Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN: Áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc – hiểu tác phẩm văn học ở chương trình Ngữ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.48 KB, 23 trang )

SỞ GD&ĐT VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT TRẦN HƯNG ĐẠO
=====***=====

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC NHẰM
GIÚP HỌC SINH PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO TRONG GIỜ
ĐỌC – HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC Ở
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12

Tác giả sáng kiến:Từ Thị Kim Tuyến
Mã sáng kiến: 095104

Vĩnh Phúc, năm 2020


SỞ GD&ĐT VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT TRẦN HƯNG ĐẠO
=====***=====

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC NHẰM
GIÚP HỌC SINH PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO TRONG
GIỜ ĐỌC – HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC Ở
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12



Tác giả sáng kiến:Từ Thị Kim Tuyến
Mã sáng kiến: 095104

Vĩnh Phúc, năm 2020


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung và đổi mới mới phương pháp
giảng dạy môn Ngữ văn nói riêng là một vấn đề không phải là mới. Nhưng để
thực hiện triệt để mục tiêu đổi mới phương pháp giảng dạy của ngành đặt ra
không phải là dễ. Vấn đề cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học là hướng tới
hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, chống lại thói quen học tập thụ
động. Tức là đổi mới nội dung và hình thức hoạt động của giáo viên và học sinh,
đổi mới hình thức tổ chức dạy học. Bản thân tôi khi lựa chọn đề tài “Áp dụng
phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học sinh phát huy tính sáng tạo
trong giờ đọc – hiểu tác phẩm văn học ở chương trình Ngữ văn 12” đã vấp
phải không ít khó khăn trong quá trình nghiên cứu và thực hiện. Phần vì kinh
nghiệm giảng dạy của bản thân chưa nhiều, đối tượng học sinh, cơ sở vật chất và
thiết bị dạy học còn nhiều hạn chế. Song bằng nỗ lực của bản thân, qua đề tài
này tôi muốn có cái nhìn mới về đổi mới phương pháp giảng dạy trong giảng
dạy môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông. Từ đó đưa ra một số kết luận và
khuyến nghị qua quá trình thực hiện với hi vọng rằng đề tài này là một tài liệu
tham khảo có ý nghĩa đối với các đồng nghiệp, đặc biệt là các đồng nghiệp trực
tiếp giảng dạy môn Ngữ văn.
Tuy nhiên, bản thân kinh nghiệm giảng dạy môn Ngữ văn còn ít, giảng
dạy trong điều kiện cơ sở vật chất và đối tượng học sinh còn nhiều hạn chế nên
đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý

kiến của các bạn đồng nghiệp và Lãnh đạo nhà trường.
2. Tên sáng kiến: Áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học
sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc – hiều tác phẩm văn học ở chương
trình ngữ văn 12
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Từ Thị Kim Tuyến
- Địa chỉ : Trường THPT Trần Hưng Đạo –Tam Dương - Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0978311604
- Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Từ Thị Kim Tuyến
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Đề tài này, tôi tập trung đi sâu vào nghiên cứu một số phương pháp dạy học
tích cực nhằm giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc – hiều tác


phẩm văn học ở chương trình ngữ văn 12.Do thời gian và nguồn tư liệu có hạn,
với trình độ của giáo viên THPT, đề tài này tôi chỉ tìm hiểu một số phương pháp
dạy học tích cực và giới thiệu các phương pháp dạy học tích cực ở một số các
tác phẩm.Từ đó, giáo viên và học sinh tìm ra được giá trị của các phương pháp
dạy học tích cực một cách chủ động sáng tạo, khoa học và hiệu quả thông qua
việc tìm hiểu về các phương pháp dạy học tích cực trong một số tác phẩm văn
học hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn lớp 12 bên cạnh các phương
pháp dạy học khác. Đồng thời cũng có thể vận dụng phương pháp này vào tất cả
những giờ đọc văn khác
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử, ( Năm học 20192020)
7. Mô tả bản chất của sáng kiến.
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Lí do chọn đề tài.
Từ nhiều năm nay, việc dạy học môn Ngữ văn được thực hiện theo

phương pháp truyền thống thiên về lí thuyết, thầy cô giáo soạn bài giảng, truyền
thụ đến học sinh, học sinh tiếp thu thụ động kiến thức ấy, ghi nhớ và vận dụng
vào bài kiểm tra. Cứ như thế thành một chu kì khép kín. Phương pháp dạy học
này có những ưu điểm riêng không thể phủ nhận được là đã đạt những kết quả
đáng kể trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi. Tuy nhiên trong môi trường giáo
dục ngày nay phương pháp truyền thống ấy cũng bộc lộ không ít nhược điểm
như: Học sinh thụ động, chỉ biết tiếp nhận một chiều chứ không tự nghiên cứu,
tìm hiểu. Như thế, hậu quả khó tránh khỏi là học sinh dần dần mất đi năng lực tư
duy, tự cảm thụ tác phẩm mà chỉ chấp nhận và sao chép lại cảm thụ của thầy cô;
Giáo viên chỉ thuyết giảng, thỉnh thoảng lại đặt vào câu hỏi chiếu lệ sẽ không
thể nắm bắt được hiệu quả tiếp thu cũng như quan điểm, thái độ của học sinh.
Cảm nhận văn học mang tính chủ quan của giáo viên không có sự phản hồi từ
học sinh sẽ dễ trở thành khiên cưỡng áp đặt; Giờ đọc văn vì không có sự tương
tác qua lại giữa thầy và trò nên dần trở nên buồn tẻ, nặng nề không hứng thú.
Trước thực trạng ấy, có thể thấy đổi mới phương pháp dạy học là việc làm
cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với việc vực dậy môn Ngữ văn vốn đang
mất dần sức hút đối với học sinh.
Trong những năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều cải cách quan trọng từ
giáo dục ở bậc tiểu học cho đến đào tạo đại học và sau đại học. Riêng ở phổ


thông, sự đổi mới thể hiện trên nhiều phương diện, rõ nhất là về chương trình,
sách giáo khoa và đặc biệt là phương pháp dạy học.
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là
thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy
học tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng
kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và thực tiễn, tạo niềm
tin, niềm vui hứng thú trong học tập.
Từ mục đích của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, tôi xin trao đổi

kinh nghiệm của bản thân về việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm
giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc - hiểu tác phẩm văn học ở
chương trình Ngữ văn 12.
2. Mục đích nghiên cứu :
Mục đích nghiên cứu đề tài này là góp phần rèn luyện tính sáng tạo cho
các em học sinh. Đồng thời giúp các em tiếp cận tri thức một cách hiệu quả nhất.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
+ Khách thể: Học sinh lớp 12 Trường THPT A.
+ Đối tượng nghiên cứu: Áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm
giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc - hiểu tác phẩm văn học ở
chương trình ngữ văn 12.
4. Giả thiết khoa học.
Một thực tế cho thấy, chất lượng giáo dục ở các trường THPT hiện nay
chưa đáp ứng mục tiêu đào tạo. Do khả năng nhận thức của cha mẹ học sinh còn
hạn chế, chưa chú trọng đến việc học hành của con cái, nên chưa có ý thức nhắc
nhở, động viên con em mình đến trường, chưa làm cho con em mình thấy được
giá trị của việc học; do các thầy cô giáo áp dụng các phương pháp dạy học chưa
phù hợp, chưa tạo ra được sức hút để học sinh đến trường. Nếu có sự phối kết
hợp tốt giữa gia đình và nhà trường, nếu các thầy cô giáo thực hiện tốt việc đổi
mới PPDH theo hướng tích cực thì chất lượng dạy - học sẽ được nâng cao lên rõ
rệt. Đặc biệt là trường THPT A.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Đáp ứng yêu cầu của việc thực hiện đổi mới chương trình SGK và
phương pháp dạy học.
- Thường xuyên áp dụng các phương pháp dạy học tích cực trong các giờ
đọc - hiểu tác phẩm văn học nhằm phát huy tính sáng tạo của học sinh.
- Thực hiện biện pháp tác động nhằm cải tạo thực trạng để nâng cao chất
lượng dạy và học.



6. Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài này tôi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Các phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Đọc sách và tài liệu tham khảo có
liên quan đến đề tài, để khái quát những vấn đề, làm cơ sở cho vệc nghiên cứu
thực tiễn.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát theo dõi học sinh hoạt động
trong tất cả các giờ đọc - hiểu tác phẩm văn học.
+ Phương pháp An két: Xây dựng một hệ thống câu hỏi ghi trên phiếu bài
tập, tìm hiểu mức độ nhận thức, biểu hiện, nguyên nhân của các em để có những
biện pháp khắc phục.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm những biện pháp nhằm
rèn luyện tính chủ động, sáng tạo cho học sinh trong thời gian một học kì và so
sánh kết quả thực nghiệm với kết quả thực trạng ban đầu chưa thực nghiệm, để
đánh giá kết quả của thực nghiệm có thành công hay không.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Phương pháp này sử dụng
trong mỗi tiết học thông qua kết quả của việc áp dụng PPDH tích cực.
+ Phương pháp trò truyện: Trong quá trình dạy học tôi thường xuyên trò
truyện gần gũi với học sinh, trong giờ học hay ngoài giờ học, nhằm tạo cho học
sinh tính tự tin, bạo dạn. Để thăm dò mức độ biểu hiện của từng học sinh, từ đó
lập kế hoạch hướng dẫn rèn luyện cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.

PHẦN II
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU


A- CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI.
I. Cơ sở lý luận:
1. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã phân tích và

nhận định sâu sắc thực trạng phương pháp giảng dạy ở nước ta thời gian qua còn
chậm đổi mới, chưa phát huy được khả năng sáng tạo của người học và yêu cầu
đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành lối tư duy sáng tạo ở người học.
2. Luật giáo dục của nước CHXHCNVN trong điều 4 (yêu cầu về nội
dung phương pháp giáo dục) cũng chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy
tính tích cực tự giác, chủ động, tư duy, sáng tạo ở người học, bồi dưỡng năng
lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật Giáo dục - trang 9 1998)
II. Cơ sở thực tiễn:
1. Trong bộ môn văn học ở trường phổ thông trung học nhiều năm nay
thực tế đã có nhiều đổi mới đáng kể nhưng vẫn còn có hiện tượng học sinh học
theo kiểu cũ: đọc thuộc, sao chép, nói lại ý sách vở thầy cô mà không hoặc ít có
sự sáng tạo khi tiếp xúc tác phẩm văn chương.
2. Hiện tượng ít tập trung suy nghĩ, ít tìm tòi ở học sinh phải được khắc
phục dần qua những giờ dạy của giáo viên ở trên lớp và cách học của học sinh.
3. Thị trường sách hiện nay: Sách in ấn nhiều, giảng giải cụ thể tác phẩm,
học sinh mua về chép lại một cách máy móc mà không suy nghĩ, sáng tạo do đó
dẫn đến tình trạng mù kiến thức.
4. Khi tiếp xúc với tác phẩm văn học, học sinh chỉ hiểu theo một chiều, ít
chịu khó phát hiện, vốn từ ngữ nghèo, diễn đạt kém. Vì vậy, không đạt hiệu quả
cao khi cảm nhận tác phẩm văn chương.
B- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
I. Vài nét khách thể nghiên cứu.
Trường THPT A là một trường với quy mô nhỏ được thành lập chưa lâu,
điều kiện thiết yếu để phục vụ cho dạy của giáo viên và học của học sinh còn
nhiều hạn chế. Đại đa số học sinh có tư tưởng lấy bằng cấp 3 để xin đi xuất khẩu
lao động hoặc di làm công nhân. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc dạy
học của giáo viên và việc học tập của học sinh, nhất là trong điều kiện kinh tế và
việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học hiện nay. Tuy nhiên, bằng sự nỗ
lực và lòng yêu nghề, chúng tôi đã dồn tâm huyết của mình vào công việc mà

ngành đã giao cho với mong muốn làm cho các em học sinh có vốn sống và vốn
kiến thức nhất định, để các em vững bước vào cuộc sống sau này. Để làm được
điều đó thì phải phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các em, tạo điều kiện


để các em được hoạt động, từ đó tạo sự ham muốn được đến lớp mà biện pháp
hữu hiệu nhất là phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Vì thế,
GV cần phải linh hoạt hơn trong quá trình thực hiện đổi mới bằng các biện pháp
khác nhau.
II. Thực nghiệm sư phạm.
1. Mục đích thực nghiệm:
Như ta đã biết, dạy học là một hoạt động có tính nghệ thuật cao đòi hỏi
người thầy phải biết lựa chọn sao cho phù hợp với đối tượng học và với thực
tiễn trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy trong nhà
trường việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Nhưng với trách nhiệm của một người thầy, tôi đã mạnh dạn áp dụng PPDH tích
cực vào trong dạy học với đối tượng là học sinh lớp 12A trường THPT A. Mục
đích của việc áp dụng thực nghiệm này là: Rèn luyện tính chủ động, sáng tạo
cho các em học sinh, đồng thời giúp các em tiếp cận tri thức một cách nhanh
nhất.
2. Biện pháp cụ thể:
Như ta đã biết tiếp nhận văn học là một hoạt động nhằm chiếm lĩnh giá trị
tư tưởng, giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Thông qua quá trình đầu tiên là
tiếp xúc, cảm thụ văn bản ngôn từ đến việc cảm nhận, hiểu ra chân giá trị của
hình tượng nghệ thuật và cảm hứng của nhà văn, tài năng diễn tả của nhà văn để
làm nên tác phẩm đó. Và cuối cùng là quá trình kết thúc sự tiếp nhận ở người
đọc qua việc hiểu, rung cảm, có được những rung cảm, những ấn tượng và chịu
ảnh hưởng của tác phẩm, của hình tượng nghệ thuật trong đời sống cá nhân.
Quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học đã giúp cho con người có được
những thói quen, những tình cảm lành mạnh, những suy ngẫm để tự rèn luyện,

tự điều chỉnh bản thân bởi vì chức năng tiếp nhận văn học không chỉ đơn thuần
là quá trình người đọc tiếp xúc với tác phẩm văn học mà nó còn diễn ra quá trình
nhận thức ở họ khi người đọc và người học có ý thức cao về những vấn đề trong
tác phẩm văn học. Quá trình học văn ở trường THPT đối với lứa tuổi học sinh
chính là quá trình thầy cô giúp các em tiếp xúc tác phẩm, hiểu ra cái đúng, cái
hay của nó và bằng tài năng của mình người thầy phải cảm thụ, cảm nhận một
cách toàn diện để sau đó từng bước đưa HS bước vào tác phẩm mà phân tích,
cảm thụ và hiểu tác phẩm một cách đầy đủ, đúng đắn.
Trong cảm nhận tác phẩm văn học, người đọc phải dùng liên tưởng, tưởng
tượng để hình dung, để hiểu ý đồ, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng nhà văn trong
tác phẩm, bởi vì nhà văn đã dùng liên tưởng, tưởng tượng làm phương tiện,
cách thức, thủ pháp nghệ thuật để sáng tác tác phẩm văn học. Quá trình tiếp xúc,


tiếp thu một giờ giảng văn trên lớp của học sinh phải nhờ vào tài năng, kĩ năng
của người thầy qua các thao tác đọc, phân tích, bình giảng, nhận xét để bằng các
giác quan, học sinh có thể hiểu tác phẩm qua hệ thống ngôn ngữ, hình tượng,
các thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm. Sự dẫn dắt của người thầy rất quan
trọng, vì thế thầy muốn dẫn dắt học sinh bước vào khám phá tác phẩm thì trước
hết phải hiểu tác phẩm, thâm nhập vào tác phẩm một cách tự nhiên, thoải mái và
có khả năng phân tích, đánh giá tác phẩm và qua sự cảm thụ của mình hướng
cho học sinh cảm thụ cái hay, chỗ độc đáo của tác phẩm để từ đó từng bước hiểu
ra vấn đề nhà văn đặt ra và giải quyết trong tác phẩm.
Đề cập đến bản chất của giờ giảng văn, GS Đặng Thai Mai cho rằng:
“giảng văn trước hết là theo dõi trong nếp áng văn tất cả cái tinh vi về tư tưởng,
cái độc đáo về nghệ thuật của một tác giả. Hiểu như vậy giảng văn trước hết là
chỉ ra sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, giữa kĩ thuật và tư tưởng trong
một tác phẩm văn chương”( Giảng văn Chinh phụ ngâm - Đặng Thai Mai ĐHSPI HN; 1992). Vậy thì muốn chỉ ra sự thống nhất ấy trong tác phẩm rõ ràng
lao động của giáo viên dạy văn vừa phải có tính nghệ thuật vừa phải có tính sư
phạm. Mà tính nghệ thuật của giờ giảng văn tất nhiên lại phải phụ thuộc vào tài

năng của giáo viên và trình độ, khả năng của học sinh. Như trên đã nói, tiếp xúc
với tác phẩm văn chương, học sinh cần có sự liên tưởng, tưởng tượng phong
phú, rõ ràng mới có thể cảm nhận được cái hay của tác phẩm, cái tài của tác giả.
Việc đó theo tôi hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng tiếp thu của học sinh qua tài
năng dẫn dắt của giáo viên. Vậy thì việc đầu tiên theo tôi người thầy dạy văn cần
phải làm đó là phải bằng mọi cách tác động vào tư duy sáng tạo của học sinh
trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học. Sự tác động ấy có thể bằng nhiều
hình thức khác nhau. Có thể đó là giọng đọc thiết tha diễn cảm khi phân tích tác
phẩm trữ tình, giọng đọc hài hước dí dỏm khi tiếp cận tác phẩm trào phúng,
giọng đọc đanh thép mạnh mẽ khi thể hiện thái độ căm thù, giọng đọc nhẹ nhàng
ấm áp khi diễn tả tình cảm yêu thương... hoặc có thể đó còn là một hệ thống câu
hỏi phù hợp, đúng lúc gõ vào trí tuệ học sinh, bắt học sinh phải suy nghĩ, phải
căng thẳng chút ít để phán đoán mở hướng hiểu, cách khai thác vấn đề.
Qua một số năm giảng dạy bộ môn văn ở trường THPT, tôi thấy rằng để
có được một giờ giảng văn trọn vẹn quả thật là khó bởi vì đó là cả một nghệ
thuật. Giờ giảng văn đòi hỏi học sinh phải liên tưởng, tưởng tượng mới có sự
sáng tạo trong phát hiện tìm tòi trong khi đó thời gian rất eo hẹp. Đã thế lớp học
có ít nhất hơn 30 học sinh, thầy chỉ có một mà trò thì quá nhiều, sự liên tưởng,
tưởng tượng không đồng đều ở học sinh. Tất cả chừng ấy yếu tố cũng đủ để
chúng ta hiểu rằng khó có thể cầu toàn đối với một giờ giảng văn. Tuy nhiên nói


như vậy không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn không thể có được những giờ dạy,
bài giảng thành công. Với những gì đã làm, đã học tập ở đồng nghiệp và tiếp xúc
với các khoá học sinh, tôi thấy rằng chúng ta có thể giúp cho học sinh có điều
kiện rèn luyện tư duy sáng tạo khi tiếp xúc với tác phẩm văn chương qua một số
vấn đề, một số thao tác sau đây:
1. Trong giờ học văn, trước khi giảng giáo viên có thể dùng lời kể hoặc lời
dẫn kết hợp với một số hình ảnh, đoạn phim, bài hát, câu thơ minh hoạ để tạo
tâm thế thoải mái, giúp học sinh có điều kiện thâm nhập được vào tác phẩm, vào

bài dạy một cách hứng thú. Có thể ứng dụng công nghệ thông tin trong phần
giới thiệu về tác giả, tác phẩm, giọng đọc của tác giả, hoặc nghệ sĩ, một vài hình
ảnh minh hoạ hoặc các tài liệu quý hiếm giúp học sinh hiểu sâu thêm tác phẩm.
Ví dụ:
- Dạy bài “ Ai đã dặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta
có thể dẫn dắt học sinh bằng lời giới thiệu, lời dẫn về con sông Hương của Huế
ở vẻ đẹp tự nhiên, văn hoá, lịch sử; hoặc cho học sinh nghe đoạn nhạc “Dòng
sông ai đã đặt tên?” kết hợp trình chiếu một số hình ảnh về sông Hương, xứ
Huế và hỏi cảm nhận của học sinh về dòng Hương.
- Dạy bài “ Sóng ” của Xuân Quỳnh, ta có thể bắt đầu bằng một đoạn bài
hát về biển, một bài thơ có cùng chủ đề hoặc một trò chơi từ đó gợi dẫn về vấn
đề cơ bản cần tìm hiểu trong tác phẩm.
- Dạy bài “Đàn ghi ta của Lor – ca” có thể cho học sinh khởi động bằng
cách nghe bài hát Cây đàn ghi ta của Lor – ca để tạo tâm thế và để học sinh
cảm nhận được phần nào về Lor – ca. Phần tìm hiểu về hình tượng Lor - ca có
thể trình chiếu một vài hình ảnh biểu tượng cho văn hóa Tây Ban Nha để học
sinh hiểu rõ hơn những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng, siêu thực trong bài.
Ví dụ: hình ảnh đàn ghi ta, hình ảnh đấu sĩ và bò tót, hình ảnh áo choàng đỏ gắt,
hình ảnh hoa li - la, thiếu nữ di gan…
2. Trong giờ Đọc văn, giọng đọc của giáo viên như trên đã nói là rất quan
trọng. Với giọng đọc của mình, giáo viên có thể đã và đang truyền thụ được cái
hồn của tác phẩm cho học sinh. Qua giọng đọc của thầy, học sinh đã có thể thấy
mở ra trong tâm trạng, trong cảm xúc và tư duy những gì cần lĩnh hội. Đọc
đúng, đọc diễn cảm đòi hỏi sự luyện tập công phu của người thầy. Nhiều đoạn
thơ, đoạn văn thầy không cần giảng, bình mà chỉ đọc đã có thể mở ra cho trò bao
nhiêu điều thú vị. Tuy nhiên không chỉ có thầy đọc mà thầy phải có trách nhiệm
tập luyện cho học sinh thói quen đọc đúng, đọc diễn cảm văn bản bởi vì đọc
chính là khâu đầu tiên giúp học sinh cảm nhận tác phẩm văn chương bằng chính
giọng đọc của mình để cảm thụ đúng tác phẩm, cảm thụ cái hay của tác phẩm



thông qua sự ngân vang của nó trong cảm xúc, là yếu tố quan trọng cho học
sinh đến được và dần hiểu tác phẩm văn chương. Một giờ giảng văn mà cả thầy
lẫn trò đều có giọng đọc tốt sẽ truyền được cảm xúc của mình từ tác phẩm cho
học sinh trong lớp.
3. Giáo viên cần xây dựng một hệ thống câu hỏi phù hợp và sử dụng có
hiệu quả. Việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong giờ Đọc văn là hết sức cần thiết.
Nó sẽ giúp học sinh tích cực, chủ động tiếp thu, làm chủ kiến thức. Thậm chí,
bằng hệ thống câu hỏi có chất lượng, người thầy có thể khơi gợi sự sáng tạo của
các em, làm cho giờ dạy trở nên hấp dẫn và có hiệu quả hơn rất nhiều.
* Để giúp các em phát huy tính sáng tạo của mình, trong giờ đọc – hiểu
tác phẩm, giáo viên nên xây dựng, sử dụng hệ thống câu hỏi sáng tạo. Đây là
loại câu hỏi yêu cầu học sinh phải vận dụng suy nghĩ độc lập, kết hợp với khả
năng tư duy chặt chẽ, trên nền tảng kiến thức đã có để tìm tòi, phát hiện ra cái
mới. Loại câu hỏi này mang đặc trưng của một giờ hướng dẫn học sinh cảm thụ
tác phẩm văn chương. Nó đáp ứng đúng đặc thù của bộ môn và phân môn, tạo
cảm hứng cho cả người dạy lẫn người học. Có thể phân ra nhiều kiểu nhỏ của
dạng câu hỏi sáng tạo:
+ Câu hỏi phân tích: Kiểu câu hỏi phân tích yêu cầu học sinh bám sát các
yếu tố của tác phẩm, đi sâu tìm hiểu giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung của tác
phẩm.
Ví dụ: Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến được tác giả tập trung
khắc họa ở đoạn thứ ba trong bài thơ Tây Tiến?
+ Câu hỏi dẫn dắt gợi mở: Đây sẽ là câu hỏi mang lại nhiều hiệu quả và
thể hiện rất rõ khả năng sư phạm của người thầy. Từ những chi tiết cụ thể trong
tác phẩm, người thầy sẽ hướng dẫn học sinh huy động khả năng liên tưởng,
tưởng tượng của mình để tự học sinh sẽ phát hiện ra những điều mới mẻ, khơi
gợi ở học sinh sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú từ những gì đã có trong
văn bản.
Ví dụ: Khi tìm hiểu bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, để chỉ ra được kết cấu

nghệ thuật của bài thơ và thấy được sự tương đồng giữa “sóng” với tâm hồn
người phụ nữ đang yêu, có thể đặt câu hỏi : Giữa sóng và em trong bài thơ có
mối quan hệ như thế nào? Em có nhận xét gì về nghệ thuật kết cấu của bài thơ?
Người phụ nữ đang yêu tìm thấy sự tương đồng giữa các trạng thái của tâm hồn
mình với những con sóng. Hãy chỉ ra sự tương đồng đó.
+ Câu hỏi nêu vấn đề: Đi-xtec-vec nói rằng: “Người giáo viên bình
thường mang chân lí đến cho học trò. Người giáo viên giỏi biết dạy học trò đi
tìm chân lí”. Mà trong thực tế, chân lí nhiều khi ẩn sau những nghịch lí. Ở mỗi


tác phẩm văn chương, đều có những vấn đề, những mâu thuẫn được đặt ra. Giáo
viên giỏi sẽ nắm bắt hoặc tìm cách tạo ra những tình huống có vấn đề để học
sinh chủ động giải quyết.
Ví dụ: Nghệ sĩ Phùng đã chụp bức ảnh con thuyền trên biển sớm mờ
sương từ một cự li rất gần. Hãy lí giải vì sao Nguyễn Minh Châu lại đặt tên cho
tác phẩm của mình là “Chiếc thuyền ngoài xa” ?
* Để phát huy được tính sáng tạo của học sinh, khi xây dựng và sử dụng
hệ thống câu hỏi cần chú ý một số nguyên tắc sau:
- Cần khuyến khích được sự tham gia của tất cả các học sinh trong lớp:
Trình độ học sinh trong một lớp học không thể đồng đều. Tâm lí chung của
người dạy là hay chú ý đến những học sinh thông minh, hăng hái. Và câu hỏi
cũng thường hướng về những em vốn được coi là sáng dạ trong lớp. Như vậy,
những học sinh trung bình hoặc yếu kém thường không có cơ hội để trình bày ý
kiến. Muốn tránh tình trạng này, giáo viên nên chuẩn bị nhiều dạng câu hỏi, có
dễ, có khó. Những câu hỏi khó, nếu cần phải có cả câu hỏi gợi ý để khơi mở cho
học sinh con đường đến với chân lí.
- Không nên yêu cầu học sinh trả lời hoàn toàn theo ý mình: Tác phẩm
văn chương vốn đa thanh đa nghĩa. Với mỗi thời đại, mỗi dân tộc, thậm chí với
mỗi người đọc trong những hoàn cảnh khác nhau, nó lại mang những nét nghĩa
không hoàn toàn trùng lặp. Giáo viên cũng là một kiểu người đọc, có thể là

người đọc lớn tuổi, có kinh nghiệm sống, sự trải nghiệm nhiều hơn so với người
đọc - học sinh. Nhưng cần chú ý một điều, cách hiểu của người thầy về văn bản
văn học không phải là cách hiểu duy nhất đúng. Vậy cần tránh hiện tượng người
dạy cố gắng lái học sinh theo suy nghĩ của mình một cách gò ép, khiên cưỡng.
Điều này vừa phản giáo dục vừa không phù hợp với con đường tiếp cận cái hay
cái đẹp của văn chương phải bằng những rung động thẩm mĩ.
- Biết phân loại các câu trả lời: Đây là những tình huống sư phạm, yêu cầu
giáo viên phải có cách ứng xử hợp lí, khéo léo. Với những câu trả lời hoàn toàn
đúng, hãy khích lệ học sinh bằng một lời khen đúng mức. Các em sẽ cảm thấy tự
tin, thậm chí thấy mình đã thành công. Với những câu trả lời sai, cần nhạy bén
tìm ra nguyên nhân khiến học sinh nhầm lẫn. Nên tiếp tục có định hướng để các
em tìm ra câu trả lời đúng. Cũng cần hết sức quan tâm đến những câu trả lời
ngoài dự đoán.Trong một lớp học, giữa những học sinh bình thường có thể có
những em xuất sắc, năng lực cảm thụ vượt trội. Những học sinh này có thể đưa
ra những câu trả lời bất ngờ, thông minh, ngoài tầm dự đoán của giáo viên, thậm
chí còn gợi mở một hướng khái thác mới cho bài học. Người thầy không chỉ dạy
mà còn học được nhiều điều từ những học sinh như thế. Trong trường hợp này,


cần khuyến khích, khen ngợi, tạo cơ hội cho các em được phát triển năng lực
của mình.
4. Trong giờ học văn, để rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh, giáo viên
còn phải cố gắng tập cho học sinh có thói quen rèn luyện và thao tác những thói
quen cần thiết khi chuẩn bị ở nhà và khi học giờ giảng văn ở lớp. Theo tôi đó có
thể là những thói quen sau:
- Thói quen đọc tác phẩm cẩn thận, kỹ càng, đọc đúng đọc, diễn cảm để tự
cảm nhận tác phẩm, đồng thời với việc đọc có suy nghĩ là thói quen gạch chân
và ghi lại những đoạn hay của tác phẩm.
- Thói quen đọc thuộc tác phẩm, ghi nhớ, suy ngẫm tác phẩm, những câu
đoạn mà mình tâm đắc nhất.

- Thói quen liên tưởng, liên hệ với những vấn đề, những tác phẩm khác có
liên quan đến những giá trị cơ bản trong tác phẩm đang học.
- Thói quen lật đi lật lại những vấn đề quan trọng khi cảm nhận phân tích
tác phẩm.
- Thói quen cảm nhận tác phẩm theo nhiều chiều, nhiều khía cạnh không
máy móc thụ động; phải tập trung suy nghĩ, phát hiện những điều mới lạ ở tác
phẩm khi cảm nhận nó qua sự dẫn dắt gợi ý của thầy cô, có nghĩa là phải có sự
cảm nhận của riêng mình.
- Phải biết và có thói quen cảm nhận tác phẩm theo đặc trưng thể loại, đặc
trưng thi pháp.
5. Rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh ở giờ học văn không chỉ dừng
lại ở những thao tác trên mà nó còn đòi hỏi ở cả thầy lẫn trò một cách học, cách
dạy hợp lý, khoa học, linh hoạt, không phải bài nào cũng giảng và liên tưởng
theo một cách, không phải tác giả tác phẩm nào cũng một dạng lời bình mà phải
tùy thuộc vào hoàn cảnh, tác phẩm cụ thể để hướng dẫn học sinh cách cảm thụ,
cách phát hiện. Về phía học sinh, theo tôi nếu cầu toàn 100% học sinh đều cảm
thụ tốt tác phẩm văn học bằng tư duy của các em thì khó mà đạt được. Vì vậy
phải tùy đối tượng, tùy năng lực cảm thụ văn học của từng đối tượng mà hướng
dẫn chỉ đạo các em phát hiện sáng tạo phù hợp.
6. Để giúp học sinh có được sự sáng tạo trong giờ học văn, giáo viên nên
hướng dẫn cho học sinh đi theo con đường thi pháp học bởi vì thi pháp học sẽ
giúp học sinh hiểu đúng, nhanh chóng phát hiện ra những điểm sáng thẩm mỹ ở
tác phẩm. Muốn vậy, người thầy phải nắm và vận dụng linh hoạt, vững vàng lý
luận thi pháp trong quá trình giảng văn.
Ví dụ: - Với thơ, nên đi từ mạch cảm hứng, cảm xúc của nhân vật trữ tình
hoặc hình tượng trữ tình trong tác phẩm ( Chẳng hạn khi tìm hiểu bài thơ “


Sóng” của Xuân Quỳnh ta có thể phân tích hình tượng sóng và hình tượng em;
Khi tìm hiểu bài thơ “Đất Nước ” của nguyễn Khoa Điềm ta phân tích theo

mạch trữ tình- chính luận của nhân vật trữ tình trong bài thơ).
- Với văn xuôi, có tác phẩm giảng bằng thi pháp nhân vật, có tác phẩm
giảng bằng thi pháp cốt truyện, tình tiết...( Chẳng hạn khi tìm hiểu tác phẩm “
Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài thì phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật; khi
tìm hiểu tác phẩm “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” hoặc “Người lái đò sông Đà”
thì phân tích tác phẩm theo đăc trưng thể loại bút kí, tuỳ bút).
7. Để phát huy sự sáng tạo, tích cực chủ động của học sinh, giáo viên cần
tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, đồng thời vận dụng các phương
pháp, kĩ thuật dạy học mới vào giờ đọc văn, như phương pháp thảo luận nhóm,
giao dự án, kết hợp kĩ thuật khăn trải bàn, mảnh ghép,…v...v...
3. Minh hoạ đọc - hiểu tác phẩm:
Để tiến hành thực nghệm các vấn đề đã nêu ra, tôi xin chọn một tiết học
cụ thể để minh hoạ. Nhưng do thời gian và điều kiện cho nên tôi chỉ tóm tắt
ngắn gọn tiết học với mục tiêu tập trung vào việc áp dụng PPDH tích cực.

Ngày soạn:
Tiết 37,38
SÓNG
- Xuân Quỳnh-


I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
1. Về kiến thức
- Qua 2 hình tượng sóng và em, HS cảm nhận được những cung bậc tình cảm, vẻ
đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu.
- Đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng hình tượng ẩn dụ, giọng thơ tha thiết, sôi
nổi, nồng nàn, nhiều suy tư, trăn trở.
2. Về kĩ năng
- Đọc - hiểu một bài thơ trữ tình theo đặc trưng thể loại.
- Rèn kĩ năng cảm thụ thơ.

3. Về thái độ
- Nhận thức đúng đắn về một tình yêu đẹp.
- Trân trọng những khát vọng hạnh phúc chân chính, vẻ đẹp tâm hồn của người
phụ nữ.
4. Các năng lực cần hình thành cho học sinh
- Năng lực tự học:
+ Xác định mục tiêu học tập: Xác định được nhiệm vụ học tập một cách tự giác,
chủ động; tự đặt được mục tiêu học tập để nỗ lực phấn đấu thực hiện.
+ Đánh giá và điều chỉnh việc học: Nhận ra và điều chỉnh những sai sót, hạn chế
của bản thân khi được giáo viên, bạn bè góp ý; chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ của
người khác khi gặp khó khăn trong học tập.
- Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo:
+ Phát hiện và làm rõ vấn đề: Phân tích được tình huống trong học tập; phát hiện
và nêu được tình huống có vấn đề trong học tập.
+ Đề xuất, lựa chọn giải pháp: Xác định được và biết tìm hiểu các thông tin liên
quan đến vấn đề; đề xuất được giải pháp giải quyết vấn đề.
+ Thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề: Thực hiện giải pháp giải
quyết vấn đề và nhận ra sự phù hợp hay không phù hợp của giải pháp thực hiện
- Năng lực giao tiếp:
+ Sử dụng tiếng Việt: Nghe hiểu nội dung chính hay nội dung chi tiết các đề bài, lời giải
thích, cuộc thảo luận; có thái độ tích cực trong khi nghe; có phản hồi phù hợp,...
+ Xác định mục đích giao tiếp: Bước đầu biết đặt ra mục đích giao tiếp và hiểu
được vai trò quan trọng của việc đặt mục tiêu trước khi giao tiếp.
- Năng lực hợp tác:
+ Xác định mục đích và phương thức hợp tác: Chủ động đề xuất mục đích hợp
tác khi được giao các nhiệm vụ; xác định được loại công việc nào có thể hoàn
thành tốt nhất bằng hợp tác theo nhóm với quy mô phù hợp.


+ Đánh giá hoạt động hợp tác: Biết dựa vào mục đích đặt ra để tổng kết hoạt

động chung của nhóm; nêu mặt được, mặt thiếu sót của cá nhân và của cả nhóm.
- Năng lực thẩm mỹ:
+ Nhận ra cái đẹp: Có cảm xúc và chính kiến cá nhân trước hiện tượng trong tự
nhiên, đời sống xã hội và nghệ thuật.
+ Diễn tả, giao lưu thẩm mỹ: Giới thiệu được, tiếp nhận có chọn lọc thông tin
trao đổi về biểu hiện của cái đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong
nghệ thuật và trong tác phẩm của mình, của người khác.
II. CHUẨN BỊ CỦA THẦY VÀ TRÒ
1. Chuẩn bị của giáo viên
- Trờ chơi ô chữ, video bài hát “Sóng”, các bài thơ cùng chủ đề
2. Chuẩn bị của học sinh
- Soạn bài theo các câu hỏi hướng dẫn học bài.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức:
Lớp
Ngày dạy
Sĩ số
12A1
12A2
12A3
2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra trong giờ
3. Bài mới:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
I. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG:
TRÒ CHƠI Ô CHỮ
+ GV đưa ra các câu hỏi học sinh
trả lời
+ Mỗi câu trả lời sẽ lộ ra một từ
khóa
+ từ khóa là “ Tình yêu”

=> Gv dẫn dắt và giới thiệu bài thơ
“Sóng” của XQ.
II. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH
KIẾN THỨC MỚI.
1. Hoạt động 1: Đóng vai
- 1hs đóng vai phóng viên hỏi về tác
giả Xuân Quỳnh.
-1 hs đóng vai tác giả trả lời các câu

NỘI DUNG CẦN ĐẠT

I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Xuân Quỳnh (1942 - 1988).
- Quê: La Khê, Hà Đông, Hà Tây
- Cuộc đời:
+ Mẹ mất sớm, ở với bà nội.


hỏi của phóng viên.

+Từng là diễn viên múa Đoàn văn công
trung ương, biên tập viên báo Văn nghệ,
biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm
mới, Uỷ viên Ban chấp hành Hội nhà văn
Việt Nam khoá III.
+ Mất cùng chồng và con trai vì tai nạn
giao thông tại Hải Dương (29-4-1988)
- Sự nghiệp sáng tác:
+ Tác phẩm tiêu biểu: SGK.

+ Phong cách thơ:
+) Tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ
giàu tình cảm yêu thương,vừa hồn nhiên;
vừa chân thành, đằm thắm
+) Trong T/Y luôn thể hiện cảm hứng:

Khao khát gắn bó, hiến dâng hi
sinh cho T/Y

Dự cảm lo âu, trăn trở suy tư đầy
bất ổn
- Vị trí:
+ Một trong những gương mặt tiêu biểu
của thế hệ nhà thơ chống Mĩ.
+ Một trong những nhà thơ viết thơ tình
hay nhất sau 1975.
2. Hoạt động 2: Phát vấn và trả 2. Tác phẩm:
lời
a. Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, vị trí:
- Hãy nêu hoàn cảnh sáng tác,vị trí, - Sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực
xuất xứ của bài thơ?
tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình).
- Là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu,
rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân
Quỳnh.
- In trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).
b. Bố cục: 9 khổ chia làm 3 phần
+ Phần 1: 4 khổ đầu
- Bài thơ có thể chia thành mấy Em soi vào sóng tự nhận thức đặc điểm,
đoạn? Nội dung của các đoạn?

sắc thái của tình yêu.
+ Phần 2: 3 khổ tiếp theo ( khổ 5->7 )
Em thông qua sóng tự biểu hiện sắc thái


tình yêu.
+ Phần 3: 2 khổ cuối
Em hòa vào sóng để hi sinh, dâng hiến,
bất tử cho tình yêu.

- GV nêu vấn đề: Vậy tại sao bài
thơ “Sóng” lại hấp dẫn và có sức
sống lâu bền như vậy? Đi sâu vào
bài thơ ta sẽ lí giải được điều đó.

- Em có nhận xét gì về kết cấu và
hình tượng của bài thơ?

c. Kết cấu hình tượng:
- Bao trùm và xuyên suốt toàn bộ bài thơ
là 2 hình tượng đan cài sóng và em
+ Em: là cái tôi trữ tình của nhà thơ ( trái
tim của người phụ nữ hồn hậu, chân
thành, giàu tình yêu, giàu lòng vị tha khao
khát yêu thương gắn bó
+ Sóng: sáng tạo NT đặc sắc là hình ảnh
ẩn cho trái tim người phụ nữ khi yêu với
nhiều cung bậc cảm xúc ( sóng là hóa
thân của em)
=>”sóng” là hình tượng ẩn dụ, sự hoá

thân của nhân vật trữ tình “em”
- Sóng và em: Khi phân đôi (song hành,
tách rời), khi hoà nhập
+ Phân đôi: Soi chiếu làm nổi bật sự
tương đồng, em soi vào sóng để tự nhận
ra trái tim mình, sóng như sự kiểm
nghiệm của trái tim em.
+ Hòa nhập: Để âm vang cộng hưởng,
dào dạt của sóng là dào dạt của trái tim
em.
=> nét độc đáo trong cấu trúc hình tượng,
diễn tả sâu sắc, sinh động, mãnh liệt khát
vọng của Xuân Quỳnh.
II. Tìm hiểu bài thơ

Hoạt động 3: Tìm hiểu bài thơ
Thao tác 1: Tìm hiểu 4 khổ thơ
đầu,thảo luận nhóm và điền vào
phiếu học tập
- Nhóm 1: Phân tích những đặc sắc


III. Kết quả thực hiện:
Trong học kì I, năm học 2019 - 2020, tôi đã áp dụng các giải pháp trên
trong một số bài giảng văn ở lớp 12A để không ngừng góp phần rèn luyện, khơi
gợi khả năng sáng tạo ở các em học sinh. Thực tế qua các giờ dạy tôi thấy HS đã
kích thích được khả năng học tập sáng tạo, tích cực, chủ động, say mê tìm hiểu
kiến thức mới một cách có hiệu quả. Giờ học sôi nổi, hấp dẫn và có hiệu quả
hơn.
Bảng số liệu.

Trước thực nghiệm
Sau thực nghiệm
Số lượng
%
Số lượng
%
Kết quả
Giỏi
02
5,1%
05
12,8%
Khá
14
35,9%
19
48,7%
Trung bình
20
51,3%
15
38,5%
Yếu
3
7,7%
0
0%
Qua bảng số liệu trên, ta có thể thấy sau thực nghiệm chất lượng học tập
của học sinh được nâng lên rõ rệt. Cụ thể số học sinh khá giỏi tăng, học sinh
trung bình, yếu giảm đáng kể. Điều đó cho thấy đề tài bước đầu mang tính khả

thi.
PHẦN III
KẾT LUẬN
Góp phần khơi gợi và rèn luyện sự sáng tạo cho học sinh trong giờ đọc hiểu là công việc thường xuyên và cần thiết ở tất cả các môn học. Tuy nhiên ở
bộ môn văn các đặc thù của nó vẫn là sự sáng tạo dựa trên sự đồng cảm, sự cảm
nhận của người học qua người dạy văn và văn bản ngôn từ trong tác phẩm. Sự
sáng tạo trong văn chương không hề có sự giống nhau bởi sự liên tưởng, tưởng
tượng ở mỗi người khác nhau, tuy vậy vẫn có chỗ giống nhau trong tiếp nhận tác
phẩm văn học giữa các đối tượng: tác giả - người dạy - người học. Theo tôi để
có sự gặp nhau ấy, cả người dạy và người học phải có một trường liên tưởng,
một sự tưởng tượng phong phú, linh hoạt để từ đó người dạy có thể đưa người
học vào tác phẩm bằng hệ thống các câu hỏi, bằng lời bình, cách đọc, lời phân
tích và người học tiếp nhận tác phẩm bằng quá trình tích luỹ từ ngữ, vốn hiểu
biết và khả năng cảm nhận được tác phẩm văn chương để lĩnh hội từ người dạy
những gì tâm đắc nhất, đồng thời mở rộng tầm hiểu biết, suy nghĩ trong nhiều
lĩnh vực khác nhau.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Học sinh nhớ nhiều, học
nhiều là điều đáng khuyến khích nhưng đó quyết không phải là điều chủ yếu.


Điều chủ yếu là dạy học sinh cách suy nghĩ sáng tạo. Chúng ta phải xem lại
cách giảng dạy văn trong trường phổ thông của chúng ta, không nên dạy như
cũ bởi vì dạy như cũ thì không những việc dạy văn không hay mà việc đào tạo
con người cũng không có kết quả. Vì vậy dứt khoát chúng ta phải có cách dạy
khác, phải dạy cho học sinh biết suy nghĩ, suy nghĩ bằng trí óc của mình và diễn
tả suy nghĩ đó theo cách của mình thế nào cho tốt nhất”. Thiết nghĩ dạy học sinh
biết suy nghĩ sáng tạo trong giờ đọc văn là điều cần thiết. Tôi mong rằng đề tài
của tôi sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy, đáp ứng nhu cầu đổi mới của
giáo dục nước nhà. Song đó mới chỉ là ý kiến chủ quan của riêng cá nhân tôi. Vì
thế, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí đồng nghiệp để đề tài

được hoàn chỉnh.
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không.
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên: Nhiệt tình, có trách nhiệm cao, đầu tư chuyên môn, chuẩn bị kĩ
những câu hỏi thảo luận và dự kiến các phương án trả lời.
- Học sinh: Chuẩn bị bài, soạn bài,sách giáo khoa và các đồ dùng học tập khác.
- Thiết bị dạy học: Máy tính, máy chiếu, giấy A0, A3, A4, bút dạ, sách giáo
khoa…
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả:
Qua quá trình thực nghiệm thiết kế giáo án: Áp dụng phương pháp dạy học
tích cực nhằm giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc – hiều tác
phẩm văn học ở chương trình ngữ văn 12 trong dạy học bài “Sóng- Xuân
Quỳnh.”, tôi nhận thấy lý thuyết về Áp dụng phương pháp dạy học tích cực
nhằm giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc – hiều tác phẩm văn
học ở chương trình ngữ văn 12 đã có tính khả thi và ứng dụng vào thực tiễn.
Tóm lại, đề tài nghiên cứu này tôi hi vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé
công sức vào công cuộc đổi mới dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường
phổ thông hiện nay, góp phần làm cho những giờ dạy văn trở nên thú vị, hấp dẫn
và đạt kết quả như mong muốn
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Đề tài nghiên cứu có tính khả thi, và ứng dụng vào thực tiễn, mang lại hiệu
quả cao trong giờ học văn ở trường phổ thông.
Giúp học sinh có niềm say mê và hứng thú với môn học
Với sáng kiến nhỏ này, người viết mong nhận được ý kiến đóng góp của các
đồng nghiệp nhằm bổ sung cho đề tài được sâu sắc và thiết thực hơn.


Tôi xin chân thành cảm ơn!

11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu (nếu có)
Số Tên tổ chức/cáĐịa chỉ
Phạm vi/Lĩnh vực
TT nhân
áp dụng sáng kiến
1 Lớp 12
Trường
THPTCác giờ Đọc- hiểu văn bản Ngữ văn lớp
Trần Hưng Đạo12
năm học 20192020
......., ngày.....tháng......năm......
Thủ trưởng đơn vị/
Chính quyền địa phương
(Ký tên, đóng dấu)

........, ngày.....tháng......năm......
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ
(Ký tên, đóng dấu)

........, ngày.....tháng......năm......
Tác giả sáng kiến
(Ký, ghi rõ họ tên)

Từ Thị Kim Tuyến


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Rèn luyện tư duy sáng tạo trong giảng dạy văn chương.

( Nguyễn Trọng Hoàn - NXBGD 2001)
2. Đổi mới giảng dạy văn trong nhà trường.
( ĐHSP Huế - 2002)
3. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THPT môn Ngữ văn.
( Nguyễn Hải Châu – NXBGD 2007)
4. Kĩ năng đọc – hiểu văn bản Ngữ văn 12.
(Nguyễn Kim Phong – NXBGD 2009)
5. Ngữ văn 12 ( sách giáo viên chỉnh lý hợp nhất năm 2008- NXBGD)
6. Tài liệu bồi dưỡng đổi mới nội dung và phương pháp dạy học qua các đợt bồi
dưỡng hè./.


MỤC LỤC
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Trang
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………… . ............2
2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………... .............3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.……………………………….. ...............3
4. Giả thiết khoa học…………………………………………………… .............3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………... .............3
6. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………. .............4
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
A. Cơ sở của đề tài........…………………………………………………............5
I/ Cơ sở lí luận.......................................................................................................5
II/ Cơ sở thực tiễn….........................................................………….....................5
B. Kết quả nghiên cứu thực tiễn………………………………………................5
I/ Vài nét về khách thể nghiên cứu………………………… …………...............5
II/ Thực nghiệm sư phạm………………………………………………..............6
1. Mục đích thực nghiệm………………………………………………...............6
2. Biện pháp cụ thể…………………………………………………… .. ............6

3. Minh họa đọc – hiểu tác phẩm……………………………………….............12
III/ Kết quả thực hiện…………………………………………………...............22
PHẦN III: KẾT LUẬN

22



×