa hàng cuối cùng khác hay lưu
kho ở nơi đến có ghi trong hợp đồng bảo hiểm.
Giao đến bất kì hay một kho hay nơi chứa hàng nào khác hay nơi lưu kho cho dù
trước khi đến hay ở nơi đến mà người được bảo hiểm lựa chọn để:
+ Lưu kho ngoài quá trình vận chuyển bình thường hay
+ Phân phối hay cung cấp hàng hóa

b. Thời gian bảo hiểm:
30 ngày sau khi dỡ đối tượng bảo hiểm ra khỏi máy bay tại nơi dỡ hàng (Nếu một

trong 2 diều trên xảy ra thì điều còn lại không có giá trị.)
2.2. Đặc điểm bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu và trách nhiệm các bên liên quan
2.2.1. Đặc điểm bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
Hàng hóa xuất ra và nhập vào đều phải đi qua các cửa khẩu biên giới quốc gia. Vì
vậy, nó phải tuân thủ các quy chế của từng quốc gia về số lượng, chủng loại hàng hóa,
phải chịu sự kiểm tra, giám sát của hải quan, của cơ quan kiểm dịch.
Xuất nhập khẩu hàng hóa giữa các cá nhân, các tổ chức thương mại giữa các nước
đều phải thực hiện theo hợp đồng mua bán ngoại thương. Trong hợp đồng phải quy định
về quy cách, phẩm chất, số lượng, ký mã hiệu, đóng gói bao bì, giá cả, cước vận chuyển,
phí bảo hiểm, đồng tiền thanh toán,… theo thỏa thuận giữa bên mua và bên bán.
Hàng hóa được vận chuyển theo thông lệ quốc tế phải mua bảo hiểm. Việc mua
bảo hiểm phải được thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm để bảo hiểm cho lô hàng
được vận chuyển. Hợp đồng bảo hiểm có thể thực hiện giữa bên bán hoặc bên mua với cơ
quan bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm có thể thực hiện giữa bên bán hoặc bên mua với cơ
quan bảo hiểm. Nếu người bán hàng mua bảo hiểm, có thể nhượng lại quyền lợi bảo hiểm
bằng cách kí nhận cho người mua hàng để khi hàng nhập khẩu, nếu bị tổn thất thì có thể
đòi cơ quan bảo hiểm bồi thường.
8


Hàng hóa xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng các phương tiện khác nhau theo
hợp đồng. Người vận chuyển hàng hóa cũng đồng thời là người giao hàng cho người
mua. Do đó, người vận chuyển có trách nhiệm rất cao trong việc đảm bảo an toàn cho số
hàng được vận chuyển. Để có những chứng cứ về mối ràng buộc trách nhiệm, kkhi vận
chuyển hàng phải có vận đơn (trong đó thể hiện bằng chứng của hợp đồng chuyên chở),
bằng chứng về quyền sở hữu hàng hóa và bằng chứng hoàn thành nhiệm vụ chuyên chở
và giao hàng theo đúng hợp đồng mua bán. Người vận chuyển chỉ giao hàng cho người
sở hữu hàng hóa, tức là người có vận đơn gốc.
Như vậy, trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa chủ yếu có 4 bên liên quan là:
người bán, người mua, người vận chuyển và người bảo hiểm.

2.2.2. Trách nhiệm của các bên liên quan
Trách nhiệm của các bên liên quan được phân định như sau:


Trách nhiệm của người bán (bên xuất khẩu): phải chuẩn bị hàng hoá theo đúng
hợp đồng trong mua bán ngoại thương về số lượng, chất lượng, quy cách, loại
hàng, bao bì đóng gói ...và thông báo, tập kết hàng đến kho, nơi chứa hàng tới
ngày nhận, như đã ghi trong hợp đồng mua bán ngoại thương. Ngoài ra, người bán
phải làm các thủ tục hải quan, kiểm dịch, lấy giấy chứng nhận kiểm định phẩm
chất, đóng gói bao bì phải chịu được điều kiện vận chuyển bốc dỡ thông thường.
Nếu người bán mua bảo hiểm thì khi hàng qua khỏi biên giới, địa phận quốc gia,
người bán phải chuyển nhượng quyền lợi bảo hiểm cho người mua.



Trách nhiệm của người mua (bên nhập khẩu): nhận hàng của người chuyên chở
theo đúng số lượng, chất lượng, chủng loại đã ghi trong hợp đồng vận chuyển và
hợp đồng mua bán ngoại thương, lấy các loại giấy tờ có liên quan như biên bản kết
toán giao nhận hàng. Bên mua phải tiến hành các thủ tục pháp lý để bên bán xác
định thiệt hại (nếu có), vầ nhận phần chuyển nhượng bảo hiểm từ người bán hay tự
mua bảo hiểm và theo dõi cho đến khi hàng về tới kho. Nếu hàng hóa có vấn đề
tổn thất thì phải kịp thời thông báo cho các bên liên quan để giải quyết.



Trách nhiệm của người vận chuyển: chuẩn bị phương tiện và con người, để nhận
và đảm bảo chuyên chở hàng hóa theo hợp đồng với bên bán và giao hàng cho bên
mua. Người vận chuyển phải đảm bảo số lượng hàng hóa trong quá trình chuyên
chở. Khi có tổn thất xảy ra, người vận chuyển phải kịp thời ghi chép lại, thông báo
9



cho các bên liên quan biết, và là người trực tiếp đừng ra làm chứng trong khâu
giám định.


Trách nhiệm của người bảo hiểm (người bảo hiểm nhận tiền bảo hiểm từ bên mua
hay bên bán): có trách nhiệm với những rủi ro được bảo hiểm gây ra cho lô hàng
hoá tham gia bảo hiểm, người bảo hiểm cũng có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ
liên quan đến hàng hoá, hành trình vận chuyển và bản thân phương tiện chuyên
chở. Khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm, người bảo hiểm
có trách nhiệm tiến hành giám định hoặc cử người đại diện tiến hành giám định,
bồi thường tổn thất và đòi người thứ ba nếu họ gây ra tổn thất này theo đúng
nguyên tắc: chính xác, khách quan và trung thực theo hợp đồng đã kí kết.

Như vậy, từ đặc điểm của quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa và trách nhiệm của
các bên liên quan đã phân tích ở trên, chúng ta thấy cần phải nghiên cứu thêm về đối
tượng, phạm vi và những điều khoản riêng của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập kkhaaur
chuyên chở bằng đường hàng không. Từ đó, có thể với tư cách người bảo hiểm hay người
được bảo hiểm kí hợp đồng với những điều kiện hợp lý, có những biện pháp hạn chế tổn
thất hữu hiệu đối với nghiệp vụ này.
2.3. Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng được bảo hiểm của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu chuyên chở bằng
đường hàng không là những hàng hóa được chuyên chở bằng máy bay; trừ thư, bưu kiện
bưu phẩm, và hàng chuyển phát nhanh. Trong vận tải hàng không quốc tế, hàng hóa
thông thường được chuyên chở bằng máy bay chiếm khoảng 80%, còn lại 16% là hàng
chuyển phát nhanh, 4% là bưu phẩm bưu kiện.
Hàng hóa xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thường gồm những
loại chính sau đây:


Hàng có giá trị cao (high value commodity): là những loại hàng:
o Hàng có giá trị cao (có giá trị vận chuyển từ 1.000 USD/kg trở lên) o
Vàng, bạch kim, đá quý hay các sản phẩm bằng vàng, bạch kim



o Tiền, séc du lịch, thẻ tín dụng, các loại chứng từ có
giá o Kim cương và các đồ đá quý, đồ trang sức,…
Hàng dễ hư hỏng do thời gian (perisable): bao gồm hoa quả tươi, thực phẩm đông
lạnh,…
10






Hàng nhạy cảm với thị trường (Market sensitive air freight): như các loại hàng bán
theo mùa, hàng mốt, hàng thời trang
Động vật sống (Alive animals): loại này gồm động vật nuôi trong nhà, động vật ở
các vườn thú. Động vật sống cần có yêu cầu về kiểm dịch, chăm sóc đặc biệt, đòi
hỏi vận chuyển nhanh để không ảnh hưởng tới sức khỏe.

2.4. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là một khoản tiền do người tham gia bảo hiểm nộp cho người bảo
hiểm để hàng hóa được bảo hiểm. Phí này được xác định trên cơ sở giá trị bảo hiểm hoặc
số tiền bảo hiểm và tỉ lệ phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm thường được xác định theo công thức:
C+F
CIF = 1−R


I = CIF x R
Trong đó: I là phí bảo hiểm
C là giá hàng
F là Giá cước phí vận chuyển
R là tỷ lệ phí bảo hiểm

Như vậy phí bảo hiểm gồm 2 phần là phí phụ và phí gốc, còn R phụ thuộc vào các
yếu tố như: chủng loại hàng hóa, bao bì đóng gói, phương tiện vận chuyển, hàng trình
vận chuyển, điều kiện bảo hiểm.
Trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường hàng không, có thể mua baỏ
hiểm theo hai cách sau: mua trực tiếp từ hãng hàng không thông qua cước phí và mua của
công ty bảo hiểm.
Bảo hiểm hàng hóa bằng đường hàng không mua theo cách là mua trực tiếp từ các
hãng hàng không thì phí bảo hiểm chiếm một tỉ lệ trong cước phí vận chuyển hàng hóa.
11


2.5. Giám định tổn thất và bồi thường
2.5.1. Giám định tổn thất
Giám định tổn thất là việc làm của người bảo hiểm hoặc người được ủy thác nhằm
đánh giá, xác định nguyên nhân, mức độ và trách nhiệm đối với tổn thất của đối tượng
được bảo hiểm nhằm làm cơ sở cho việc tính toán bồi thường. Khi hàng hóa bảo hiểm bị
tổn thất phải được tiến hành giảm định trong khoảng thời gian quy định một cách nhanh
chóng tránh cho các tang vật và nhân chứng bị phân tán. Sau khi giám định xong, cán bộ
giám định sẽ cung cấp chứng từ giám định trong đó có xác định mức độ tổn thất hoặc
mức giảm giá trị thương mại của hàng hóa làm cơ sở cho việc bồi thường.
2.5.2. Nguyên tắc và cách tính toán bồi thường





Các nguyên tắc bồi thường
Chỉ bồi thường trong phạm vi số tiền bảo hiểm
Bồi thường bằng tiền, không bồi thường bằng hiện vật

Người bảo hiểm có quyền khấu trừ các khoản thu nhập của người được bảo hiểm
trong việc bán hàng và đòi người thứ ba có lỗi.

Để tính toán tiền bồi thường, số tiền bối thường (STBT) được tính theo công thức
sau: STBT=STBH* Tỉ lệ tổn thất
Tỉ lệ tổn thất=



á

ị ℎà



ò

ê −∑



á

ị ℎà


á



ị ℎà
ò

ℎó
ê

ò



2.6. Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường hàng không
2.6.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường hàng không
Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường hàng không là đơn bảo
hiểm hoặc chứng nhận bảo hiểm . Đây là một thỏa thuận văn bản giữa hai bên trong đó
người bán bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất của
hàng hóa theo điều kiện bảo hiểm, còn người được cam kết trả phí bảo hiểm.
2.6.2. Các loại hợp đồng bảo hiểm
a) Hợp đồng bảo hiểm chuyến

12


Là một hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng được vận chuyển từ địa điểm
này sang địa điểm khác ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Người bảo hiểm chỉ chịu trách
nhiệm trong phạm vi một chuyến.

Về hình thức
Hợp đồng bảo hiểm chuyến được trình bày dưới dạng đơn bảo hiểm hay chứng nhận bảo
hiểm
Về nội dung:
Ngày cấp đơn
Nơi kí kết hợp đồng
Tên, địa chỉ người mua
Tên hàng hóa được bảo hiểm
Số vận đơn
Tên máy bay
Sân bay đi, sân bay chuyển tải, sân bay đến
Ngày bay đi, ngày bay đến
Giá trị bảo hiểm, phí bảo hiểm

b) Hợp đồng bảo hiểm bao
Là hợp đồng trong đó người bảo hiểm nhận bảo hiểm một khối lượng hàng hóa
vận chuyển trong nhiều chuyến kế tiếp nhau trong một thời gian nhất định hoặc nhận bảo
hiểm cho một khối lượng hàng nhất định(không kể đến thời gian).
Nội dung bao gồm các vấn đề có tính chung nhất như nguyên tăc chung, phạm vi
trách nhiệm, việc đóng gói hàng, loại máy bay vận chuyển, giá trị bảo hiểm và số tiền bảo
hiểm, phí và thanh toán phí bảo hiểm, khiếu nại bồi thường và hiệu lực của hợp đồng.
Trong thời gian bảo hiểm bao, mỗi chuyến người được bảo hiểm phải gửi giấy báo
vận chuyển cho người bảo hiểm.

1
3


Sau khi cấp đơn hoặc hợp đồng bảo hiểm, nếu người được bảo hiểm thấy cần bổ
sung, sửa đổi một số điều và người bảo hiểm đồng ý thì người bảo hiểm sẽ cấp giấy bổ

sung.
Hợp đồng bảo hiểm có thể chuyển nhượng từ người đứng tên trong đơn cho một
người khác được hưởng quyền lợi của hợp đồng bảo hiểm.

1
4


CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG VỀ BẢO HIỂM HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU
BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG TẠI VIỆT NAM
3.1. Sự phát triển của bảo hiểm hàng không
Ngành bảo hiểm nói chung ở Việt Nam ra đời khá muộn, xuất phát từ những nguyên
nhân xã hội mà chủ yếu vẫn là nguyên nhân chiến tranh. Chiến tranh ở Việt Nam kéo dài
ở Việt Nam đã làm cho việc giao lưu buôn bán với các quốc gia khác gặp nhiều khó khăn.

Trong chiến tranh, chúng ta chỉ nhận viện trợ hàng hóa từ các nước anh em là chủ yếu.
Khi hòa bình lập lại, Việt Nam đã nhanh chóng tham gia vào thị trường thế giới, nhất là
từ khi có chính sách mở cửa. Để đáp ứng nhu cầu buôn bán với nước ngoài, mà cụ thể là
xuất nhập khẩu hàng hóa, các công ty bảo hiểm mới ra đời (mà đầu tiên là công ty Bảo
hiểm Việt Nam, nay là công ty Bảo Việt) đã coi nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu là một trong ba nghiệp vụ chủ yếu cùng với bảo hiểm thân tàu và tái bảo hiểm.
Nếu nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa bằng đường biển được khai thác từ khi các
công ty bảo hiểm tại Việt Nam mới ra đời, thì nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu chuyên chở bằng đường hàng không phải đến cuối thế kỷ 19 mới thực sự được đưa
vào khai thác. Điều này là do những đặc thù của ngành hàng không và sự phát triển chậm
hơn của vận tải hàng không so với vận tải đường biển ở nước ta.
Khoảng hơn hai thập kỷ trở lại đây, nhờ có chủ chương phát triển nghành hàng không
của Chính phủ, nên ngành vận tải hàng không, kéo theo đó là bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu bằng đường hàng không đã phát triển rất nhanh, chiếm một tỷ trọng doanh thu đáng kể
trong tổng doanh thu phí bảo hiểm của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu.


3.2. Thực trạng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam
Lịch sử bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam đã có từ lâu. Ngay từ khi
thành lập, ngày 15/1/1965, Công ty bảo hiểm Việt Nam nay là Tổng Công ty Bảo hiểm
Việt Nam đã được giao nhiệm vụ bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu của nước ta với
các nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cho đến nay, hoạt động bảo hiểm cho hàng hóa
XNK do các công ty bảo hiểm Việt Nam tiến hành vẫn còn ở mức rất hạn chế, tốc độ tăng
trưởng không cao, có giai đoạn theo chiều hướng giảm xuống. Thực trạng trên là do một
số nguyên nhân sau:
- Thứ nhất: Hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta chủ yếu áp dụng phương thức xuất
khẩu theo điều kiện giao hàng FOB và nhập khẩu theo điều kiện giao hàng CIF. Với các

15


phương thức xuất nhập trên đã hạn chế khả năng ký kết của các công ty bảo hiểm Việt
Nam.
Theo Incoterms 2000 có tất thảy 13 điều kiện mua bán được quốc tế hoá bằng
tiếng Anh, áp dụng chung cho hoạt động thương mại quốc tế, trong đó hai điều kiện giao
hàng FOB và CIF thường được các bên tham gia sử dụng. Điều kiện giao hàng FOB quy
trình người mua chịu mọi phí tổn và để đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập
khẩu sẽ mua bảo hiểm, đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Điều
kiện giao hàng CIF cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng đã qua
khỏi lan can tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải trả cước vận chuyển
và ký hợp đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua những rủi ro đối với hàng hóa có
thể xảy ra trong quá trình vận chuyển. Đơn bảo hiểm này được phía xuất khẩu ký hậu và
chuyển giao cho phía nhập khẩu.
Như vậy, đối với hoạt động nhập khẩu nếu nhập theo điều kiện CIF, quyền vận tải
và quyền bảo hiểm thuộc phía nước ngoài. Với các quyền đó, đối tác nước ngoài tùy ý
thuê tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường họ ký hợp đồng với các công ty của nước

mình. Các công ty bảo hiểm nước ngoài vì thế có điều kiện phát triển hơn.
- Hai là: Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn hạn chế, chưa
mang tầm quốc tế. Ngoại trừ Bảo Việt thành lập năm 1965 có vốn lớn, các công ty bảo hiểm
khác đều vừa mới được thành lập sau Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993, với mức vốn kinh
doanh chưa tới 80 tỷ đồng, trong khi đó, nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài ra đời cách đây
hàng trăm năm, vốn kinh doanh hàng tỷ Đôla Mỹ. Thêm vào đó, trình độ cán bộ làm công tác
bảo hiểm nói chung còn bất cập so với đòi hỏi của thị trường mà còn non yếu so với mặt
bằng thế giới. Theo đánh giá khách quan, các nhà xuất nhập khẩu nước ngoài chưa thực sự
yên tâm khi mua bảo hiểm của Việt Nam và điều này làm giảm sức thuyết phục khi các nhà
đàm phán ngoại thương yêu cầu đối tác nước ngoài trao cho ta quyền mua bảo hiểm.
- Ba là: Các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam đã quen với tập quán thương mại xuất khẩu theo
điều kiện FOB, nhập khẩu theo điều kiện CIF. Việc thay đổi tập quán cũ này khó thực hiện
trong một sớm một chiều. Tuy nhiên, ở một chừng mực nhất định với phương thức giao hàng
như trên, phía Việt Nam sẽ tránh được nghĩa vụ thuê tàu và mua bảo hiểm, đôi khi công việc
này khó thực hiện do phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu của đối tác nước ngoài

16


trong bối cảnh năng lực hoạt động của các công ty bảo hiểm và đội tàu biển Việt Nam
còn hạn chế.
Thực trạng của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu Việt Nam cũng phản ánh diễn
biến của tình hình bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường hàng không của nước
ta. Với phần lớn các thương vụ thì quyền mua bảo hiểm vẫn thuộc về phía nước ngoài,
gây khó khăn cho các công ty bảo hiểm trong nước. Hơn nữa,
3.3. Những thuận lợi và khó khăn của Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu
bằng đường hàng không
3.3.1. Những thuận lợi của Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường hàng không
Nhìn chung, nền kinh tế nước ta đang có mức tăng trưởng khá cao và ổn định.
Trong xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa hiện nay, đặc biệt là trong bối cảnh nước ta đang

mở rộng ký kết các hiệp định song phương và đa phương với nhiều quốc gia và khu vực
trên thế giới, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam chắc chắn sẽ không ngừng phát
triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa, Đảng
và Nhà nước ta đã đề ra chiến lược xuất khẩu hàng đầu, đồng thời cũng nhập thêm máy
móc thiết bị phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam, nên ngày càng tạo điều kiện cho thị trường bảo hiểm hàng hóa xuất
nhập khẩu phát triển.
Xuất phát từ tính chất của các mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu là vật tư,
máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, đặc biệt là hàng hóa chuyên chở bằng máy bay
thường có giá trị lớn, lại dễ bị hư hỏng trong quá trình vận chuyển cho nên hầu hết các
nhà nhập khẩu đều tham gia bảo hiểm để hạn chế rủi ro.
Theo Tổng cục Hải quan, hàng hóa xuất khẩu được vận chuyển chủ yếu qua đường
không liên quan đến hàng điện tử như điện thoại, máy vi tính, ... Đây đều là các mặt hàng có
giá trị cao, nên các nhà nhập khẩu chủ yếu chọn máy bay với đặc tính nhanh và an toàn làm
phương thức vận chuyển cho hàng hóa của mình. Biểu đồ về các phương thức vận tải chủ
yếu trong xuất khẩu điện thoại năm 2015 sau đây có thể cho thấy rõ điều đó.

1
7


Biểu đồ 1: Các phương thức vận tải chủ yếu trong xuất khẩu điện thoại năm 2015

Nguồn: Baohaiquan.vn

Dữ liệu lần đầu tiên được Tổng cục Hải quan công bố cho thấy, năm 2015, mặt
hàng xuất khẩu lớn nhất là điện thoại với trị giá 30,176 tỷ USD. Trong đó lượng điện
thoại và linh kiện được xuất khẩu qua đường hàng không đạt trị giá 29,313 tỷ USD,
chiếm hơn 97% tổng trị giá mặt hàng này. Số ít còn lại được xuất khẩu qua đường bộ,
đường thủy và loại hình khác.

Một mặt hàng khác được đưa ra nước ngoài chủ yếu bằng đường không là máy vi
tính, sản phẩm điện tử và linh kiện. Trong 15,609 tỷ USD xuất khẩu mặt hàng này năm
2015, xuất khẩu bằng đường không đạt gần 10 tỷ USD, chiếm 64%; kế đến là đường thủy
gần 5,5 tỷ USD, chiếm hơn 35,2%...
Bên cạnh đó, máy ảnh, máy quay phim cũng có phương thức xuất ngoại chủ yếu
qua đường hàng không với trị giá đạt gần 2,9 tỷ USD, chiếm 95,5% tổng giá trị xuất khẩu
mặt hàng này trong năm 2015. Điều này mở ra cơ hội to lớn cho các công ty bảo hiểm
khai thác khách hàng.
Mặt khác, thị trường bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường hàng không
của Việt Nam tuy còn hẹp về mặt hàng tham gia, nhưng do tính chất của nghiệp vụ này là
có thời gian bảo hiểm ngắn nên trong một năm các nhà bảo hiểm có thể quay vong liên
tục số khách hàng bảo hiểm, nếu duy trì được mối quan hệ với khách hàng.
18


Bên cạnh những thuận lợi kể trên, bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu chuyên chở
bằng đường hàng không hiện nay còn đóng vị trí quan trọng, không thể thiếu do nhu cầu
của khách hàng đang không ngừng phát triển như đã trình bày trong chương I.
3.3.2. Những khó khăn của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường hàng không
Bên cạnh những thuận lợi có được, bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng
đường hàng không ở Việt Nam còn phải đương đầu với nhiều khó khăn. Hiện nay trên thị
trường quốc tế, vị thế ngoại thương của Việt Nam còn yếu kém, kinh nghiệm chưa nhiều
nên các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam thường hoặc bị ép bán hoặc chỉ quen sử dụng
những điều kiện mà quyền mua bảo hiểm thuộc về thương nhân nước ngoài (như FCA),
còn khi mua lại thường mua theo giá đã có bảo hiểm (tức là người bán đã giành quyền
mua bảo hiểm với các điều kiện như CIP). Do vậy đã làm một lượng lớn hàng hóa xuất
nhập khẩu của Việt Nam không mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm trong nước.
Thêm vào đó, các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam còn chưa có thói quen mua bảo
hiểm cho hàng hóa vận chuyển bằng đường hàng không. Điều đó một phần là do ngành
vận tải hàng không còn chưa phát triển nhưng nguyên nhân chủ yếu là do quan niệm về

bảo hiểm của chủ hàng xuất nhập khẩu. Họ quan niệm máy bay là phương tiện vận
chuyển an toàn nhất, lại nhanh nhất nên nhiều nhà xuất nhập khẩu không quan tâm đến
việc mua bảo hiểm. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp Việt nam vẫn chưa nâng cao được
khả năng cạnh tranh, chủ yếu tập trung vào việc sản xuất, gia công sản phầm nên chưa
chú trọng đến việc thu xếp vận chuyển, bảo hiểm hàng hóa do chưa đủ nguồn lực. Thực
trạng này bắt nguồn từ việc năng lực hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn
chế và chưa mang tầm quốc tế.

19


CHƯƠNG IV: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN
BẢO HIỂM HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
4.1. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước
Trong những năm qua ngành bảo hiểm Việt Nam đã đạt được nhiều thành công
trong việc khai thác khách hàng mới. Chất lượng phục vụ được nâng lên rõ rệt. Tuy
nhiên, ngành Bảo hiểm Việt Nam cần nâng cao năng lực bảo hiểm lên ngang tầm quốc tế.
Phải có chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ thông tinh kỹ thuật nghiệp vụ, am hiểu pháp
luật quốc gia và quốc tế, có nghệ thuật ứng xử giao tiếp trước khách hàng. Cần đa dạng
hóa sản phẩm, khai thác triệt để thị trường trong nước; có chiến lược nâng cao năng lực
tài chính để các công ty Bảo hiểm Việt Nam có khả năng ký các hợp đồng bảo hiểm cho
những lô hàng có giá trị lớn.
4.2. Đối với cơ quan quản lý nhà nước
Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng trong việc định hướng cho sự phát triển
của thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu bằng đường hàng không nói riêng thông qua những chính sách về ngành bảo hiểm
cũng như về ngành hàng không.
Chính phủ cần có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích các công ty xuất nhập
khẩu ký kết hợp đồng theo điều kiện xuất khẩu CIP, nhập khẩu FCA như: giảm thuế xuất
nhập khẩu, thuế doanh thu hoặc thuế giá trị gia tăng cho chủ hàng nào tham gia bảo hiểm

của công ty bảo hiểm Việt Nam; giảm thủ tục hải quan, hoặc chủ hàng được giao hạn
ngạch xuất khẩu cao hơn so với những chue hàng không tham gia bảo hiểm tại Việt Nam.
Với các chính sách ưu đãi trên, các công ty xuất nhập khẩu sẽ chủ động hơn trong việc
đàm phán, ký kết, thực hiện phương thức xuất nhập khẩu theo điều kiện có lợi nhất, tạo
cơ sở nâng cao tỷ trọng hàng hóa xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước, đồng
thời thúc đẩy ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển.
Để tránh tình trạng đua nhau hạ phí để giành giật khách hàng như hiện nay, các cơ
quan nhà nước quản lý về hoạt động kinh doanh bảo hiểm cần xây dựng hành lang biểu phí
cụ thể, thống nhất hoặc quy định mức phí trần và sàn hợp lý. Các công ty bảo hiểm nếu
muốn thay đổi biểu phí của mình cần trình báo cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chuẩn

y trước khi thực hiện.

2
0


Cần xem xét lại mức thuế suất giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp bảo hiểm (vì
mức 10% như hiện tại là khá cao).
4.3. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Cần nhanh chóng thay đổi tập quán thương mại, thay đổi phương thức xuất nhập
khẩu để tham gia vào thị trường bảo hiểm trong nước. Điều này, xét về toàn cục là có
lwoij cho nền kinh tế quốc dân do đã tạo cơ hội cho ngành bảo hiểm và vận tair hàng
không phát triển, chính sự phát triển của hai ngành này có tác động ngược trở lại, góp
phần mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại. Sự phối hợp, hỗ trợ nhau cùng phát triển của
ba lĩnh vực xuất nhập khẩu, bảo hiểm và vận tải có ý nghiac hết sức quan trọng. Sẽ rất
khó cho hoạt động xuất nhập khẩu nếu ngành bảo hiểm và vận tải kém phát triển, ngành
bảo hiểm và vận tải cũng không thể phát triển mạnh nếu kim ngạch xuất nhập khẩu thấp.
Tóm lại, quá trình hội nhập quốc tế đặt nền kinh tế nước ta trước những thời cơ và
thách thức mới. Trong bối cảnh đó, ngành Bảo hiểm Việt Nam nói riêng và bảo hiểm

hàng không nói riêng cần chủ động hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng phục vụ
khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm, tăng cường tiềm lực tài chính,... để hội
nhập nhập thành công và có hiệu quả với các công ty bảo hiểm nước ngoài, tạo cơ sở
nâng cao kim ngạch bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước.
Trên đây là một số ý kiến nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo
hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường hàng không. Hy vọng trong thời gian tới
ngành Bảo hiểm Việt Nam, đặc biệt là Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không sẽ có những bước tiến mới, hoàn thiện hơn, từ đó đứng vững trong cạnh
tranh, tăng thị phần bảo hiểm so với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, nâng cao
doanh thu và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa ngày càng phát triển hơn.

21


KẾT LUẬN
Thị trường bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường hàng không là một thị
trường vẫn còn mới mẻ và bắt đầu sôi động những năm gần đây. Ở Việt Nam, tại các
công ty bảo hiểm như Bảo Việt, Bảo Minh, Bảo hiểm quân đội hay PVI nghiệp vụ này đã
được triển khai và bắt đầu có sự tăng trưởng qua các năm. Tuy nhiên, kết quả trên vẫn
chưa tương xứng với khả năng của các doanh nghiệp bảo hiểm trước một thị trường đầy
tiềm năng như vậy.
Trong những năm gần đây, quá trình hội nhập kinh tế đặt ra nhiều cơ hội và thách
thức. Bởi vậy, ngành bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng hàng không nói riêng cần chủ động hơn nữa trong việc nâng cao
chất lượng dịch vụ , đa dạng hóa sản phẩm, tăng cường hiệu quả kinh doanh từ khâu khai
thác, giám định đến khâu giải quyết khiếu nại, bồi thường tổn thất để sẵn sàng cho hội
nhập và cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, tạo cơ sở nâng cao tỉ
trọng kim ngạch bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước.

2

2


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Hoàng Văn Châu, 2006, Giáo trình bảo hiểm trong kinh doanh, Xuất bản lần
thứ 2, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.
2. Viện những người bảo hiểm Luân Đôn, 1982, Institute Cargo Clauses.
3. Biên tập viên, leddyking34, 2013, Chuyên đề tốt nghiệp: Thực trạng triển khai
nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công
ty bảo hiểm Toàn Cầu, Nguyễn Văn Minh, truy cập 25/02/2017,
< />4. Thế giới bảo hiểm <>, n.d. , Bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường hàng không, CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PJICO, truy
cập 25/02/2017, < />5. Bảo hiểm PJICO <>, 2014, Bảo hiểm hàng không lại sắp
bồi thường lớn, CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PJICO, truy cập 25/02/2017, <
/>6. Bùi Văn Khoa, n.d, Những nội dung cơ bản của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam, truy cập 25/02/2017, <
/>
23



×