Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN rèn kĩ năng thực hành tiếng việt cho học sinh lớp 2 thông qua trò chơi học tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.42 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN KĨ NĂNG THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT CHO HỌC
SINH LỚP 2 THÔNG QUA CÁC TRÒ CHƠI HỌC TẬP

Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Lập - Thọ Xuân
SKKN môn: Tiếng Việt

MỤC LỤC
THANH HOÁ NĂM 2019


MỤC LỤC
MỤC
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2

TÊN ĐỀ MỤC


MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng về việc tổ chức trò chơi học tập trong dạy
Tiếng Việt lớp 2
Các biện pháp đã sử dụng để rèn kĩ năng thực hành tiếng
2.3 Việt thông qua các trò chơi học tập cho học sinh lớp 2
trường Tiểu học Xuân Lập.
2.3.1 Tổ chức trò chơi trong phân môn Tập đọc
a
Đọc văn tiếp sức
b
Đọc thơ tiếp sức
c
Đọc thơ truyền điện
d
Ghép các dòng thơ thành bài
e
Tìm nhanh, đọc đúng
g
Biết một câu, đọc cả đoạn
h
Nghe đọc đoạn, đoán tên bài
i
Thi đọc truyện theo vai
2.3.2 Giúp học sinh mở rộng vốn từ thông qua các hoạt động trò

chơi trong dạy Luyện từ và câu
a
Tìm nhanh từ cùng chủ đề
b
Tìm nhanh từ đồng nghĩa
c
Tìm “Kẻ trú ẩn”
d
Thi ghép chữ thành từ
e
Xếp từ theo nhóm
g
Đặt câu theo tranh
h
Thi đặt câu theo mẫu (Ai là gì?)
Rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh lớp 2
2.3.3. thông qua tổ chức trò chơi ở các phân môn học khác của
Tiếng Việt.
a
Tổ chức trò chơi khi dạy phân môn Tập làm văn
b
Tổ chức trò chơi khi dạy phân môn Kể chuyện.
2.4 Kết quả đạt được
3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận

TRANG
1
1

1
2
2
3
3
4
5
5
5
6
7
8
8
9
10
11
11
11
12
13
14
15
15
16
17
17
17
18
19
19



3.2 Kiến nghị

19


1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Môn Tiếng Việt ở lớp 2 nói riêng và ở Tiểu học nói chung có nhiệm vụ hình
thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập và giao
tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng
Việt, các em được rèn luyện các thao tác tư duy, có những hiểu biết sơ giản về tự
nhiên, xã hội và con người; về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Từ
đó bồi dưỡng cho các em tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người mới
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thực tiễn dạy học hiện nay, việc dạy và học những kiến thức về mở
rộng vốn từ theo chủ đề học tập, nhất là việc sử dụng vốn từ ngữ đó trong viết câu,
viết đoạn văn ở lớp 2 nói riêng và ở Tiểu học nói chung còn gặp không ít khó khăn.
Nhất là chưa thực sự chú trọng đến việc giúp học sinh sử dụng tiếng Việt một cách
thành thạo, có kĩ năng nói - viết đúng tiếng Việt để từ đó phát triển lên mức độ nói
- viết hay. Đồng thời, việc dạy học Tiếng Việt chưa tạo được niềm đam mê học tập
thực sự cho trẻ. Dẫn đến các em còn thụ động trong học tập, chưa tích cực và tự
giác học tập tiến bộ. Điều đó đồng nghĩa với việc không ít giáo viên còn gặp khó
khăn trong việc tìm ra những phương pháp dạy học hiệu quả để giải quyết những
vấn đề còn tồn đọng trong dạy học bộ môn này.

Ngoài ra, việc sử dụng “trò chơi học tập” trong dạy học Tiếng Việt của phần
lớn giáo viên chưa nhiều, vẫn còn đơn điệu về hình thức và cách tổ chức, chưa tạo
được hưng phấn cho học sinh trong mỗi tiết học. Điều này dẫn đến kĩ năng sử dụng
từ để nói, viết thành câu, đoạn văn của học sinh còn gặp nhiều khó khăn, mang
nhiều cảm tính.
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo cho học sinh tích cực, chủ động và
sáng tạo trong học tập là vấn đề đang được nhiều người quan tâm. Chính vì lẽ đó,
trong quá trình dạy học, tôi luôn chủ động, tìm tòi và học hỏi đồng nghiệp, lãnh
đạo nhà trường trong việc đổi mới phương pháp dạy học để mỗi tiết học của các
em thực sự cuốn hút và hiệu quả bằng việc mạnh dạn áp dụng: “Rèn kĩ năng thực
hành tiếng Việt cho học sinh lớp 2 thông qua các trò chơi học tập”. Từ đó có thể
giải quyết phần nào những vấn đề còn vướng mắc và tồn đọng trong dạy học thực
hành tiếng Việt lớp 2 nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Khi lựa chọn việc áp dụng “Rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh lớp 2
thông qua các trò chơi học tập” thì mục đích chính là tháo gỡ những khó khăn về
kĩ năng sử dụng vốn từ để nói, viết thành câu, đoạn văn. Qua đó, tạo sự tự tin, tích
cực, chủ động và hứng thú học tập cho các em để mỗi tiết học thực 1


sự lí thú và hiệu quả. Từ đó, giúp học sinh lớp tôi phụ trách nói riêng và học sinh
lớp 2 tại trường tiểu học Xuân Lập nói chung phát triển toàn diện các kĩ năng, năng
lực, phẩm chất và tư duy trong học tập.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Một số biện pháp Rèn kĩ năng thực hành tiếng Việt cho học sinh lớp 2
thông qua các trò chơi học tập.
- Học sinh lớp 2C - Trường Tiểu học Xuân Lập.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện áp dụng “Rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh
lớp 2 thông qua các trò chơi học tập”, tôi đã sử dụng một số phương pháp chính

như: phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lí thuyết; phương pháp điều tra
khảo sát thực tế, thu thập thông tin; phương pháp luyện tập, thực hành… cụ thể
như sau:
a. Phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lí thuyết
Là nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến vốn từ ngữ, cách cung cấp vốn từ
để nói, viết câu, đoạn văn và các trò chơi, cách tổ chức trò chơi học tập gần gũi,
phù hợp với nội dung kiến thức tiếp nhận của học sinh.
b. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
Tiến hành điều tra nghiên cứu thực tế việc tổ chức dạy và học về sử dụng
vốn từ, câu bằng trò chơi học tập trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 ở trường
Tiểu học Xuân Lập.
c. Phương pháp luyện tập, thực hành
Luyện tập và thực hành củng cố, bổ sung, làm vững chắc thêm các kiến thức
lí thuyết. Trong luyện tập giúp học sinh được lặp lại các hoạt động với mục đích
học thuộc những đoạn văn, thơ... đã học hay tham gia những trò chơi học tập làm
cho việc sử dụng kĩ năng được thực hiện một cách tự động, thành thục. Trong thực
hành, người ta không chỉ nhấn mạnh vào việc học thuộc mà còn nhằm áp dụng hay
sử dụng một cách thông minh cách tri thức để thực hiện các nhiệm vụ khác nhau.
Vì thế, trong dạy học, bên cạnh việc rèn cho học sinh luyện tập một số chi tiết cụ
thể, cần lưu ý cho HS thực hành phát triển các kĩ năng.
Sau khi áp dụng các phương pháp này vào thực tiễn dạy học tại lớp 2C,
trường tiểu học Xuân Lập kết hợp thu thập các tài liệu, dữ liệu phục vụ cho đề tài,
tôi đã tiến hành phân tích, tổng hợp các số liệu minh chứng cụ thể qua các thời
điểm kiểm tra của giáo viên, tổ chuyên môn và Nhà trường từng thời điểm cụ thể.
Từ đó rút ra kết luận và hiệu quả về việc áp dụng “Rèn kĩ năng thực hành Tiếng
Việt cho học sinh lớp 2 thông qua các trò chơi học tập”.

2



2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
Như chúng ta đã biết, định hướng đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục,
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII (ngày 26/1/2016) đã nêu rõ: “Phương pháp dạy và học mới không chỉ làm
cho người học phát triển tư duy độc lập, sáng tạo mà còn giúp người thầy thêm
tiến bộ, trưởng thành….Giáo dục cần phải tập trung phát triển mạnh năng lực và
phẩm chất người học, đảm bảo hài hòa đức, trí, thể, mỹ, thực hiện tốt phương
châm mới: Dạy người, dạy chữ và dạy nghề (trước đây là dạy chữ, dạy người, dạy
nghề).” Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy và học tập trung rèn kĩ năng, bồi
dưỡng năng lực và phẩm chất người học là nhiệm vụ cần được chú trọng trong giáo
dục đào tạo.
Việc giúp học sinh lớp 2 rèn kĩ năng sử dụng vốn từ để nói, viết câu, đoạn
văn có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ vì nó chính là bước đầu
đang giúp cho các em nắm vững ngôn ngữ tiếng Việt làm phương tiện giao tiếp
phù hợp với từng đối tượng và hoàn cảnh cụ thể trong các tình huống phức tạp và
đa dạng của cuộc sống. Giúp các em hiểu về thế giới xung quanh việc học tập ở
trường, ở nhà cũng như tình cảm gia đình và vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, con
người một cách chủ động, tích cực và sáng tạo. Từ đó gắn với việc giáo dục học
sinh tình yêu gia đình, nhà trường, yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động.
Khi dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học nói chung và dạy học thực hành tiếng
Việt ở lớp 2 nói riêng thì cần phải chú ý đến trình độ, đến tâm sinh lí lứa tuổi của
từng đối tượng học sinh tiểu học là thích khám phá, sáng tạo, thích chinh phục, làm
chủ bản thân và hứng thú với những điều mới mẻ. Đồng thời, người giáo viên phải
nắm được năng lực sử dụng tiếng Việt của các em. Từ đó để điều chỉnh nội dung,
lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp làm sao cho trong mỗi tiết học, học sinh ở
các trình độ khác nhau đều được quan tâm, được làm việc và được phát triển. Như
vậy, người giáo viên phải không ngừng học hỏi, đổi mới phương pháp dạy học một
cách triệt để trong mỗi giờ học giúp các em chủ động hoạt động và tự học một cách
sáng tạo như đánh giá của Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Đặng Huỳnh Mai:

“Phải biến quá trình dạy học thành quá trình hoạt động và tự học của học sinh…
Giáo viên phải tiếp xúc với trẻ, giúp trẻ hoạt động và đạt kết quả học tập tốt hơn.”
Những điều nói trên đồng nghĩa với việc người giáo viên cần mạnh dạn
nghiên cứu, xây dựng và thực hiện các trò chơi học tập mới mẻ, lí thú trong dạy
học Tiếng Việt nhằm rèn kĩ năng thực hành tiếng Việt cho học sinh lớp 2. Qua đó
giúp các em phát triển những kĩ năng, năng lực và phẩm chất cần thiết. Trong
khuôn khổ của đề tài này, tôi xin lựa chọn sử dụng một số trò chơi học tập trong
các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện để vận dụng.
Qua đó giúp học sinh luyện đọc đúng, luyện đọc diễn cảm, ghi nhớ văn bản tốt,
giúp các em có khả năng ghi nhớ từ nhanh, có vốn từ phong phú, có kĩ năng sử
dụng vốn từ đó để đặt câu, viết đoạn văn một cách chủ động và tích cực hơn. Từ đó
sẽ nâng cao hứng thú học tập, sự sáng tạo cho học sinh. Nó không những giúp các
em hình thành và phát triển kĩ năng nghe - nói - đọc - viết, kỹ năng sử dụng vốn từ
3


và câu tiếng Việt mà còn giúp giáo viên không ngừng tìm tòi, sáng tạo trong đổi
mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học có hiệu quả.
2.2. Thực trạng về việc tổ chức trò chơi học tập trong dạy Tiếng Việt lớp 2
2.2.1. Về phía nhà trường
Nhà trường luôn quan tâm và tạo mọi điều kiện thuận tiện nhất về cơ sở vật
chất, thiết bị và tài liệu dạy học cho giáo viên.
Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn, các tiết dạy thử để rút kinh nghiệm,
tạo điều kiện cho GV được trau dồi và học hỏi về chuyên môn.
2.2.2. Về đội ngũ giáo viên
Thực tế việc dạy và học ở trường tiểu cho thấy, việc đổi mới phương pháp
dạy học trong môn Tiếng Việt lớp 2 đâu đó ở một bộ phận không nhỏ giáo viên
chưa thực sự triệt để. Việc sử dụng trò chơi học tập tiếng Việt trong dạy học Tiếng
Việt lớp 2 còn hạn chế, đơn điệu và chưa hiệu quả. Dẫn đến học sinh còn lúng túng
trong tìm và ghi nhớ từ ngữ, các kiểu câu và kĩ năng sử dụng vốn từ đó để đặt câu,

viết đoạn văn chưa hợp lí, chưa hay. Vì thế mà trong mỗi giờ học, các em chưa
hứng thú, chưa tích cực học tập và việc hoạt động hợp tác nhóm của học sinh chưa
cao.
2.2.3. Đối với học sinh
Thực hiện công văn số 8499/BGDĐT-NGCBQLGD ngày 10/12/2012 và
một số Thông tư, quyết định của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc hướng dẫn thực
hiện số tiết giảng dạy theo quy định của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các cơ sở
giáo dục phổ thông. Bản thân tôi là Phó hiệu trưởng trường Tiểu học Xuân Lập,
hàng năm đều chấp hành nghiêm túc sự phân công của Hiệu trưởng và tham gia
giảng dạy đúng theo quy định.
Năm học 2018-2019, được phân công giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 2C với
36 học sinh. Các em phần lớn là con gia đình thuần nông nhưng luôn được gia đình
tạo điều kiện tốt nhất để học tập. Các em có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập và
sức khỏe tốt.
Qua thời gian đứng lớp giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy việc lựa chọn kiến
thức, nội dung của dạy tiếng Việt trong chương trình Tiếng Việt lớp 2 để xây dựng
những “trò chơi học tập tiếng Việt” mới mẻ, lí thú nhưng không xa lạ mà gần gũi
với tâm sinh lí và trình độ nhận thức của học sinh. Qua khảo sát chất lượng đầu
năm tôi nhận thấy, lớp 2 là lớp đầu cấp nên việc đọc đúng, đọc hiểu văn bản của
nhiều em còn chưa đạt yêu cầu; vốn từ vựng rất nghèo nàn, kĩ năng sử dụng vốn từ
còn hạn chế, chưa nắm vững mẫu câu,… Do đó, khi sử dụng từ để nói, viết thành
câu, các em còn sử dụng còn tuỳ tiện, dựa theo cảm tính mà không biết dùng đúng
ngữ cảnh. Các em hay bắt chước người khác, không đủ khả năng để chọn lọc hay
suy nghĩ xem từ nào đúng, từ nào sai, câu này nên nói lúc nào, nên viết ra sao và
dùng trong ngữ cảnh nào,…Vì vậy, các câu, bài cứ na ná như nhau. Học sinh dùng
câu chưa đúng ngữ điệu, không có sự biểu cảm, mà đơn thuần chỉ là những câu liệt
kê, thông báo đơn giản. Các em dùng từ sai, làm cho người khác không hiểu ý diễn
đạt,…
Cụ thể, tôi tiến hành cho HS làm bài khảo sát môn Tiếng Việt phần sử dụng
vốn từ và câu của 36 học sinh lớp 2C như sau:

4


Bảng 1: Kết quả khảo sát đầu năm học 2018 - 2019
Kết quả Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Sĩ số
SL
TL
SL
TL
SL
TL
36
4
11,1
24
66,7
8
22,1
Từ kết quả thực trạng trên cho thấy kĩ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh
lớp 2 do tôi phụ trách còn nhiều hạn chế. Dẫn đến mỗi tiết học về sử dụng vốn từ
để nói, viết câu hiệu quả chưa cao; học sinh còn rụt rè, chưa thực sự tích cực và
chủ động trong học tập, hoạt động nhóm. Vì vậy mà ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng của môn Tiếng Việt nói riêng và các môn học khác trong nhà trường
nói chung. Như thế là chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới của nền giáo dục Tiểu
học ở Việt Nam hiện nay.
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để rèn kĩ năng thực hành tiếng Việt thông qua
các trò chơi học tập cho học sinh lớp 2 trường Tiểu học Xuân Lập.

Từ thực trạng trong dạy học Tiếng Việt lớp 2 như đã nêu trên, tôi mạnh dạn
đưa ra những biện pháp trong thực tiễn giảng dạy và công tác để giải quyết những
băn khoăn, vướng mắc và những vấn đề còn tồn đọng trong dạy học và giáo dục
học sinh với mong muốn góp phần giúp cho học sinh lớp tôi phụ trách có kĩ năng
sử dụng vốn từ và câu thật tốt; được chủ động, tích cực và sáng tạo trong học tập,
để mỗi giờ học nặng nề trước đây trở thành những giờ học lí thú và hiệu quả. Từ
đó sẽ tạo được môi trường học tập có ích, giúp học sinh phát triển toàn diện; giúp
giáo viên tiến bộ, trưởng thành, không ngừng trau dồi, nâng cao tay nghề.
Một trong những giải pháp đó là tôi tổ chức một số trò chơi học tập nhằm tạo
điều kiện cho học sinh tích cực tham gia vào hoạt động thực hành rèn luyện kĩ
năng đọc đồng thời tiếp thu kiến thức một cách tự giác và hứng thú. Thông qua trò
chơi học tập, học sinh còn được phát triển cả về trí tuệ, thể lực, nhân cách, giúp
cho công việc học Tiếng Việt thêm nhẹ nhàng và hiệu quả. Sau đây tôi xin đưa ra
một số biện pháp nhằm tạo hứng thú học phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 2:
2.3.1. Tổ chức trò chơi trong phân môn Tập đọc
a. Đọc văn tiếp sức (Trò chơi này thường được sử dụng trong hoạt động
Luyện đọc đúng của tiết Tập đọc.)
Ví dụ: Bài Có công mài sắt, có ngày nên kim. (TV2 Tập 1 – Trang 4)
Sau khi đã tiến hành cho học sinh luyện đọc câu, đoạn chuẩn bị bước sang
phần tìm hiểu bài, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Thi đọc văn tiếp sức.
Số học sinh tham gia chơi: 2 đội. Mỗi đội 5 em. Tổ trọng tài: 2 em.
Tôi phổ biến luật chơi, giao nhiệm vụ cho tổ trọng tài. Từng nhóm lần lượt
đọc tiếp sức như sau:
Khi nghe trọng tài hô “Bắt đầu”, người số 1 (Đầu hàng bên phải hoặc bên
trái) phải đọc câu thứ nhất của bài một cách rõ ràng, chính xác và nhanh. Dứt tiếng
cuối cùng của câu thứ nhất, người số 2 (Cạnh số 1) mới được đọc tiếp câu số 2...
Cứ như vậy cho đến người cuối cùng của nhóm. Nếu chưa hết bài, đoạn câu
tiếp theo lại đến người số 1 đọc, người số 2 đọc... cho đến hết bài thì dừng lại.
Trọng tài tính thời gian và ghi lại kết quả số phút toàn bài của từng nhóm;
cùng các bạn theo dõi, nhận xét và tính điểm cho nhóm vừa đọc; công bố kết quả

về thời gian đọc và số điểm đọc của từng nhóm.
5


Nhóm được nhiều điểm nhất (Ít hoặc không mắc lỗi) và có thời gian đọc ít
nhất là nhóm giành phần thắng trong cuộc thi đọc văn tiếp sức.
Kết quả: Sau khi được tham gia chơi các em đã được rèn kĩ năng đọc đúng
và nhanh, luyện tác phong nhanh nhẹn, tập trung chú ý để phối hợp nhịp nhàng
giữa các bạn trong nhóm với nhau, đặc biệt các em rất hào hứng trong phần học
tiếp theo.
b. Đọc thơ tiếp sức
Nhằm tạo hứng thú trong quá trình đọc bài thơ và cũng để các em làm việc
nhịp nhàng trong nhóm. Tôi đã sử dụng trò chơi “Đọc thơ tiếp sức” trong phần
Luyện đọc thuộc lòng.
Ví dụ: Bài tập đọc Mẹ (Tiếng Việt 2 Tập 1 – Trang 101)
Sau khi đã tiến hành dạy xong phần luyện đọc đúng và tìm hiểu bài, tôi tổ
chức cho học sinh chơi trò chơi: Thi đọc thơ tiếp sức.
Số học sinh tham gia chơi: 2 đội. Mỗi đội 5 em. Tổ trọng tài: 2 em.
Tôi phổ biến luật chơi, giao nhiệm vụ cho tổ trọng tài. Từng nhóm lần lượt
đọc tiếp sức như sau:
Nhóm 1:
HS1:
Lặng rồi cả tiếng con ve
HS2:
Con ve cũng mệt vì hè nắng oi.
HS3:
Nhà em vẫn tiếng ạ ời
HS4:
Kẽo cà tiếng võng mẹ ngồi mẹ ru.
HS5:

Lời ru có gió mùa thu
Nhóm 2:
HS1:
Bàn tay mẹ quạt mẹ đưa gió về.
HS2:
Những ngôi sao thức ngoài kia
HS3: Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.
HS4:
Đêm nay con ngủ giấc tròn
HS5:
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
Đọc thơ tiếp sức. Bài Tập đọc: Mẹ

Trọng tài tính thời gian và ghi lại số phút đọc xong toàn bài của từng nhóm,
nhận xét, công bố kết quả, tuyên dương nhóm thắng cuộc.
Kết quả: Cũng như trò chơi đọc văn tiếp sức, trò chơi đọc thơ tiếp sức đã
giúp các em: Rèn kỹ năng đọc đúng và nhanh các bài thơ. Luyện tác phong nhanh
nhẹn, tập trung chú ý để phối hợp nhịp nhàng giữa các bạn trong nhóm với nhau
khi đọc thành tiếng từng dòng thơ tiếp nối.
c. Đọc thơ truyền điện
Ví dụ: Bài Gọi bạn (Tiếng Việt 2 Tập 1 – Trang 28)
Sau khi đã tổ chức Luyện đọc thuộc lòng bài thơ, tôi tổ chức cho học sinh Thi
đọc thuộc lòng truyền điện.
Giáo viên phổ biến luật chơi: Mỗi đội cử 7 bạn tham gia thi. Nội dung: Đọc
thuộc lòng theo hình thức truyền điện.
- Đại diện nhóm đọc trước (A1) sẽ đứng lên đọc dòng thơ 1 rồi chỉ định thật
nhanh “truyền điện” 1 bạn bất kỳ của nhóm đối diện (B1). Bạn được chỉ định phải
6



đọc thật nhanh dòng thơ thứ 2 của bài; nếu đọc đúng và trôi chảy thì sẽ được chỉ
định ngay 1 bạn ở nhóm kia (A2) đọc tiếp dòng thơ thứ 3... cứ như vậy cho đến hết
bài.
- Trường hợp người bị chỉ định (bị truyền điện) B1 chưa đọc ngay (vì chưa
thuộc), các bạn ở nhóm đối diện sẽ hô “1,2,3,45,” hô (đếm) song mà bạn đó vẫn
không đọc được thì phải đúng yên tại chỗ (bị điện giật); người đã đọc những dòng
thơ trước (A1) sẽ được chỉ định một lần nữa để bạn khác trong nhóm đối diện đúng
lên đọc tiếp (B2).
- Nhóm nào có nhiều người phải đứng không thuộc bài – bị điện giật là nhóm
thua cuộc. Tuyên dương đội thắng cuộc.
Kết quả: Qua trò chơi HS được rèn kỹ năng đọc thuộc, nhanh những câu thơ
trong bài mà học sinh đã đọc thuộc lòng. Đồng thời luyện trí nhớ và phản xạ nhanh
nhạy, kịp thời; góp phần cảm nhận về ý câu thơ trong bài.
HS tham gia trò chơi: Đọc thơ truyền điện.
Bài Tập đọc: Gọi bạn

d. Ghép các dòng thơ thành bài
Ví dụ: Bài Bé nhìn biển (Tiếng Việt 2 Tập 2 – Trang 65)
Giáo viên chuẩn bị 17 băng giấy gồm một băng đầu bài và 16 băng giấy ghi
16 dòng thơ dưới đây (Các băng giấy đều có gắn nam châm để tiện cho việc dán
lên bảng). Mỗi nhóm cử 1 đội tham gia thi gồm 8 bạn. Tổ trọng tài: 2 bạn
Băng đầu bài:
BÉ NHÌN BIỂN
Băng 1:
Băng 9:
Nghỉ

với
bố
Băng 2:

Băng 10:

ra
biển
chơi
Băng 3:
Băng 11:
Tưởng
rằng
biển
nhỏ
Băng 4:
Băng 12:
Băng 5:
Mà to bằng trời.
Băng 13:
Như con sông lớn
Băng 6:
Băng 14:
Chỉ

một
bờ
Băng 7:
Băng 15:
Băng 8:
Bãi giằng với sóng
Băng 16:
Chơi trò kéo co.


Cách tiến hành:

Phì phò như bễ
Biển mệt thở rung

Còng giơ gọng vó
Định khiêng sóng lừng.
Nghìn con sóng khỏe

Lon ta lon ton
Biển to lớn thế
Vẫn là trẻ con.

Hướng dẫn cách chơi: Trọng tài dán trước băng giấy ghi đầu bài lên bảng,
chia 16 băng giấy còn lại cho 2 đội chơi: Đội 1 từ băng 1 – băng 8; đội 2 từ băng 9
– băng 16 (chú ý các băng giấy đã được xáo trộn thứ tự và úp mặt có chữ xuống
bàn các vị trí đặt băng giấy nên cách xa nhau để mọi người không bị ảnh hưởng lẫn
nhau). Lưu ý:
+ Không lật băng giấy khi chưa có lệnh.
+ Không nhìn bài của bạn cùng chơi .
HS tiến hành chơi: Nghe lệnh “bắt đầu” tất cả cùng lật băng giấy, các thành
viên của mỗi đội lần lượt lên bảng xếp đúng thứ tự các câu thơ trong bài; cần đặt
các băng giấy ngay ngắn, đúng hình thức trình bày thể thơ như sách giáo khoa. Đội
nào xếp đúng, đủ đẹp và nhanh nhất sẽ thắng cuộc.
7


Qua việc được tham gia chơi, giúp học sinh rèn kĩ năng đọc nhanh và thuộc
các bài thơ đã học. Cũng như luyện tác phong nhanh nhẹn, khéo léo.
e. Tìm nhanh, đọc đúng

Ví dụ: Bài Tự thuật (Tiếng Việt 2 Tập 1 – Trang 7)
Trò chơi này tôi tổ chức cho các em thực hiện trong phần luyện đọc nhóm bàn
trước khi bước sang phần tìm hiểu bài.
Phổ biến cách chơi: HS1 nêu nội dung ghi ở cột bên trái (Họ và tên; Nam, nữ;
Ngày sinh...), HS2 đọc tự thuật ở cột bên phải (Bùi Thanh Hà; nữ; 23 - 4 –
1996...).
HS lần lượt tham gia chơi trước lớp theo từng cặp. GV hướng dẫn HS trong
lớp lắng nghe, kiểm tra đánh giá và ghi điểm cho từng người. Kết thúc cuộc chơi,
giáo viên nhận xét chung và biểu dương những HS đọc tốt.
Kết quả: Thông qua trò chơi các em được rèn kĩ năng đọc thầm để tra tìm
nhanh thông tin cần thiết trong văn bản đã được tập đọc trong Sách giáo khoa.
Luyện thói quen làm việc tập trung, phối hợp nhiều hoạt động để ứng xử kịp
thời (tai nghe, mắt nhìn, miệng đọc)
g. Biết một câu, đọc cả đoạn
Để rèn kĩ năng nghe hiểu, đọc thầm để tìm đoạn văn có câu đã nghe trong bài
Tập đọc đã học. Luyện tác phong nhanh nhẹn, tập trung sự chú ý; luyện đọc đồng
thanh rõ ràng, rành mạch đoạn văn tìm được. Tôi tổ chức cho HS chơi như sau:
Ví dụ: Trong bài tập đọc Ngôi trường mới. (Tiếng Việt 2 Tập 1 - Trang 51) Tôi
tiến hành tổ chức Trò chơi “Biết một câu đọc cả đoạn” đối với bài này sau
khi dạy xong phần Tìm hiểu bài.
Cách chơi: Đầu tiên tôi chia lớp làm 3 nhóm (ứng với 3 dãy bàn của lớp học):
2 nhóm chơi, 1 nhóm làm trọng tài.
Cho nhóm 1 (đọc câu bất kỳ trong đoạn nào đó của bài): VD nhóm 1 đọc
câu: Trường mới của em xây trên nền ngôi trường cũ lợp lá.
Nhóm 2 (ngay lập tức đọc cả đoạn của bài): Trường mới của em xây trên nền
ngôi trường cũ lợp lá. Nhìn từ xa những mảng tường vàng, ngói đỏ như những
cánh hoa lấp ló trong cây.
Nhóm 2 (Thực hiện tương tự nhóm 1): VD nhóm 2 đọc câu: Cả đến chiếc
thước kẻ, chiếc bút chì sao cũng đáng yêu đến thế!
Nhóm 1 (phải đọc được cả đoạn): Dưới mái trường mới, sao tiếng trống rung

động kéo dài! Tiếng cô giáo trang nghiêm mà ấm áp. Tiếng đọc bài của em cũng
vang vang đến lạ! Em nhìn ai cũng thấy thân thương. Cả đến chiếc thước kẻ, chiếc
bút chì sao cũng đáng yêu đến thế!
Tiếp tục lượt đọc lần 2. nhóm 1 có thể đọc câu: Em bước vào lớp, vừa bỡ ngỡ
vừa thấy quen thân.
Nhóm 2 phải đọc được đoạn: Em bước vào lớp, vừa bỡ ngỡ vừa thấy quen
thân. Tường vôi trắng, cánh cửa xanh, bàn ghế gỗ xoan đào nổi vân như lụa. Em
thấy tất cả đều sáng lên và thơm tho trong nắng mùa thu.
Nhóm 2 đọc câu: Nhìn từ xa những mảng tường vàng, ngói đỏ như những
cánh hoa lấp ló trong cây.

8


Nhóm 1 phải đọc được đoạn: Trường mới của em xây trên nền ngôi trường cũ
lợp lá. Nhìn từ xa những mảng tường vàng, ngói đỏ như những cánh hoa lấp ló
trong cây.
Nhóm còn lại làm trọng tài, cổ vũ, xác nhận kết quả (hô đúng hoặc sai) và ghi
điểm cho từng nhóm. Mỗi đoạn văn tìm đúng và đọc đồng thanh rõ ràng, chính xác
được 10 điểm; tìm đúng đoạn văn nhưng đọc chưa đều, có tiếng phát âm sai hoặc
đọc thừa, thiếu tiếng, bị trừ 5 điểm.
Tiến hành chơi: Mỗi nhóm cử 5 bạn cùng tham gia chơi.
Hai nhóm tham gia chơi đều được tính điểm để so sánh. Nếu nhóm nào có số
điểm cao hơn là nhóm chiến thắng. Tuyên dương nhóm thắng cuộc.
Kết quả: Trò chơi đã tạo cho lớp học không khí sôi nổi, học sinh thi đua học
tập và đặc biệt rèn tư duy trí tuệ cho các em.
h. Nghe đọc đoạn, đoán tên bài
Tôi thường tổ chức trò chơi này ở các Tiết ôn tập giữa học kỳ hoặc cuối học
kỳ. Nhằm rèn cho các em kĩ năng đọc đúng và rõ ràng một đoạn văn ở các ài tập
đọc trong SGK Tiếng Việt 2. Đồng thời luyện kĩ năng nghe hiểu và nhớ tên bài tập

đọc đã học.
Tương tự với trò chơi “Biết một câu, đọc cả đoạn ”: Tôi cũng chia lớp làm 3 nhóm, 2
nhóm chơi, 1 nhóm làm trọng tài. Nhóm A đọc đoạn văn; Nhóm B đoán tên bài và ngược lại. Thực hiện ở Tiết ôn
tập giữa học kì I.

Đọc đoạn văn
Nhóm A đọc
(1) Ngày xưa có một cậu bé làm việc gì cũng mau
chán. Mỗi khi cầm quyển sách, cậu chỉ đọc vài
dòng đã ngáp ngắn ngáp dài, rồi bỏ dở. những lúc
tập viết, cậu cũng chỉ nắn nót được mấy chữ đầu,
rồi lại viết nguệch ngoạc, trông rất xấu.
Nhóm B đọc
(3) Một lần khác, chúng con đang đi dọc bờ sông
tìm nước uống thì thấy lão Hổ hung dữ đang rình
sau bụi cây. Bạn con đã nhanh trí kéo con chạy
như bay.
- Bạn con thật thông minh và nhanh nhẹn. Nhưng
cha vẫn còn lo.
Nhóm A đọc
(4) Tan học Tuấn đến trước mặt Hà, gãi đầu
ngượng nghịu:
- Tớ xin lỗi vì lúc nãy kéo bím tóc của bạn. Thầy
giáo đã phê bình tớ. Thầy bảo phải đối xử tốt với
các bạn gái.
Nhóm B đọc
(2) Sáng hôm ấy, cô giáo gọi Lan lên bàn cô lấy
mực. Mai hồi hộp nhìn cô, nhưng cô chẳng nói gì.
Mai buồn lắm. Thế là trong lớp chỉ còn mình em
viết bút chì.


Đoán tên bài

Nhóm B trả lời
CÓ CÔNG MÀI SẮT
CÓ NGÀY NÊN KIM

Nhóm A trả lời
BẠN CỦA NAI NHỎ

Nhóm B trả lời
BÍM TÓC ĐUÔI SAM

Nhóm A trả lời
CHIẾC BÚT MỰC

9


Nhóm A đọc
(4) Bỗng một em gái đứng dậy, tiến tới chỗ mẩu
giấy, nhặt lên rồi đem vào bỏ sọt rác. Xong xuôi
em mới nói :
- Em có nghe thấy ạ. Mẩu giấy bảo: “Các bạn ơi!
Hãy bỏ tôi vào sọt rác!”
Cả lớp cười rộ lên thích thú. Buổi học hôm ấy vui
quá!
Nhóm B đọc
(3) Bỗng có tiếng cô giáo :
- Bác nhẹ tay kẻo cháu đau. Cháu này là học sinh

lớp tôi .
Cô nhẹ nhàng kéo Nam lùi lại rồi đỡ em ngồi dậy.
Cô phủi đất cát lấm lem trên người Nam và đưa
em về lớp.

Nhóm B trả lời
MẨU GIẤY VỤN

Nhóm A trả lời
NGƯỜI MẸ HIỀN

Kết quả: Trò chơi giúp các em củng cố, ôn luyện và khắc sâu kiến thức của
các bài tập đọc đã học.
Qua trò chơi các em rèn kỹ năng nghe, đọc và nhớ từ, câu, tên bài
tốt. i. Thi đọc truyện theo vai
Rèn kĩ năng đọc đúng và rõ ràng lời người kể chuyện; đọc đúng ngữ điệu lời
nhân vật trong các truyện kể cũng như luyện kĩ năng đọc thầm; tập trung chú ý
theo dõi người khác đọc để phối hợp nhịp nhàng khi đọc lời nhân vật trong truyện.
Đầu tiên tôi nêu yêu cầu chơi:
Từng nhóm thi đọc sẽ lần lượt lên đứng trước các bạn, mỗi HS cầm một cuốn
SGK để đọc đúng nội dung được phân công trong nhóm.
Cử ban giám khảo. Khi nghe ban giám khảo hô “bắt đầu”, các nhóm mới tiến
hành đọc theo vai.
VD: Ở bài tập đọc Chuyện bốn mùa (Tiếng Việt 2 Tập 2 – Trang 4). Tôi yêu
cầu 3 dãy bàn cử 3 nhóm mỗi nhóm 6 em lên đọc truyện theo vai. Các nhóm tự
phân vai:
HS1 đọc lời người dẫn chuyện, HS2 đọc lời nhân vật Đông, HS3 đọc lời nhân
vật Xuân, HS4 đọc lời nhân vật Hạ, HS5 đọc lời nhân vật Thu, HS6 đọc lời nhân
vật bà Đất.
Từng nhóm tham gia thi đọc truyện theo vai. Giáo viên cùng ban giám khảo

nhận xét, đánh giá chung và chọn nhóm đọc tốt để biểu dương.
Bên cạnh việc tạo hứng thú trong dạy môn Tập đọc, tôi quan tâm tiếp theo
đến Tổ chức trò chơi trong dạy Luyện từ và câu.
Kết quả: Với trò chơi này, giúp các em rèn kỹ năng đọc, biểu lộ tình cảm,
cảm xúc khi đọc từ đó trau dồi tình cảm của các em với các nhân vật trong bài đọc.
2.3.2. Giúp học sinh mở rộng vốn từ thông qua các hoạt động trò chơi trong dạy
Luyện từ và câu
a. Tìm nhanh từ cùng chủ đề
Ví dụ: Khi dạy Bài tập 1: Kể tên các môn em học ở lớp 2 (LT&C Tuần 7,
TV2 Tâp 1 - Tr.59). Tôi đã vận dụng trò chơi như sau:
10


A. Mục đích:
- Mở rộng vốn từ, phát huy sự liên tưởng, so sánh.
- Rèn tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thông minh và cách ứng xử
nhanh. B. Chuẩn bị: Bảng phụ hoặc giấy A3
C. Tiến hành chơi:
- Tổ chức 2 nhóm chơi (Mỗi nhóm 6 em). 1 nhóm làm trọng tài.
- Sau khi giải nghĩa từ ngữ được dùng để gọi tên chủ đề.
Giáo viên nêu yêu cầu: Hãy viết các từ chỉ tên các môn học ở lớp 2.
Từng nhóm ghi lại những từ đó vào bảng phụ. Thời gian viết 3 phút.
Sau thời gian quy định, các nhóm treo kết quả lên bảng và nhóm trọng tài tiến
hành chấm điểm.
Mỗi từ viết đúng được tính 1 điểm; mỗi từ viết sai bị trừ 1 điểm; nhóm nào có
số điểm cao nhất nhóm đó sẽ thắng và được tuyên dương.
* Với dạng Trò chơi này có thể được vận dụng dạy ở các bài Luyện từ và câu:
- Học kỳ I:
+ Bài tập 1: Hãy kể tên những việc em đã làm ở nhà giúp cha mẹ (LT&C Tuần 13,
TV2 Tâp 1 - Tr.108).

+ Bài tập 2: Tìm những từ chỉ đặc điểm của người và vật (Bài Tuần 15, Tr.122).
+ Bài tập 3: Viết tên các con vật trong tranh (Bài Tuần 16, Tr.134).
- Học kỳ II:
+ Bài tập 1: Nói tên các loài chim trong tranh (Bài tuần 22, Tr.35).
+ Bài tập 1: Tìm các từ ngữ có tiếng "biển" (Bài Tuần 25, TV2 Tập 2 - Tr.64)
+ Bài tập 2: Kể tên các con vật sống ở dưới nước (Bài Tuần 26, Tr.74).
+ Bài tập 1: Kể tên các loài cây (LT&C Tuần 28, TV2 Tập 2 - Tr.87).
+ Bài tập 1: Tìm những từ ngữ chỉ nghề nghiệp (Bài Tuần 33, Tr.129).
Học sinh tham gia trò chơi: Tìm nhanh từ cùng chủ đề.
Bài Luyện từ và câu (Tiết 7– Tuần 7): Kể tên các môn em học ở lớp 2

b. Tìm nhanh từ trái nghĩa
Ví dụ: Khi dạy Bài tập 1: Tìm từ trái nghĩa với mỗi từ sau: tốt, ngoan, nhanh,
trắng, cao, khỏe (Bài Tuần 16, Tr.133). Tôi đã vận dụng trò chơi như sau:
A. Mục đích:
- Nhận biết nhanh các từ ngữ trái nghĩa, làm giàu vốn từ của học sinh.
- Luyện trí thông minh, nhanh mắt, nhanh tay.
B. Chuẩn bị:
- 2 bộ thẻ từ có nội dung như nhau 1 bộ in trên giấy màu xanh, 1 bộ in trên giấy
màu vàng. Mỗi bộ có 8 thẻ từ đã ghi sẵn các từ (xấu, hư, chậm, đen, thấp, yếu,
xanh, giỏi).
- Một bộ thẻ từ in trên giấy màu hồng dành cho trọng tài. Trên mỗi thẻ từ này có
ghi các từ (tốt, ngoan, nhanh, trắng, cao, khỏe) .
C. Tiến hành chơi.
Mỗi nhóm cử một đội gồm 6 nguời chơi.
- Trọng tài lật 1 thẻ trong bộ thẻ từ của mình (chọn bất kỳ 1 thẻ trong bộ thẻ).
11


- Nguời của đội chơi phải chọn thật nhanh thẻ từ của mình có từ trái nghĩa với thẻ

từ của trọng tài để lật ra.
- Trọng tài công nhận thẻ từ lật ra là từ trái nghĩa, thẻ từ đó sẽ được ghi nhận đúng
và được 1 điểm; nếu sai thì không có điểm nào.
- Lật hết các thẻ từ, nhóm nào có số lượng thẻ từ đúng và được điểm nhiều hơn sẽ
thắng cuộc. Như vậy, đội thắng là đội nhận ra nhanh, đúng từ trái nghĩa.
* Chú ý: Trò chơi này có thể vận dụng dạy ở bài tập 1 - Luyện từ và câu tiết 32 tuần 32 trang 120 Sách TV2 Tập 2.
Học sinh tham gia trò chơi: Tìm nhanh từ trái nghĩa.
Bài Luyện từ và câu (Tiết 16 – Tuần 16)

c. Tìm “Kẻ trú ẩn”
Trò chơi này thường vận dụng trong dạy các bài tập Tìm vật trong tranh. Nên tôi
vận dụng dạy bài tập 1 - Tiết Luyện từ và câu Tuần 6.
A. Mục đích:
- Mở rộng vốn từ, tìm nhanh và gọi tên được các sự vật ẩn trong tranh.
- Luyện kỹ năng quan sát tinh, óc tưởng tượng, liên tưởng giỏi.
B. Chuẩn bị:
- Phóng to tranh bài tập 3 Tiết Luyện từ và câu ở tuần 6 (Tr.52 SGK TV 2 tập 1).
- Mỗi nhóm chơi 7 học sinh.
- 2 bảng phụ: Giấy A3, ghi sẵn nội dung phiếu học tập.
STTTÊN ĐDHT

Phiếu học tập nhóm …..
SỐ LƯỢNG
DÙNG LÀM GÌ

C. Tiến hành chơi:
1. Giáo viên nêu yêu cầu: Tìm số đồ vật được vẽ ẩn trong tranh (gọi là kẻ trú ẩn)
rồi ghi ra bảng phụ đã chuẩn bị. Trong khoảng 3 phút, nhóm nào tìm được đủ số
lượng đồ vật (tìm hết được những kẻ trú ẩn) là nhóm đạt giải nhất.
2. Các nhóm chơi cùng quan sát bức tranh do giáo viên đưa ra (hoặc trong sách

giáo khoa TV2) ghi lại các từ gọi tên các đồ vật đã quan sát được và số lượng mỗi
loại đồ vật đó vào bảng phụ của nhóm mình (thời gian 3 phút)
3. Hết thời gian, các nhóm lên đính tờ giấy ghi kết quả lên bảng. Giáo viên hướng
dẫn cả lớp hô ''đúng'' (hoặc ''sai'', hoặc ''thiếu'') giáo viên trợ giúp việc xác nhận kết
quả của từng nhóm.
- Khi các nhóm đọc xong kết quả, giáo viên cùng cả lớp dựa vào số lượng đồ vật
tìm được để thông báo nhóm thắng để tuyên dương.
* Chú ý: Trò chơi này có thể vận dụng dạy ở bài tập 1 - Luyện từ và câu tiết 11 tuần 11 trang 90 Sách TV2 Tập 1.
12


d. Thi ghép chữ thành từ
Ví dụ khi dạy bài tập 1 – LT&C Tuần 12: Ghép các tiếng sau thành những từ
có hai tiếng: yêu, thương, quý, mến, kính.
A. Mục đích:
- Mở rộng vốn từ bằng cách ghép tiếng.
- Rèn khả năng nhận ra từ, rèn tác phong nhanh
nhẹn. B. Chuẩn bị :
- Dựa theo bài tập 1, tiết luyện từ và câu tuần 12 (sách giáo khoa TV 2 tập 1Tr.99). Giáo viên làm các bộ thẻ từ ghi tiếng (đủ cho số nhóm học sinh tham gia
thi); mỗi bộ thẻ từ có kích thước khoảng 5cm x 15cm . Mỗi bộ gồm 24 thẻ ghi các
tiếng sau: yêu (8 thẻ); thương (4 thẻ); quý (3 thẻ); mến (6 thẻ); kính (3 thẻ).
- Băng dính để ghép 2 thẻ từ ghi tiếng thành một từ (2 tiếng).
C. Tiến hành chơi:
1. Căn cứ vào số bộ thẻ từ đã chuẩn bị, giáo viên lập các nhóm thi ghép tiếng thành
từ (mỗi nhóm 5 học sinh); Cử nhóm trưởng điều hành và vào ban giám khảo.
VD: Có 2 bộ thẻ từ - chọn 2 nhóm thi - cử 2 HS làm giám khảo cùng với giáo viên.
2. Giáo viên nêu yêu cầu:
- Mỗi nhóm có 1 bộ thẻ từ ghi các tiếng dùng để ghép thành các từ có 2 tiếng, các
nhóm dùng bộ thẻ từ để ghép từ (xếp lên mặt bàn, hoặc dùng băng dính để ghép 2
thẻ từ ghi tiếng lại để thành 1 từ).

- Sau khoảng 5 phút, các nhóm dừng lại; ban giám khảo (Giáo viên cùng các nhóm
trưởng) lần lượt đi đến từng nhóm để ghi kết quả và cho điểm (cứ xếp được 1 từ
đúng, được 1 điểm).
3. Giáo viên trao các bộ thẻ từ cho các nhóm thi ghép từ; phát lệnh ''bắt đầu'' cho
các nhóm làm bài. Ban giám khảo đánh giá kết quả ghép từ theo nội dung bộ thẻ từ
đã chuẩn bị (mục B) như sau:
- Ghép đúng, đủ 12 từ (mỗi từ có 2 tiếng) VD: Yêu thương, thương yêu, yêu mến,
mến yêu, kính yêu, yêu kính, yêu quý, quý yêu, thương mến, mến thương, quý
mến, kính mến.
- Ghép đúng mỗi từ được 1 điểm; đúng cả 12 từ được 12 điểm.
- Dựa vào điểm số, ban giám khảo xếp đội thắng cuộc và tuyên dương.
e. Xếp từ theo nhóm
Ví dụ khi dạy bài tập 1 – LT&C Tuần 26: Hãy xếp tên các loài cá sau vào 2
nhóm: Cá thu, cá mè, cá chép, cá chim, cá trê, cá chuồn, cá nục, cá quả (cá chuối)
a) Cá nước mặn (cá biển)
b) Cá nước ngọt (cá ở sông, hồ, ao)
A. Mục đích:
- Nhận biết nghĩa của từ bằng cách tìm ra những điểm giống nhau của sự vật mà từ
gọi tên.
- Rèn trí thông minh, khả năng phân tích, khái quát nhanh của đối tượng.
B.Chuẩn bị:
- Làm các thẻ từ trên mỗi thẻ ghi một từ cần phân nhóm. (2 bộ thẻ, mỗi bộ 8 thẻ)
- Số lượng người chơi là 2 nhóm chơi; mỗi nhóm 8 bạn chơi.
C. Tiến hành chơi:
1. Giáo viên phát cho mỗi nhóm chơi một bộ thẻ từ, nêu luật chơi.
13


VD: Dựa vào môi trường sống của các loài cá, hãy gắn thẻ ghi tên các loài cá vào
mục a hay mục b.

2. Mỗi người chơi của nhóm cầm 1 thẻ từ rồi dựa đặc điểm giống nhau của sự vật,
hành động để xếp các thẻ từ theo bảng phụ trên bảng lớp:
Phiếu học tập nhóm 1
Cá nước mặn
Cá nước ngọt

Phiếu học tập nhóm 2
Cá nước mặn
Cá nước
ngọt

3. Hết thời gian quy định (khoảng 3 phút) nhóm nào phân loại được đúng và nhanh
sẽ được tính điểm và được khen thưởng (mỗi từ phân loại đúng được tính 1 điểm)
* Chú ý: Trò chơi này có thể vận dụng dạy ở bài tập 1 - Luyện từ và câu tiết 23 tuần 23 trang 45 Sách TV2 Tập 2.
g. Đặt câu theo tranh
Ví dụ khi dạy bài tập 3 - LT&C Tuần 1: Hãy viết một câu nói về người hoặc
cảnh vật trong mỗi tranh sau:

A. Mục đích:
- Luyện cho học sinh biết dựa vào ý mà các bức tranh gợi ra, đặt được câu đúng
ngữ pháp, đúng nội dung tranh.
- Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, đặt câu, luyện tác phong nhanh nhẹn.
B.Chuẩn bị:
- Tranh vẽ dùng để đặt câu theo tranh đã được phóng to (theo SGK-TV 2, Tr.9).
- Các băng giấy, hồ dán để đính băng giấy lên bảng; bút dạ để viết câu lên băng
giấy.
- Chia lớp làm 4 nhóm, mỗi nhóm 3 học sinh.
C. Tiến hành chơi:
* Lần 1: 2 nhóm chơi, 2 nhóm còn lại làm trọng tài.
1. Giáo viên phát cho mỗi nhóm 3 băng giấy để viết câu và hướng dẫn cách

chơi. - Treo bức tranh 1 lên bảng, yêu cầu các nhóm quan sát.
- Mỗi nhóm chơi nhanh chóng suy nghĩ để đặt câu (có thể viết câu kể hoặc câu hỏi)
và viết câu của mình lên băng giấy rồi dán lên bảng lớp đúng cột ghi tên nhóm
mình (nếu không có giấy, mỗi nhóm viết các câu lên bảng lớp).
2. Hết thời gian chơi (khoảng 5) giáo viên cùng các nhóm đánh giá, rà soát từng
câu trên bảng. Nhóm nào có số lượng câu đặt đúng ngữ pháp, đúng nội dung, tranh
nhiều nhất sẽ đựơc thắng cuộc.
* Lần 2: 2 nhóm lần 1 làm trọng tài chơi, 2 nhóm đã chơi trọng tài.
(GV tổ chức cho HS chơi tương tự với bức tranh số 2)
14


* Chú ý: Trò chơi này có thể vận dụng dạy ở bài tập 3 - Luyện từ và câu tiết 30 tuần 30 trang 104 Sách TV2 Tập 2.
h. Thi đặt câu theo mẫu (Ai là gì?)
Trò chơi được vận dụng trong các tiết dạy có bài tập dạng Viết hoặc đặt câu
theo mẫu câu cho sẵn. Ví dụ với dạng Viết câu theo đúng mẫu: Ai là gì?
A. Mục đích:
- Rèn kĩ năng nói, viết câu đúng mẫu: Ai là gì? có sự tương hợp về nghĩa giữa
thành phần chủ ngữ và thành phần vị ngữ.
- Luyện trí so sánh, liên tưởng nhanh, tác phong nhanh nhẹn.
B.Chuẩn bị:
- Giáo viên chuẩn bị một số từ ngữ (danh từ, ngữ danh từ) phù hợp với đối tượng
học sinh lớp 2, phục vụ cho việc dạy các bài tập đặt câu theo mẫu Ai là gì? trong
sách giáo khoa TV2.
C. Tiến hành chơi:
- Những người chơi chia thành 2 nhóm (A; B), mỗi nhóm 3 đến 5 học sinh. Học
sinh 1 ở nhóm thứ nhất nêu vế đầu. (Vế câu Ai, con gì, cái gì)
Học sinh ở nhóm thứ 2 nêu vế thứ hai (Vế câu là gì?). Sau câu thứ nhất, tiếp tục
đổi lượt cho nhau để thực hiện ở câu thừ hai….. Nhóm nào không nêu được sẽ bị
trừ điểm. Hết giờ chơi, nhóm nào được nhiều điểm hơn sẽ thắng cuộc.

* Chú ý: Các kiểu mẫu câu khác (Ai làm gì? Ai thế nào?…) có thể tiến hành tương
tự.
2.3.3. Rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 thông qua tổ chức
trò chơi ở các phân môn học khác của Tiếng Việt.
a. Tổ chức trò chơi khi dạy phân môn Tập làm văn
Trò chơi: Sắp xếp câu trong một đoạn văn
Ví dụ khi dạy bài: Đáp lời xin lỗi. Tả ngắn về loài chim. (Trang 39 SGK
Tiếng Việt 2, tập 2)
Mục đích
- Thông qua bài tập 3 giúp HS nắm được cách sắp xếp câu trong một đoạn văn.
- Giúp HS phát triển óc tư duy, trí tưởng tượng, sự nhanh nhẹn, rèn luyện tinh thần
đoàn kết cho các em.
Chuẩn bị: GV chuẩn bị 2 bảng phụ có ghi các câu văn tả con chim gáy dành
cho 2 đội chơi, 2 bút dạ. GV và 3 HS làm trọng tài.
Chọn đội chơi: GV chọn 2 đội chơi, mỗi đội gồm 3
em: Đội 1: Đội Họa Mi và Đội 2: Đội Sơn ca
Tổ chức chơi: GV phát cho mỗi đội chơi 1 bảng phụ. Nhiệm vụ của mỗi đội
chơi là trong thời gian 3 phút suy nghĩ, thảo luận giữa các thành viên trong đội, sắp
xếp các câu tả con chim gáy để tạo thành đoạn văn cho phù hợp. Để làm được điều
đó, các thành viên trong mỗi đội chơi phải cùng nhau phân tích các câu để biết
được nội dung các câu văn đó là gì từ đó sắp xếp các câu cho hợp lí. Hết 3 phút các
đội chơi treo kết quả của đội mình lên bảng GV cùng các trọng tài nhận xét kết
quả. Đội thắng là đội sắp xếp các câu đúng, hợp lí và hoàn thành trong thời gian
sớm nhất.
b. Tổ chức trò chơi khi dạy phân môn Kể chuyện.
Trò chơi “Kể chuyện theo vai”
15


Ví dụ khi dạy bài: “Bạn của Nai nhỏ” (trang 24 – Tiếng Việt 2, tập 1)

Mục đích:
- Giúp HS ghi nhớ, kể lại câu chuyện “Bạn của Nai nhỏ” một cách sinh
động, hấp dẫn.
- Rèn luyện cho HS cách diễn đạt, sự mạnh dạn, tự tin.
Thời gian chơi: 6 – 8 phút.
Chuẩn bị: Chọn 1 tổ trọng tài gồm 3 em.
Chọn đội chơi: Chọn 3 đội chơi, mỗi đội 3 em đóng 3 vai (người dẫn
chuyện, Nai nhỏ và cha Nai nhỏ)
Tổ chức chơi: Lần lượt từng đội lên phân vai kể chuyện “Bạn của Nai nhỏ”
trong khoảng thời gian 2 phút. Quá 2 phút sẽ bị trừ 1 điểm. Kết thúc trò chơi đội
nào kể chuyện hay hơn, sinh động, hấp dẫn hơn và hết ít thời gian hơn là đội đó
thắng cuộc.
2.4. Kết quả đạt được
Sau khi áp dụng kinh nghiệm rèn kĩ năng thực hành tiếng Việt đối với phân
môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn và Kể chuyện cho học sinh bằng các
trò chơi học tập, tôi thấy trong mỗi giờ học đã thực sự cuốn hút học sinh, các em
đọc bài đảm bảo tốc độ, đọc đúng, đọc hay; chủ động nắm vững kiến thức về đơn
vị từ theo chủ đề, kĩ năng đặt câu hỏi và khả năng sử dụng vốn từ để đặt câu trong
viết câu, đoạn văn được cải thiện rõ rệt. Đặc biệt hơn, trong mỗi giờ học, các em
đều hưng phấn học tập, thực sự tự tin trong giao tiếp và hoạt động hợp tác, nhất là
hợp tác nhóm. Ngoài ra, các em còn tự mình hoàn thiện nhân cách tốt, biết yêu
thương con người, yêu quý cái đẹp, cái thiện trong những câu chuyện đã được đọc,
được học trong văn phong tiếng Việt, trong cuộc sống các em. Nhờ đó mà mỗi tiết
học tiếng Việt đều mang lại nhiều điều lí thú và bổ ích cho chính học sinh.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các giải pháp như đã thực hiện cũng giúp bản
thân không ngừng tìm tòi, đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, nhất
là về trò chơi học tập để tìm ra nhiều trò chơi lí thú, mới lạ xuất phát từ những điều
quen thuộc, gần gũi, giúp các em luôn cảm thấy thích thú trong mỗi giờ học Tiếng
Việt. Từ đó sẽ ngày một nâng cao hơn hiệu quả dạy học tiếng Việt.
Qua việc thực hiện các giải pháp trong dạy học tiếng Việt lớp 2 mà bản thân

đã áp dụng, qua việc chia sẻ với đồng nghiệp trong sinh hoạt chuyên môn, nhất là
trong nội dung viết sáng kiến kinh nghiệm chú trọng đổi mới phương pháp dạy
học, tôi đã nhận được nhiều sự ủng hộ của đồng nghiệp cũng như Ban giám hiệu
nhà trường, các bậc phụ huynh và lãnh đạo địa phương. Biện pháp mà tôi đã thực
hiện còn có thể áp dụng linh hoạt đối với các môn học khác trong nhà trường như:
HĐGD Đạo Đức, Tự nhiên và xã hội, HĐGD Âm nhạc, Hoạt động ngoại khóa …
Qua thời gian thử nghiệm trên lớp 2C (với 36 học sinh) do tôi phụ trách, kết
quả thu được sau các lần kiểm tra phần kiến thức về kĩ năng sử dụng vốn từ và câu
tiếng Việt trong môn Tiếng Việt như sau:
Bảng 2: Kết quả cuối kỳ 1 và cuối năm học 2018 - 2019
16


Kết quả
Các lần
kiểm tra
Cuối kì 1
Giữa kì 2

Hoàn thành
Tốt
SL
TL

SL

TL

15
17


21
19

58.3
52.8

41.7
47.2

Hoàn thành

Chưa
hoàn thành
SL
TL
0
0

0
0

Từ kết quả trên cho thấy, việc áp dụng kinh nghiệm “Rèn kĩ năng thực
hành Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 thông qua các trò chơi học tập” mà tôi đã
tiến hành thực sự đem lại hiệu quả nhất định góp phần nâng cao chất lượng dạy
học Tiếng Việt nói riêng và chất lượng giáo dục toàn diện nói chung.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua thời gian nghiên cứu và áp dụng Rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho
học sinh lớp 2 thông qua các trò chơi học tập một cách sáng tạo đã đem lại thành

công đáng kể. Được sự giúp đỡ, chỉ đạo của Ban Giám hiệu trường Tiểu học Xuân
Lập cùng các đồng nghiệp trong nhà trường, tôi rất phấn khởi vì đã rèn cho học
sinh kĩ năng thực hành tiếng Việt, giúp học sinh hiểu được sự đa dạng, phong phú
của từ vựng tiếng Việt. Giúp các em thấy được cái hay cái đẹp của ngôn ngữ tiếng
Việt. Qua đó, trẻ được phát triển nhiều kĩ năng, năng lực và rèn luyện phẩm chất
tốt đẹp của con người Việt Nam trong thời đại mới.
Như vậy, thông qua các tiết dạy được tổ chức bằng trò chơi học tập trong
dạy học Tiếng Việt lớp 2 dựa trên những câu chuyện cổ tích gần gũi, thân thuộc từ
những lời kể êm êm, ngọt ngào của bà, của mẹ. Hay những câu chuyện lí thú từ
những bài tập đọc trong chương trình. Hoặc cả những công cụ hỗ trợ dạy học
phong phú trong lớp học mà tôi đã thực hiện. Tôi thấy học sinh được rèn kĩ năng
về tìm từ ngữ, mở rộng được vốn từ phong phú cho mình; sử dụng được vốn từ để
đặt câu theo yêu cầu rất tốt. Đồng thời, các em có thêm hiểu biết về thiên nhiên,
con người Việt Nam, biết tự bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm người Việt; Các em đã
thực sự mạnh dạn, chủ động và tích cực hơn trong giao tiếp, hoạt động nhóm. Từ
đó cho thấy, muốn giờ học thú vị, bổ ích và đạt hiệu quả thì mỗi giáo viên phải
sáng tạo trong đổi mới phương pháp và tổ chức trò chơi học tập một cách mới mẻ,
thú vị trong dạy học; Chú trọng phát triển, rèn luyện kĩ năng, năng lực cũng như
bồi dưỡng phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho học sinh, giúp các em biết yêu thương
con người và đất nước Việt Nam. Đó cũng chính là chúng ta đang cùng nhau hoàn
thành tốt nhiệm vụ đổi mới giáo dục, đáp ứng được yêu cầu của xã hội ngày nay.
3.2. Kiến nghị
17


Để thực hiện việc Rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh lớp 2
thông qua các trò chơi học tập được hiệu quả và đồng bộ hóa ở các nhà trường, tôi
xin được kiến nghị một số vấn đề sau:
3.2.1. Đối với giáo viên
- Mỗi giáo viên cần sáng tạo trong đổi mới phương pháp và tư duy dạy học

để giúp trẻ chủ động nắm bắt kiến thức, phát triển kĩ năng và năng lực hoạt động.
- Khi thực hiện tổ chức trò chơi học tập cần tìm ra cái mới, cái lạ để kích
thích sự tò mò, trí tưởng tượng và sáng tạo cho trẻ bắt nguồn từ những điều giản
đơn, gần gũi nhất với trẻ”. Giáo viên phải khéo léo trong lựa chọn nội dung, cách
thức tổ chức cũng như cần chú trọng thêm các yếu tố nhằm hấp dẫn các em tham
gia chơi như: các yếu tố giả định trong những câu chuyện các em được đọc và
được học trong và ngoài chương trình, các dụng cụ chuẩn bị cho một trò chơi hay
phần thưởng trò chơi cần phù hợp, phong phú.
3.2.1. Đối với Nhà trường
- Quan tâm tạo mọi điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất như phòng đọc sách,
phòng truyền thống, tăng cường mua các loại sách, tài liệu về truyền thống, về thế
giới xung quanh ... để giáo viên và học sinh có thêm nhiều tư liệu tham khảo phục
vụ nhiệm vụ dạy và học đạt hiệu quả cao.
- Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, tạo sân chơi bổ ích cho học sinh được
trau dồi vốn từ ngữ, được vận dụng thực tiễn và phát triển kỹ năng sống.
Trên đây là một số giải pháp mà tôi đã áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả dạy
học tiếng Việt cho học sinh lớp 2. Trong khi tiến hành thực hiện, do điều kiện thời
gian có hạn, tôi không thể minh họa được qua nhiều tiết học. Các giải pháp đưa ra
chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội
đồng khoa học các cấp để giải pháp mà tôi thực hiện sẽ đạt được hiệu quả cao nhất.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

HIỆU TRƯỞNG

Lê Thị Nhung

Thanh Hóa; ngày 28 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình

viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết
Đỗ Thị Hằng

18


19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
TÊN TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
Sách Tiếng Việt 2 (Tập 1, Tập 2)
2
Sách giáo viên Tiếng Việt 2 (Tập 1,2)
3
Từ vựng tiếng Việt
4

Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt Tiểu học

5

Chuyên đề Giáo dục Tiểu học (Tập 21,
37,41)
Cách tổ chức trò chơi học tập môn Tiếng
Việt

Vở Bài tập Tiếng Việt 2 (Tập 1, 2)

6
7
8
9
10

Vở Bài tập Bổ trợ và nâng cao Tiếng Việt 2
(Tập 1, 2)
Luyện tập Tiếng Việt 2 (Tập 1, 2)
Tổ chức trò chơi học tập trong dạy học
Tiếng Việt lớp 2

TÁC GIẢ
Bộ GD&ĐT
Bộ GD&ĐT
GS.TS
Lê Phương Nga
GS.TS
Lê Phương Nga
Vụ Giáo dục Tiểu
học
Tài liệu Text
Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam
Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm
Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm

Lê Phương Liên
ĐH QG Hà Nội.

DANH MỤC
1


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI
ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ
GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đỗ Thị Hằng
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường TH Xuân Lập - Thọ Xuân - Thanh Hóa.
Cấp đánh

TT

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Tên đề tài SKKN


Một số biện pháp chỉ đạo hoạt
động nữ công trong công đoàn
nhà trường.
Một số ý kiến nhỏ về việc chỉ
đạo dạy Tập đọc, Tập đọc - Học
thuộc lòng ở lớp 3.
Công tác quản lý
Công tác quản lý
Công tác quản lý
Lĩnh vực Công đoàn
Một số biện pháp chỉ đạo hoạt
động nữ công ở trường Tiểu học
trong thời kỳ CNH - HĐH.
Một số biện pháp chỉ đạo giảng
dạy nhằm phát huy tính tích cực
hoạt động của học sinh khi học
các yếu tố hình học.
Ứng dụng CNTT trong công tác
quản lý trường học.
Một số biện pháp rèn kỹ năng so
sánh phân số cho học sinh lớp 4
Một số biện pháp rèn kỹ năng so
sánh phân số cho học sinh lớp 4
Rèn kỹ năng thực hành Tiếng
Việt cho HS lớp 2 thông qua các
trò chơi học tập.

Kết quả
đánh giá

giá xếp loại xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Phòng

C

2001

Phòng

C

2002

Phòng
Phòng
Sở
Phòng

C
B
C

B

2005
2008
2008
2010

Sở

C

2010

Phòng

C

2013

Phòng

C

2015

Phòng

B

2017


Sở

C

2017

Phòng

B

2019

2


×