Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kỹ năng nói thông qua phần luyện nói phân môn phân môn học vần lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 20 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Chúng ta đều biết rằng môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ
vô cùng quan trọng đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho
học sinh.
Học vần có vị trí vô cùng quan trọng trong chương trình Tiếng Việt ở
Tiểu học. Học vần là phân môn khởi đầu của việc dạy học Tiếng Việt. Học
vần trao cho học sinh công cụ ngôn ngữ để sử dụng trong giao tiếp, trong học
tập, trong cuộc sống.
Mỗi phân môn, mỗi tiết học, mỗi nội dung dạy học đều hướng tới mục
đích phát triển của lời nói. Vấn đề phát triển lời nói cho học sinh không phải
đến bây giờ mới được đề cập đến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “ Tiếng nói
là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải
giữ gìn nó làm cho nó ngày càng phát triển rộng khắp”. Cố thủ tướng Phạm
Văn Đồng cũng đã nói: “ Trường học có trách nhiệm lớn lao trong việc giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Phải làm cho thế hệ trẻ nói và viết tốt hơn
chúng ta”. Muốn thực hiện lời dạy đó trường Tiểu học cần tổ chức và có
phương pháp dạy học hợp lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn tiếng
Việt, giúp học sinh sử dụng thành thạo tiếng Việt.
Một trong những quan điểm cơ bản của xây dựng chương trình là quan
điểm giao tiếp và quan điểm này đã được thể hiện khá rõ trong sách Tiếng
Việt 1, nhất là sự xuất hiện của nội dung luyện nói được coi như một nội dung
độc lập. Đây là một nội dung mới trong SGK Tiếng Việt 1. Trẻ lớp 1 trước khi
đến trường đã “biết nghe, biết nói” tiếng Việt song vẫn chưa thật sự thành
thạo và thực tế hoạt động nói của các em vẫn còn nhiều hạn chế. Chương
trình môn Tiếng Việt 1 yêu cầu giáo viên khi dạy phải đảm bảo mục tiêu hình
thành và phát triển cho học sinh đầy đủ 4 kỹ năng. Trong đó kỹ năng nói được
luyện tập kết hợp trong các kỹ năng đọc, nghe, viết. Điển hình là trong tiết 2
của một bài học vần hay tập đọc đều có riêng một hoạt động để học sinh được
luyện nói.
Việc rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 đóng một vai trò vô cùng quan


trọng trong việc giúp cho các em có khả năng giao tiếp, biết ứng xử và nhận
xét sự vật, sự việc bằng nhận thức riêng, qua sự cảm nhận ngây ngô của con
mắt trẻ thơ. Đó chính là cơ sở bước đầu để tạo nên một con người mạnh dạn,
tự tin và giao tiếp nhạy bén trong tương lai. Vì thế, để học sinh luyện nói lưu
loát, đạt hiệu quả, giáo viên cần phải có biện pháp, cách tổ chức dạy học để
khơi gợi, kích thích học sinh có hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của riêng
mình, nhằm phát huy kỹ năng nói của các em. Đó chính là lý do tôi chọn đề
tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng nói qua phần luyện nói của phân môn
học vần lớp 1.”
1


2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến chất lượng phần luyện nói của học sinh
chưa cao.
Đề xuất, áp dụng một số biện pháp giúp học sinh học tốt phần luyện
nói phân môn Học vần ở lớp 1A4 trường Tiểu học Ba Đình, thành phố Thanh
Hoá.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là thực trạng dạy luyện nói cho học sinh lớp 1 ở
trường Tiểu học Ba Đình, thành phố Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài tôi đã sử
dụng các phương pháp sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
+ Đọc đề tài tham khảo: Sách giáo khoa và sách giáo viên lớp một tập 1, 2.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát.
+ Phương pháp phân tích nội dung.
+ Phương pháp thống kê.


2


II. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1.1. Vai trò của việc phát triển kỹ năng nói cho học sinh lớp 1.
“Nói” là một trong bốn kỹ năng quan trọng trong việc dạy tiếng Việt để
học sinh có khả năng thực hành giao tiếp nhanh và đạt hiệu quả cao nhất. Học
sinh lớp 1 nhìn chung kỹ năng nói còn nhiều hạn chế, các em rất ngại nói
trong các giờ học do nhiều nguyên nhân khác nhau như: tâm lý ngượng
ngùng, dè dặt, ngại các bạn cười khi mình nói sai; do lớp học đông, giáo viên
ít có thời gian rèn luyện kỹ năng cho mỗi học sinh. Tổ chức luyện nói tốt sẽ
giúp khắc phục bớt những hạn chế trên.
Thông qua thực hành nói học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ
động, khắc phục được sự ức chế khi trong lớp chỉ có một số học sinh giỏi
tham gia phát biểu, do vậy sẽ lôi cuốn được toàn thể học sinh trong lớp tham
gia hoạt động kể cả các em học trung bình hoặc yếu.
Tăng cường khả năng ứng xử của học sinh trong các tình huống khác
nhau, gây hứng thú, tự tin mạnh dạn cho học sinh khi thực hành giao tiếp, giờ
học sẽ trở lên vui vẻ, sôi nổi và đạt hiệu quả cao.
2.1.2. Yêu cầu kỹ năng nói đối với học sinh lớp 1 trong phân môn học vần.
-

Phát âm:

+ Phát âm đúng rõ các âm, vần và tiếng được học (trừ các tiếng có vần
khó ít dùng) và chữa các lỗi về phát âm theo hướng dẫn của giáo viên.
+ Phát âm liền mạch 1 lời nói (không lặp, không thiếu tiếng) biết nói to
đủ nghe trong giờ học Học vần.

- Diễn đạt bằng lời nói.
+ Nói trong hội thoại:
Trả lời các câu hỏi về vật, người, hành động, tính chất, tập trả lời các
câu hỏi: ai, cái gì, việc gì, là gì, làm sao, như thế nào…thuộc phạm vi trường
lớp, gia đình và môi trường xung quanh.
Đặt câu hỏi có sử dụng từ để hỏi :ai, cái gì, việc gì, là gì, làm sao, như
thế nào?
Dùng đúng từ xưng hô khi xưng hô với người trong gia đình, với thầy
cô giáo, bạn bè và những người gần gũi, luyện tập xưng hô với các đối tượng
ở lớp, trường trong khi học và chơi.
Chào, hỏi, mời, nhờ, yêu cầu bằng một vài cách theo nghi thức lời nói.
+ Nói thành đoạn.

3


Giới thiệu về mình, về người thân về đồ vật, con vật quen thuộc bằng
2- 3 câu liên tục; tập kể về ông bà bố mẹ anh chị em, tập kể về động vật, con
vật…
Kể lại một câu chuyện đơn giản chỉ có một tình tiết với sự hỗ trợ của
văn bản, của tranh liên hoàn và các câu hỏi gợi ý.
2.1.3. Nội dung chương trình rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 trong
phân môn học vần.
Phần học vần có 88 chủ đề. Thời gian dành cho phần luyện nói giao
động trên dưới 10 phút. Trong chương trình yêu cầu luyện nói được nâng dần
theo mức độ từ dễ đến khó, ngắn đến dài. Việc luyện nói thường được sắp xếp
ở phần cuối mỗi bài học.
Bài tập rèn kĩ năng nói trong phần luyện nói phân môn học vần lớp 1
hiện nay bao gồm những nhóm bài sau:
Kiểu bài

Luyện nói

Nhóm bài

Số lượng

Nói theo chủ đề tranh: Ví dụ: Chủ đề “bé” (TV1,
trang 9), chủ đề “bẻ” (TV1, trang 11)…

6

Nói theo chủ đề liên quan đến âm, vần mới học.
Ví dụ: Bài 8: l – h : chủ đề: “le le”. Bài 9 : o – c :
chủ đề “vó bè”…

80

Nói theo nghi thức lời nói: Nói lời xin lỗi (TV 1,
trang 96); Nói lời cảm ơn (TV1, trang 123)

2

Qua khảo sát thức tế, tôi nhận thấy số lượng bài tập nói theo chủ đề
nhiều, nhưng chủ yếu là bài độc thoại (đối với HS lớp 1, dạng bài này khó
hơn so với bài hội thoại). Một số chủ đề còn khó và xa lạ đối với HS (Bài 8 có
chủ đề là “le le”; Bài 9 có chủ đề là “vó bè”).
Quy trình tổ chức luyện nói cho HS còn chung chung. Đa số các bài
luyện nói trong sách, giáo viên đều thực hiện như sau:
Bài luyện nói trong phần Học vần: Một HS (hoặc GV) đọc (hoặc nêu)
yêu cầu → GV đưa ra hệ thống câu hỏi gợi mở→ HS trả lời. Các biện pháp

vận dụng rèn KNN cho HS chưa tường minh và không có hướng dẫn cách
thực hiện cụ thể: Bước 1: HS đọc tên bài luyện nói; Bước 2: GV tùy trình độ
lớp để có các câu hỏi gợi ý theo tranh cho thích hợp, sau đó đưa ra một loạt
các câu hỏi gợi ý. (Phần Học vần từ bài 7 đến bài 82, Tiếng Việt 1, tập 1).
Chính vì những điều đó GV đã không áp dụng được nhiều và cảm thấy lúng
túng khi dạy luyện nói cho HS.

4


2.2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY LUYỆN NÓI CHO HỌC SINH
LỚP 1 HIỆN NAY:
Qua thực tiễn giảng dạy, qua trao đổi kinh nghiệm và các tiết dự giờ,
các buổi sinh hoạt chuyên môn cùng các đồng nghiệp, tôi nhận thấy thực tế
việc dạy học luyện nói ở trường tôi hiện nay như sau:
2.2.1. Về phía giáo viên:
Nhìn chung giáo viên Tiểu học đều rất coi trọng phân môn học vần lớp
1. Qua khảo sát 6 lớp 1, tôi nhận thấy:
+ Chỉ có 70% giáo viên khẳng định việc luyện nói quan trọng.
+ Thời gian phân bố luyện nói trong giờ học vần:
- 100% số giáo viên cho rằng thời gian học vần là nhiều hơn. Thời gian
phân bố cho dạy học luyện nói trong 1 tiết học vần ít hơn thời gian học âm,
vần mới.
+ Phương pháp, đồ dùng dạy học giáo viên thường sử dụng trong phần luyện

nói:
Các phương pháp mà giáo viên sử dụng trong việc giảng dạy phần này
chưa khai thác hết nội dụng cần chuyển tải cho học sinh. Đa số giáo viên chưa
sử dụng phương pháp dạy học phù hợp cho từng nhóm chủ đề cũng như các
loại bài luyện nói. Việc sử dụng đồ dùng dạy học còn nhiều hạn chế, giáo viên

còn dạy “ Chay” chưa coi những phương tiện trực quan, chưa ứng dụng công
nghệ thông tin vào quá trình dạy học luyện nói.
2.2.2.. Về phía học sinh:
Thực tế cho thấy khả năng nói của học sinh mới bước vào lớp 1 nói
chung, cũng như học sinh lớp 1A4 nói riêng còn rất hạn chế. Đa số các em
đều không diễn đạt được hết ý khi nói, khi giao tiếp; các em phát âm không
chuẩn, phát âm không đúng; còn rụt rè trong giao tiếp, giao tiếp kém hoặc có
thì nói năng cộc lốc. Tình trạng trên vẫn còn là do những nguyên nhân sau:
2.2.2.1. Xuất phát từ bản thân học sinh.
+ Khả năng ngôn ngữ, vốn sống còn ít.
Học sinh lớp 1 lần đầu tiên được đầu tiên được tiếp xúc với chữ cái,
học âm- vần luyện nói thành câu, đoạn do đó vốn từ của học sinh còn rất ít
khả năng diễn đạt còn hạn chế nên khi luyện nói thì đây cũng là một trở ngại
không nhỏ đối với các em.
Môi trường hoạt động lứa tuổi chưa phong phú. Các em chỉ chủ yếu
tiếp xúc với gia đình, nhà truờng (chủ yếu là lớp học), tiếp xúc với môi trường
xã hội còn rất ít. Đây cũng là một nguyên nhân làm hạn chế kĩ năng nói của
các em.

5


+ Do tâm lý rụt rè, e ngại.
Như đã nói học sinh lớp 1 khả năng giao tiếp, giao lưu trò chuyện với
mọi người xung quanh còn hạn chế. Do đó học sinh thường hay e ngại, rụt rè.
Mặt khác do tâm lý sợ nói sai ý của giáo viên, sợ bạn bè chê cười nên học
sinh cũng rất ít thể hiện mình, rất ít nói thậm chí tới giờ luyện nói các em
không phát biểu.
+ Do đề tài hội thoại.
Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 đã xây dựng những đề tài hội thoại phong

phú, đa dạng để học sinh luyện nói. Tuy nhiên những tình huống hội thoại
được SGK xây dựng cũng đem lại không ít khó khăn cho học sinh lớp 1.
Những đề tài hội thoại quá khó vượt ra ngoài vốn hiểu biết của học sinh. Ví
dụ:
- Không có gợi ý:
+ Nói về quyển vở của các em (tr 77)
+ Nói về ngôi nhà mơ ước của em (tr. 83)
+ Kể về người bạn tốt của em (tr. 107)…
- Có gợi ý nhưng gợi ý không thực tế:
+ Ở nhà em làm gì để giúp bố mẹ (Gợi ý bằng tranh vẽ)
Những gợi ý bằng tranh vẽ để hướng dẫn cho học sinh luyện nói trong
đề tài này không phù hợp với học sinh lớp 1, đặc biệt đối với những em ở
thành phố thì lại càng không thể (Quét nhà, cho gà ăn, tưới cây) sẽ làm cho
học sinh lúng túng không biết nói gì hoặc nói không đúng sự thật.
+ Hãy kể với cha mẹ hôm nay ở lớp em đã ngoan như thế
nào? - Đề tài khó.
+ Nói về ngôi nhà em mơ ước ( Tr. 83)
+ Nói về sen ( Tr.92)
+ Hỏi nhau: Bạn làm gì để bảo vệ các loài chim? (tr. 152)
Qua khảo sát thực tế, bài 15: t – th với chủ đề luyện nói “ổ, tổ”. Tôi thu
được kết quả như sau:
Nói chưa đủ câu

Nói chưa đúng

TSHS
45

chủ đề
SL


%

SL

%

20

44,4

15

33,3

Nói đủ câu,
đúng chủ đề
SL
%
10

22,4

6


Qua khảo sát, tôi thấy số lượng học sinh nói chưa đủ câu chiếm 44,4%,
số lượng học sinh nói chưa đúng chủ đề chiếm 33,3%. Chỉ có 22,4% số học
sinh trong lớp có thể nói đủ câu, đúng chủ đề. Đứng trước thực trạng trên, tôi
việc rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh là một vấn đề cấp bách phải thực hiện

ngay từ đầu năm học.
2.3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP LUYỆN NÓI CHO HỌC SINH TRONG
PHÂN MÔN HỌC VẦN.
Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận và thực trạng của
việc dạy luyện nói phân môn học vần. Để khắc phục những hạn chế, phát huy
những ưu điểm hiện có ở thực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp
hướng dẫn học sinh luyện nói để nâng cao hiệu quả của giờ học vần ở lớp
Một nói riêng và ở Tiểu học nói chung. Cụ thể:
2.3.1.Hướng dẫn học sinh nắm vững nội dung của chủ đề luyện nói
Các chủ đề luyện nói trong phân môn học vần lớp 1 thường gắn liền
với môi trường sống thân quen, gần gũi với các em. Tất cả các chủ đề luyện
nói đều có tranh ảnh. Mỗi bức tranh đều có chủ đề ở phía trên. Do đó, để học
sinh nắm chắc chủ đề luyện nói, tôi thường áp dụng các bước sau:
Bước 1: Cho học sinh quan sát tranh của chủ đề luyện nói.
Bước 2: Đưa ra hệ thống câu hỏi để khai thác nội dung tranh
Bước 3: Nói tên chủ đề luyện nói ở bên trên bức tranh.
Các chủ đề “Nói lời cảm ơn”, “Giúp đỡ cha mẹ” ,“Con ngoan trò
giỏi” “Những người bạn tốt”… Nếu đi quá sâu vào chủ đề sẽ dễ lẫn sang dạy
đạo đức.Vì thế, để khắc phục điều này,tôi chỉ định hướng cho các em câu hỏi
gợi ý xoay quanh vấn đề trọng tâm cần luyện nói: Em hãy kể cho cô và các
bạn trong nhóm nghe về những lần mình đã cảm ơn ai đó về điều gì? Hoặc kể
những việc em đã làm để giúp đỡ cha mẹ của mình ? Kể những việc đã làm
thể hiện em đã cố gắng để trở thành một người con ngoan trong gia đình?...
Hoặc những chủ đề về “Biển cả”, “Thung lũng, suối, đèo”, “Hươu, Nai,
Gấu,Voi, Cọp” “Sẻ, ri, bói cá, le le” “Gió, mây, mưa, bão, lũ”…nếu khai thác
sai hướng, giáo viên sẽ chuyển sang việc dạy tự nhiên xã hội. Do đó, tôi cố
gắng giúp học sinh bằng cách gợi ý những câu hỏi thật sát với chủ đề không
sa đà tìm hiểu về đời sống của các động vật, sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: chủ đề “ Nói lời xin lỗi”(Sách Tiếng Việt 1, tập 1, trang 99


7


Đây là chủ đề đã được lồng ghép trong môn học Đạo đức, nó cũng gắn
liền với đời sống hàng ngày của các em. Vì thế hệ thống câu hỏi gợi mở cho
học sinh cần được sắp xếp khoa học, khai thác đúng hướng. Do đó, tôi đã xây
dựng hệ thống câu hỏi đảm bảo khai thác được hết các đối tượng học sinh, đi
từ dễ đến khó. Tôi đã tiến hành khai thác chủ đề này như sau:
Bước 1: Cho học sinh quan sát tranh thật chi tiết
Bước 2: Đưa ra hệ thống câu hỏi để khai thác nội dung bức tranh:
Câu hỏi 1: Tranh vẽ cảnh gì ? (Bạn nhỏ đi học muộn)
Câu hỏi 2: Nếu đi học muộn, em sẽ nói gì với cô giáo ? (Nói lời xin lỗi cô)
Câu hỏi 3:Khi nào em nói lời xin lỗi? (Khi em làm việc có lỗi với người khác)
Bước 3: Yêu cầu học sinh nói tên chủ đề luyện nói:
? Em hãy nêu tên chủ đề luyện nói hôm nay? (Nói lời xin lỗi)
Trong quá trình các em luyện nói, tôi theo dõi để chỉnh sửa câu văn của
các em hoàn thiện hơn. Đồng thời định hướng và khuyến khích những học
sinh có năng khiếu phát triển nói thành đoạn văn ngắn từ hai đến ba câu.
Ví dụ: Chủ đề “Nói lời cảm ơn” (Tiếng Việt 1, trang 123)

Học sinh lớp tôi đã có thể nói thành đoạn văn ngắn như sau: “Tranh vẽ
cảnh mẹ cho bạn nhỏ quả bóng bay. Bạn nhỏ rất vui khi được nhận quà. Bạn
nhỏ đã nói lời cảm ơn mẹ.”
Để học sinh có thế nói được thành đoạn văn như trên, tôi đã đưa ra hệ
thống câu hỏi gợi ý như sau:
Câu hỏi 1: Mẹ tặng gì cho bạn nhỏ ? (Mẹ tặng bạn nhỏ quả bóng bay)
Câu hỏi 2: Bạn nhỏ cảm thấy thế nào khi được mẹ tặng bóng? (Bạn nhỏ
cảm thấy rất vui.)
Câu hỏi 3: Bạn nhỏ sẽ nói gì với mẹ? (Bạn nhỏ sẽ nói cảm ơn mẹ.)


8


2.3.2. Sử dụng phương tiện – đồ dùng dạy học phù hợp với từng
chủ đề luyện nói.
2.3.2.1. Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học luyện nói:
Đây cũng là biện pháp hết sức quan trọng, giúp tiết học sinh động hơn,
tạo cảm giác thích thú cho học sinh. Đa số các tiết dạy tôi đều sử dụng hệ
thống tranh, ảnh trong sách giáo khoa và tranh ảnh sưu tầm thêm trình chiếu
trên powerpoint để khai thác và mở rộng chủ đề luyện nói.
Ví dụ: Chủ đề “Ao, hồ, giếng” (Trang 113, Tiếng Việt 1, tập 1)

Nếu chỉ sử dụng hình ảnh sách giáo khoa cung cấp thì sẽ khó trong việc
giúp học sinh phân biệt ao, hồ, giếng. Đặc biệt, với đối tượng học sinh lớp tôi
thì đa số các em đều là học sinh thành phố. Phần lớn các em đều ít có cơ hội
nhìn thấy ao, hồ, giếng. Do đó, để giúp học sinh có thể luyện nói thuận tiện
hơn, tôi đã sử dụng thêm những hình ảnh thực tế sưu tầm cho học sinh quan
sát.

Ao cá Bác Hồ

Hồ Gươm Hà Nội
9


Giếng làng
Khi cung cấp thêm tranh ảnh hỗ trợ cho quá trình luyện nói, tôi luôn
lựa chọn trên tiêu chí đó là những hình ảnh gần gũi, thân quen với học sinh.
Nhằm giúp các em tự tin trả lời đúng câu hỏi mà giáo viên gợi ý nhanh và
hiệu quả nhất.

2.3.2.2. Sử dụng vật thật:
Khi gặp những chủ đề quen thuộc với thực tế các em đã được tiếp xúc
và làm quen như: “Chuối, bưởi, vú sữa” hoặc “Xanh, đỏ, tím, vàng”, “Nặn
đồ chơi” tôi cho các em trưng bày vật thật (chuối, bưởi, vú sữa, giấy màu
xanh, màu đỏ, màu tím, màu vàng; đất nặn) và thảo luận trong nhóm nhằm
phát huy tính sáng tạo, đồng thời giúp các em tự trao đổi để phát triển khả
năng diễn đạt của mình. Qua đó, các em sẽ cởi mở với nhau hơn, sẽ có sự thi
đua giữa các nhóm. Muốn đạt được điều này tôi phải chuẩn bị rất kĩ, nhất là
hệ thống câu hỏi gợi ý, có thể chẻ nhỏ câu hỏi (nhưng không vụn vặt) để đối
tượng học sinh yếu có thể tham gia được, đồng thời huy động vốn từ tiềm ẩn
của các em. Tôi định hướng học sinh thảo luận đúng chủ đề và không đi sâu
quá sẽ gây lan man và hiệu quả không cao.

Chủ đề: “Chuối, bưởi, vú sữa (Tiếng Việt 1, trang 73)

10


Chủ đề “Nặn đồ chơi” (Tiếng Việt 1, trang 93)
2.3.2.3. Sử dụng âm thanh thật và video của các sự vật, hiện tượng:
Với những chủ đề có thiên về âm thanh của các con vật, sự vật hoặc
hiện tượng, tôi đã cho học sinh được lắng nghe trực tiếp tiếng động của những
sự vật, hiện tượng đó.
Ví dụ: chủ đề “ù ù, vo vo, vù vù, ro ro, tu tu” (trang 43)

Tôi đã cho học sinh được lắng nghe tiếng tu tu của tàu hỏa, tiếng gió
thổi vù vù, tiếng đàn ong bay vo vo. Sau khi cho cho học sinh được nghe
tiếng động trực tiếp, tôi thấy học sinh rất phấn khởi và hứng thú luyện nói.
Hoặc chủ đề: “Ong, bướm, chim, cá cảnh” (Tiếng Việt 1, trang 135)


11


Tôi đã sử dụng những video quay về các con vật mà mình sưu tầm trên
mạng cho học sinh được xem trực tiếp “Chim hót, ong đang lấy mật hoa, cá
đang bơi lội tung tăng, bướm đang bay theo đàn”. Qua việc sử dụng những
video này, tôi thấy học sinh lớp tôi tiếp thu bài nhanh, tự tin luyện nói hơn rất
nhiều.
2.3.3. Giúp đỡ những học sinh chưa mạnh dạn nói trước lớp:
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy rất nhiều học sinh không tự tin nói
trước lớp. Một phần sợ nói sai, nhưng cũng có một số em biết nhưng không
dám nói vì rất sợ nói trước đông người. Chính vì lẽ đó việc làm đầu tiên là tôi
ổn định tâm lí cho các em để các em không còn cảm giác sợ sệt khi nói sai
hoặc không nói được bằng cách tạo cho các em cảm giác chủ đề luyện nói rất
quen thuộc và gần gũi với cuộc sống của các em.
Ví dụ: Chủ đề “ Chợ Tết” (tiếng Việt 1, trang 145)

Để tạo không khí gần gũi, quen thuộc, tôi mở cho các em nghe và hát
theo bài hát “Sắp đến tết rồi”, đồng thời cho các xem các đoạn phim tôi đã
sưu tầm về quang cảnh chợ tết, lễ hội giao thừa…Tôi kết hợp cho các em tự
trao đổi theo cặp về các hình minh họa đó, hướng dẫn các em so sánh xem các
tranh, hình, phim minh họa có khác gì so với chợ tết mà các em đã được bố
mẹ dẫn đi cùng không. Qua đó một số em rất hứng thú kể cho cả lớp nghe về
buổi được mẹ chở đi sắm tết, cảm giác rụt rè nhút nhát của các em tan biến
thay vào đó là bầu không khí sôi động về chủ đề ngày tết. Các câu từ được sử
dụng rất phong phú, câu văn đa dạng, hồn nhiên.
Đối với học sinh chưa mạnh dạn, còn nhút nhát hoặc tiếp thu chậm tôi
dẫn dắt các em làm quen với từng ý nhỏ, tôi phải nói mẫu sau đó cho các em
nói lại, tập cho em dần làm quen với việc luyện nói. Tôi tích cực cho em tham
gia các hoạt động trên lớp như : hoạt động nhóm, trò chơi giúp em mạnh dạn

để dễ hòa nhập với các bạn bớt đi tính rụt rè.

12


Ví dụ như học các chủ đề về: Nặn đồ chơi; đọc truyện tranh; áo choàng,
áo len, áo sơ mi; phim hoạt hình,… tôi cho học sinh hoạt động nhóm đôi,
nhóm 3, vận dụng những vốn kiến thức của mình đã được học để chọn các
loại áo, loại ghế theo sở thích của mình.
2.3.4. Hướng dẫn học sinh nói đủ câu, đủ ý
Thực trạng lớp tôi cho thấy đa phần các em thường nói câu chưa đủ ý,
nói trống không hoặc hỏi gì thì trả lời đó. Để khắc phục điều này tôi yêu cầu
các em trước khi trả lời phải nhắc lại câu hỏi.
VD: Chủ đề luyện nói “Ngày chủ nhật”

(trang 141, Tiếng Việt 1, tập 1)
Khi tôi đặt câu hỏi để khai thác bài luyện nói: Chủ nhật vừa qua em có
được bố mẹ cho đi chơi đâu không? Thay vì học sinh trả lời “không hoặc có”
thì tôi hướng cho các em trả lời “chủ nhật vừa qua em được bố mẹ chở đi chơi
ở bãi cỏ”. Muốn đạt được điều đó tôi tổ chức cho một số cặp học sinh học tốt
nói mẫu, sau đó phân tích đúng, sai, hay hoặc không hay và cho các em thực
hành lại. Trong quá trình sửa câu cho học sinh, tôi hướng các em nên sử dụng
các từ ngữ khác để thay thế tránh tình trạng lặp lại các câu từ của bạn nhiều.
Trong quá trình tiếp cận với các em nhất là đối với học sinh nhút nhát,
tiếp thu bài thụ động. Tôi thường khích lệ, động viên kịp thời khi các em trình
bày ý kiến hoặc trả lời câu hỏi. Đồng thời tôi luôn tạo không khí lớp học thân
thiện, cởi mở, chan hoà, tuyên dương kịp thời nhằm nâng cao tinh thần hăng
say học tập của các em.
Kỹ năng nói rất quan trọng trong phần luyện nói vì thế tôi luôn nhắc
nhở các em phải nói to, rõ ràng thành câu, đoạn cho hoàn chỉnh với phong

thái tự nhiên không theo một khuôn mẫu nhất định nào đó.

13


2.3.5. Lựa chọn phương pháp và hình thức phù hợp với từng nhóm
chủ đề:
Việc phân loại các chủ đề thành các nhóm khác nhau, sẽ giúp giáo viên
lựa chọn và sử dụng các phương pháp và hình thức dạy học phù hợp
nhất.Trong quá trình giảng dạy, tôi đã dành thời gian để phân loại các chủ đề
luyện nói thành một số nhóm. Cụ thể:
Chủ đề nói về gia đình: “Ba má” “Bà cháu”, “Bữa cơm”, “Vâng lời
cha mẹ”, “anh chị em trong nhà”…Khi dạy những chủ đề này, tôi thường
cho học sinh sắm vai nhân vật thể hiện tình cảm của ông bà, ba mẹ đã yêu
thương, quan tâm, chăm sóc em. Hoặc những tình cảm, việc làm của em thể
hiện sự hiếu thảo của một người cháu, người con đối với ông bà, cha mẹ của
mình.
-

Chủ đề lạ, khó hơn: Vó bè; Suối đèo thung lũng; Lễ hội; Ao, hồ,
giếng; Đất nước ta tuyệt đẹp; Ba Vì; Ruộng bậc thang…
-

Chủ đề Vó bè : Cho học sinh quan sát tranh thật kỹ, tôi giới thiệu trực
tiếp đó chính là vó bè. Gợi ý để các em nói được dụng cụ đó được đặt ở đâu?
Dùng để làm gì ?
+

Chủ đề Ba Vì : Sau khi học sinh quan sát tranh xong, tôi giới thiệu
trực tiếp: Tranh vẽ cảnh ở Ba Vì. Gợi ý cho các em nêu lên những cảnh vật có

trong bức tranh đó? Cảm nhận về cảnh vật ở đó như thế nào? (thích hay
không thích? Tại sao thích?)
+

Chủ đề về con vật: “ổ, tổ”, “gà ri, gà gô”, “bê, nghé, bé”, “sẻ, ri, bói
cá, le le”, “hổ, báo, gấu, hươu,nai, voi”, “chuồn chuồn, châu chấu, cào cào”,
“ong, bướm, chim, cá cảnh”… Với những chủ đề này tôi thường cho quan sát
tranh luyện nói, sau đó vận dụng vốn hiểu biết sẵn có của các em để khai thác
nói về những con vật đó. Với những con vật lạ như le le, gà ri, gà gô, tôi cho
học sinh được quan sát hình ảnh sưu tầm thêm và giới thiệu trực tiếp tên con
vật đó.
-

2.3.6. Sửa lỗi sai kịp thời cho học sinh:
Qua thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh thường mắc phải những
lỗi sai phổ biến sau:
- Trong câu của học sinh có từ sai.
- Câu nói của học sinh không đúng với chủ đề của đề bài.
- Phần nói của học sinh mới chỉ là một từ hoặc một cụm từ.
- Trong phần ôn vần học sinh cùng được luyện nói khi nói câu có vần
vừa ôn, với một số vần có vần giống nhau về cách phát âm nhưng khác nhau
về cách viết học sinh rất dễ nhầm lẫn khi tìn tiếng, từ, câu.

14


Khi học sinh mắc phải những lỗi này, tôi luôn định hướng để học sinh
sửa lỗi kịp thời. Sau khi đã sửa lỗi sai, tôi yêu cầu học sinh nhắc lại câu nói
đúng.
Ví dụ: Trong bài 49 chủ đề luyện nói là “ biển cả” học sinh thường sai

khi nói “Tàu đánh cá bay trên biển” Từ sai trong câu trên là “bay” với trường
hợp này tôi gọi học sinh khác nhận xét lỗi sai của bạn và cho học sinh nói sai
sửa lại câu nói của mình. Trong câu này từ sai có thể được thay bằng từ
“chạy” hoặc “ lướt”. Học sinh có thể nói thành “Tàu đánh cá lướt trên biển”
hoặc “Tàu đánh cá chạy trên biển.”
Hoặc trong phần ôn vần iêu và yêu. Khi yêu cầu học sinh “hãy nói câu
chứa tiếng có vần iêu? Một học sinh đã trả lời “Con yêu bố mẹ” câu nói này
của học sinh có tiếng chứa vần yêu nhưng không đúng với yêu cầu của giáo
viên. Trong trường hợp này thì nên ghi câu nói của học sinh lên bảng sau đó
cho học sinh nhận xét sửa sai.
2.3.7. Sử dụng phương pháp dạy học phù hợp với từng loại bài:
Hiện nay, kĩ năng luyện nói của học sinh được luyện tập thường xuyên
trong tất cả các bài học vần. Với mỗi loại bài học vần, tôi luôn đưa ra những
phương pháp phù hợp nhất. Cụ thể:
+ Với các bài làm quen với âm và chữ:
Trong giai đoạn này kỹ năng nói được bắt đầu luyện trong tất cả các
giờ học nhưng tập trung nhất vào phần “ Luyện nói” của bài. Phần luyện nói
được thực hiện theo tranh tương đối tự do theo chủ đề của tranh, không gò bó
trong các âm và thanh vừa học. Tôi định hướng bằng các câu hỏi hướng dẫn
học sinh nói qua các câu trả lời đơn giản về nội dung gần gũi với các em. Mục
tiêu của phần luyện nói trong giai đoạn này là giúp học sinh làm quen với
không khí học tập mới, không rụt rè nhút nhát mạnh dạn hơn để nói cho các
bạn nghe và nghe các bạn nói theo hướng dẫn của giáo viên trong môi trường
giao tiếp mới - giao tiếp văn hoá giao tiếp trong nhà trường.
Trong các bài về dấu thanh học sinh sẽ được luyện nói theo chủ đề
“Dấu thanh”. Đây là một trong những bài luyện nói đầu tiên giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh nói theo chủ đề của tranh không chỉ gò bó trong các tranh
thể hiện (tiếng) có dấu vừa học. Giáo viên có thể gợi ý định hướng cho học
sinh bằng các câu hỏi. Tuỳ theo trình độ của học sinh mà ra câu hỏi nhiều hay
ít, dễ hay khó. Đặc biệt, tôi luôn lưu ý học sinh phải nói chuẩn tiếng phổ

thông, sử dụng thanh hỏi, thanh ngã, các âm quặc lưỡi đúng.

dụ:
luyện về dấu hỏi
trang 11)

Trong
bài
(Tiếng Việt 1,

15


Yêu cầu học sinh quan sát các bức tranh:
- Bức tranh vẽ gì?
Tôi đã chia nhỏ câu hỏi từng tranh
- Bác nông dân đang làm gì? ( Bác nông dân đang bẻ ngô)
- Bạn gái đang làm gì? ( Bạn gái đang bẻ bánh đa cho bạn)
- Mẹ đang làm gì cho bé (mẹ đang bẻ cổ áo cho bé)
- Các bức tranh đều thể hiện hoạt động gì? (bẻ)
Trong những bài đầu tiên này tôi cũng bắt đầu cho học sinh làm quen
với việc thảo luận trong nhóm 2 để tất cả các học sinh đều được nói và được
nghe bạn mình nói. Trong thời gian này để học sinh nghe và hiểu các yêu cầu
16


của giáo viên. Khi đưa ra các “lệnh” giáo viên cần giữ nguyên không nên thay
đổi từ ngữ trong yêu cầu.
+


Với các bài dạy chữ ghi âm (vần) mới.

Trong các bài này học sinh được luyện nói theo các gợi ý của tranh. Tôi
dựa vào chủ đề, tranh tiến hành linh hoạt tùy theo trình độ của học sinh để đạt
được yêu cầu sau: Nói về các chủ đề của bài chú ý đến các âm (vần) vừa học,
có thể mở rộng các âm (vần) chưa học. Trong những bài này, nếu trình độ học
sinh của mình có thể tự nói được, tôi để học sinh tự nói, chỉ gợi ý bằng câu
hỏi với những học sinh không nói được. Học sinh có thể nói những câu đơn
giản gần gũi với cuộc sống xung quanh các em. Phần luyện nói được thực
hiện với thời gian 7- 8 phút. Sau mỗi lần luyện nói tôi luôn nhẹ nhàng liên hệ
bằng 1- 2 câu hỏi để giáo dục học sinh.
Ví dụ: Bài 14: d – đ (Tiếng Việt 1, trang 31)

Tôi yêu cầu học sinh quan sát tranh và trả lời câu hỏi:
? Tranh vẽ gì? (Tranh vẽ bi ve, dế, cá, lá đa.)
? Em đã chơi bi chưa? Cách chơi như thế nào? (Học sinh trả lời.)
? Em đã nhìn thấy con dế bao giờ chưa? Dế sống ở đâu? Dế thường ăn gì?
? Em có biết chuyện nào kể về dế không?
? Cá cờ thường sống ở đâu? Cá cờ màu gì?
? Em biết lá đa bị cắt như trong tranh là đồ chơi gì không?
Học sinh sẽ dựa vào vốn hiểu biết của mình để trả lời những câu hỏi tôi
nêu. Sau đó, dựa vào tình hình cụ thể của lớp, tôi sẽ có những phần mở rộng
phù hợp với đối tượng học sinh.
2.4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

17


Sau khi áp dụng một số biện pháp giúp học rèn kĩ năng luyện nói phần học vần ở lớp 1A4 tôi đã thu
được kết quả cuối học kì I như sau:


TSHS

Nói được 2 đến Nói được 1 câu Nói câu chưa Kết quả kiểm
3 câu đủ ý,
đủ ý, đúng chủ đủ ý, chưa tra định kì cuối
đúng chủ đề

đề

đúng chủ đề

học kì

I môn

Tiếng

Việt

(điểm 9,10)
45

SL
28

%
62,2

SL

40

%
88,9

SL
5

%
11,1

SL
42

%
93,3

Qua việc áp dụng các biện pháp kể trên, kĩ năng nói của học sinh lớp
tôi đã có những thay đổi bước đầu. Cụ thể :
- Học sinh rất hứng thú học phần luyện nói.
- Lớp học sôi nổi, học sinh tích cực tham gia phát biểu, xây dựng bài.
- Các em đã biết trả lời, diễn đạt ý nghĩ, cảm xúc của mình một cách tự
nhiên, chân thật.
- Khoảng 60% học sinh đã nói được 2 đến 3 câu đúng với nội dung chủ
đề cần luyện nói.
- Những học sinh nhút nhát, rụt rè, thụ động đã nhanh nhẹn hơn, tích
cực hơn. Các em đã biết cách tham gia vào các hoạt động trong quá trình
luyện nói một cách chủ động hơn.
- Biết cách ứng xử các tình huống trong khi giao tiếp nhạy bén, ngoan
và lễ phép hơn.

- Nhiều học sinh đã biết diễn đạt chủ đề luyện nói thành 1 đoạn văn có
từ 3 đến 4 câu trở lên tương đối tốt.

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
18


Qua kinh nghiệm giảng dạy thực tế, với việc áp dụng một biện pháp
dạy phần luyện nói phân môn học vần ở lớp 1A4, để giúp học sinh luyện nói
tốt, tôi rút ra những kết luận sau:
Giáo viên phải nắm rõ nội dung chủ đề phần luyện nói qua từng bài học
vần.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh rèn luyện từng bước để đạt được những
yêu cầu và kỹ năng luyện nói từ thấp đến cao.
Bản thân mỗi giáo viên phải là người nói chuẩn tiếng phổ thông, là tấm
gương sáng cho học sinh noi theo trong quá trình luyện nói và giao tiếp hằng
ngày trên lớp.
Giáo viên cũng cần kiên trì uốn nắn, sửa chữa những sai sót của các em.
Vận dụng các phương pháp phù hợp linh hoạt.
Tận dụng tối đa phương tiện trực quan đồng thời phát huy năng lực quan
sát của học sinh.
Hệ thống câu hỏi mà giáo viên sử dụng trong từng tiết dạy phait phù hợp
với từng đối tượng học sinh.
Lồng ghép các trò chơi, cho học thực hành một số chủ đề bằng vật thật.
Xây dựng không khí học tập thật thoải mái vui tươi, tạo dựng mối quan hệ
giữa thầy và trò, giữa học sinh với nhau thân thiện, gần gũi.
Động viên, uốn nắn, sữa chữa kịp thời những em còn thiếu sót. Bồi dưỡng
những học sinh có khả năng luyện nói tốt. Chủ động trò chuyện với những em
nhút nhát.

Phối hợp với phụ huynh học sinh để kết hợp việc rèn luyện phát âm chuẩn
tiếng phổ thông cho học sinh. Báo cáo, trao đổi kịp thời trong quá trình họp
tổ, họp chuyên môn, thao giảng để tìm ra những biện pháp tối ưu nhất.
3.2. Kiến nghị.
Đối với nhà trường: Nhà trường kết hợp cùng xã hội cần giáo dục trẻ
ngay từ đầu phải có những thói quen trong giao tiếp mạnh dạn tự tin, văn
minh lịch sự thể hiện tác phong tư cách đạo đức của người có văn hoá.
-

Đối với giáo viên: Cần dành nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu giảng
dạy, tăng cường hiệu quả của các giờ sinh hoạt chuyên môn để đưa ra những
bài giảng sinh động hấp dẫn. Ngôn ngữ của giáo viên phải chuẩn mực chính
xác, trong sáng, nói chuẩn tiếng phổ thông.
-

Đối với gia đình: Từ khi trẻ bập bẹ biết nói thì những người lớn tuổi
trong gia đình cần phải luôn lưu tâm uốn nắn lời ăn tiếng nói, tập cho nói
những câu nói văn minh, lịch sự. Người lớn tuổi trong gia đình luôn là tấm
-

19


gương tốt để các em bắt chước, học tập, tạo cho các em một môi trường giao
tiếp lành mạnh.
Trên đây là những kinh nghiệm tôi đã thực hiện dạy phần luyên nói cho
học sinh ở lớp mình. Có thể kinh nghiệm này phù hợp với đối tượng học sinh
mà chính bản thân tôi đang trực tiếp giảng dạy nhưng lại chưa thực sự phù
hợp với các lớp khác, trường khác. Vậy tôi rất mong được sự đóng góp của
hội đồng giám khảo, các quý thầy cô và bạn đọc để tôi ngày càng tiến bộ hơn

trong công tác giảng dạy.
Xin chân thành cảm ơn.

XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

Tôi xin cam đoan đây là sáng
kiến kinh nghiệm của bản thân, không
sao chép nội dung của người khác.
Ba Đình, ngày 28 tháng 3 năm 2016
Người viết

Đỗ Thị Huyền Trang

20



×