Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (775.49 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đính nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG CỦA SKKN
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng
2.3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện
Giải pháp 1
Giải pháp 2
Giải pháp 3
Giải pháp 4
Giải pháp 5
Giải pháp 6
Giải pháp 7
Giải pháp 8
2.4. Hiệu quả của SKKN
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SKKN NGÀNH
GD&ĐT HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI
TỪ C TRỞ LÊN

TRANG
1


2
2
2
3
3
4
4
4
6
6
7
9
10
11
11
16
18
18
21
21
22
23
24

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đáp ứng nguồn nhân lực phục

vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông nước ta những
năm vừa qua đã được đổi mới cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học
gắn với bốn trụ cột giáo dục của thế kỉ XXI: Học để biết, học để làm, học để tự
khẳng định, học để cùng chung sống, mà thực chất là một cách tiếp cận kĩ năng
sống. Đó thực chất là một cách tiếp cận kĩ năng sống. Đặc biệt, rèn kĩ năng sống
cho học sinh đã được Bộ Giáo dục và đào tạo xác định là một trong năm nội
dung của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
cần được quan tâm đúng mức. Kĩ năng sống ở đây là kĩ năng sống ứng xử với
con người trong sinh hoạt, trong công việc, trong hoạt động xã hội và với thiên
nhiên. Học sinh phải có hiểu biết và có năng lực khéo léo xử lý, giải quyết các
tình huống có liên quan đến con người, sự việc và sự vật trong cuộc sống một
cách đúng đắn.
Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành nhân cách, giàu ước mơ, ham
hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu những hiểu biết sâu sắc về xã
hội, còn thiếu những kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo kích động ... Đặc biệt là
trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường
xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn phải
đương đầu với những khó khăn thách thức, những áp lực tiêu cực. Nếu không
được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống, các em sẽ bị lôi kéo vào các
hành vi tiêu cực bạo lực, lối sống ích kỉ, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về
nhân cách. Một trong các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một
bộ phận học sinh trong thời gian vừa qua như đánh nhau, đua xe,... chính là do
các em thiếu những kĩ năng sống cần thiết như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng
từ chối, kĩ năng giao tiếp...
Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp các em
rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ
quốc, giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc
sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích
cực, chủ động, an toàn, hài hòa và lành mạnh đồng thời nhằm tăng cường và

nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Để học sinh có năng lực
đó, nhà trường phải tổ chức cho học sinh rèn luyện trong học tập và các hoạt
động giáo dục trong nhà trường cũng như các hoạt động xã hội khác. Chính vì
thế tôi chọn đề tài “Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh lớp 5”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh.
- Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội;
giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói
quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật…
2


- Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự
chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban
đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào
đời.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Học sinh trường Trường Tiểu học Nga Phú, Nga Sơn nói chung. Học sinh
lớp 5B nói riêng.
- Biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5B trường Tiểu học
Nga Phú.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Tìm đọc tài liệu có liên quan đến việc
rèn kĩ năng sống cho học sinh.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin:
- Phương pháp khảo sát thực tế học sinh: Qua hai đợt ( đầu năm và cuối
học kì 1)
- Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động học tập (Xem các em có tích
cực tham gia vào các hoạt động hay không? Có kĩ năng giao tiếp hay không?...)
Quan sát hoạt động vui chơi. Quan sát hoạt động giao tiếp với mọi người xung

quanh (Thái độ khi nói chuyện với bạn bè, cách xưng hô với thầy cô giáo, với
người lớn tuổi, hành vi tốt xấu với mọi người…).
- Phương pháp thực hành: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua
các hoạt động để học sinh tự cảm nhận, đánh giá, nhận xét qua các hành vi và từ
đó hình thành các kĩ năng; thực hiện sự phối hợp trong và ngoài nhà trường, làm
tốt công tác xã hội hóa trong việc giáo dục kĩ năng sống.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm giáo dục: Phân tích các
nguyên nhân dẫn đến học sinh thiếu kĩ năng sống. Tổng hợp các biện pháp giáo
dục của giáo viên.

3


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận:
Kỹ năng sống là năng lực tâm lí xã hội để đáp ứng và đối phó với những
yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày, mà đặc biệt tuổi trẻ rất cần để
vào đời.
Kỹ năng sống là những kỹ năng cần có cho hành vi lành mạnh, tích cực
cho phép mỗi cá nhân đối mặt với những thách thức của cuộc sống hàng ngày.
Theo UNICEF, giáo dục dựa trên kỹ năng sống cơ bản là sự thay đổi
trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến
thức, thái độ và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức
(phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng vào
giá trị nào) thành hành động (làm gì và làm như thế nào?).
Mở rộng khái niệm: KNS không phải là năng lực cá nhân bất biến trong
mọi thời đại, mà là những năng lực thích nghi cho mỗi thời đại mà cá nhân đó
sống. Bởi vậy, KNS vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính dân tộc – quốc gia,
vừa mang tính xã hội – toàn cầu. Từ những khái niệm trên, KNS trong phạm vi
lứa tuổi học sinh tiểu học gắn liền với phạm trù kiến thức, kĩ năng và thái độ mà

học sinh được rèn luyện trong quá trình giáo dục. Tổng hợp kết quả giáo dục từ
bài học trên lớp và từ những hoạt động HĐGDNGLL, học sinh hình thành được
một số kĩ năng sống phù hợp như: Kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ
năng xác định giá trị, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng kiên định, kĩ năng đặt mục
tiêu,… Những kĩ năng này bao giờ cũng gắn với một nội dung giáo dục nhất
định như: giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục lòng nhân ái, giáo dục truyền
thống tôn sư trọng đạo, uống nước nhớ nguồn, giáo dục sống an toàn, khoẻ
mạnh…
Nền kinh tế của nước ta hiện nay được quản lý theo cơ chế thị trường.
Mặt trái của kinh tế thị trường với những nhân tố tiêu cực của nó, đã tác động
vào ý thức xã hội, trong đó có đạo đức xã hội. Một số chạy theo chủ nghĩa cá
nhân, xa rời những giá trị văn hoá đạo đức để cho chủ nghĩa thực dụng chi phối
hành vi đạo đức và cách ứng xử của họ. Vì vậy việc rèn luyện kĩ năng sống cho
học sinh theo một chuẩn mực đạo đức đẹp đẽ là hết sức cần thiết và bổ ích.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh” đang thực hiện khắp các ngành, các cấp. Việc nhà trường rèn
luyện kĩ năng sống chuẩn mực cho học sinh là hưởng ứng và nhập thân tích cực
vào phong trào chung có ý nghĩa nhân văn cao cả này.
Phong trào xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư cũng là phong trào lớn
hiện nay ở các cơ sở phường, xã, cơ quan, trường học…Sống rèn luyện cho học
sinh có văn hoá là chuẩn bị thiết thực cho các em hoà nhập vào cuộc sống cộng
đồng một cách chủ động tích cực.
2.2. Thực trạng kĩ năng sống trong trường hiện nay.
2.2.1. Ưu điểm:
* Về nhận thức:
4


Tuyệt đại bộ phận học sinh tiểu học đã nhận thức được là con người phải
sống theo chuẩn mực đạo đức của dân tộc, của xã hội. Những chuẩn mực đó đã

được chương trình môn đạo đức ở cấp tiểu học cung cấp khá đầy đủ, cụ thể và
có hệ thống như lễ phép, tôn trọng, chào hỏi mọi người, biết cám ơn, xin lỗi, biết
nhận lỗi, sửa lỗi, biết quan tâm tới mọi người, chia sẻ, giúp đỡ mọi người, tuân
thủ nội quy kỉ luật, pháp luật, giữ gìn vệ sinh môi trường…
* Về hành vi, cử chỉ:
Số đông học sinh trên cơ sở nhận thức đúng các chuẩn mực đạo đức, được
giáo dục đã có cử chỉ, hành vi ứng xử đúng đắn phù hợp với nhiều tình huống
sảy ra trong cuộc sống, được mọi người khen ngợi. Bản thân các em có niềm vui
chính đáng và niềm tự tin vào bản lĩnh của mình. Đó là những học sinh có kĩ
năng sống tốt theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
2.2.2. Hạn chế:
Một số ít giáo viên chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa
cho học sinh mà chưa chịu khó tìm tòi các hình thức phương pháp tổ chức cho
các hoạt động này nên học sinh chưa có hứng thú hoạt động.
Học sinh chỉ có học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống
trong cuộc sống kém, tính tự tin ít, tính tự ti nhiều. Khả năng giao tiếp hạn chế.
Tuy nhiên một bộ phận học sinh có những biểu hiện lệch chuẩn về kĩ
năng sống nhất là các em học sinh cuối cấp như ăn mặc chưa hợp với lứa tuổi,
nói tục, đánh nhau, cãi cọ nhau, ăn cắp, chưa lễ phép, chơi trò chơi trên điện
thoại, chưa vâng lời bố mẹ, thầy cô, không quen cảm ơn và xin lỗi, chưa chú ý
giữ gìn vệ sinh nơi công cộng và bảo vệ môi trường … Phụ huynh học sinh chỉ
khuyến khích các con học kiến thức mà quên hướng cho con em mình làm tốt
hoạt động đoàn thể và cách ứng xử. Một số ít gia đình xưng hô chưa chuẩn mực
nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm.
Qua khảo sát việc thực hiện kỹ năng sống của học sinh lớp 5B, tôi thu
được kết quả như sau:
Vi
Nội dung kĩ năng sống
Bình Có vi
Tốt

Khá thường phạm phạm
nhiều

1. Ứng xử với các tình huống

5

10

13

5

3

2. Thói quen và kỹ năng làm việc
theo nhóm

11

7

15

0

0

3. Rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo
vệ SK


10

15

8

0

0

4. Phòng chống tai nạn giao thông,
đuối nước và thương tích

12

9

10

02

0

5. Ứng xử có văn hoá.

6

13


11

3

0

6. Phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn
xã hội khác

6

10

9

3

5
5


2.3. Những nguyên nhân chính của những tồn tại trên
2.3.1. Về giáo viên:
- Một bộ phận giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa nên
chưa chịu khó tìm tòi các hình thức và phương pháp tổ chức cho các hoạt động
này nên làm mất sự hứng thú của học sinh.
- Giáo viên khuyến khích khen thưởng học sinh còn ít, chưa thật gần gũi,
thân thiện với học sinh.
- Công tác tuyên truyền đến các bậc cha mẹ thực hiện dạy các em kĩ năng

sống cơ bản chưa nhiều. Việc rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt
động giáo dục, vui chơi chưa sâu sát.
- Việc giáo dục và rèn luyện học sinh của gia đình và nhà trường chưa
thật tỉ mỉ và sâu rộng, chưa cuốn hút được mọi các em vào việc trao dồi, rèn
luyện đạo đức nói chung, kĩ năng sống nói riêng.
2.3.2. Về học sinh:
- Học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo,
ít sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động.
- Học sinh chỉ có học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống
trong cuộc sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy, gây gổ lẫn nhau.
- Kỹ năng giao tiếp hạn chế, hay nói tục, chửi bậy, mải chơi.
- Bản thân một số học sinh tu dưỡng chưa tốt sống cảm tính, học đòi, bắt
chước những người thiếu văn hoá có lối sống buông thả xung quanh.
2.3.3. Về Phụ huynh:
Nguyên nhân khiến đa phần học sinh khó tiếp cận được các hoạt động kỹ
năng thực hành xã hội là do phụ huynh không cho phép. Đa số phụ huynh cho
rằng con em mình chỉ cần học giỏi kiến thức.
Phụ huynh chỉ khuyến khích các con tìm kiến thức mà quên hướng cho
con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử, giao
tiếp trong gia đình, một số phụ huynh còn cưng chiều con. Xưng hô chưa chuẩn
mực nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm.
3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện:
Giải pháp 1. Giáo viên nhâṇthức sâu sắc về viêcc̣dạy trẻ kỹ năng sống.
Đầu năm học, tôi xây dựng kế hoạch rèn kĩ năng sống cho học sinh,
đồng thời tìm hiểu, năm bắt rõ hơn về thực trạng việc học kỹ năng sống của học
sinh ở lớp dưới, qua đó giúp giáo viên hiểu được rằng chương trình học chính
khoá thường cho trẻ học các kiến thức văn hoá trong suốt năm học, còn thực tế
trẻ sẽ học tốt nhất khi biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm xúc và xã
hội. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành vi
ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng

tập trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất.
6


Giáo viên nắm rõ 5 nguyên tắc về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh,
(tương tác, trải nghiệm, tiến trình và thay đổi hành vi, thời gian và môi trường
giáo dục).
Học sinh:
+ Tương tác: các kĩ năng thương lượng, kĩ năng giải quyết vấn đề …
được hình thành tốt trong quá trình HS tương tác với bạn bè và những người
xung quanh. Tạo điều kiện để các em có dịp thể hiện ý kiến của mình và xem
xét ý kiến của người khác... Do vậy GV cần tổ chức các hoạt động có tính chất
tương tác trong các hoạt động giáo dục để giáo dục kỹ năng sống cho các em.
+ Trải nghiệm: HS được hoạt động thực, có cơ hội thể hiện ý tưởng, có
cơ hội xử lí các tình huống cũng như phản biện…Kỹ năng sống chỉ được hình
thành khi người học trải nghiệm qua thực tế và nó có kĩ năng khi các em được
làm việc đó.
+ Nguyên tắc tiến trình và nguyên tắc thay đổi hành vi: Giáo viên không
thể giáo dục kỹ năng sống trong một lần mà kỹ năng sống là một quá trình từ
nhận thức- hình thành thái độ- thay đổi hành vi. Thay đổi hành vi của một con
người đặc biệt hành vi tốt là quá trình khó khăn. Do vậy giáo dục kỹ năng sống
không thể là ngày một ngày hai mà phải là cả một quá trình.
+ Thời gian và môi trường giáo dục: Giáo dục giáo dục kỹ năng sống
được thực hiện mọi lúc mọi nơi; giáo dục kỹ năng sống được giáo dục trong mọi
môi trường như gia đình, nhà trường, xã hội; cần phải tạo điều kiện tối đa cho
HS tham gia vào các tình huống thật trong cuốc sống.
Do đó trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh phải đảm bảo thực hiện tốt các nguyên tắc của giáo dục. Phân loại kĩ năng
sống, tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh; có nhận thức
đầy đủ về bản chất, mục tiêu, nguyên tắc giáo dục kĩ năng sống, nội dung của

các kĩ năng sống và biết lựa chọn kĩ năng sống cần giáo dục cho học sinh; biết kĩ
năng sống được tích hợp trong nhiều môn học của chương trình.
Giải pháp 2. Giáo viên thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng tạo
của học sinh gắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử dụng thiết bị dạy
học và ứng dụng CNTT trong dạy học, luôn tạo cho các em tính chủ động, tích cực,
hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu không khí cởi mở thân
thiện của lớp của trường. Trong giờ học, giáo viên cần tạo cơ hội cho các em được
nói, được trình bày trước nhóm bạn, trước tập thể, nhất là các em còn hay rụt rè,
khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy KNS cho các em.
Giáo viên cần thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học để phát huy
tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh (VD: sử dụng phương pháp thảo
luận nhóm, phương pháp gợi mở, nêu vấn đề, phương pháp đóng vai,...; biết lựa
chọn phối kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.);
qua các hoạt động học tập học sinh được rèn các kỹ năng phân tích, tổng hợp, tư
7


duy sáng tạo, hợp tác theo nhóm, kỹ năng đánh giá, kỹ năng hợp tác trong hóm,
kỹ năng xử lý tình huống...

(GV tổ chức cho HS thảo luận nhóm)
Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý
chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con
người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Trong một lớp học mà trình độ
kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng
phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ
hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi
công tác độc lập. Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái
độ đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi

trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá
nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh
luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua
đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Tứ đó học sinh có kỹ năng học
tập, ứng xử tốt, nhanh nhẹn, hoạt bát. Giáo viên cần tích cực đổi mới phương
pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của học sinh , giáo
viên cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi học
sinh . Vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học sinh như thế
nào để các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.

8


(GV đổi mới PPDH: Ứng dụng CNTT)

Hiệu quả giáo dục KNS không đo đếm được bằng những con số chính
xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức hơn,
thái độ tốt với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi nói
năng ... đó chính là hiệu quả từ giáo dục KNS. Việc sinh hoạt theo nhóm tạo môi
trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua các
hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp
bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Tham gia sinh hoạt theo
nhóm giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học tập và tạo nên cách ứng xử
hợp lý trong mọi tình huống. Khi sinh hoạt nhóm, tôi luôn đưa ra nhiều tình
huống tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách tạo sự gần gũi giữa
các em với nhau.
Giải pháp 3. Giáo viên phải xác định rõ những kỹ năng sống cơ bản cần dạy
trẻ ở lứa tuổi tiểu học.
Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kỹ năng quan trọng
mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là trẻ em độ

tuổi lớp 1 Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan
trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kỹ năng
sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu
và giao tiếp. Viêcc̣xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp
giáo viên lựa chọn đúng những nôịdung trọng tâm để dạy trẻ.
Kỹ năng sống tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần
chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận
được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác.
Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
Kỹ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên
giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với
các em học sinh lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông
và cùng làm việc với các bạn.
Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong
những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở các em vào giai đoạn này là sự khát
khao được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để
khêu gợi tính tò mò tự nhiên của các em. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các
câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu
gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.
Kỹ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt
ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức
của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan
trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như
đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu các em cảm thấy thoải mái khi
nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, các em sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ
sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới.
Ngoài ra, ở nhà trường giáo viên cần dạy học sinh nghi thức văn hóa trong
ăn uống qua đó dạy các em kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập
9



như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử
dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống sạch
sẽ, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức
ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén,
thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không
làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
Giải pháp 4. Giáo viên chủ nhiệm phải làm tốt công tác chủ nhiệm.
Công tác chủ nhiệm rất quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng học
tập cũng như hạnh kiểm của học sinh. Vì vậy giáo viên chủ nhiệm phải làm tốt
công tác chủ nhiệm mà nhà trường phân công, thường xuyên thay đổi các hình
thức sinh hoạt lớp, luân phiên nhau cho các em làm lớp trưởng, tổ trưởng, không
nên trong năm học chỉ để một em làm lớp trưởng. Với học sinh tiêu học, thày cô
giáo là người mẹ hiền thứ hai của các em, các em luôn luôn nghe lời dạy bảo và
làm theo những gì thầy cô dạy, thầy cô giáo phải là tấm gương sáng về đạo đức,
nhất là tấm gương về các ứng xử văn hóa, chuẩn mực trong lời nói và việc làm.
Rèn kỹ năng cho học sinh kết hợp với rèn học sinh thực hiện các nề nếp
hàng ngày: VD: Yêu cầu đi học đúng giờ: buộc học sinh phải có thói quen dậy
sớm, có tác phong nhanh nhẹn ( rèn kỹ năng khắc phục khó khăn để đạt mục
tiêu); Yêu cầu xếp hàng ra vào lớp thẳng hàng, ngay ngắn, không xô đẩy nhau
trong hàng (rèn cho học sinh kỹ năng kiềm chế bản thân, kỹ năng vận động, gây
ảnh hưởng); Yêu cầu học sinh đến lớp phải có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập (
rèn cho học sinh kỹ năng tự kiểm tra, xây dựng kế hoạch).
Tổ chức các hoạt động lao động vừa sức với học sinh: vệ sinh sân trường,
lớp học, trồng chăm sóc cây trên sân trường, bồn hoa, vườn trường, ; học sinh
được rèn một số kỹ năng như: cầm chổi quét, hót rác, tưới cây, tỉa lá,...; thông
qua đó HS biết sử dụng có hiệu quả đồ dùng lao động.
Giáo viên chủ nhiệm làm tốt công tác Đội TNTPHCM của lớp mình. Đó là
phải xây dựng Đôi bạn cùng tiến: nhóm bạn giúp nhau học tập, nhóm bạn ATGT,
nhóm phòng chống ma tuý, ... trong qua trình hoạt động của các nhóm, học sinh

được rèn kỹ năng hợp tác, chia sẻ, biết đối xử, ứng xử với bạn hài hoà phù hợp.
Ở tiết sinh hoạt lớp, giáo viên cần tạo điều kiện để các em tự đánh giá
nhận xét về bản thân và lớp của mình. Các em có thể trình bày ý kiến về những
việc làm tốt và chưa tốt; cùng nhau xây dựng nội quy của lớp; thiết kế, đề xuất
các việc làm, hoạt động hằng tháng và cả năm học.
Chức vụ lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ phó nên được thay đổi theo
tháng hoặc học kỳ để nhiều em được làm quen với kỹ năng điều hành, quản lý
công việc đồng thời ngăn ngừa cách sống tự kiêu, độc đoán có thể xảy ra ngay
từ tuổi học đường.
Xây dựng các quy tắc ứng xử với môi trường như giữ gìn vệ sinh trường
lớp, bảo vệ môi trường sống, rèn luyện và bảo vệ sức khoẻ, tiết kiệm năng
lượng, phòng chống tai nạn thương tích. Bên cạnh đó, cần chú ý xây dựng cảnh
quan trường lớp với những hình ảnh mang tính giáo dục và thẩm mỹ, những lời
hay ý đẹp như “Bảo vệ môi trường là bảo vệ chính cuộc sống của chúng ta”,
10


“Mỗi lần giao tiếp là mỗi lần bạn thể hiện mình”, “Bạn có thể vấp ngã, điều
quan trọng là bạn phải đứng lên”...
Ngoài ra, cần tạo cơ hội cho các em được bày tỏ ý kiến của mình đối với
thầy cô giáo và nhà trường qua việc thực hiện “Hộp thư điều em muốn nói” và
tổ chúc tư vấn cho học sinh. Rèn luyện KNS cho học sinh phải thông qua việc
làm cụ thể và sự chủ động cao của các em. Mục đích quan trọng nhất là giúp các
em tự tin hơn trong cuộc sống, đây là điều rất cần thiết trong cuộc sống của các
em sau này.
Giải pháp 5. Tuyên truyền cho các bâcc̣phụ huynh dạy trẻ kỹ năng sống
trong gia đình
Có thể thấy, học sinh thường dễ dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn
trong môi trường của riêng chúng hơn là chơi trong một nhóm bạn tại trường.
Nhiều giáo viên thấy rằng, một số học sinh có khó khăn trong việc kết bạn hoặc

chia sẻ với bạn theo nhóm, lại có thể hình thành mối liên kết thân thiết với bạn
mới trong môi trường gia đình của trẻ. Cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng
cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình. Cha mẹ
hãy hỏi con muốn mời ai về nhà chơi? Con thân với bạn nào? Mối quan hệ này
được duy trì khi đến trường, khi có được mối liên kết với một học sinh nào đó
trong lớp, các mối quan hệ khác sẽ hình thành tiếp theo một cách dễ dàng hơn.
Tuyên truyền để cha mẹ các em không nên bực bội khi các em về đến nhà
muộn hoặc cho rằng các em chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với
sự hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu tò mò bẩm sinh của học sinh, các em
có thể lĩnh hội nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng, đọc, làm toán, thử
nghiệm một số kỹ năng khoa học khi chơi với nhau.
Cha mẹ các em cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý
bằng việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ
nên tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà
trường và tham gia một số hoạt động ngoại khoá; chỉ bằng cách đó thôi cha mẹ
đã giúp các em hiểu rằng học là phải học cả đời.
Cần giáo dục để các em cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống
của cuộc sống. Cha mẹ giáo dục các em biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh
thức sự tự ý thức của các em, khơi gợi để các em luôn nghĩ về bản thân mình
một cách tích cực và đừng bao giờ phá vỡ suy nghĩ tích cực về bản thân các em.
Trong gia đình, việc dạy các em tự ăn uống rất cần thiết. Để các em có
được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác thuần thục
và khéo léo, không chỉ đòi hỏi các em phải thường xuyên luyện tập, mà còn phải
đáp ứng được những nhu cầu của các em, đó là cung cấp cho các em những mẫu
hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những
người xung quanh các em.
Giải pháp 6. Giáo viên giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức
các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường.
Các kĩ năng như đoàn kết, biết tương trợ nhau trong hoạt động, phân công
trách nhiệm trong hoạt động nhóm, kĩ năng giao tiếp, trình bày ý kiến trước đám

đông…là những kĩ năng quan trọng giúp các em vững vàng trong cuộc sống.
11


Như trên đã nói: các kĩ năng này đã được chú trọng và hình thành trong quá
trình dạy - học ở chương trình sách giáo khoa mới và nó chỉ có thể hình thành và
phát triển trong các hoạt động tập thể. Chính vì vậy tiết sinh hoạt lớp là môi
trường quan trọng giúp các em hình thành, củng cố kĩ năng này.
6.1. Các hoạt động tập thể do lớp tổ chức :
a. Tổ chức giờ sinh hoạt : Nội dung tiết sinh hoạt lớp :
Phần 1:
Cuối mỗi tuần, trong giờ sinh hoạt, lớp trưởng có trách nhiệm tổng hợp
số lỗi của từng thành viên trong các tổ ghi vào cột số 10 sau đó cộng tất cả các
lỗi của các thành viên trong tổ vào ô tổng lỗi của tổ. Căn cứ vào số lỗi mắc phải
của một tổ mà xếp loại tổ nhất, nhì, ba và tư, căn cứ vào số lỗi của mỗi thành
viên nếu thành viên nào không phạm lỗi nào hoặc phạm lỗi ít nhất hoặc có sự
tiến bộ nhất thì ghi vào mục tuyên dương. Đọc trước lớp về số lỗi của từng bạn,
từng tổ, xếp loại tổ, bạn được tuyên dương, bạn được khen thưởng. Ngoài ra
Lớp trưởng còn phải rút ra được những tồn tại chung của cả lớp có những đánh
giá và nêu giải pháp khắc phục. Đây là một công việc tương đối khó nên mấy
tuần đầu giáo viên trợ giúp để Lớp trưởng hoàn thành các nội dung trong sổ. Sau
đó dần dần để lớp trưởng tự hoàn thành các nội dung trên và đọc trước lớp trong
phần đầu mỗi buổi sinh hoạt lớp cuối tuần. Lớp phó có trách nhiệm cân đối giữa
số lỗi của mỗi thành viên trong lớp để trừ với số điểm 10 tương ứng, sau đó đọc
số điểm mười của từng bạn đạt được sau khi đó đối trừ. Giáo viên phát thưởng
cho học sinh đạt 10 điểm 10 (nếu có) và tuyên dương khích lệ trước lớp. Nội
dung này giúp các em biết phân công, điều hành, tương trợ nhau trong hoạt động
tập thể.
Phần 2:
Học sinh trong lớp đăng kí ý kiến và trình bày trước lớp những ý kiến của

mình. Để tránh việc học sinh hay thưa gửi trong các giờ học, giáo viên rèn cho
học sinh thói quen ghi lại các ý kiến và sẽ trình bày trong giờ sinh hoạt trừ các ý
kiến quan trọng cần giải quyết ngay. Thường thì các ý kiến học sinh phát biểu
xoay quanh những vướng mắc vấp phải trong quá trình hoạt động trong tuần và
nêu những lỗi mà bạn khác mắc phải chưa được giải quyết và các lỗi mắc phải
khi học sinh sinh hoạt học tập ở gia đình. Lúc này, giáo viên cần tôn trọng các
em trong khi học sinh phát biểu và khuyến khích các em diễn đạt ý kiến của
mình trước lớp một cách rõ ràng, mạch lạc. Sau đó giáo viên nên cho các em
cùng tham gia giải quyết các ý kiến học sinh nêu và chốt lại. Nếu học sinh mắc
lỗi giáo viên yêu cầu lớp Lớp trưởng ghi số lỗi đó vào tuần sau.
Phần 3:
Căn cứ vào báo cáo của học sinh, giáo viên đưa ra các công việc cần củng
cố và thực hiện trong tuần sau. Lớp trưởng ghi các công việc giáo viên phổ biến
vào mục Công việc tuần sau trong sổ theo dõi. (Riêng tiết sinh hoạt cuối tháng
ngoài các phần nội dung như đã nêu giáo viên tổ chức cho học sinh tổng hợp
thành tích các nhóm, tuyên dương, bình bầu học sinh phạm ít lỗi nhất được tham
12


gia trò chơi trong tuần sau đó và coi như đó là phần thưởng cho các nhóm có
thành tích).
6.2. Phong trào “Đôi bạn cùng tiến”:
Để tổ chức hoạt động này, đầu tiên giáo viên nêu mục đích và yêu cầu
của phong trào “Đôi bạn cùng tiến” đó là việc học sinh kết bạn và đăng kí giúp
đỡ nhau trong học tập, sinh hoạt. Nếu đã đăng kí tham gia phong trào “Đôi bạn
cùng tiến”, một bạn tiến bộ thì bạn còn lại cũng được khen ngợi, ngược lại nếu
một bạn mắc nhiều lỗi thì người còn lại cũng phải chịu một phần trách nhiệm.
Đầu tiên, giáo viên cho học sinh đăng kí và làm thí điểm ở một số đôi.
Sau mỗi tuần giáo viên có nhận xét, tổng kết hoạt động của các đôi bạn đã đăng
kí, khen ngợi những đôi có tiến bộ và có thể đặc cách cho cả đội đã tham gia trò

chơi cuối tháng coi đó là phần thưởng thưởng cho sự tiến bộ của các em. Sau
một thời gian, khi đó kích thích, thu hút học sinh tích cực hoạt động, giáo viên
mở rộng đến các đôi bạn khác.
6.3. Các hoạt động do nhà trường, Đoàn - Đội phát động
Tổ chức các hoạt động lao động vừa sức với học sinh: vệ sinh sân trường,
lớp học, trồng chăm sóc cây trên sân trường, bồn hoa, vườn trường, học sinh
được rèn một số kỹ năng như: cầm chổi quét, nhặt rác, hót rác, tưới cây, tỉa lá,...;
thông qua đó HS biết sử dụng có hiệu quả đồ dùng lao động.
Tổ chức các buổi nói chuyện nhằm giới thiệu, nâng cao nhận thức, hiểu
biết và ý thức rèn kỹ năng sống cho giáo viên, phụ huynh và học sinh.

(Chủ tịch cựu chiến binh xã nói chuyện chuyên đề)

Tổ chức các buổi sinh hoạt tập thể, hoạt động dã ngoại chăm sóc khu di
tích lịch sử, những người có công với cách mạng trên địa bàn xã.

13


(Tổ chức cho HS quét dọn đài tưởng niệm ; Ủng hộ người khuyết tật)

Ngoài các hoạt động tập thể của lớp thì các hoạt động tập thể do nhà
trường, Đoàn - Đội tổ chức như phong trào “Nhặt được của rơi, đem trả người
mất”, “Vòng tay bè bạn”. Các phong trào thi đua trong những ngày lễ lớn, các
phong trào rèn luyện đội viên … cũng là cơ hội rất tốt giúp giáo viên khai thác
để phát triển các kĩ năng như đã nêu. Để giúp các em phát huy tối đa khả năng
của bản thân. Đầu tiên, trước khi triển khai một phong trào tôi đều nêu mục
đích, yêu cầu của phong trào ấy sau đó tôi cho học sinh tham gia xây dựng kế
hoạch thực hiện và giao cho các nhóm tự phân công trách nhiệm thực hiện dưới
sự giám sát, khích lệ của giáo viên.

Sau mỗi một phong trào, giáo viên giúp học sinh đánh giá, phân tích những
việc được, chưa được, rút kinh nghiệm cho các hoạt động sau và không quên
chắt lọc khen ngợi những cá nhân, nhóm có hoạt động tích cực đạt kết quả.
6.4. Tổ chức các trò chơi ngoại khoá.
Trò chơi là một phương pháp dạy học tích cực không những củng cố, hình
thành các kiến thức khoa học mà là môi trường giúp học sinh hình thành, phát
triển.Thường xuyên tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi tập thể lành mạnh,
chơi các trò chơi dân gian, tổ chức các hoạt động văn nghệ thể thao, qua các
hoạt động rèn cho học sinh kĩ năng ứng xử với bạn bè, xây dựng tinh thần đoàn
kết tốt, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng hợp tác, kỹ năng quyết định, biết kiềm chế
bản thân trong khi xử lí các tình huống với bạn bè.

(HS giao lưu văn nghệ)

14


Hiện nay, với nội dung chương trình và phương pháp dạy học mới,
phương pháp trò chơi đã được đưa nhiều vào trong tiết học và quả thật giúp
phần đáng kể trong việc hình thành kiến thức và kĩ năng cho học sinh. Thu hút
học sinh hứng thú trong hoạt động học tập. Tuy nhiên, trò chơi trong các tiết học
thường có thời lượng không nhiều và chỉ tập trung vào các kiến thức khoa học
có trong bài dạy. Nhận ra đặc điểm này, tôi đã dùng trò chơi làm phần thưởng
cho các tổ, cá nhân tích cực trong các hoạt động thi đua như trên đã trình bày,
vừa khích lệ, thu hút học sinh tích cực rèn tính kỉ luật, phấn đấu mắc ít lỗi để
được tham gia trò chơi vừa giúp học sinh hình thành, phát triển các kĩ năng cần
thiết cho cuộc sống và tăng thêm vốn hiểu biết về kiến thức khoa học, xã hội …
Như trên đã trình bày, đối tượng tham gia các trò chơi là những nhóm, cá
nhân có thành tích trong phong trào thi đua hàng tuần và được tổng kết sau mỗi
tháng. (nhóm xếp thứ nhất là cả nhóm được tham gia trò chơi của tháng đó;

nhóm xếp thứ nhì thì cử 1/2 thành viên mắc ít lỗi nhất trong tổ được tham gia trò
chơi; nhóm xếp thứ ba được cử 1/4 thành viên mắc ít lỗi nhất trong tổ được tham
gia chơi). Các thành viên này được chia đều thành các nhóm tuỳ theo nội dung
mỗi trò chơi, số học sinh còn lại làm khán giả.
Các trò chơi thường tổ chức cho các em chơi đó là các trò chơi được vận
dụng từ các trò chơi có sức thu hút trên truyền hình như trò chơi; “Ai là triệu
phú”; “Rung chuông vàng” …Vì những trò chơi này có sức thu hút lớn và hầu
như tất cả học sinh đều biết luật chơi, giáo viên không mất nhiều thời gian
hướng dẫn mà học sinh tham gia chơi nhiệt tình.
Ví dụ 1: Lập chương trình liên hoan văn nghệ chào mừng ngày nhà giáo
Việt nam 20/11 ( Lớp 5B) thời gian 80 phút.
1.Mục đích: Chúc mừng và bày tỏ lòng biết ơn thầy cô. Nói lời hay làm việc tốt.
2. Phân công chuẩn bị:
- Đĩa, phích, chén, cây hoa, hoa, khăn trải bàn, loa đài... Thảo Linh và nhóm 2.
- Tiếp nước: Tổ 1
- Trang trí: Quốc Bảo, Anh Duy, Như Quỳnh.
- Báo tường: Linh An, Thùy Linh và Tổ 2.
- Văn nghệ: 4 tiết mục Tiêu chí chấm điểm chương trình nội dung, hình thức,
trình bày.
- Dẫn chương trình: Vân Anh, Quốc Toàn
- Tổ trọng tài gồm 3 em: Tuấn Vũ, Thu Trang, Văn Thành.
3. Chương trình cụ thể:
- Giới thiệu các thầy cô giáo về dự.
- Phát biểu chúc mừng và tặng hoa thầy cô.
- Giới thiệu báo tường.
- Chương trình biểu diễn văn nghệ: Tiết mục múa theo đĩa; Tam ca nữ; Hát đơn
ca; Hát tập thể bài “ Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng.”
- Hái hoa trả lời câu hỏi “nói lời hay làm việc tốt”.
- Kết thúc chương trình: đại diện cô giáo phát biểu ý kiến.
- Trao quà cho các em.

15


4. Rút kinh nghiệm
- Giáo viên trao đổi với học sinh:
+ Chương trình các em vừa làm vận dụng những kĩ năng sống nào?
+ Các em lập chương trình có khó khăn ở chỗ nào không?
+ Công tác chuẩn bị, những bạn được giao nhiệm vụ có hoàn thành tốt không?
+ Đánh giá của tổ trọng tài có công bằng không?
+ Bạn dẫn chương trình có tự nhiên không, nói có lưu loát không?
các em tự đánh giá xem mình ở mức độ nào?
- Khen ngợi những học sinh, nhóm làm việc tốt, nhóm diễn xuất sinh động nhất,
bạn có trang phục đẹp nhất, bạn dẫn chương trình hay, bạn có giọng nói truyền cảm
nhất... nhắc nhở các em một số điểm cần khắc phục để lần sau các em làm tốt hơn.
Ví dụ 2: Giáo viên và học sinh, học sinh với học sinh cùng tham gia hỏi và
trả lời trong suốt quá trình tổ chức hoạt động.
Hãy nói lời từ chối về một điều gì đó; một ai đó ở các tình huống các bạn
trong lớp đưa ra, song cái đích cần đạt được là cương quyết nói “không!”( rủ bạn
bỏ học đi chơi; không làm lao động, không làm trực nhật, làm những việc không
tốt, lấy tiền của bố mẹ đi chơi điện tử, ăn quà vặt...)
Ví dụ: Tình huống: Bỏ học đi chơi điện tử:
Lời mời
Cậu đi chơi với tớ một lúc đi!
Còn 30 phút nữa mới vào học cơ mà cậu!
Tớ dẫn cậu đến nhà chú Minh hôm trước
chú mở máy cho tớ chơi trò chơi bắn nhau
thích lắm
Thử một lần thôi, thích lắm!
Cứ đi một tý thôi mẹ cậu không biết đâu.
Đảm bảo cậu xem là thích rồi!

Con trai mà không biết trò chơi bắn nhau ấy
thì kém.
Nếu người kia vẫn cố tình lôi kéo bạn?

Lời từ chối
Tớ không đi đâu, sắp vào học rồi!
Không, tớ còn phải làm vệ sinh lớp
học.
Không, tớ không đi! Mẹ tớ dặn ai rủ
đi chơi ở đâu cũng không được đi.
Mà tớ không thích trò chơi bắn nhau.
Tớ không thử đâu!
Không, tớ không đi!
Không, tớ không thích!
Tớ kém cũng được!
Tìm cách bỏ đi hoặc không chú ý
đến bất kì điều gì người đó nói.

- Học sinh có thể đóng vai:
Giới thiệu tên - nội dung đóng vai - học sinh nhận xét….
Giải pháp 7. Rèn kĩ năng sống hiệu quả thông qua việc tích hợp vào các
môn học.
Giáo viên thực hành, vận dụng những phương pháp liên quan đến tổ chức
dạy kĩ năng sống trên lớp vào một số bài giảng nhằm thực hiện tốt việc giáo dục kĩ
năng sống sao cho các em được làm, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực.
* Môn Tiếng Việt:
Việc giáo dục kĩ năng sống trong môn Tiếng Việt ở tiểu học nhằm giúp
học sinh bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh kỹ năng sống cần thiết,
phù hợp với lứa tuổi, giúp các em nhận biết được những giá trị tốt đẹp trong
16



cuốc sống, biết nhìn nhận, đánh giá đúng về bản thân để tự tin, tự trọng và
không ngừng vươn lên trong cuộc sống, biết ứng xử phù hợp trong các mối quan
hệ với người thân, với cộng đồng và với môi trường tự nhiên; biết sống tích cực,
chủ động trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.
Ví dụ: Phân môn Kể chuyện (Bài Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai -Tuần 4 -TV5 tập 1):
Giúp HS thể hiện được sự cảm thông với những nạn nhân của vụ thảm sát Mĩ
lai, đồng cảm với những hành động dũng cảm của những người Mĩ có lương tri.
Rèn kỹ năng phản hồi, lắng nghe tích cực.
Phân môn Kế chuyện (Bài Lập chương trình hoạt động - Tuần 21 TV5 tập 2):
Rèn luyện cho học sinh tinh thần hợp tác (Ý thức tập thể, làm việc nhóm, hoàn
thành chương trình hoạt động). Thể hiện sự tự tin, đảm nhận trách nhiệm…
* Môn Đạo đức:
Việc giáo dục kỹ năng sống trong môn đạo đức nhằm bước đầu trang bị
cho học sinh các kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi tiểu học, giúp các
em biết sống và ứng sử phù hợp trong các mối quan hệ với những người thân
trong gia đình, với thầy cô giáo, bạn bè và những người sung quanh; với cộng
đồng, quê hương, đất nước. Giúp các em bước đầu biết sống tích cực chủ động,
có mục đích, có kế hoạch, tự trọng, tự tin, có kỷ luật, biết hợp tác, giản dị, tiết
kiệm, gọn gàng, ngăn nắp, vệ sinh, …để trở thành con ngoan trò giỏi trong gia
đình, học sinh tích cực của nhà trường và công dân tốt của xã hội
Ví dụ: Bài 1: Em là học sinh lớp 5: Rèn kỹ năng: Kỹ năng tự nhận thức (tự nhận
thức mình là học sinh lớp 5). Kỹ năng xác nhận giá trị (xác định được giá trị
mình là học sinh lớp 5). Kỹ năng ra quyết định (biết lực chọn cách ứng xử phù
hợp trong một số tình huống để xứng đáng là học sinh lớp 5).
Bài 11: Em yêu Tổ quốc Việt Nam: Rèn kỹ năng: Kỹ năng xác định giá trị
(Yêu Tổ quốc Việt Nam). Kỹ nămg tìm kiếm và xử lý thông tin về đất nước và
con người Việt Nam. Kỹ năng hợp tác nhóm. Kỹ năng trình bày những hiểu biết
về đất nước, con người Việt Nam.


(HS đóng tiểu phẩm xử lý tình huống)

* Môn Khoa học:
Môn Khoa học giúp học sinh hiểu một số kỹ năng sống cơ bản như: tự
nhận thức về bản thân, về tự nhiên, xã hội và các giá trị. Giao tiếp và ứng xử
thích hợp trong một số tình huống liên quan đến sức khỏe của bản thân. Tư duy
17


phân tích và bình luận về các hiện tựợng sự vật đơn giản trong tự nhiên; ra quyết
định phù hợp và giải quyết vấn đề hiệu quả, thích hợp với tình huống. Đạt mục
tiêu, quản lý thời gian và cam kết thực hiện. Vận dụng các kỹ năng trên để ứng
phó phù hợp trong thực tiễn cuộc sống. Cam kết thực hiện những hành vi tích
cực cho bản thân, gia đình và môi trường xung quanh. Tự giác thực hiện các quy
tắc vệ sinh, chăm sóc sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng.
Ví dụ: Bài 11: Dùng thuốc an toàn: Rèn kỹ năng: Kỹ năng tự phản ánh kinh
nghiệm của bản thân về cách sử dụng một số loại thuốc thông dụng. Kỹ năng xử
lí thông tin, phân tích, đối chiếu để dùng thuốc đúng cách, đúng liều an toàn.
Bài 48: An toàn và tránh lãng phí khi sử dụng điện: Rèn kỹ năng: Kỹ năng
ứng phó, xử lý tình huống đặt ra (khi có người bị điện giật, khi dây điện đứt…). Kỹ
năng bình luận, đánh giá về việc sử dụng điện (tiết kiệm, tránh lãng phí). Kỹ năng
ra quyết định và đảm nhận trách nhiệm về việc sử dụng điện tiết kiệm.
Giải pháp 8. Thực hiện tốt công tác phối kết hợp với các tổ chức đoàn thể.
Nhà trường phối kết hợp các tổ chức, đoàn thể để thực hiện rèn kỹ năng
sống cho học sinh: Phối kết hợp với gia đình học sinh, Hội cha mẹ học sinh: liên
lạc trao đổi thông tin về sự tiến bộ của học sinh, có thể được tư vấn thêm về
cách rèn luyện, giáo dục trẻ, tạo sự thống nhất giữa gia đình - nhà trường trong
cách giáo dục trẻ.
Công đoàn tham gia trong tổ tư vấn của nhà trường giúp trẻ biết tháo gỡ

vướng mắc, xử lý một số tình huống mà trẻ khó tự mình giải quyết đúng đắn.
Đoàn thanh niên thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể vui chơi
lành mạnh, bổ ích để trẻ được thực hành rèn kỹ năng sống. GV thường xuyên
lồng ghép rèn kỹ năng sống cho HS trong các giờ học.
Các đoàn thể của xã, xóm cũng tham gia tư vấn cho các gia đình về kiến thức
pháp luật, kiến thức khoa học, kinh nghiệm thực tế “nuôi con khoẻ, dạy con
ngoan”, tạo cho trẻ một môi trường lành mạnh, an toàn; dạy cho trẻ một số kiến
thức để trẻ biết tự bảo vệ mình (Ví dụ: cách từ chối, tránh xa các tệ nạn xã hội...)
Trong công tác phối hợp với phụ huynh học sinh nhà trường đặc biệt chú
ý chỉ đạo giáo viên phát huy cao công tác chủ nhiệm lớp. Chủ động phối hợp với
cha mẹ học sinh của lớp mình trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh:
chấp hành nội qui, qui định của nhà trường, chấp hành luật khi tham gia giao
thông… đồng thời để tranh thủ sự đóng góp về kinh phí, về nhân lực để thực
hiện các nội dung xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
2.4.1. Về tính kỉ luật của học sinh:
Học sinh có tính kỉ luật rất cao, các em thường rất ý thức trong các công
việc và thực hiện nghiêm túc những nội quy, quy định của lớp, của trường và
của địa phương một cách tự nguyện. Các thói hư như nói tục chửi bậy, đánh
nhau, hầu như không còn. Các em như trưởng thành hơn, “người lớn” hơn trong
các công việc trong khi đó các em không cảm thấy gò bó hay sợ sệt giáo viên.
18


Các em thực hiện thời gian biểu thành nếp, có ý thức tự giác cao, được hội phụ
huynh phản ánh tốt và rất khen ngợi.
2.4.2. Sự tiến bộ trong học tập của học sinh.
Nhờ có môi trường thi đua và có động lực phấn đấu nên học sinh rất tích
cực tham gia các phong trào học tập. Tự giác học. Chất lượng học tập của các
em tăng lên một cách rõ rệt đồng thời nhờ rèn được tính kỉ luật, các em vận

dụng tính kỉ luật đó vào các hoạt động học tập nên kết quả học tập của các em
có bước tiến rõ rệt.. Một trong những điều mà tôi tâm đắc nhất đó là việc học
sinh rất có ý thức tự giác trong học tập, lao động chuyên. Các em có những biểu
hiện hành vi đạo đức rất tốt.
2.4.3. Vốn kiến thức thực tế.
Do việc các em rất háo hức tham gia các trò chơi được tổ chức trong các
hoạt động tập thể mà kiến thức thực tế của học sinh rất phong phú, một phần các
kiến thức đó các em được giáo viên cung cấp thông qua các đáp án trò chơi, một
phần do các em bị trò chơi lôi cuốn nên đã tích cực tìm hiểu qua các nguồn tài
liệu, sách báo…Thông qua trò chơi, học sinh biết thêm được nhiều thông tin,
kiến thức không có trong sách giáo khoa nhưng lại rất gần gũi và thực tế giúp
các em vận dụng trong cuộc sống hàng ngày như việc xem tivi ngồi gần màn
hình bao nhiêu mét và nên để đèn sáng hay tắt đèn đi để xem ti vi …
2.4.4. Các kĩ năng sống của học sinh.
Các kĩ năng cần thiết trong cuộc sống của học sinh được hình thành, củng
cố và rèn luyện trong học tập và sinh hoạt. Khả năng diễn đạt ý kiến trước lớp
của các em tiến bộ không ngờ, nhiều em khi phát biểu các ý kiến nói đâu vào
đấy rất chững chạc trong các cử chỉ và cách ăn nói. Khi có khách vào lớp, các
em có thể trả lời các câu hỏi của khách hoặc của các thầy cô giáo rất mạnh dạn,
mạch lạc, rất tự nhiên, thể hiện sự tình cảm trong lời nói.
Trong các hoạt động nhóm các em biết tương trợ, giúp đỡ nhau cùng
hoàn thành công việc được giao. Các em biết chia sẻ nhường nhịn nhau, giúp đỡ
nhau trong học tập, sinh hoạt và trong cuộc sống. Biết lắng nghe ý kiến của
nhau, tôn trọng nhau và đặc biệt có tình cảm đối xử với nhau rất chân thành.
Các em được lôi cuốn vào các hoạt động phong trào nên đã tránh được
thói hư tật xấu ngoài xã hội. Không có học sinh chơi điện tử, không có học sinh
nói tục, không có học sinh ăn quà vặt vứt rác bừa bãi. Nhờ những kiến thức thực
tế được hình thành phong phú, đa dạng mà các em đã tự khẳng định được ý chí,
quyết tâm vươn lên trong học tập, vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
* Cuối năm học, tôi đã cho giáo viên khảo sát việc rèn luyện kĩ năng sống

của học sinh lớp 5B. Kết quả như sau:
Nội dung kĩ năng sống
Tốt

Kết quả rèn luyện
Bình
Có vi
Khá thường phạm

Vi
phạm
19


nhiều
1. Ứng xử với các tình huống
25 05
3
0
0
2. Thói quen và kỹ năng làm việc theo
30 03
0
0
0
nhóm
3. Rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ
31 2
0
0

0
SK
4. Phòng chống tai nạn giao thông, đuối
30 03
0
0
0
nước và thương tích
5.Ứng xử có văn hoá.
30 03
0
0
0
6.Phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội
31 02
0
0
0
khác
* Khảo sát qua quan sát HS thực hành thảo luận nhóm trong một số tiết Đạo đức.

Tổng
số HS
33
Tổng
số HS
33

Tổng
số HS


33

Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp tác
Chưa biết cách lắng nghe, hay
tách ra khỏi nhóm
SL
%
SL
%
30
90.9
3
9,1
Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể.
Biết cách ứng xử hài hoà
Hay cãi nhau, xô đẩy bạn
khá phù hợp
khi chơi
SL
%
SL
%
31
93,9
2
6,1
Thực hiện tính tự giác.
Tự giác thực hiện các nề nếp

Tự giác ngồi học bài ở nhà
Tự giác
không cần
nhắc nhở
SL
%
32

96.9

Cô giáo và các
bạn còn phải
nhắc nhở
SL
%
1

3.1

Tự giác không
cần nhắc nhở
SL

%

31

93.9

Chưa tự giác,

bố mẹ phải
nhắc nhở nhiều
SL
%
2

6.1

20


21


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Dạy KNS cho tuổi trẻ học đường trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu
cấp thiết ở các trường phổ thông nói chung, bậc tiểu học nói riêng. Trong lúc nội
dung về rèn luyện KNS chưa được đưa vào thành một chương trình riêng mà
chủ yếu được giáo viên lồng ghép trong từng bộ môn như môn Đạo đức, tiếng
Việt… hay trong các tiết chào cờ đầu tuần. Với thời lượng hạn hẹp như vậy, các
em chưa được trang bị đầy đủ các KNS. Đó là điều đang còn khó khăn, lúng
túng cho các nhà trường nhằm rèn luyện KNS cho học sinh. Một trong những
mục tiêu được chú trọng mà Bộ GD-ĐT yêu cầu là tăng cường giảng dạy KNS
cho học sinh tiểu học. Mong rằng các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy, các nhà
quản lý giáo dục quan tâm và thực hiện tốt nội dung này. Tuy nhiên, làm thế nào
để triển khai hoạt động rèn KNS một cách hiệu quả thu hút được học sinh và các
bậc phụ huynh đang là trăn trở của các thầy cô giáo, các nhà trường và toàn xã
hội hiện nay. Tùy vào hoàn cảnh thực tế của từng địa phương, nhà trường mà tổ
chức sao cho sáng tạo và hiệu quả.

Từ thực tiễn tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5B
ở trường Tiểu học Nga Phú tôi đã có thể rút ra một số kết luận sau đây:
1. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động, để học
sinh tự cảm nhận, đánh giá, nhận xét qua các hành vi và từ đó hình thành các kỹ
năng; thực hiện sự phối hợp trong và ngoài nhà trường làm tốt công tác xã hội
hoá trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Để học sinh thực hiện tốt
những kĩ năng sống chuẩn mực, người giáo viên phải là tấm gương sáng về mọi
mặt và biết nắm vững nội dung, biết chọn phương pháp phù hợp, hấp dẫn, biết
tìm nhiều hình thức tổ chức sinh động, linh hoạt để gây hứng thú, niềm say mê
học tập, rèn luyện cho học sinh.
Rèn luyện kỹ năng sống trong mối quan hệ đa dạng của cuộc sống cần
sự tỷ mỉ, cụ thể, kiên trì và bền bỉ của giáo viên và học sinh. Vì từ nhận thức đến
hành động có một khoảng cách khá xa, từ làm được đến làm thành thạo và trở
thành thói quen, nề nếp ứng xử có đạo đức là một quá trình lâu dài không thể
một sớm một chiều mà có được. Phải kết hợp đồng thời nhiều phương pháp rèn
luyện kỹ năng sống để tạo ra tác động đa chiều đối với học sinh giúp các em
hình thành thói quen ứng xử bền vững.
Phong trào thi đua xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực
còn đang tiếp diễn trong các nhà trường phổ thông. Nội dung của phong trào đề
cập đến nhiều vấn đề rất quan trọng, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc cần được
nghiên cứu kỹ nội dung, tìm tòi nhiều giải pháp hiệu quả, sáng tạo nhằm thực
hiện tốt những vấn đề đặt ra, góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện của các nhà trường làm cho nhà trường phát triển ngày càng mạnh mẽ
và bền vững hơn.
2. Giáo dục kỹ năng sống còn tạo mối quan hệ thân thiện, cởi mở giữa
thầy, trò, sự hứng thú tự tin, chủ động sáng tạo trong học tập, nâng cao chất
lượng, hiệu quả giáo dục. Học sinh được giáo dục kỹ năng sống xác định được
bổn phận và nghĩa vụ của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội.
22



3. Giáo dục kỹ năng sống còn cần đến vốn sống, tình thương và nhân
cách của người thầy. Học sinh học kiến thức ở thầy trước hết là ở tấm gương
sống của người thầy. Vì vậy, để học sinh không thất vọng vì thầy thì trước hết
“Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” mà ngành
Giáo dục đang phát động.
4. Giáo dục kỹ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ
sung, nâng cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động. Người
trưởng thành cũng vẫn cần học kỹ năng sống.
5. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh không phải là công việc “một
sớm, một chiều” mà đòi hỏi phải có quá trình, kiên nhẫn và bằng cả tâm huyết
và ở mọi lúc, mọi nơi, thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Kỹ năng sống
rất đa dạng và mang đặc trưng vùng, miền đòi hỏi người giáo viên phải vận
dụng một cách linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp với nhu cầu, trình độ của học
sinh và đặc điểm, hoàn cảnh của nhà trường, địa phương.
6. Giáo dục kỹ năng sống không phải chỉ là công việc của giáo viên, nhà
trường mà của cả xã hội, cộng đồng, có như vậy mới mong đào tạo ra được
những thế hệ trẻ phát triển toàn diện, chuẩn bị tốt cho việc thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
3.2. Kiến nghị:
- Với chính quyền địa phương: Ban văn hóa xã có những hoạt động hiệu
quả hướng tới đối tượng học sinh, góp phần giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống
cho các em.
- Đối với nhà trường: Cần tổ chức nhiều hơn các hoạt động NGLL, các
hoạt động trải nghiệm để HS được rèn luyện KNS.
- Đối với phụ huynh học sinh: Phụ huynh học sinh cần phải quan tâm
nhiều hơn nữa đến việc giáo dục con em ở gia đình, thường xuyên phối kết hợp
chặt chẽ với nhà trường và xã hội.
Trên đây chỉ là kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn quá trình tổ chức
thực hiện "Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh" ở lớp 5B do tôi chủ nhiệm. Tôi

rất mong đồng nghiệp và bạn đọc đóng góp ý kiến xây dựng bổ ích.
Xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
HIỆU TRƯỞNG

Mai Huy Hợi

Nga Sơn, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Trịnh Văn Thành

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS-TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc. Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học
sinh THCS. NXB Đại học quốc gia Hà Nội – 2008.
2. Luật Giáo dục 2005 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật giáo dục
2009.
3. Chỉ thị 40/2008/CT-BGDĐT Về việc phát động phong trào thi đua “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai
đoạn 2008-2013
4. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học” – Lớp 5 - NXB Giáo
dục- năm 2009
5. Lưu Thu Thủy - “ Bài tập thực hành kĩ năng sống” 5 - NXB Đại học Sư phạm
– 2012

6.Tài liệu tập huấn KNS cho HS tiểu học – Nhóm biên saọn gồm PGS.TS
Nguyễn Thanh Bình và TS Lưu Thu Hương
7. Lê Văn Hồng. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học Sư phạm - Nxb Hà Nội 1995

24


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG
KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C
TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Văn Thành
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường tiểu học Nga Phú

TT
1.
2.

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)


Nâng cao chất lượng đọc
hiểu bằng bài tập trắc
Huyện
B
nghiệm cho HS lớp 4
Hướng dẫn học sinh lớp 5
Huyện
C
viết văn miêu tả
----------------------------------------------------

Năm học
đánh giá
xếp loại
2007 – 2008
2014 – 2015

25


×