Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN kinh nghiệm quản lý chỉ đạo nâng cao chất lượng kiểm tra đánh giá giờ lên lớp ở trường mầm non trường thi a, thành phố thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.08 KB, 20 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chúng ta đã biết“Giáo dục & Đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” và“Phát huy nguồn lực con
người là khâu đột phá để tiến vào thời kỳ mới” , bởi vì con người là nguồn lực
quý báu nhất có vai trò đặc biệt cho thắng lợi nước nhà về tạo nguồn lực tài
chính và nguồn lực vật chất cho xây dựng đất nước. Con người là chủ thể của sự
sáng tạo. Chính vì vậy Đảng ta tiếp tục đề ra chiến lược phát triển giáo dục
“Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế”.Trước tình hình đó giáo viên phải xác định được rõ
vị trí, vai trò, nhiệm vụ và trách nhiệm của mình; Giáo dục phải nhận thức được
“Nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
nước ta khi nguồn lực tài chính và vật chất còn hạn hẹp”. Để thực hiện mục tiêu
này, hành lang pháp lý của giáo dục phải liên tục chấn chỉnh tình hình trường,
lớp, thầy, trò, người quản lý giáo dục, để tạo dựng nhân cách con người mới
trong môi trường giáo dục hiện đại. Không có con đường nào khác là phải liên
tục đổi mới và phát triển công tác Giáo dục & Đào tạo.
Nhiệm vụ chính trị trọng tâm trong nhà trường là hoạt động dạy và học.
Người trực tiếp giảng dạy học sinh là đội ngũ giáo viên, lực lượng giữ vai trò
quyết định nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, hoạt động chuyên môn cũng
như các hoạt động khác trong trường học phải được người quản lý thường xuyên
kiểm tra, đánh giá. Đặc biệt kiểm tra đánh giá giờ dạy hay còn gọi là kiểm tra
đánh giá bài lên lớp có vai trò vô cùng quan trọng.
Thông qua việc kiểm tra đánh giá giờ lên lớp (KTĐGGLL) giúp cho
người quản lý nắm được năng lực, phẩm chất, tính cách của từng giáo viên để
kịp thời bồi dưỡng những phần khiếm khuyết trong chuyên môn về kiến thức, về
cách sử dụng đồ dùng trang thiết bị dạy học, về phương pháp đổi mới... Đồng
thời biểu dương nhân rộng kịp thời các giáo viên có tay nghề vững vàng. Qua
KTĐGGLL giúp người cán bộ quản lý có kế hoạch sử dụng, bố trí, sắp xếp đội
ngũ giáo viên phù hợp với trình độ năng lực sư phạm. Trên cơ sở KTĐGGLL


tạo được những thông tin mới đáp ứng quá trình quản lý tiếp theo.
Bài lên lớp cung cấp kiến thức cơ bản về tự nhiên và xã hội cho trẻ,
hình thành các kỹ năng, kỹ xảo, làm phát triển trí tuệ cho trẻ như: Phát triển khả
năng nhận biết, phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát...Bài lên lớp còn hình
thành niềm tin đạo đức cho trẻ, giúp trẻ hiểu được các chuẩn mực đạo đức xã
hội tương lai đòi hỏi như: Thế nào là ngoan, hư, tốt, xấu; đúng, sai, sạch, bẩn,
thiện, ác...giúp cho trẻ yêu đời hơn, biết làm điều thiện, không làm điều ác, biết
sống hòa mình vào tập thể, qua tâm, chia sẻ với mọi người; biết yêu quê hương,
đất nước yêu ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, anh chị em, bạn bè...Nhà Giáo dục
XcatsKin đã viết “Mọi mặt của quá trình giáo dục được phản ánh trong một giờ
lên lớp như hình ảnh mặt trời thu gọn trong một giọt nước”. Bài lên lớp có vị trí
1


vô cùng quan trọng như vậy nên việc KTĐGGLL là việc phải làm thường
xuyên, liên tục của người quản lý trường học. Hiệu quả giờ lên lớp là do giáo
viên trực tiếp giảng dạy quyết định.
Kiểm tra đánh giá giờ lên lớp một trong những vấn đề mà bản thân tôi
luôn tâm đắc trong nhiều năm nay, khẳng định vai trò của người quản lý và có
cái nhìn thực tế về đội ngũ để có sự phân công chính xác nhằm đảm bảo chất
lượng quản lý chỉ đạo chuyên môn. Thông qua đó đánh giá đúng thực trạng phát
hiện những sai lệch để điều chỉnh nhằm nâng cao chuyên môn, tay nghề cho
giáo viên. Trên thực tế công tác KTĐGGLL đã được Phòng GD&ĐT thành phố
Thanh Hóa đặc biệt quan tâm, chỉ đạo sâu sát, hàng năm Phòng GD&ĐT đã ra
nhiều văn bản chỉ đạo về công tác kiểm tra nói chung, kiểm tra công tác chuyên
môn nói riêng, bên cạnh đó Phòng GD&ĐT đã kiểm tra chặt chẽ các đơn vị
trường học đóng trên địa bàn từ việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện vì
đây là hoạt động có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu
giáo dục, đã tổ chức các đoàn kiểm tra, tiến hành đánh giá giờ lên lớp để nắm
bắt tình hình chất lượng dạy và học của các nhà trường, của giáo viên ở tất cả

các trường, các khối lớp, các môn..., mục đích là để nâng cao chất lượng Giáo
dục & Đào tạo.
Về phía các trường học đa số các trường cũng đã quan tâm sát sao việc
kiểm tra đánh giá giờ lên lớp. Nhiều trường đã tổ chức công tác KTĐGGLL khá
chặt chẽ, đưa hoạt động chuyên môn của nhà trường đi vào kỷ cương, nề nếp,
thúc đẩy việc nâng cao chất lượng dạy và học của trường ngày càng mạnh mẽ.
làm cho công tác giáo dục thành phố có nhiều phần khởi sắc. Song bên cạnh đó
có đôi lúc công tác KTĐGGLL trong nhà trường chưa đúng mức như: Ít tổ chức
KTĐGGLL, đối phó hoặc là có tổ chức KTĐGGLL, hình thức KTĐGGLL chưa
phong phú, đôi khi vẫn tiến hành KTĐGGLL nghiêm túc nhưng trình độ tay
nghề của giáo viên, chất lượng giáo viên của trường không được nâng lên vì vậy
đang là nỗi trăn trở của các nhà lãnh đạo, quản lý, của Phòng GD&ĐT, thầy cô
giáo và của toàn xã hội..
Có thể nói Trường MN Trường Thi A có bề dày trong công tác nuôi dưỡng
chăm sóc giáo dục trẻ nhưng cũng không tránh khỏi một trong những tình trạng
tỷ lệ GV dạy giỏi mới đạt ở các năm học gần đây trên 40%, 45%, trong khi
CBGV có trình độ trên chuẩn 81,2 %, yêu cầu tỷ lệ GV giỏi phải đạt tối thiểu
50%. Vấn đề đặt ra là quản lý như thế nào để giờ lên lớp của giáo viên đạt hiệu
quả cao nhất.
Trong công tác quản lý trường học, kiểm tra đánh giá giờ lên lớp có một vị
trí rất quan trọng thông qua đó Hiệu trưởng mới có thể nắm bắt kịp thời thực trạng
của giáo viên, đây cũng là vấn đề cấp thiết để đánh giá đúng trình độ, năng lực
chuyên môn của giáo viên đứng lớp từ đó đề ra kế hoạch lâu dài để xây dựng đội
ngũ và nâng cao chất lượng giáo viên đáp ứng yêu cầu của ngành học đề ra. Chính
vì vậy tôi chọn đề tài nghiên cứu “Kinh nghiệm quản lý, chỉ đạo nâng cao chất
lượng kiểm tra đánh giá giờ lên lớp ở Trường MN Trường Thi A”
2


với mục đích tìm ra phương pháp, quản lý, chỉ đạo công tác KTĐGGLL, mong

muốn làm tốt hơn nữa trách nhiệm của người quản lý trường học, từng bước góp
phần nâng cao trình độ tay nghề cho giáo viên, làm đòn bẩy nâng cao chất lượng
giáo dục trong nhà trường.
1.2. Mục đích nghiên cứu: Đánh giá thực trạng công tác kiểm tra đánh
giá giờ lên lớp của giáo viên. Nhằm tìm ra những biện pháp vận dụng trong việc
quản lý chỉ đạo góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện trong nhà
trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp trong thực hiện nhiệm vụ
KTĐGGLL Trường MN Trường Thi A.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Đọc nghiên cứu tài liệu liên quan
- Điều tra, quan sát, trao đổi, đàm thoại
- Kiểm tra, khảo sát
-Thực nghiệm đánh giá giờ lên lớp
-Thống kê, phân tích, so sánh kết quả
1.5.Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Mục đích kiểm tra đánh giá giờ lên lớp của giáo viên được coi là một
bước quan trọng trong quá trình dự giờ. Nếu đánh giá đúng ,đầy đủ nội dung,
phương pháp của việc tổ chức các hoạt động cho trẻ giúp giáo viên nhận thấy ưu
điểm, hạn chế của mình, từ đó nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư
phạm. Kiểm tra đánh giá giờ lên lớp thông qua việc dự giờ trên cơ sở đó trên cơ
sở đó giúp Hiệu trưởng, các nhà quản lý giáo dục đề ra những quyết định hợp lý
để thúc đẩy mọi hoạt động của nhà trường phát triển.
Kiểm tra đánh giá giờ lên lớp vừa là kết quả đánh giá phản ánh tham gia
của trẻ vào các hoạt động vừa là giúp giáo viên tự đánh giá trình độ chuyên
môn, năng lực sư phạm, nhân cách uy tín của mình đối với phụ huynh học sinh
và đồng nghiệp.Trên cơ sở đó không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, về
nghệ thuật sư phạm và nhân cách người thầy.
Kiểm tra đánh giá giờ lên lớp cần chú trọng khi góp ý cho giáo viên người
Hiệu trưởng không tiến hành đơn phương nhận xét mà cùng giáo viên trao đổi

tìm đến những quyết định để nâng cao hiệu quả giờ dạy, việc sáng tạo của giáo
viên khi tổ chức các hoạt động cho trẻ, đòi hỏi tiếp cận của người nhận xét, đánh
giá đúng đắn của người lãnh đạo, góp ý chân thành của đồng nghiệp. Bên cạnh
đó nhận diện xoá bỏ trở ngại tâm lý của giáo viên ngại thay đổi, không thích
BGH, đồng nghiệp dự giờ...Để tạo bầu không khí thân thiện tinh thần thoải mái
gần gũi giữa đồng nghiệp với đồng nghiệp, học hỏi giúp đỡ nhau cùng tiến bộ,
một trong những giải pháp áp dụng trong năm học 2018-2019 được bổ sung đề
cập trong sáng kiến kinh nghiệm này chính là giải pháp “ Tổ chức cho giáo
viên dự giờ chéo và tự đánh giá rút kinh nghiệm cho bản thân”.

3


2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Những vấn đề về giờ học và bài lên lớp: Giáo sư - Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại
cho rằng “Bài học là một quá trình thầy tổ chức cho trò hoạt động để lĩnh hội
một khái niệm và kỹ năng kỹ xảo tương ứng với nó, trong một thời gian xác
định ở một số trình độ nhất định. Bài học được coi là cơ sở thực hiện của quá
trình GD, như một đơn vị hoàn chỉnh”. Như vậy ông Hồ Ngọc Đại đã xem xét
bài học dưới góc độ của quá trình giáo dục - dạy học.
Bàn về vấn đề này, Giáo sư Hà Thế Ngữ và Giáo sư Đặng Vũ Hoạt đã nêu
các đặc điểm cơ bản của bài lên lớp ( hay còn gọi là những dấu hiệu đặc trưng
cơ bản của bài lên lớp) như sau:
* Hoạt động được tiến hành chung cho lớp bao gồm một số học sinh nhất
định phù hợp với khả năng bao quát của giáo viên, những học sinh này thuộc
cùng một lứa tuổi, có trình độ nhận thức gần như nhau, đảm bảo cho hoạt động
giảng dạy được tiến hành phù hợp với năng lực chung của cả lớp.
*Hoạt động dạy học được tiến hành theo tiết học, thời gian của mỗi tiết
học được thay đổi từ lớp dưới lên lớp trên, các tiết học được sắp xếp khoa học

thành thời khóa biểu. Tất cả những quy định đó xuất phát từ đặc điểm nhận thức,
sức tập trung, chú ý của học sinh trong nhà trường
*Giáo viên trực tiếp điều khiển, tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh
cả lớp đồng thời chú ý đến những đặc điểm riêng của từng học sinh.
Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang “Bài học là hình thức tổ chức cơ bản
của quá trình dạy học, ở đây theo một khoảng thời gian xác định( tiết học), giáo
viên tổ chức hoạt động nhận thức của một tập thể học sinh có sĩ số nhất định
(Lớp học sinh) có chú ý đến đặc điểm từng em nhằm làm cho tất cả học sinh
nắm vững trực tiếp ngay trong quá trình dạy học những cơ sở của tài liệu dạy
học đồng thời qua đó mà phát triển những năng lực nhận thức và giáo dục đạo
đức cho các em”. Ở đây Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang nhìn nhận “ bài lên lớp”
dưới góc độ hình thức tổ chức việc dạy học.
Qua các định nghĩa trên, chúng ta thấy rằng “Bài lên lớp” là hình thức tổ
chức cơ bản của việc dạy học, bị hạn chế về thời gian, trong đó có thành phần
học sinh xác định, dưới sự hướng dẫn của giáo viên để đạt được mục đích đặt ra
là giáo dục toàn diện cho học sinh. Bài lên lớp vừa là hiện thân của quá trình
dạy học vừa là hình thức tổ chức dạy học cơ bản, học sinh có cùng độ tuổi và
trình độ phát triển ban đầu, tự lĩnh hội khái niệm, kỹ năng dưới sự tổ chức
hướng dẫn của giáo viên nhằm đạt được mục đích dạy học...
Bài lên lớp giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong các hình thức tổ chức dạy
học, nó là tế bào của quá trình dạy học, là hình thức dạy học không thể thiếu
được trong nhà trường nói chung cũng như trường MN nói riêng. Bởi vì chất
lượng GD&ĐT phụ thuộc trước hết và phần lớn vào chất lượng bài lên lớp mà
bài lên lớp thực hiện 3 nhiệm vụ cơ bản của quá trình dạy học là: Trí dục, giáo
dục và phát triển.
Những vấn đề cơ bản về công tác kiểm tra đánh giá giờ lên lớp: Ra
Chen Co đã từng viết: “Kiểm tra trong quản lý trường học là phương thức thu
nhận thông tin về tình hình chất lượng, về nội dung và tổ chức của các hoạt động
4



giáo dục, nó là một hệ thống để quan sát xem lao động sư phạm thực tế có phù
hợp với kế hoạch, tiêu chuẩn, quy tắc dự kiến trước hay không. Đó là sự vạch rõ
kết quả tác động của chủ thể đến khách thể, vạch rõ những lệch lạc đã phạm
phải so với yêu cầu sư phạm và nguyên tắc tổ chức”
Đánh giá toàn bộ các hoạt động dạy học trong nội bộ nhà trường, xác định
yếu kém qua đó để có phương pháp biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả
quản lý, đưa nhà trường tiếp cận với mục tiêu giáo dục. Hiệu trưởng nhà trường
là người ra quyết định tổ chức và chỉ đạo kiểm tra đánh giá, đưa hoạt động kiểm
tra đạt hiệu quả cao nhất. Hiệu trưởng kiểm tra trong nhà trường cũng chính là
tự kiểm tra hoạt động quản lý của mình.
Theo Ra Chen co: “Làm Hiệu trưởng phải làm tốt công tác kiểm tra, đó là
một chức năng quản lý, không kiểm tra không phải là nhà quản lý, không kiểm
tra xem như không làm.Ông chỉ ra rằng phải quan sát các tác động sư phạm để
so sánh, đối chiếu với các yêu cầu sư phạm, so sánh chủ yếu với các kiến thức
tâm lý, giáo dục học xem giáo viên đó đã thực hiện đạt bao nhiêu phần trăm so
với yêu cầu.”
Theo Nguyễn Hoàng Mạc: “Người quản lý kiểm tra nội bộ trường học
còn là để kiểm tra chính mình nữa, nếu quyết định của mình ra mọi người thực
hiện tốt thì khẳng định rằng quyết định đó đúng, nếu kết quả thực hiện chưa tốt
thì người Hiệu trưởng cũng biết để tự điều chỉnh quyết định quản lý của mình”
Trong nhà trường hoạt động chính là dạy và học, kết quả dạy và học có
đạt hiệu quả cao hay không là nhờ các giờ lên lớp. Vì vậy kiểm tra đánh giá giờ
lên lớp là một khoa học, không phải ai cũng làm được.
Bởi vì giờ lên lớp là một đặc thù của trường học; chính vì vậy kiểm tra
đánh giá giờ lên lớp có vai trò đặc biệt quan trọng, kiểm tra đánh giá giờ lên lớp
trước hết là phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm về chuyên môn, xử lý các
thắc mắc, các mâu thuẫn, các khiếu nại, khắc phục những chỗ hở trong quản lý,
khắc phục bệnh quan liêu đối với lãnh đạo nhằm đưa nhà trường đi vào nề nếp,
có hiệu quả cao trong công tác nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ.

Khi kiểm tra đánh giá giờ lên lớp phải thực hiện theo quy trình 8 bước
như sau:
Bước 1:Yêu cầu dự giờ: Dự giờ ai ? Lớp nào? Mục đích là gì ? Thời gian
nào? Hoạt động nào?
Bước 2: Chuẩn bị: Nắm được mục đích yêu cầu của bài dạy, bài đó có
đúng kế hoạch giáo dục đã được duyệt không, nội dung bài giảng giáo viên cần
truyền đạt những kiến thức gì? Kiến thức đó được vận hành trong tiết học như
thế nào?
Bước 3: Dự giờ lên lớp: Quan sát và ghi chép diễn biến giờ dạy; ghi chép
những sự việc diễn ra trong mối tương tác giữa cô với trẻ và đồ dùng dạy học,
ghi chép các tình huống sư phạm diễn ra, cách ứng xử của giáo viên.
Bước 4: Phân tích so sánh: Căn cứ vào nội dung, yêu cầu của bài, vào các
tiêu chí khoa học để phân tích sự thành công hoặc thiếu sót trên ba mặt: Trí thức,
kỹ năng và thái độ.

5


Bước 5: Đánh giá: Hiệu trưởng phải cho giáo viên tự đánh giá giờ dạy
trước; Hiệu trưởng và người đi cùng trao đổi về giờ dạy và trao đổi với người
dạy. Hiệu trưởng đưa ra kết luận
Bước 6: Động viên, phê phán: Phải đưa ra những quan điểm của mình,
khen, chế một cách rõ ràng, đúng mức để động viên mọi người phấn đấu.
Bước 7: Kiến nghị: Đưa ra cho giáo viên những ý kiến; những ý kiến đó
là những quyết định quản lý. Có hai loại kiến nghị:
Những kiến nghị chiến thuật: là những ý kiến nhỏ nhẹ về một vấn đề nào
đó.
Những kiến nghị chiến lược: Có tính chất khái quát cả bài dạy.
Bước 8: Lưu hồ sơ và yêu cầu kiểm tra lại:
Đứng về góc độ người quản lý kiểm tra đánh giờ lên lớp sẽ đánh giá được

nhiều mặt: Đối với giáo viên, thông qua kiểm tra đánh giá giờ lên lớp người
quản lý sẽ nắm bắt được trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực, tri thức của
giáo viên, khả năng chuyên sâu, năng lực chuyên biệt về một môn học hay một
vấn đề nào đó trong chuyên môn; qua đó người quản lý cũng đánh giá được
phẩm chất đạo đức của giáo viên, đó là tinh thần trách nhiệm của giáo viên đối
với công việc, tình thương yêu của giáo viên đối với trẻ, xem giáo viên đó có
chuẩn bị chu đáo những điều kiện cần thiết cho giờ học hay không, đã quan tâm
công bằng với mọi trẻ hay chưa, đã thông cảm chia sẻ với trẻ hay chưa...
Về Học sinh: Qua kiểm tra đánh giá giờ lên lớp người quản lý sẽ nắm
chắc được tình hình của học sinh về sức khỏe, tâm lý, không khí học tập, chất
lượng học tập.
Về cơ sở vật chất: Qua kiểm tra giờ lên lớp sẽ nắm bắt được tình hình cơ
sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi của lớp, tình trạng lớp học.....
Khi kiểm tra đánh giá giờ lên lớp, người quản lý sẽ nắm bắt được sự phối
hợp giữa các tổ, các bộ phận trong nhà trường....thông qua sự nắm bắt toàn diện
này sẽ giúp Hiệu trưởng nắm bắt được thông tin đầy đủ, chính xác và chủ động
đưa ra những quyết định đúng lúc, kịp thời trong công tác quản lý trường học
nói chung và quản lý chuyên môn nói riêng.
2.2. Thực trạng công tác kiểm tra đánh giá giờ lên lớp
Tình hình Nhà trường: Trường có 09 nhóm lớp, học sinh của trường
năm ít nhất trên 185 cháu, năm học 2018-2019 là 195 cháu. Trường tổ chức bán
trú 100% các cháu ăn ngủ tại trường. Tổng số cán bộ giáo viên: 16 (không tính
nhân viên) .Trong đó: BGH = 02; 01 Hiệu trưởng, 01 Phó hiệu trưởng; Giáo
viên đứng lớp: 13; Trình độ chuyên môn trên chuẩn tỷ lệ 72,2 %; Trung cấp tỷ lệ
16,67 %. CBGV Biên chế +Hợp đồng 60: 10/18 tỷ lệ 55,57%; GVHĐ: 8/18 tỷ lệ
44,43%; 100 % CBGV đều là nữ.
*Thuận lợi: Cán bộ, giáo viên đa số trẻ, khỏe, đoàn kết, tâm huyết với
nghề, 100 % CBGV có trình độ chuẩn, tỷ lệ trên chuẩn khá cao. Cán bộ quản lý
là những đồng chí đã có kinh nghiệm trong công tác quản lý. Nhà trường có bề
dày trong công tác nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ được phụ huynh, nhân dân

tin tưởng số trẻ huy động ra lớp ngày càng tăng.
*Khó Khăn: Trường khó khăn về cơ sở vật chất, thiếu phòng nhóm lớp
Trên 70 % GV trẻ đang độ tuổi sinh và nuôi con nhỏ, việc tham gia ngày công
6


làm việc thường không liên tục, việc điều phối chuyên môn nhiều khi ách tắc, đa
phần là giáo viên hợp đồng còn có một số giáo viên đôi khi dao động chưa thật
sự gắn bó với nghề...
* Kết quả thực trạng công tác KTĐGGLL
Việc KTĐGGLL là một công việc đặc biệt khó khăn trong công tác kiểm
tra nội bộ trường học, tuy là một hoạt động truyền thống của ngành giáo dục đòi
hỏi sự tỷ mỉ, chính xác cao. Bản thân với cương vị là Hiệu trưởng tôi đã nhận
thức rất đầy đủ, sâu sắc quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra
đánh giá giờ lên lớp khá nghiêm túc, đưa hoạt động chuyên môn vào nề nếp,
từng bước thúc đẩy việc nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường. Song
bên cạnh đó vẫn có lúc công tác KTĐGGLL chưa thường xuyên; đôi khi thiếu
khoa học; hình thức kiểm tra chưa phong phú; đánh giá xếp loại giờ dạy chưa
chính xác, có lúc còn chạy theo thành tích; còn nể nang dẫn đến chất lượng
chuyên môn của đội ngũ giáo viên chưa có sự tiến bộ rõ nét. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến tồn tại trên, nổi cộm là các nguyên nhân cơ bản sau:
Giáo viên thường có tâm lý không thích, rất ngại khi được dự giờ
(KTĐGGLL) dẫn đến việc KTĐGGLL không hứng thú, ngại đi dự giờ, hoặc đi
cho có để báo cáo với Hiệu trưởng, để đạt kế hoạch đề ra về mặt số lượng. Ban
giám hiệu, tổ trưởng, tổ phó chuyên môn có lúc nhận thức chưa đầy đủ, chưa sâu
sắc về công tác KTĐGLL nên đôi khi suy nghĩ lệch lạc cho rằng KTĐGGLL là
gây áp lực, làm khó cho giáo viên nên chưa chú trọng đúng mức, có lúc không
đủ thời gian để thực hiện KTĐGGLL một cách thường xuyên. Nhìn chung cả số
lượng và chất lượng công tác KTĐGGLL đều chưa thuyết phục, chưa ngang tầm
với yêu cầu đặt ra, việc này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ giáo

viên và chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ của nhà trường, cụ thể được thông kế
như sau:
Số lượng Số lượng Số giờ Số
Số giờ Số giờ đạt
Năm học
2017-2018

Giáo
viên
13

giờ lên

giờ

lớp được đạt giỏi
kiểm tra

đạt
khá

118

trung
bình

yếu

61


44

11

0

51,7

37,3

11

0

100%
Tỷ lệ %

so với
kế hoạch

Chất lượng dạy học của GV là một tiêu chí rất quan trọng để đánh giá
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non, từ chất lượng giờ dạy trên đã cho kết
quả đánh giá giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp giáo viên MN năm học 20172018 như sau:
7


Số lượng
Năm học

Giáoviên


2017-2018

Số GV
đạt loại
xuất sắc

13

Số GV
đạt loại
khá

7

6

Số GV
xếp loại
Trung
bình

Số
GV xếp Ghi chú
loại yếu

0

0


100 được
Tỷ lệ %
đánh giá
53,8
46,2
0
0
CNN
Từ chất lượng đội ngũ nói trên đã cho kết quả thực hiện nhiệm vụ chăm
sóc nuôi dưỡng giáo dục các cháu như sau:
Kết quả chăm sóc giáo dục trẻ như sau:
Đạt
Năm học

chuẩn
kiến
thức
theo
độ
tuổi

Kết quả giáo dục
Đạt
Đạt
chuẩn
kiến
thức
mức
độ tốt


chuẩn
kiến
thức
mức
độ
khá

Đạt

Kết quả chăm sóc
Về cân nặng
Về chiều cao

chuẩn
kiến
thức
mức Kênh
trung bình
thường
bình

2017-2018

245

170

50

25


238

Tỷ lệ %

100

69,4

20,4

10,2

98,3

SDD
thể
nhẹ
cân
7
2,7

Kênh
Bình
thường

SDD
thể
thấp
còi


236

9

96,3

3,7

Qua bảng số liệu trên bản thân tôi tự nhận thấy: Với một nhà trường ngay
trung tâm thành phố, trình độ cán bộ quản lý, giáo viên 100 % đã đạt chuẩn trở
lên tỷ lệ CBGV có trình độ chuyên môn trên chuẩn rất cao, nhưng giáo viên có
giờ dạy giỏi, giáo viên được đánh giá chuẩn nghề nghiệp loại xuất sắc, chất
lượng nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ còn khiêm tốn, chưa đáp ứng với yêu
cầu xã hội, ngành học đề ra. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn áp dụng một số giải
pháp sau để nâng cao chất lượng chuyên môn cho giáo viên.
2.3. Một số giải pháp quản lý chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác
KTĐGGLL ở Trường MN Trường Thi A
2.3.1. Tăng cường giáo dục(GD) tư tưởng về công tác kiểm tra đánh
giá giờ lên lớp
Nắm bắt được tâm lý chung của đa số giáo viên rất ngại khi phải kiểm tra
giờ dạy, họ cho rằng khi bị kiểm tra là phải chuẩn bị kỹ lưỡng hơn tất cả các
việc liên quan đến giờ dạy, bản thân họ sẽ vất vả hơn, bị kiểm tra là đồng nghĩa
8


với việc những hạn chế, tồn tại cá nhân sẽ bị Ban giám hiệu, tổ khối góp ý trước
hội đồng sư phạm, trước đồng nghiệp chạm đến sỹ diện cá nhân trước mọi
người...Vì vậy BGH đã rất quân tâm đến vấn đề giải quyết khâu tư tưởng cho
giáo viên, bằng cách thông qua Hội nghị công nhân viên chức, Đại hội công

đoàn, sinh hoạt chuyên môn, những lúc vui đùa, tâm sự, chia sẻ...Ban giám hiệu,
tổ trưởng tổ chuyên môn đã tâm tư, trao đổi cụ thể về vai trò, vị trí của công tác
kiểm tra đánh giá giờ lên lớp, giúp giáo viên hiểu rằng kiểm tra đánh giá giờ lên
lớp là một nhiệm vụ bắt buộc của BGH, của tổ chuyên môn, đó là việc làm
thường xuyên của cán bộ quản lý giống như việc giáo viên hàng ngày đi dạy.
Đối với Ban giám hiệu KTĐGGLL là một nhiệm vụ, một quy trình bắt
buộc trong quy trình quản lý, “Làm lãnh đạo nhất thiết phải kiểm tra, không
kiểm tra xem như không làm lãnh đạo” qua kiểm tra nắm được chất lượng chất
lượng chuyên môn cụ thể của từng giáo viên, có những mặt mạnh nào? Giỏi ở
môn nào, lĩnh vực nào? Nguyên nhân dẫn đến sự thành công trong các môn dạy
giỏi là gì? ở đâu?... những từ đó nhân rộng trước tập thể cho đồng nghiệp học
hỏi.
Qua KTĐGGLL nắm bắt được điểm yếu của từng giáo viên, yếu ở môn
nào ? Lĩnh vực nào? Nguyên nhân của điểm yếu cho chính giáo viên được kiểm
tra và rút kinh nghiệm cho các giáo viên khác, qua đó giúp Ban giám hiệu, tổ
khối chuyên môn có điều chỉnh phù hợp trong quá trình quản lý chi đạo, trong
quyết định quản lý và trong cách lập kế hoạch bồi dưỡng phù hợp nhằm nâng
cao chất lượng tay nghề cho đội ngũ giáo viên, kiểm tra để giúp đỡ giáo viên
tiến bộ, tự tin hơn trong chuyên môn, thúc đẩy cá nhân giáo viên và chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ của nhà trường phát triển, vì học sinh, vì danh dự và uy
tín nhà giáo, vì lương tâm và trách nhiệm đối với nhân dân chứ không phải vì cá
nhân nào.... KTĐGGLL ở tất cả giáo viên, tất cả các hoạt động chăm sóc nuôi
dưỡng giáo dục trẻ chứ không phải chỉ KTĐGGLL ở một số giáo viên, xác định
mỗi GV ai cũng có môn sở trường, môn sở đoản, không có giáo viên nào lại có
thể giỏi được tất cả các môn vì kiến thức NDCSGD trẻ MN rất rộng, đa kiến
thức liên quan đến đa ngành nghề “ Vừa là mẹ, vừa là nhà giáo dục, vừa là bác
sĩ, Họa sỹ, nghệ sỹ ....”, bằng việc này nhà trường đã khắc phục được tâm lý của
đa số giáo viên có trình độ chuyên môn chưa cao như cô Trần Thị Thu Hà;
Nguyễn Thị Nhung; Nguyễn Thị Thảo; Nguyễn Thị Sâm...Khắc phục được 100
% tình trạng giáo viên khi thấy Ban giám hiệu, tổ chuyên môn đến dự giờ là run,

lo lắng, mất bình tĩnh, là không vui...làm cho giờ dạy càng không có kết quả cao
như bình thường.
2.3.2. Làm tốt công tác kế hoạch kiểm tra đánh giá giờ lên lớp
Đầu tiên khi xây dựng kế hoạch KTĐGGLL là việc chuẩn bị đó là Hiệu
trường ra quyết định về việc thành lập ban kiểm tra bao gồm: Hiệu trưởng, Các
phó Hiệu trưởng, tổ trưởng, tổ phó chuyên môn nhà trẻ, mẫu giáo, một vài giáo
viên nòng cốt trong trường. Việc kiểm tra đánh giá giờ lên lớp đã được nhà
trường lập kế hoạch cụ thể và cụ thể hóa bằng kế hoạch năm học, học kỳ, tháng,
tuần, cá nhân, kế hoạch tổ chuyên môn, kế hoạch khối, từng môn... Trong kế
hoạch nhà trường đã xây dựng số giờ dạy( hoạt động) phải dự của mỗi giáo viên
trung bình 16 giờ/ năm học, bình quân 2 giờ/tháng. Đối với giáo viên chuyên
9


môn chưa tốt có thể dự tăng 3- 5 giờ/ năm học. Trường phân công Phó hiệu
trưởng cùng tổ chuyên môn, giáo viên thảo luận xây dựng và thống nhất chương
trình giáo dục, kế hoạch giáo dục, BGH trực tiếp duyệt kế hoạch giáo dục-giảng
dạy trước khi thực hiện ít nhất 3 ngày giúp giáo viên chủ động trong công tác
chuẩn bị bài, chuẩn bị những công việc liên quan cho việc giảng dạy cá nhân.
Đối tượng dự giờ cũng được Hiệu trưởng bàn bạc với Phó Hiệu trưởng, tổ
chuyên môn kỹ lưỡng, ví dụ: Dự giờ để tập trung chỉ đạo số GV còn yếu, còn
chưa tốt trước; những vấn đề, nội dung số giáo viên đã nắm bắt tốt, vận dụng tốt
trong GD trẻ thì dự giờ ít hơn; trong số nhiều giáo viên cùng yếu một vấn đề nào
đó thì nên dự giáo viên nào trước, giáo viên nào sau; trong từng giáo viên thì
nên dự giờ dạy nào trước; giờ nào sau....Theo thứ tự ưu tiên là: Những vấn đề
nào đang bức xúc, nổi cộm, đang yếu nhất trong chuyên môn thì được quan tâm
dự giờ trước; trong số giáo viên cùng yếu về một vấn đề nào đó trong chuyên
môn thì dự giờ giáo viên yếu nhất trước nhằm kịp thời giúp đỡ giáo viên, cùng
giáo viên tháo gỡ khó khăn, động viên giáo viên cố gắng vươn lên cho bằng
đồng nghiệp khác.

Hàng tháng, hàng tuần Hiệu trường xây dựng kế hoạch chi tiết việc
KTĐGGLL cho từng người, cụ thể như: Hiệu phó chuyên môn, tổ trưởng, tổ
phó chuyên môn nhà trẻ, khối mẫu giáo thì dự giờ giáo viên. Hàng tháng, hàng
tuần Phó hiệu trưởng cùng tổ trưởng tổ phó chuyên môn chủ động đi dự giờ
thăm lớp theo kế hoạch, Hiệu trưởng có thể đi cùng hoặc đi riêng để kết hợp
nắm bắt tình hình khác liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ của giáo viên. Tuy
nhiên trong tuần nhất thiết tôi đã bố trí thời gian hợp lý để dự giờ ít nhất 2 tiết,
trong tháng dự ít nhất là 8 tiết. Ngoài cách chọn đối tượng, nội dung dự giờ như
trên tôi đã dự giờ các giáo viên, các môn học, trong từng môn tôi đã bố trí dự ở
tất cả các loại tiết......nhờ cách làm này mà công tác KTĐGGLL được tiến
hành một cách nhịp nhàng, chủ động, linh hoạt, không bị chồng chéo và khi có
tình huống đột xuất xảy ra về thời gian thì việc dự giờ vẫn được tiến hành theo
đúng kế hoạch do nhà trường đã chủ động điều chỉnh kế hoạch trước.
KTĐGGLL có nhiều hình thức, mỗi hình thức có những ưu nhược điểm riêng.
2.3.3. Luôn duy trì hình thức KTĐGGLL theo định kỳ:
Trước khi dự giờ KTĐGGLL bao giờ Ban giám hiệu cũng báo trước về
thời gian về đối tượng, về môn học, loại bài, loại tiết học giúp giáo viên có sự
chủ động trước về tâm lý, chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết cho giờ dạy.
Năm học 2018-2019: Ban giám hiệu nhà trường đã dự được 110 tiết trên
tất cả giáo viên đang dạy (trừ GV đang nghỉ sinh bao gồm cả số tiết dạy trong
kiểm tra toàn diện, tiết dạy khi thi giáo viên dạy giỏi, khi thao giảng, bồi dưỡng
chuyên đề.....)Trong đó dự tất cả các môn học như làm quen với toán, làm quen
với văn học, Chữ cái; giáo dục âm nhạc, tạo hình, khám phá khoa học, thể dục, làm quen với tiếng Việt, hoạt
động vui chơi,... các loại bài, hoạt động giáo dục trong lớp, hoạt động ngoài trời, hoạt động học có chủ định,
hoạt động góc (còn gọi là hoạt động vui chơi) đạt 100 % kế hoạch.

Số giờ dạy giỏi đạt: 67/110 tiết; tỷ lệ 60,9 %
Số giờ dạy khá đạt: 34/110 tiết; tỷ lệ 30,9 %
Số giờ dạy trung bình: 9/110 tiết; tỷ lệ 8,2 %
10



Qua KTĐGGLL, Ban giám hiệu, tổ chuyên môn đã kịp thời nắm bắt tình
hình học sinh, chất lượng dạy của cô cũng như việc thực hiện quy chế chuyên
môn, động viên ghi nhận những cố gắng của giáo viên, của trẻ; góp ý cho giáo
viên nhận ra những tồn tại hạn chế trong bài giảng, giúp giáo viên tìm ra nguyên
nhân và cách khắc phục yếu điểm. Tuần này dự giờ này, môn này; tuần sau dự
giờ khác, môn khác. Lần lượt hết năm học mỗi giáo viên cũng được Ban giám
hiệu, tổ chuyên môn dự hết tất cả các môn học, các loại tiết...Sau khi dự giờ bao
giờ cũng có phần nhận xét đánh giá, trước khi Ban giám hiệu, tổ chuyên môn
tiến hành nhận xét, đánh giá bao giờ cũng để giáo viên được tự nhận xét trước
về giờ dạy của mình, qua đó Ban giám hiệu, tổ chuyên môn cũng hiểu thêm về
những tác động thuận lợi, khó khăn liên quan đến sự thành công hay thất bại của
giờ dạy, giải tỏa được tâm lý cho giáo viên, nếu được khen giáo viên càng làm
tốt hơn, nếu phải góp ý tồn tại hạn chế giáo viên cũng không thấy nản, bớt tự ti,
bất mãn. Khi nhận xét đánh giá giờ dạy Ban giám hiệu luôn nhìn nhận ưu nhược
điểm của giáo viên trên quan điểm mang tính khách quan, gắn liền với những
điều kiện liên quan như cơ sở vật chất, trang thiết bị, xuất phát điểm của trẻ,
điều kiện dân trí, văn hóa, kinh tế của phụ huynh từng nhóm lớp ...một cách
thoải mái, nhẹ nhàng, giúp GV không bị căng thẳng, được chia sẻ, được quan
tâm.Từ đó giáo viên tiếp thu nội dung được góp ý một cách thoải mái, vui vẻ,
dần dần đúc rút kinh nghiệm cho những loại bài học, môn học khác tương tự,
chuyên môn, tay nghề giáo viên dần dần được nâng lên.Tạo hiệu ứng tích cực
cho giáo viên trong công tác đặc biệt là trong việc dạy học.
2.3.4. Tổ chức cho giáo viên dự giờ chéo và tự đánh giá rút kinh
nghiệm cho bản thân:
Ngay từ đầu năm học nhà trường đã xây dựng kế hoạch, bàn bạc thống
nhất thực hiện đó là: Hàng tháng mỗi giáo viên bắt buộc phải dự giờ đồng
nghiệp ít nhất 1 tiết do cá nhân tự chọn, trước khi đi dự giờ đồng nghiệp phải
báo cáo cho Ban giám hiệu ít nhất 2 ngày để sắp xếp chuyên môn. Việc làm này

được giáo viên ủng hộ mạnh mẽ, đa số giáo viên lựa chọn các tiết mà cá nhân
giáo viên thấy còn lúng túng trong khi chọn đề tài, trong đổi mới hình thức tổ
chức, phương pháp lên lớp, giáo viên chủ động đăng ký với những giáo viên có
chuyên môn tốt, hay có tinh thần giúp đỡ đồng nghiệp, việc dự giờ thấy thoái
mái, việc góp ý chân thành, phù hợp với nhận thức của mỗi giáo viên, qua đó có
chia sẻ, động viên, góp ý cởi mở, chân thành, giáo viên tiếp thu cái tiến bộ và rút
kinh nghiệm cái hạn chế rất thoái mái, vui vẻ nên chuyển biến trong chuyên
môn rất nhanh, nhờ đó Ban giám hiệu có thêm căn cứ để đánh giá chất lượng
chuyên môn của giáo viên khách quan hơn, công bằng hơn, giáo viên cũng có
thêm cơ hội giám sát việc đánh giá chất lượng chuyên môn của Ban giám hiệu,
một số giáo viên diện chưa giỏi, chưa khá trong chuyên môn cũng cảm thấy
thoải mái hơn vì được nhiều đồng nghiệp góp ý trong những buổi sinh hoạt
chuyên môn về những mặt tồn tại khi tổ chức hoạt động cho trẻ, xoá tan nghi
ngờ tại sao Ban giám hiệu không bao giờ xếp giờ dạy cho mình loại giỏi...Tạo ra
suy nghĩ và chuyển biến tích cực rõ nét trong giảng dạy chưa giỏi thì phải cố
gắng, không vì lý do cá nhân nào mà mình chưa được đánh giá cao trong tổ
chức các hoạt động cho trẻ.
11


Gian dân ta có câu “Học Thầy không bằng tày học bạn” trong những buổi
sinh hoạt chuyên môn, dự giờ chéo giữa giáo viên với giáo viên đã chỉ ra những
ưu, nhược trên tinh thần góp ý xây dựng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, chẳng hạn
tiết thể dục của cô Nhân, cô Nga, đảm bảo về nội dung, phương pháp hình thức
đổi mới các hoạt động trong tiết học trôi chảy nhưng đến phần kết thúc lại vấp
những lỗi không đáng vấp như kết thúc tiết học đột ngột, khô khan, làm cho
người dự cảm thấy hụt hẩng...qua những lần dự giờ như vậy giáo viên được học
hỏi, rút kinh nghiệm cho bản thân. Nhờ đó chất lượng chuyên môn từng bước
được nâng lên, các giờ dạy giỏi, giờ khá đã được tăng lên rõ rệt. Bởi vậy giáo
viên động lực hơn để thi đua, phấn đấu tự học tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp

vụ, đặc biệt ảnh hưởng tích cực tới giáo viên trẻ mới ra trường.
2.3.5. Kiểm tra đánh giá giờ lên lớp đột xuất:
Kiểm tra đột xuất là một biện pháp nhất thiết phải có trong công tác kiểm
tra nội bộ trường học nói chung và KTĐGGLL nói riêng, thông qua kiểm tra đột
xuất người quản lý nắm bắt được các thông tin liên quan đến việc thực hiện
nhiệm vụ được giao nói chung và việc thực hiện các giờ dạy nói riêng của giáo
viên một cách khách quan nhất. Chính vì vậy nhà trường đã thực hiện
KTĐGGLL đột xuất xen kẽ các lần KTĐGGLL định kỳ, khi kiểm tra không báo
trước, kiểm tra đến nhóm, lớp đề nghị giáo viên cho kiểm tra một giờ dạy bất kỳ
theo chương trình giáo dục tuần đã được BGH phê duyệt trước. Qua KTĐGGLL
đột xuất đã nắm bắt được cụ thể, chính xác, khách quan về việc thực hiện Quy
chế chuyên môn như: Việc thực hiện giờ giấc làm việc, thực hiện chương trình
giáo dục, thực hiện chế độ sinh hoạt/ngày cho trẻ của giáo viên, việc chuẩn bị
bài lên lớp, chất lượng giảng dạy của giáo viên, dạy học có đúng chương trình,
đúng bài đã được duyệt không; nội dung dạy học có đúng chủ đề đang học, cung
cấp kiến thức có chính xác có đúng trọng tâm có đầy đủ không, có phù hợp với
độ tuổi và tình hình học sinh trong nhóm lớp đang dạy bài dạy có tích hợp các
chuyên đề, có giáo dục kỹ năng sống cho trẻ không ... Qua KTĐGGLL còn giúp
người kiểm tra nắm bắt được phương pháp giảng dạy của giáo viên có vận dụng
phương pháp theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, việc vận dụng phối
hợp các phương pháp, biện pháp, hình thức tổ chức có linh hoạt không, thủ thuật
thu hút trẻ tham gia vào hoạt động như thế nào; cô giáo có tận dụng mọi cơ hội
cho trẻ hoạt động trải nghiệm, cô quan tâm đến trẻ khuyết tật, trẻ học yếu như
thế nào; cách xử lý tình huống sư phạm trong quá trình thực hiện giờ lên lớp ra
sao, trẻ hoạt động như thế nào; tâm thế, sức khỏe, tinh thần, thái độ, có nắm
được kiến thức và thực hành được theo mục tiêu bài dạy đề ra hay không? Mỗi
năm Ban giám hiệu áp dụng việc kiểm tra đột xuất ít nhất 1lần/ GV, trường hợp
đặc biệt có thể có số lần nhiều hơn, tất cả các giáo viên đều phải được
KTĐGGLL đột xuất. Qua đó khắc phục được tình trạng đối phó, ỷ lại của một
số giáo viên tinh thần trách nhiệm chưa cao.

Năm học 2017-2018 KTĐGGLL đột xuất được 27 tiết dạy
Số giờ dạy giỏi: 13/27 tiết; Tỷ lệ 48,2%
Số giờ dạy khá: 11/27 tiết; Tỷ lệ 40,7%
Số giờ dạy trung bình: 3/27;Tỷ lệ 11,1%.

12


So sánh kết quả KTĐGGLL giữa hình thức kiểm tra định kỳ và kiểm tra
đột xuất của năm học 2017-2018 cho thấy kết quả KTĐGGLL theo hình thức
đột xuất thì tỷ lệ giờ dạy giỏi, giờ dạy khá còn thấp, tỷ lệ giờ dạy trung bình vẫn
cao so với kế hoạch KTĐGGLL định kỳ, như vậy cũng đồng nghĩa rằng việc
KTĐGGLL đột xuất sẽ khách quan hơn, căn cứ đánh giá phân loại trình độ
chuyên môn và đánh giá phân loại viên chức cho giáo viên sẽ chính xác hơn.
nếu một GV mà kết quả KTĐGGLL định kỳ đạt giờ giỏi.
KTĐGGLL đột xuất cho kết quả giỏi thì đó là điều vô cùng quý giá,
khẳng định chất lượng chuyên môn, kiến thức, kỹ năng sư phạm, ý thức tổ chức,
tinh thần trách nhiệm của giáo viên đó tốt. Ngược lại khi KTĐGGLL định kỳ đạt
nhiều giờ dạy giỏi nhưng khi KTĐGGLL đột xuất cho kết quả giờ dạy không
tương xứng hoặc ngược lại thì cần phải xem xét lại, kết quả đánh giá giờ dạy
quá chênh lệch trên một giáo viên phản ánh điều gì, nguyên nhân nằm ở đâu?
Đây là điều đáng quan tâm nhất. Thực tế bản thân Ban giám hiệu, tổ chuyên
môn đã có những họp bàn, trao đổi xem xét lại kỹ càng, tìm ra những nguyên
nhân có thể tác động tới giờ dạy, thăm dò lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp,
giáo viên dạy cùng nhóm lớp, trực tiếp trao đổi lắng nghe tâm tư của giáo viên,
nếu giáo viên nêu ra những lý do chính đáng tác động không tốt làm cho giờ dạy
không đạt kết quả tốt hay đạt ở mức quá cách biệt so với những giờ dự định kỳ.
Nếu GV nêu ra những lý do không chính đáng thì phải xem xét lại tinh thần
trách nhiệm, năng lực chuyên môn. Ban giám hiệu, tổ chuyên môn của trường
tiến hành dự thêm những giờ dạy khác theo hình thức KTĐGGLL định kỳ và đột

xuất, qua đó có thêm những căn cứ để nắm bắt thực trạng chuyên môn của giáo
viên, biết giáo viên có sở trường, sở đoản môn học nào, giờ dạy nào, từ đó xây
dựng kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên. Nếu có nhiều giáo viên cùng lúng túng,
cùng băn khoăn về một nội dung, phương pháp giáo viên nào đó thì nhà trường
tổ chức thành hội thảo chuyên đề để trao đổi, thảo luận, bồi dưỡng chung. Nếu
vấn đề chỉ tồn tại ở một số ít giáo viên thì Ban giám hiệu, tổ chuyên môn sẽ góp
ý, trao đổi, bồi dưỡng riêng cho từng cá nhân một cách kịp thời; Sau khi đã có
sự tác động giúp đỡ, tiếp tục phúc tra bằng việc KTĐGGLL ở chính giáo viên
được bồi dưỡng, vấn đề đã góp ý để có thêm căn cứ đánh giá trình độ tay nghề
giáo viên một cách chính xác hơn, có như vậy giáo viên dù được đánh giá ở mức
độ nào họ cũng thấy thoải mái hơn, có căn cứ để phấn đấu tiếp, không mơ hồ,
không ảo tưởng và giảm dần được bệnh thành tích trong chuyên môn, cũng từ
cách làm này nhà trường đã ngăn chặn được sự đối phó, thiếu trách nhiệm của
một số giáo viên và qua đây gửi gắm thêm thông điệp tới các giáo viên khác biết
được cách làm việc của kiểm tra là rất nghiêm túc, từ đó chấn chỉnh giáo viên
phải tự giác, phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp đối với
công việc được giao. Ai dạy giỏi thì được biểu dương, ghi nhận, khen thưởng, ai
dạy chưa giỏi phải cố gắng thực sự mới có thể tồn tại được. Tránh được tình
trạng giáo viên dạy học theo kiểu đối phó, tối ngày đầy công, vô cảm trước các
cháu, thiếu trách nhiệm với phụ huynh, với xã hội, làm cho hình ảnh người giáo
viên giảm đi sự mực thước và sự tôn trọng của xã hội.

13


Đây là điều quan trọng nhất mà hình thức KTĐGGLL ở trường chúng tôi đã làm
được. Năm học 2018-2019 KTĐGGLL đột xuất là 30 tiết dạy của giáo viên: Số
giờ dạy giỏi: 15/30 tiết; Tỷ lệ 50% Số giờ dạy khá: 12/30 tiết; Tỷ lệ 40%
Số giờ dạy trung bình: 3/30;Tỷ lệ 10%.
So sánh kết quả KTĐGGLL giữa hình thức kiểm tra định kỳ và kiểm tra đột

xuất của năm học 2017-2018 cho thấy kết quả KTĐGGLL theo hình thức đột
xuất và KTĐGGLL định kỳ thì tỷ lệ giờ dạy giỏi, giờ dạy khá, giờ dạy trung
bình gần như tương đương nhau. Điều đó khẳng định tinh thần trách nhiệm,
lương tâm đạo đức nghề nghiệp, trình độ tay nghề, kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp của giáo viên đã được nâng lên rất đáng kể. Không còn tình trạng dự giờ
định kỳ thì cho kết quả giờ dạy cao, dự giờ đột xuất thì cho kết quả giờ dạy thấp.
Giáo viên tự giác trong tu dưỡng rèn luyện, tích cực tự học tự bồi dưỡng hơn,
tinh thần thái độ phục vụ các cháu tốt hơn, giáo viên thấy tự tin hơn trước đồng
nghiệp trước phụ huynh, trước hội nghị đánh giá chuẩn nghề nghiệp của tổ
chuyên môn và của nhà trường...
2.3.6. Kiểm tra đánh giá giờ lên lớp trực tiếp hoặc gián tiếp
Ngoài các hình thức KTĐGGLL trên, nhà trường còn áp dụng hình thức
KTĐGGLL trực tiếp hay gián tiếp. Chúng ta đã biết mục đích chính mọi giờ dạy
của giáo viên chính là để cho trẻ học, trẻ học được gì về kiến thức, kỹ năng,(kể
cả kỹ năng sống), về thái độ ...tất cả phụ thuộc vào chất lượng dạy học của cô.
Nhà trường đã gián tiếp kiểm tra chất lượng dạy của giáo viên qua kết quả đạt
được của trẻ thông qua phiếu khảo, ví dụ khảo sát cuối ngày khi đi thăm lớp,
khảo sát cuối chủ đề, cuối học kỳ I, cuối năm học, kiểm tra qua chất lượng các
hội thi, các chuyên đề, ngày hội ngày lễ hoặc qua báo cáo của tổ chuyên môn,
của Phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn, cũng có khi kiểm tra qua việc
nghiên cứu giáo án, nhiều khi nghiên cứu đánh giá qua việc dạy trực tiếp trên
nhóm, lớp của giáo viên...Thông qua cách làm này Hiệu trưởng có thêm nguồn
thông tin khách quan, chính xác hơn về chất lượng đội ngũ vì kết quả giờ dạy
của giáo viên được thể hiện rất rõ nét trên kết quả của trẻ. Cùng với các biện
pháp khác giúp cho Hiệu trưởng xây dựng được kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ sâu
sát hơn, thực tế và hiệu quả hơn.
2.3.7. Kiểm tra đánh giá giờ lên lớp theo chuyên đề:
Thường trong từng năm học, trường học nói chung và trong trường MN
nói riêng đều có những chuyên đề được triển khai, tổ chức thực hiện; Mục đích
của việc triển khai tổ chức thực hiện các chuyên đề là để cập nhật, bổ sung

những nội dung mới, có khi là chuyên đề cũ ôn lại, vẫn đang thực hiện trong
năm học như chuyên đề “Giáo dục luật lệ an toàn giao thông” “GD bảo vệ môi
trường”...có khi là chuyên đề mới được gọi là chuyên đề trọng tâm của năm học,
ví dụ năm học 2017-2018 chuyên đề trọng tâm là “Xây dựng trường mầm non
lấy trẻ làm trung tâm”; Năm học 2018- 2019 tiếp tục đẩy mạnh chuyên đề “Xây
dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm”
Trong năm học nhà trường căn cứ vào kế hoạch, mục tiêu cần đạt được để
xây dựng kế hoạch KTĐGGLL theo chuyên đề. Quá trình KTĐGGLL ban giám
hiệu, tổ chuyên môn luôn chú ý đánh giá xem giáo viên đã làm những đồ dùng
14


đồ chơi gì phục vụ chuyên đề của lớp, giáo viên có tổ chức lồng ghép, tích hợp các
chuyên đề trọng tâm, chuyên đề ôn lại vào bài dạy, việc tích hợp có phù hợp với
chủ đề đang học, với nội dung bài học cho trẻ, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết
bị trong nhóm lớp không...ở tất cả các tháng, các chủ đề, các môn học, loại bài, loại
tiết trong cả năm học. Bằng cách làm này Ban giám hiệu đã nắm bắt được tiến độ,
chất lượng thực hiện yêu cầu của từng chuyên đề, từng môn học giúp giáo viên
được củng cố, khắc sâu thêm, các cháu được tiếp thu lĩnh hội về các vấn đề mới
của chuyên đề thực hiện đồng bộ trên toàn trường. Khi sơ kết, tổng kết việc thực
hiện chuyên đề theo năm học trường có nhiều giáo viên đạt kết quả tốt. Đặc biệt
chuyên đề “XD trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm”. Nhờ việc lồng ghép kiểm
tra chuyên đề trong quá trình KTĐGGLL mà chất lượng dạy và học của nhà trường
năm học 2018-2019 được nâng lên đáng kể.
2.3.8. Làm tốt công tác quản lý hồ sơ
Công tác quản lý hồ sơ nói chung và quản lý hồ sơ KTĐGGLL được nhà
trường đặc biệt quan tâm. Sau mỗi lần KTĐGGLL biên bản KTĐGGLL, lưu
giáo án kèm theo, lưu kết quả xếp loại giờ dạy trong vòng 5-10 năm, đó là căn
cứ rất quan trọng mỗi khi có ý kiến về kết quả đánh giá giờ dạy của giáo viên,
để theo dõi sự phát triển trong chuyên môn trong nhiều năm, một mặt làm căn

cứ xếp loại thi đua trong trong từng học kỳ và cả năm cho giáo viên, làm căn cứ
đánh giá Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non, xét tăng lương định kỳ, tăng
lương trước thời hạn, quy hoạch đề bạt bổ nhiệm cán bộ, kể cả làm căn cứ thực
hiện Nghị định của Chính phủ về việc tinh giản biên chế hiện nay. Việc lưu hồ
sơ còn giúp cho nhà trường trong công tác xây dựng kế hoạch dài hơi để bồi
dưỡng chuyên môn, nâng cao tay nghề cho giáo viên.....
2.4. Hiệu quả công tác kiểm tra đánh giá giờ lên lớp đối với giáo viên
và nhà trường:
Nhờ thực hiện đồng bố cùng lúc nhiều biện pháp trên sau thời gian 01
năm học chất lượng đội ngũ được nâng lên rõ rệt, đặc biệt là chất lượng giờ dạy
và chất lượng giáo dục trẻ.
*Hiệu quả đạt được đối với giáo viên: 100% giáo viên nhận thức đúng
đắn về công tác KTĐGGLL, không thấy khó chịu khi có người đến dự giờ; khi
có người dự giờ không thấy mất bình tình, căng thẳng, sau nhiều lần được
KTĐGLL, được góp ý, được động viên, được thúc đẩy tay nghề được nâng lên,
vững vàng, tự tin trong chuyên môn, chất lượng giờ dạy khi đi kiểm tra thường
xuyên hay kiểm tra đột xuất được nâng lên đáng kể, hầu hết kết quả đánh giá giờ
dạy của giáo viên dù ở hình thức nào cũng không có sự chênh, một số giáo viên
có sự chênh lệch nhưng không đáng kể, điều đó khẳng định rằng tinh thần trách
nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tự học tự bồi dưỡng, thái độ phục vụ học
sinh, ý chí tiến thủ của giáo viên đã được nâng lên, kỷ cương, tình thương và
trách nhiệm đã hòa quyện trong mỗi giáo viên trở thành tính tự giác, chủ động
và cầu tiến bộ, hết lòng vì nhiệm vụ, vì các cháu, vì nhân dân, vì nhà
trường...Tuy nhiên năm học 2018- 2019 khó khăn của nhà trường giáo viên nghỉ
thai sản nhiều hơn so với năm học 2017-2018 số lượng giờ được kiểm tra ít hơn
nhưng chất lượng KTĐGGLL của giáo viên số giờ đạt giỏi, giờ khá tăng số giờ

15



trung bình giảm không có giờ không xếp loại. Điều đó thể hiện qua bảng thống kê về số lượng tiết dạy kết quả
được đánh giá như sau:

Kết quả so sánh
Số lượng giờ dạy
được kiểm tra
Số giờ đạt giỏi

Năm học
2017- 2018
118 =100% so với
Kế hoạch
61/118 = 51,7%

Năm học
2018 -2019
110 = 100% so
với kế hoạch
67/110 = 60,9%

Tăng
(%)

Giảm
(%)

9,2

Số giờ đạt khá
44/118 = 37,3%

34/110 = 30,9%
6,4
\ Số giờ đạt
13/118 = 11%
9/110 = 8,2%
2,8
trung bình
Số giờ đạt yếu
0%
0%
Trong nhà trường, ngoài công tác nuôi dưỡng chăm sóc, việc quan trọng
nhất là dạy và học. Chất lượng dạy học chi phối toàn bộ đến sự tồn tại và phát triển của giáo viên cũng như của
nhà trường. Chất lượng giờ dạy được nâng lên là điều kiện cơ bản làm cho chất lượng đánh giá giáo viên theo
Chuẩn nghề nghiệp cũng được nâng lên đáng kể.

Năm học
2017-2018
Tỷ lệ %
2018-2019
Tỷ lệ %

Số lượng
Giáo viên
13
100
được đánh
giá CNN
16
100
được đánh

giá CNN

Số GV
Số GV
Số GV
Số GV
đạt loại đạt loại khá đạt loại trung đạt loại Ghi chú
Xuất sắc
bình
yếu
7
6
0
0
53,8

46,2

0

0

9

7

0

0


56,25

43,75

0

0

Tăng
2,45%
Giảm
2,45%
*Hiệu quả đối với nhà trường
Công tác KTĐGGLL đã thực sự có chất lượng, nề nếp tốt, chủ động hơn
trong công tác kiểm tra dự giờ, biết sắp xếp công việc văn phòng khoa học để dự
giờ thường xuyên hơn, tháng nào cũng dự giờ để đánh giá giờ lên lớp, qua đó
kết hợp nắm bắt các thông tin liên quan đến nhiệm vụ chính trị được giao của
trường, của giáo viên đã xóa được suy nghĩ dự giờ là làm khó giáo viên, là gây
áp lực cho giáo, Ban giám hiệu cũng như Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn
đã biết tự sắp xếp nên dự giờ ai, dự môn nào, dự vào ngày nào để tất cả các giờ
dạy của giáo viên đều được kiểm tra, đều nắm bắt được thực chất tay nghề giáo
viên mạnh khâu nào, yếu khâu nào trong chuyên môn, khi KTĐGGLL, kiểm tra
không những chỉ biết góp ý cái giáo viên chưa biết, chưa tốt mà còn biết góp ý
cho giáo viên biết cách sửa sai như thế nào cho phù hợp, động viên biểu đương
những giáo viên có nhiều tiến bộ, nhiều cải tiến đổi mới trong giảng dạy...khi
đánh giá đã chính xác hơn, khách quan hơn, chống được bệnh thành tích, khi
16


đánh giá không bị các mối quan hệ cá nhân chi phối ...Nhờ KTĐGGLL thường xuyên, đúc rút học hỏi được nhiều

kinh nghiệm, nắm bắt được nhiều tình huống xảy ra, làm cho kiến thức của lực lượng kiểm tra cũng được trau
dồi phong phú, qua đó cũng nắm bắt được thêm những tác động ảnh hưởng đến chất lượng dạy học của giaó
viên, từ đó có sự điều chỉnh phù hợp kịp thời trong cách tham mưu bổ sung, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết
bị các điều kiện cần và đủ để giáo viên có điều kiện tốt nhất trong quá trình dạy học, cũng qua đó giúp cho cán
bộ quản lý thêm thông tin quý báu về khả năng của từng giáo viên để phân công chuyên môn sao cho phù hợp
với năng lực, sở trường, hạn chế yếu kém, tạo mọi điều kiện cho giáo viên có cơ hội hoàn thành tốt các nhiệm
vụ được giao. Chất lượng KTĐGGLL được cải thiện đáng cũng góp phần làm cho không khí trong trường thêm
ấm áp, mối đoàn kết được giữ vững, mọi người nhìn nhau thân ái hơn, không ai phải mặc cảm tự ti vì bản thân
quá yếu hoặc không có tiến bộ, hay bị nhắc nhở trong chuyên môn...Ban giám hiệu cũng không mất nhiều thời
gian để kiểm điểm quy trách nhiệm cho việc tay nghề của giáo viên, chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ được
nâng lên... Chất lượng KTĐGGLL được nâng lên đã kích cầu cho chất lượng dạy học của giáo viên được nâng
cao, uy tín của các cô giáo được nâng lên, phụ huynh tin tưởng hơn, yên tâm gửi con đến trường ngày càng
đông, tỷ lệ trẻ chuyên cần tăng, phụ huynh phấn khởi tích cực phối hợp với giáo viên nhịp nhàng trong công tác
chăm sóc giáo dục trẻ... thúc đẩy mạnh mẽ mục tiêu nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ toàn diện trong
nhà trường.

Đạt

Đạt

chuẩ

chuẩn

Năm học

n
kiến
thức


kiến
thức
mức
độ tốt

2017-2018

245

170

Tỷ lệ %
2018-2019

100
195

69,4
178

Đạt
chuẩn
kiến
thức
mức
độ
khá

Đạt
chuẩn

kiến
thức
mức
trung
bình

50

25

20,4
16

10,2
0

Về cân nặng
Kênh
bình
thường

SDD
thể nhẹ
cân

238

7

98,3

193

2,7
2

Về chiều cao
Kênh
Bình
Thường

SDD
thể
thấp còi

236
96,3
191

9
3,7
4

Tỷ lệ %
100 91,3
8,7
0
98,9 1,1
97,9 2,1
Tăng
21,9%

0,6%
1,6%
Giảm
11,7%
0
1,6%
1,6%
Chất lượng đội ngũ, chất lượng NDCSGD trẻ đạt hiệu quả cao, đã góp
phần làm cho uy tín vị thế của nhà trường ngày càng được nâng lên, trong các
cuộc thi giáo viên dạy giỏi do cấp trên tổ chức trường luôn có giáo viên tham dự
và đạt kết quả tốt, nhà trường đã được tặng danh hiệu “Tập thể lao động tiên
tiến” năm học 2017- 2018 đã được UBND thành phố tặng giấy khen, đạt giải ba
cuộc thi: “Xây dựng MTGD lấy trẻ làm trung tâm” năm học 2018- 2019 đạt giải
khuyến khích Hội thi “Bé khoẻ- Bé tài năng” cấp thành phố. Tất cả thành quả
trên là nhờ ở sự cố gắng của tập thể cán bộ GV, đặc biệt là công tác KTĐGGLL
mà trường đã thực hiện.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
17


3.1. Kết luận
KTĐGGLL là một công việc phải tiến hành thường xuyên, liên tục của
các nhà trường, kiểm tra để phát hiện điểm mạnh, điểm yếu trong chuyên môn
nhằm phát huy hơn nữa những điểm mạnh, hạn chế tối đa những mặt tồn tại làm
cho chất lượng dạy và học ngày càng được nâng cao, đảm bảo cho sự phát triển
không ngừng đi lên của nhà trường là thực hiện tốt một trong nhiều chức năng
của Hiệu trưởng (người lãnh đạo) “Lãnh đạo và kiểm tra là một, lãnh đạo mà
không kiểm tra coi như không làm lãnh đạo”.
KTĐGGLL đạt hiệu quả là góp phần thực hiện mục tiêu của GD&ĐT
Nhiệm vụ mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người có

đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công
nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân
tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy tiềm năng của dân
tộc và con người Việt Nam; có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực cá
nhân; làm chủ tri thức khoa học công nghệ hiện đại;có tư duy sáng tạo; có kỹ
năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có
sức khỏe, là những người vừa “hồng”vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ.
Thực hiện tốt công tác KTĐGGLL là góp phần đảm bảo uy tín, danh dự
của thầy cô giáo, góp phần cho sự tồn tại, phát triển của nhà trường, của xã hội,
của nhân loại tiến bộ. Làm tốt công tác KTĐGGLL là chúng ta đang tự thân vận
động, đang thực hiện tốt chủ trương của Đảng ta “khơi dậy và phát huy tối đa
nội lực”, đang góp phần tiến lên chinh phục thế giới bằng chính trí óc của mình
thông qua những sản phẩm lao động của những người làm công tác GD thời
hiện tại. Chính vì vậy trong trường học nói chung cũng như trong trường MN
nói riêng nhất thiết phải làm thật tốt công tác KTĐGGLL.
Qua quá trình vận dụng các biện pháp để thực hiện công tác KTĐGGLL
thời gian qua đã giúp nhà trường nhanh chóng khắc phục các yếu điểm đang tồn
tại, phát huy tốt hơn các kết quả đã đạt được trong những năm học trước, giúp
nhà trường không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, nâng cao chất
lượng chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ.
Đó là kết quả của việc tôi đã vận dụng linh hoạt sáng tạo một lúc nhiều
biện pháp, đặc biệt là biện pháp nâng cao chất lượng công tác KTĐGGLL; Biện
pháp đã áp dụng trên hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với điều kiện thực tế của
địa phương, của nhà trường, mang lại hiệu quả và giá trị bền vững, đặc biệt
trong điều kiện đội ngũ của nhà trường MN đa phần là giáo viên trẻ mới ra
trường chưa có kinh nghiệm trong công tác.
Qua việc áp dụng các giải pháp KTĐGGLL trên bản thân tôi đã rút ra
những bài học kinh nghiệm như sau: Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ GD nói
chung và chăm sóc giáo dục trẻ trong trường MN nói riêng, muốn nắm chắc
trình độ chuyên môn của giáo viên nhất thiết phải làm tốt công tác KTĐGGLL.

Để làm tốt công tác KTĐGGLL, Hiệu trưởng cần giải quyết tốt vấn đề tư
tưởng cho giáo viên, giúp giáo viên hiểu sâu sắc vai trò vị trí của công tác
KTĐGGLL để họ không mặc cảm, không ngại, không lo sợ, căng thẳng khi có
người đến kiểm tra.

18


Làm tốt công tác kế hoạch; kế hoạch đó phải trở thành kế hoạch hóa cho
từng học kỳ,tháng, tuần, ngày, đến từng người, từng môn, từng loại tiết, loại bài,
từng lớp, khối cụ thể. Hiệu trưởng phải tổ chức tốt công tác KTĐGGLL, phải đủ
về số lượng người trong công tác KTĐGGLL, đó là phải trình độ năng lực tốt,
nắm vững tình hình giáo viên và nhà trường, có hiểu biết vững chắc về khoa học
GDMN (Tâm, sinh lý lứa tuổi, lý luận dạy học) và nắm được các phương pháp
tổng kết, phân tích, đánh giá khách quan, khoa học...(Định mức, chuẩn mực và
định lượng), nắm vững chương trình GD của từng khối lớp, BGH vừa là người
thầy giỏi, vừa là nhà quản lý tốt, thực hiện quản lý chặt chẽ chế độ sinh hoạt/
ngày của trẻ, thời gian tổ chức hoạt động học, loại bài, loại tiết, tránh tình trạng
khi nghe nói có người đến dự giờ giáo viên tự đổi bài, đổi tiết dạy và các hiện
tượng khác.,Hiệu trưởng cần thực sự cầu thị, Tâm và tài, đức và trí phải đi đôi
mới đánh giá giờ lên lớp của giáo viên một cách khách quan, trung thực, mới có
thể hiểu được thực chất chất lượng tay nghề của đội ngũ mà tìm ra những biện
pháp thích hợp, linh hoạt cho công tác quản lý giờ lên lớp của mình.
Trong quá trình KTĐGGLL của giáo viên cũng cần tham khảo ý kiến mọi
người để lựa chon thông tin, nhưng tuyệt đối không đồng tình với tư tưởng cá
nhân, cần đảm bảo khách quan, chính xác, từ đó mới đánh giá giờ lên lớp một
cách chính xác, trung thực và công khai. Hiệu trưởng phải ra các quyết định
chính xác, kịp thời về kết quả KTĐGGLL để điều khiển hoạt động chuyên môn
theo hướng đúng đắn, với phương châm “Kỷ cương-Tính thương- trách nhiệm”,
tất cả vì trẻ thơ, vì sự phát triển của nhà trường, của ngành học, của quê hương

đất nước.
3.2. Kiến nghị
Các cấp có thẩm quyền cần làm tốt hơn nữa công tác bổ nhiệm cán bộ
quản lý trường học, phải bổ nhiệm cán bộ quản lý là những người thực sự có
phẩm chất tốt, năng lực tốt, có như vậy mới đủ đức, đủ tài để làm tốt công tác
quản lý trường học nói chung, công tác KTĐGGLL nói riêng.
UBND thành phố, Phòng GD&ĐT, Sở GD&ĐT nên cân đối kinh phí chi
khen thưởng xứng đáng và kịp thời hơn cho các giáo viên có nhiều thành tích
trong chuyên môn, cho các trường làm tốt công tác KTĐGGLL nhằm phát huy
tối đa sức mạnh của công tác KTĐGGLL. Bổ nhiệm kịp thời hơn cán bộ quản lý
cho các trường còn thiếu để công tác KTĐGGLL được tiến hành bài bản, thuận
lợi hơn.
Mặc dù rất cố gắng nhưng đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót,
hạn chế, kính mong hội đồng khoa học cấp trên quan tâm, góp ý để bản thân tôi
có thêm kiến thức bổ sung vào công tác KTĐGGLL một cách tốt nhất, giúp tôi
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao./.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Trường Thi, ngày

tháng 4 năm 2019

Tôi xin cam đoan SKKN mình viết không
sao chép nội dung của người khác
Người thực hiện
Nguyễn Thị Khuyên
19


MỤC LỤC
Trang
1.MỞ ĐẦU……………………………………………………….1…2

1.1.Lý do chọn đề tài: ……………………………………………...1
1.2.Mục đích nghiên cứu: ………………………………………...2
1.3.Đối tượng nghiên cứu: ………………………..........................2
1.4.Phương pháp nghiên cứu:……………………………………..2
2. NỘI DUNG…………………………………………………….3...16
2.1.Cơ sở lý luận của sáng kiến:…………………………………..3…5
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu: …………………………........5….7
2.3.Các giải pháp để tổ chức thực hiện……………………………8…13
2.4. Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm…………………………14...16
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ…………………………………...17…18
3.1.Kết luận: ……………………………………………...............17
3.2.Kiến nghị: ……………………………………………............18

20



×