Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Luận văn kinh tế, văn hóa của người việt ở thành phố viêng chăn (lào) (1975 2014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 96 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

PHONGSAVATH SILIPANYA

KINH TẾ, VĂN HÓA CỦA NGƢỜI VIỆT
Ở THÀNH PHỐ VIÊNG CHĂN (LÀO)
(1975- 2014)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

THÁI NGUYÊN - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

PHONGSAVATH SILIPANYA

KINH TẾ, VĂN HÓA CỦA NGƢỜI VIỆT
Ở THÀNH PHỐ VIÊNG CHĂN (LÀO)
(1975- 2014)
Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : TS. NGHIÊM THỊ HẢI YẾN



THÁI NGUYÊN - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu: “Kinh tế, văn hóa của người
Việt ở thành phố Viêng Chăn, Lào (1975 - 2014)” dưới sự hướng dẫn của TS.
Nghiêm Thị Hải Yến là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi, kết quả nghiên cứu
trong luận văn là trung thực chưa được công bố.

Tác giả luận văn

Phong Sa Vath SI LI PANYA

i

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo
hướng dẫn khoa học TS. Nghiêm Thị Hải Yến đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá
trình thực hiện đề tài.
Tôi xin cảm ơn trường ĐHSP - ĐH Thái Nguyên và sự giúp đỡ của các
thầy cô giáo khoa Lịch Sử. Chân thành tri ân sự chỉ dẫn và giúp đỡ của cán bộ

thư viện Viện nghiên cứu Đông Nam Á, thư viện Quốc gia Việt Nam. Xin cảm
ơn thư viện Quốc gia Lào, Hội người Việt Nam tại Viêng Chăn.
Lời cảm ơn cuối cùng, tôi xin gửi tới bạn bè ở Việt Nam, đồng nghiệp
nơi tôi công tác và gia đình đã cổ vũ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên
cứu và thực hiện đề tài.
Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận văn

Phong Sa Vath SI LI PANYA

ii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ..........................................................................................................iii
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................. v
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................... 1
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu .............................................. 4
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................ 4
5. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 5

6. Bố cục của luận văn ..................................................................................... 5
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ THÀNH PHỐ VIÊNG CHĂN VÀ QUÁ
TRÌNH ĐỊNH CƢ CỦA NGƢỜI VIỆT .......................................................... 6
1.1. Lịch sử và cảnh quan tự nhiên của thành phố Viêng Chăn ...................... 6
1.2. Người Việt đến Lào và định cư tại Viêng Chăn ....................................... 8
1.3. Chính sách của chính phủ Lào đối với cộng đồng người Việt ở Lào .... 12
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 16
Chƣơng 2: KINH TẾ CỦA NGƢỜI VIỆT Ở THÀNH PHỐ VIÊNG
CHĂN (1975- 2014) ......................................................................................... 18
2.1. Nông nghiệp ........................................................................................... 18
2.1.1. Trồng trọt ......................................................................................... 19
2.1.2. Chăn nuôi ......................................................................................... 20
2.2. Nghề buôn bán ........................................................................................ 21
2.3. Nghề dịch vụ ........................................................................................... 24
Tiểu kết chương 2. ......................................................................................... 30
iii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




Chƣơng 3: VĂN HÓA CỦA NGƢỜI VIỆT Ở THÀNH PHỐ VIÊNG
CHĂN (1975-2014) .......................................................................................... 33
3.1. Văn hóa vật chất ..................................................................................... 33
3.1.1. Ẩm thực ........................................................................................... 33
3.1.2. Trang phục ....................................................................................... 35
3.1.3. Nhà ở................................................................................................ 37
3.2. Văn hóa tinh thần .................................................................................... 38
3.2.1.Tín ngưỡng và tôn giáo..................................................................... 38

3.2.2. Hôn nhân và gia đình ....................................................................... 44
3.2.3. Tang ma ........................................................................................... 50
3.2.4. Giáo dục và bảo tồn chữ viết, ngôn ngữ Việt .................................. 55
Tiểu kết chương 3. ......................................................................................... 60
KẾT LUẬN....................................................................................................... 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 65
PHỤ LỤC

iv

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Viết là

Đọc là

KHXH

Khoa học xã hội

CHDCND

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

THPT


Trung học phổ thông

TL

Tư liệu



Quyết định

iv

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Cơ cấu nghề nghiệp ........................................................................... 27
Bảng 2.2. Mức thu nhập hàng tháng.................................................................. 27
Bảng 2.3. Thống kê thuế thu nhập của cửa hàng vàng tại chợ Sáng
(Viêng Chăn) ..................................................................................... 29
Bảng 3.1: Thống kê đời sống tôn giáo của người Việt ở thành phố
Viêng Chăn ........................................................................................ 40
Bảng 3.2. Trình độ học vấn của người Việt được điều tra ở thành phố
Viêng Chăn ........................................................................................ 56

v

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lào là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc có nguồn gốc lịch sử và văn
hóa riêng tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng. Trong lịch sử,người Việt đến Lào
do “ lực đẩy” chứ không phải do “lực hút”, số lượng người Việt ở Lào ngày
một nhiều, họ sống hòa nhập với nhân dân Lào, cùng nhân dân Lào đấu tranh
giành độc lập trong thời chiến. Thời bình, người Việt góp sức mình xây dựng
đất nước Lào yên bình và tươi đẹp. Người Việt ở Lào, chính là “cầu nối” quan
trọng khẳng định tình hữu nghị đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào.
Người Việt sinh sống ở nhiều tỉnh khác nhau trên đất Lào. Thủ đô Viêng
Chăn là nơi cư trú khá đông người Việt, có những gia đình đã trải qua bảy thế
hệ sinh sống trên mảnh đất này. Vì thế, Lào đã trở thành tổ quốc thứ hai của họ.
Trong quá trình cộng cư ở Lào, người Việt đã tạo nên một cộng động với hoạt
động kinh tế và nét văn hóa đặc trưng.
Lâu nay, giới khoa học tìm hiểu về Lào chủ yếu quan tâm đến lịch sử
đấu tranh của Lào hoặc chú trọng khẳng định đến mối quan hệ ngoại giao Việt
- Lào. Nghiên cứu về cộng đồng người Việt ở Lào mới chỉ dừng lại ở mức khảo
sát chung. Hoạt động kinh tế, giao thoa văn hóa của người Việt sinh sống tại
thủ đô Viêng Chăn (Lào) góp phần không nhỏ tạo nên sự sống động và đa
dạng của lịch sử dân tộc Lào. Là người Lào, tác giả nhận thấy việc nêu lên giá
trị, vai trò của người Việt ở Lào rất quan trọng, với lý do trên, tác giả lựa chọn
chủ đề: “Kinh tế, văn hóa của người Việt ở thành phố Viêng Chăn (Lào) giai
đoạn 1975 - 2014” cho luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kinh tế, văn hóa của người Việt ở Viêng Chăn đã được các nhà nghiên
cứu đề cập tới trong một số công trình khoa học sau:

2.1. Tác giả Việt Nam
Tại viện Nghiên cứu Đông Nam Á, tài liệu lưu hành nội bộ có kí hiệu
TL2034 do PGS.TS Phạm Đức Thành viết vào năm 2006 có tiêu đề: “ Vai trò
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

1




của cộng đồng người Việt ở Lào trong mối quan hệ Việt Nam - Lào”. Nội dung
tài liệu bước đầu khái quát về đời sống kinh tế, văn hóa, giáo dục…của cộng
đồng người Việt ở Lào qua quá trình thực địa của tác giả.
Từ những nét chấm phá ban đầu khi nghiên cứu về cộng đồng người
Việt, năm 2008 với vai trò chủ biên, PGS.TS Phạm Đức Thành công bố với bạn
đọc cuốn: “Cộng đồng người Việt ở Lào trong mối quan hệ Việt Nam - Lào”.
Công trình được xuất bản tại Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Nội dung của cuốn
sách được trình bày trong 200 trang đánh máy. Ở đây, tác giả tiếp cận và trình
bày về quá trình hình thành cộng đồng người Việt ở Lào; Vai trò Việt kiều
được nhấn mạnh về công lao đóng góp trong quá trình cách mạng Lào. Chính
sự có mặt và hoạt động cách mạng của người Việt ở Lào là nhân tố thắt chặt
tình đoàn kết, chiến đấu Việt Nam - Lào trong thời kì kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ.
Cũng trong năm 2008, bạn đọc yêu thích và quan tâm đến cộng đồng
người Việt ở Lào đón nhận thêm công trình: “Di cư và chuyển đổi lối sống
trường hợp cộng đồng người Việt ở Lào” do Nguyễn Duy Thiệu - Chủ biên.
Công trình đã được kiểm duyệt và in ấn tại Nhà xuất bản Thế giới. Đây
là kết quả hợp tác nghiên cứu chung của những nhà khoa học Lịch Sử. Công
trình gồm có 6 chương do 7 nhà nghiên cứu người Việt và người Lào viết. Nội
dung của công trình có đề cập và giải thích về quá trình di cư của người Việt;

Những biến đổi trong đời sống kinh tế, văn hóa của người Việt ở Lào;
Những nguồn tài liệu tin cậy thời thuộc Pháp có thể khai thác để tìm hiểu về
cộng đồng người Việt ở Lào cũng như ở Campuchia….
Năm 2007, Ban biên tập tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á đã dành riêng
số tạp chí tháng 2 đăng các bài viết cho chuyên đề: Việt kiều ở Lào. Số tạp chí
bao gồm các bài: “ Bước đầu tìm hiểu Luật pháp và chính sách của chính phủ
Lào đối với người nước ngoài và người Việt Nam tại Lào”; “ Vị thế trong gia
đình của người phụ nữ Việt kiều ở Lào”; “ Chùa người Việt ở Lào”…. Những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

2




bài viết trong số tạp chí tháng 2 rất phong phú và tìm hiểu về cộng đồng người
Việt dưới nhiều lăng kính khác nhau (cách nhìn nhận của người Việt; Cách
đánh giá của người Lào).
2.2. Tác giả Lào
Tìm tài liệu tại Lào, có một số công trình, bài viết liên quan đến nội dung
nghiên cứu đề tài đang hướng tới:
Năm 2007, có hai bài báo đăng tải tạp chí KHXH Lào:
- Bài: “Yếu tố Việt trong tiến trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa tại Lào”
của Kham Phenứug Thip MounTa Li. Tác giả đã trình bày về tiếng nói, nghi lễ
hôn nhân, tín ngưỡng tôn giáo, ăn, mặc và ở của người Việt Nam tại Lào.
- Bài: “Tiếp xúc giao lưu và chuyển đổi bản sắc tộc người trong nhóm
hôn nhân hỗn hợp Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào”. Tác giả Xomthon
Yerlobliayao đã trình bày về tình trạng hôn nhân giữa người Lào và người Việt
Nam, những chuyển đổi về mặt văn hóa-xã hội trong nhóm hôn nhân hỗn hợp
Lào-Việt Nam.

Năm 2010, Nhà xuất bản thủ đô Viêng Chăn đã xuất bản cuốn: “Thủ đô
Viêng Chăn 450 năm (1560-2010)” do ông Sôm Sạ Vát Lênh Sạ Vắt chủ biên.
Cuốn này đã trình bày về thủ đô Viêng Chăn từ năm 1560-2010 như: Vị trí địa
lí, điều kiện tự nhiên, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của thủ đô Viêng
Chăn. Người Việt được đề cập đến trong quá trình cách mạng anh hùng của
Viêng Chăn.
Qua quá trình tìm tài liệu nghiên cứu cho đề tài, tôi nhận thấy:
Thứ nhất, những tài liệu đề cập đến cộng đồng người Việt ở Lào có
nhiều nhưng chỉ tập trung trong giai đoạn cách mạng chống thực dân. Nội dung
các công trình đều đề cao vai trò cầu nối của Việt kiều trong quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào. Riêng, những công trình nghiên cứu về cuộc sống của người
Việt từ năm 1975 đến nay rất ít. Giới nghiên cứu chỉ thực sự quan tâm đến vấn
đề này từ năm 2000 với một số công trình đã nêu trên. Từ sau năm 2008 đến
nay, cả ở Việt Nam và ở Lào tôi chưa thấy có thêm công trình nào công bố.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

3




Thứ hai, Những nội dung đã đề cập trong các công trình của người Việt
và người Lào đều dừng ở mức khái quát chung về cộng đồng người Việt trên
toàn Lào. Các số liệu công bố được cung cấp từ Bộ An Ninh hay từ các cơ
quan chức năng một số tỉnh ở Lào. Tài liệu điền dã còn hạn chế. Chưa có một
công trình nào nghiên cứu chi tiết về cộng đồng người Việt ở một thành phố
hoặc một tỉnh riêng biệt. Điều này khiến tôi vững tâm, tích cực nghiên cứu chủ
đề mà mình đã chọn mặc dù nguồn tài liệu quá ít ỏi.
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi
trước, để hoàn thành đề tài, tôi xác định đẩy mạnh khai thác nguồn tài liệu điền

dã tại Viêng Chăn trong cộng đồng người Việt.
3. Đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đề tài nghiên cứu kinh tế, văn hóa của người Việt ở thành phố Viêng
Chăn (Lào) sau năm 1975 đến năm 2014.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ nguyên nhân và quá trình định cư của người Việt tại Viêng Chăn
- Hoạt động kinh tế chủ yếu của người Việt trong nền kinh tế Lào và sự
tác động đến kinh tế Lào.
- Văn hóa của người Việt tại Viêng Chăn và giao thoa văn hóa Việt - Lào
thể hiện qua tín ngưỡng tôn giáo, phong tục, tập quán...
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Lĩnh vực khoa học: Kinh tế và văn hóa
- Phạm vi không gian: Thành phố Viêng Chăn (Lào)
- Phạm vi thời gian: 1975- 2014
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
- Các công trình khoa học: Sách, báo, tạp chí ...đã được công bố bằng
tiếng Việt và tiếng Lào.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

4




- Tài liệu lưu trữ của Hội Người Việt Nam tại Viêng Chăn.
- Tài liệu điền dã của tác giả.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử và logic là phương pháp chủ đạo, xuyên suốt trong

quá trình thẩm định, nghiên cứu đề tài. Trên cơ sở tiếp cận với các nguồn tài
liệu, để có được những số liệu và nhận định chính xác, khoa học về đối tượng
nghiên cứu, tác giả đã vận dụng các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp,
thống kê thể hiện qua một số bảng biểu đã trình bày trong luận văn. Phương
pháp điều tra được thực hiện triệt để trong quá trình điền dã của tác giả tại
Viêng Chăn.
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách cụ thể và hệ thống
về kinh tế, văn hóa của người Việt ở thành phố Viêng Chăn (Lào).
- Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho cho môn học Lịch sử quan hệ
quốc tế, Lịch sử Đông Nam Á, Lịch sử Lào, Lịch sử văn hóa, tộc người...
- Luận văn là cứ liệu lịch sử khẳng định quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào
trong quá khứ và hiện tại.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, thư mục tài liệu tham khảo và
mục lục theo quy định của một luận văn, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về thành phố Viêng Chăn và quá trình định cư của
người Việt
Chương 2: Kinh tế của người Việt ở thành phố Viêng Chăn (1975- 2014)
Chương 3: Văn hóa của người Việt ở thành phố Viêng Chăn (1975-2014)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

5




Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ THÀNH PHỐ VIÊNG CHĂN

VÀ QUÁ TRÌNH ĐỊNH CƢ CỦA NGƢỜI VIỆT
1.1. Lịch sử và cảnh quan tự nhiên của thành phố Viêng Chăn
Thành phố Viêng Chăn là một khu đô thị đặc biệt của nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào1. Tên gọi Viêng Chăn theo nguyên gốc tiếng Lào có ý
nghĩa là “ Mặt trăng”- thành phố của mặt trăng.
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà Sử học, Viêng Chăn được xác định
ban đầu là nơi định cư của người Khmer cổ, họ sống tập trung quanh một ngôi
đền Hindu. Năm 1354, khi vua Fa Ngum lập nên vương quốc Lane Xang,
Viêng Chăn là một thành phố quan trọng. Và đến năm 1560, Viêng Chăn chính
thức trở thành thủ đô vương quốc Lane Xang.
Sau thời kì hưng thịnh của vương triều Xulinhavongsa, cuối thế kỷ
XVII Lào Lane Xang rơi vào cảnh phân liệt. Phong kiến Xiêm xâm lược
Lào, năm 1779 Viêng Chăn thất thủ, toàn bộ vương quốc Lào nằm dưới ách
đô hộ của Xiêm.
Từ thế kỷ XVI, khu vực Đông Nam Á trở thành đối tượng xâm lược của
các nước thực dân phương Tây. Với quyết tâm giành bằng được xứ Lào, thực
dân Pháp đã sử dụng biện pháp ngoại giao và gây áp lực quân sự với đối
phương. Họ đã đạt được mục đích của mình bằng bản hiệp ước Pháp - Xiêm kí
kết ngày 3/10/1893. Nước Lào trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Năm
1899, Lào trở thành một xứ nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp.
Viêng Chăn trở thành thủ phủ của xứ Lào. Trải qua những năm tháng đấu tranh
gian khổ, chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, đất nước Lào đã hoàn toàn độc lập
vào năm 1975. Theo quyết định của chính phủ Lào, thành phố Viêng Chăn là
thủ đô, là trái tim của nước CHDCND Lào.
1

Trước đây thành phố Viêng Chăn nằm trong tỉnh Viêng Chăn, năm 1989 theo quyết định của chính phủ Lào,
tỉnh Viêng Chăn tách thành hai khu vực: Tỉnh Viêng Chăn và khu đô thị đặc biệt Viêng Chăn .

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


6




Thành phố Viêng Chăn nằm là ở tả ngạn sông Mê Công, ở miền Trung
Lào. Trên bản đồ thế giới, Viêng Chăn ở vị trí giữa vĩ tuyến 17° 45' 50'' đến 18°
22' 38'' và giữa vĩ độ 10° 205' 40'' đến 10° 309' 37'' KĐ, có diện tích 3.920 km2
chiếm 1,7% của diện tích nước Lào.
Điểm đặc biệt của thành phố Viêng Chăn ở chỗ, thành phố không chỉ là
thủ đô của Lào mà còn là cửa khẩu quốc tế quan trọng giữa Lào với nước láng
giềng Thái Lan. Đường biên giới giữa hai quốc gia chính là con sông Mê Công
dài khoảng 165km. Phía bắc, phía đông thành phố Viêng Chăn giáp với các
huyện Xạ Nạ Kham, Phôn Hông,Thụ Lạ Khôm (tỉnh Viêng Chăn),Thả Phạ Bát
(tỉnh Bo Lị Khăm Xay).
Viêng Chăn có khí hậu nóng và ấm áp, nhiệt độ trung bình 26,4° C. Nhiệt
độ cao nhất đôi khi lên đến 41,5° C. Hàng năm thời tiết nóng nhất trong giữa
tháng 3 đến tháng 8, và thời tiết lạnh nhất trong tháng 12 đến tháng 1. Mùa mưa
có mưa nhiều, thậm chí mưa kéo dài từ 17 đến 20 ngày trong tháng. Khí hậu
nóng, ẩm, mưa nhiều thuận lợi cho quá trình sinh trưởng của vật nuôi, cây trồng.
Nhìn trên bề mặt, nước Lào tạo nên ấn tượng nổi bật bởi địa hình dốc,
thoải dần về phía sông Mê Công với rừng, cao nguyên và đồng bằng nhỏ. Ở
Viêng Chăn không chỉ có những cánh đồng thuận lợi cho canh tác nông nghiệp
mà rừng chiếm cũng diện tích khá lớn: 105.158ha [25,tr.15]. Viêng Chăn có
những ngọn núi cao như núi Khấu Khuay (1.100m), núi Phạ Năng cao 870 m
tạo nên sự đa dạng cho cảnh quan tự nhiên của thành phố Viêng Chăn.
Theo số liệu thống kê, năm 2012, thành phố Viêng Chăn có số dân là
797.130 người. Mật độ dân số đông với tỉ lệ 163 người /km2. Sự phân bố dân
cư ở Viêng Chăn không đều, khu vực trung tâm là nơi tập trung tới 63% dân số

của thành phố, các vùng ngoại vi là nơi cư trú của của 37% dân số còn lại.
Sinh sống ở Viêng Chăn có nhiều dân tộc khác nhau như: Dân tộc Lào,
dân tộc Tày, dân tộc Phu Tày, dân tộc Lự, dân tộc Nhuôn, dân tộc Dắng, dân tộc
Sẹk, dân tộc Thay Nưa, dân tộc Kưm Mụ, dân tộc Pray, dân tộc Xinh Mun, dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

7




tộc Phoọng, dân tộc Then, dân tộc Ơ Đu, dân tộc Bít, dân tộc La Mệt, dân tộc
Xam Tao, dân tộc Kạ Tang, dân tộc Mạ Coong, dân tộc Triu, dân tộc Drụ, dân
tộc Triêng, dân tộc Ta Ôi, dân tộc Dẹ, dân tộc Brâu, dân tộc Kạ Tu, dân tộc Ha
Rắc, dân tộc Ôi, dân tộc Kriêng, dân tộc Chênh, dân tộc Xạ Đang, dân tộc Xuồi,
dân tộc Nhạ Hơn, dân tộc Lạ Vi, dân tộc Pạ Cộ, dân tộc Khạ Me, dân tộc Tum,
dân tộc Nguồn, dân tộc Mói, dân tộc Krị, dân tộc Mông, dân tộc Iêu Miền, dân
tộc A Kha, dân tộc Phu Noi, dân tộc La Hủ, dân tộc La Sỉ, dân tộc Hà Nhì, dân
tộc Lô Lô, dân tộc Họ. Ở thành phố Viêng Chăn dân tộc Lào chiếm 87%.
Thành phố Viêng Chăn không gây ấn tượng bởi các công trình cao tầng,
hiện đại mà bởi vẻ đẹp tự nhiên với cuộc sống yên bình, thong thả. Viêng Chăn sở
hữu những công trình kiến trúc tôn giáo độc đáo như That Luang - tháp xá lị lớn
nhất, đẹp nhất ở Lào được xây dựng từ năm 1566 trên phế tích của ngôi đền từ
thế kỷ XIII; Chùa Phra Keo với những tác phẩm điêu khắc, chạm trổ và các hiện
vật quý hiếm được dát vàng, dát ngọc thể hiện tôn kính đức Phật…. Ở Viêng Chăn
có tới 89% dân số theo đạo Phật. Những công trình kiến trúc tôn giáo ở Viêng
Chăn đã trường tồn với thời gian và mãi là niềm tự hào của người dân Lào.
Lào là một quốc gia nằm sâu trong lục địa ở phía Tây bán đảo Đông
Dương, là nước duy nhất trong khu vực Đông Nam Á không tiếp giáp với biển.
Giao thương của Lào với thế giới chủ yếu nhờ cảng biển của hai nước láng

giềng Việt Nam và Thái Lan. Thành phố Viêng Chăn với vị trí địa lí đặc biệt
trở thành cửa ngõ quan trọng ở phía tây nam Lào. Với địa hình đa dạng và khí
hậu nóng ấm, ở đây, cư dân có điều kiện phát triển ngành kinh tế nông - lâm
nghiệp. So với một số tỉnh thành khác trong cả nước, Viêng Chăn là nơi đông
dân nhất, không chỉ có các dân tộc Lào sinh sống mà còn có thành phần nhập
cư đó là người Việt.
1.2. Ngƣời Việt đến Lào và định cƣ tại Viêng Chăn
Quá trình di cư của người Việt đến Lào diễn ra trong suốt chiều dài lịch
sử. Sự có mặt của người Việt sinh sống tại Lào trước thời thuộc Pháp xuất phát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

8




từ nhu cầu cá nhân do làm ăn buôn bán hoặc lánh nạn do tình hình chính trị
trong nước bất ổn. Số lượng này rất nhỏ và không có số liệu chính xác.
Hiện tượng di cư của người Việt đến Lào tăng theo thời gian từ khi vùng
đất này là một xứ nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Đề cập tới
vấn đề này các nhà nghiên cứu đồng thuận trong quan điểm khi nhận xét rằng:
Người Việt đến Lào do “ lực đẩy” chứ không phải do “ lực hút”. Tại sao có
hiện tượng trái quy luật như vậy? Đó là do chính sách cai trị và khai thác của
Pháp cho mục đích thực dân. Người Việt đến Lào dưới thời Pháp thuộc được
phân thành hai loại:
Thứ nhất, di cư tự phát do điều kiện làm ăn thuận lợi hơn. Mặc dù thiên
nhiên Lào khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, nhưng việc Pháp sáp nhập Lào vào
khối Đông Dương đã hình thành một địa bàn thống nhất và tạo điều kiện cho
người dân chuyển đổi địa bàn sinh sống dễ dàng.
Thứ hai, di cư có tổ chức. Hình thức này phục vụ cho mục đích khai thác

thuộc địa của Pháp. Do đặc điểm dân cư của Lào nên Pháp thực sự khó khăn
trong vấn đề tìm kiếm nguồn nhân lực phục vụ cho cuộc khai thác thuộc địa lần
1 và lần 2 ở xứ Lào. Để khắc phục tình trạng đó, Pháp đã đưa người Việt sang
lao động tại Lào.
Người Việt sang Lào đảm trách các chức năng khác nhau: Một bộ phận
làm công chức, phục vụ bộ máy hành chính của Pháp. Số lượng này khá đông.
Tính đến năm 1937, người Việt chiếm 47% số vị trí các công chức cao cấp
người bản xứ trong bộ máy hành chính tại Lào [1,tr.27]. Một bộ phận người
Việt khác sang Lào làm culi, phu làm đường và phục vụ trong các hầm mỏ. Đời
sống của họ khổ cực dưới sự giám sát chặt chẽ của các viên quản lí người Pháp.
Họ sinh sống chủ yếu tại các đô thị của Lào. Do không hạn chế việc di cư và
cần nhân lực phục vụ cho khai thác xứ Lào của Pháp nên năm 1942 lượng
người Việt ở Lào lên tới con số 40.000 người. Như vậy, thời kì thuộc Pháp,
người Việt chiếm số lượng không nhỏ trong dân số Lào. Đây là một đặc điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

9




xã hội Lào từ thời thuộc Pháp. Tuy nhiên, thời gian sau do kềm chế phong trào
đấu tranh ở Lào, thực dân Pháp đã tiến hành những cuộc đàn áp đẫm máu đối
với người Việt. Vì thế, số lượng người Việt giảm, họ tản cư chạy sang Thái Lan
hoặc định cư ở các nước thứ ba và số ít quay trở về Việt Nam.
Sau khi thực dân Pháp rút khỏi Lào, thời kỳ thuộc Mỹ số lượng người
Việt sinh sống tại Lào khó thống kê chính xác. Thời bình, theo thỏa thuận hợp
tác giữa hai chính phủ Việt Nam - Lào, chính phủ Việt Nam đã điều động một
số cán bộ người Việt sang Lào thực hiện nhiệm vụ giúp đỡ Lào xây dựng các
công trình cơ sở hạ tầng. Khi công trình hoàn thành một bộ phận nhỏ công

nhân đã chủ động xin định cư tại Lào. Theo kết quả điều tra của Viện nghiên
cứu Đông Nam Á (Việt Nam) trong dự án 2005-SE 020 về Cộng đồng người
Việt tại Lào do quỹ Rockefeller tài trợ cho biết, hiện tại có khoảng 30.000
người Việt sống tại Lào và dân số Lào thời điểm hiện tại 6,1 triệu người. Như
vậy, tỉ lệ giữa dân bản địa và người Việt di cư ở Lào không nhỏ.
Viêng Chăn từ lâu đã là một trong những điểm đến và sinh sống khá
đông của người Việt. Khai thác tài liệu lưu trữ của người Pháp cho biết khu vực
đô thị Viêng Chăn năm 1943, nếu số lượng người Lào là 9.570 thì người Việt là
12.400 [18,tr.48].
Người Việt đến định cư ở Viêng Chăn có nguyên quán từ nhiều tỉnh khác
nhau của Việt Nam. Ví như, miền bắc có các tỉnh Hà Đông, Hà Nam, Sơn Tây,
Hải Phòng, Hải Dương; miền trung và miền nam có các tỉnh như Huế, Quảng
Bình, Quảng Ngãi, Quảng Trị, xa hơn còn có Sài Gòn, Quy Nhơn…Cùng
chung số phận dân thuộc địa, người Việt ở Viêng Chăn sống cơ cực, lầm than
và chịu sự quản lí gắt gao của người Pháp. Để hoàn thiện hơn quá trình quản lí
người Việt, theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ra ngày 23/6/1934
gồm 8 điều đã nói rõ về việc thành lập Bang (hội) của người Việt trong hệ
thống hành chính của Pháp [8, tr.59]. Về tổ chức Bang gồm có Bang trưởng,
hai bang phó giúp việc. Những chức vị này được quan Công Sứ - Đốc lý bổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

10




nhiệm trong số những người An Nam có uy tín và trình độ.Những người này
chịu trách nhiệm trước chính quyền Bảo hộ và chính quyền Viêng Chăn về
những vấn đề xã hội, trật tự xã hội, thu thuế….Đây là một tổ chức hành chính
của người Việt mà người Pháp thành lập ở Lào để tạo điều kiện làm ăn,sinh

sống, hoạt động cho người An Nam trong chiến lược khai thác và cai trị của họ.
Từ mô hình Bang An Nam ở Viêng Chăn, những tỉnh khác ở Lào cũng đã
thành lập tổ chức hành chính kiểu này. Đây chính là điểm đặc biệt khi xuất hiện
một tổ chức của người Việt ở nước ngoài.
Sau năm 1954, thực dân Pháp buộc phải rút khỏi Đông Dương, Liên
bang Đông Dương thuộc Pháp không còn nữa, do vậy các Bang An Nam ở Lào
không thể tiếp tục tồn tại. Thay thế vào đó, trong hoàn cảnh lịch sử mới Hội Ái
hữu của người Việt xuất hiện với những chức năng hoạt động của một hội kiều
dân. Như vậy, các Bang An Nam do Pháp lập ra mục đích để quản lí người Việt
nhưng trên thực tế, nó góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện các
Hội người Việt Nam tại Lào. Hội người Việt Nam ở Viêng Chăn nói riêng và
trên đất Lào nói chung từng bước thay đổi để thích hợp với sự thừa nhận của
chính quyền Lào qua thời kì lịch sử.
Theo tài liệu điều tra, hiện nay ở Lào vẫn chưa có Tổng hội Việt Kiều
nhưng có 10 Hội người Việt ở 10 tỉnh của Lào. Hội người Việt Nam ở Viêng
Chăn thành lập ngày 15/7/1977. Số liệu thống kê của Sở Công An thủ đô Viêng
Chăn cho biết, năm 2004, Việt Kiều ở Viêng Chăn có 4.715 người, trong đó nữ
là 2.220 người. Qua cuộc phỏng vấn của tôi với ông Đào Minh Châu - Chủ tịch
Hội người Việt ở Viêng Chăn vào tháng 6/2014, số liệu ông cung cấp về số
lượng Việt kiều đang làm ăn sinh sống tại Viêng Chăn là 5000 người. So sánh
hai số liệu của các năm 2004 và 2014, trong khoảng thời gian 10 năm cho thấy
số lượng người Việt xin cư trú tại Viêng Chăn không nhiều.
Hiện nay, người Việt cư trú rải rác ở 11 địa điểm quanh trung tâm thủ đô
Viêng Chăn. Đó là Wat Chăn, Thông Conkhăm, Xỉ Xawắt, Sỉ Mong, Bản Phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

11





(Đông Pala), Phôn Xavẳn, Khủa Luổng, Wat Tầy, Noỏng Tên và Phôn Xay,
Thả Ngỏn. Số người Việt di dân tự do sang Lào tìm kiếm công việc ở Viêng
Chăn tập trung thành 3 nhóm: Nhóm ở Bản Phải (Đông Pala); nhóm ở Thông
Conkhăm; nhóm ở Phôn Xavẳn.
Hội người Việt Nam2ở Viêng Chăn không chỉ có trách nhiệm đoàn kết
rộng rãi người Việt đang sinh sống tại đây mà còn góp phần giáo dục bà con
Việt Kiều hiểu và tôn trọng Luật pháp nước bạn, hòa nhập tốt vào cuộc sống
của Lào; gìn giữ bản sắc văn hóa và truyền thống của dân tộc, giữ mối quan hệ
gắn bó với gia đình và quê hương.
1.3. Chính sách của chính phủ Lào đối với cộng đồng ngƣời Việt ở Lào
Vấn đề người Việt Nam ở nước ngoài được Đảng và nhà nước Việt Nam
quan tâm đặc biệt bởi họ là một phần máu thịt của dân tộc Việt. Đảm trách về
vấn đề này ở cấp trung ương có Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài. Duy trì
mối liên lạc thường xuyên giữa kiều bào với Tổ quốc có tạp chí Quê hương và
kênh truyền hình VTV4. Theo nghị quyết 36 của Bộ chính trị Việt Nam đối với
người Việt ở nước ngoài (26/3/2004), người Việt chính là cầu nối góp phần tăng
cường xây dựng quan hệ hữu nghị giữa chính phủ Việt Nam với nước sở tại.
Ở Lào, chính phủ không có chính sách riêng đối với người Việt mà chỉ
có chính sách chung đối với ngoại kiều. Qua những luật định chung của nhà
nước Lào, chúng ta nhận biết rõ được lợi ích, khó khăn cũng như nghĩa vụ của
người Việt đang sinh sống và công tác tại Lào.
Vấn đề này được xem xét dưới những góc độ sau:
Thứ nhất, công tác quản lý của chính phủ Lào về mặt nhân khẩu.
Thứ hai, quyền của người Việt được hưởng (hoạt động kinh tế, sinh hoạt
văn hóa, được giáo dục…..).
Trong cộng đồng người Việt tại Lào, luật định của chính phủ Lào quy
định rất cụ thể. Người Việt ở Lào gồm ba bộ phận: Bộ phận Việt kiều (những
2


Tổ chức Hội người Việt Nam ở Viêng Chăn (Phụ lục 2).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

12




người định cư lâu dài ở Lào nhưng chưa có quốc tịch Lào); Bộ phận người Lào
gốc Việt; Những người mới đến Lào trong những năm gần đây với nhiều hình
thức khác nhau.
Người Lào gốc Việt, ước tính toàn Lào có khoảng 20.000 người. Về cơ
bản họ đã có quốc tịch Lào, gia đình sinh sống tại Lào nhiều nhất đã trải qua 7
thế hệ. Những người Việt sống ở Lào khoảng 3 đời trở lên đã hòa nhập vào xã
hội Lào, có cuộc sống ổn định và theo luật pháp, họ được hưởng quyền công
dân như những người Lào gốc. Tại Viêng Chăn, số gia đình người Việt trải qua
3 thế hệ là 41 hộ (họ đến định cư ở đây trong thời gian chiến tranh Đông
Dương); 4 thế hệ là 44 hộ; 5 thế hệ là 17 hộ [8,tr.44]. Người Việt nhập quốc
tịch Lào được quyền làm việc trong mọi lĩnh vực, họ được quyền sở hữu bất
động sản, có giấy phép kinh doanh và con cái được học hành trong chương
trình giáo dục tại Lào hoặc nước ngoài.
Người Việt chưa nhập quốc tịch Lào (Việt kiều)3, được chính phủ Lào
cấp hộ khẩu và chứng minh thư nhân dân Lào, nhưng vẫn mang quốc tịch Việt
Nam. Nhà nước Lào quản lí họ theo những luật định đối với người nước ngoài.
Ví như, tại điều 36, trang 11, Hiến pháp Lào quy định: “Những ngoại
kiều mà chưa có quốc tịch Lào đều có quyền được bảo vệ nhân quyền và quyền
tự do theo như Hiến pháp Lào quy định, có quyền khiếu kiện trước toà án và
các cơ quan nhà nước Lào. Mặt khác, họ phải tuân thủ luật pháp cũng như các
quy định của pháp luật của nhà nước Lào ”. Trong chỉ thị số110/97, ngày

20/2/1997 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lào về việc tổ chức quản lý người nước
ngoài trong điều 4 trang 3 đã nêu: “Những người nước ngoài mà được Bộ Nội
vụ đồng ý định cư và làm ăn sinh sống tự do vĩnh viễn ở Lào thì được cấp
chứng minh thư tạm thời của Cục Quản lý xuất - nhập cảnh và được Cục An
ninh kiểm soát. Nếu trong 7 năm những người đó có biểu hiện tốt thì giao cho
Cục Quản lý dân số thuộc Văn phòng. Quản lý người nước ngoài, cho phép
3

“Việt kiều” chỉ đối tượng đến định cư ở Lào từ năm 1975 đổ về trước chưa nhập quốc tịch Lào.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

13




được nhập hộ khẩu và làm chứng minh thư ngoại kiều được quyền cư trú ở
Lào”. Việt kiều được hoạt động, đi lại, làm ăn, buôn bán bình thường nhưng
không được mua bán đất đai, nhà cửa, họ chỉ được quyền thuê. Việt kiều cũng
không được Nhà nước Lào cấp giấy phép đầu tư kinh doanh nên họ cần dựa
vào môn bài của người Lào. Con cái của người Việt thuộc đối tượng này chịu
nhiều thiệt thòi, nếu học tốt và muốn học các trường Đại học ở Lào thì phải xin
làm con nuôi người Lào, mang họ Lào.
Ngoại kiều được nhập quốc tịch Lào được quy định tại điều 9, điều 14,
điều 16 và điều 25 của Luật quốc tịch Lào. Theo quy định, người Lào không
được mang nhiều quốc tịch. Quy trình xin nhập quốc tịch phải viết đơn trình Bộ
Tư pháp Lào theo các cấp bản, huyện, tỉnh, Bộ An Ninh (Bộ Công An). Điều
kiện gia nhập: Người viết đơn phải đủ 18 tuổi; biết đọc, viết, nói tiếng Lào
thành thạo; đã thôi quốc tịch của mình; đã thường trú ở Lào liên tục trên 10

năm; có nghề nghiệp, thu nhập ổn định; không có tiền án, tiền sự; sức khỏe tốt;
có công lao đóng góp cho sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc Lào và cam kết
tình nguyện tuân thủ luật pháp Lào…cuộc sống đời thường, nhiều Việt kiều
cho con cái của mình nhập quốc tịch Lào theo hình thức hôn nhân hoặc nhận
làm con nuôi của người Lào.
Nhóm thứ ba, những người Việt mới đến Lào sau năm 1975, nhất là từ
năm 1980 đến nay. Cuộc sống của họ phần lớn là không ổn định và thành phần
hết sức đa dạng. Quản lý đối tượng này được ghi rõ trong điều 4, điều 6 và điều
7 tại bổ sung mới, công bố năm 2004 trong Luật quốc tịch Lào. Những người
mới nhập cư, khi vào Lào họ có giấy thông hành hoặc hộ chiếu. Giấy thông
hành do các tỉnh biên giới cấp nhưng không thể đi sâu vào nội địa. Giấy thông
hành và hộ chiếu khi hết hạn không được phép ở lại Lào. Trong thời gian ở
Lào, họ có quyền sở hữu tư nhân đối với nguồn thu nhập hợp pháp, có quyền
thừa kế tài sản theo luật pháp Lào quy định. Khi không tiếp tục cư trú nữa, họ
có quyền mang theo tài sản của mình. Đương nhiên, họ cũng không có quyền
sở hữu đối với bất động sản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

14




Luật pháp Lào rất nghiêm khắc đối với người nước ngoài vi phạm luật
định. Ví dụ, đối với người đến Lào lao động nhưng trốn thuế, theo chỉ thị số
110 (20/10/1997) của Bộ An Ninh, mức phạt từ 100 đến 1000 USD và bị trả về
nước. Nếu vi phạm Luật Cư trú và kinh doanh không khai báo bị phạt từ 500
đến 5000 USD; Trốn tránh, làm giả sổ hộ khẩu gia đình hoặc chứng minh thư
thành ngoại kiều hoặc thành công dân Lào mà không được phép của Bộ An
Ninh bị đưa ra tòa xét xử theo luật pháp….

Trên cơ sở tìm hiểu chính sách của Chính phủ Lào đối với người Việt và
khảo sát thực tế tại địa bàn thành phố Viêng Chăn, tôi nhận thấy:
Người Việt sinh sống tại Viêng Chăn nói riêng và trên đất Lào nói chung
lao động cần cù, sống hài hòa, tôn trọng luật pháp Lào. Họ được Đảng, Nhà
nước và nhân dân Lào hết lòng giúp đỡ.
Hiện tại vẫn có khá nhiều người Việt đã cư trú lâu dài ở Lào nhưng
không thể nhập quốc tịch Lào cho dù họ có nguyện vọng. Nguyên nhân xuất
phát từ một số quy định của luật pháp Lào về vấn đề nhập cư, cấp quốc tịch. Ví
dụ như: Luật pháp Lào chỉ thừa nhận một quốc tịch, nhiều người Việt được
sinh ra và sống trên đất Lào không được cấp quốc tịch Lào vì có những người
Việt đời cha ông họ sang Lào từ những năm đầu thế kỷ XX, họ không thể xác
định chính xác cha, ông họ ra đi từ địa phương nào tại Việt Nam do vậy họ
không thể quay về Việt Nam nhập tịch và tại Lào trong luật định cấp quốc tịch
một trong những điều kiện quan trọng là phải từ bỏ quốc tịch của mình. Vậy
đối tượng này không bao giờ có thể đáp ứng được những yêu cầu cơ bản trên.
Họ thực sự thiệt thòi về quyền lợi của mình bởi họ không được thừa nhận các
quyền cơ bản như: Quyền bầu cử, không được đảm trách những vị trí trong bộ
máy hành chính Lào…
Số lượng Việt kiều sinh sống tại Viêng Chăn cũng như các tỉnh khác ở
Lào không nhỏ. Khá nhiều người trong số họ do cần cù lao động, tiết kiệm
trong sinh hoạt nên cũng có số vốn nhất định. Trong luật pháp Lào không cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

15




phép họ sở hữu bất động sản nên họ cũng gặp khó khăn nhất định. Nếu muốn
phát triển kinh tế nông nghiệp, họ không thực sự được sở hữu đất đai mà chỉ ở

vị trí thuê hoặc làm thuê. Trong lĩnh vực kinh doanh họ không được chính phủ
Lào cấp thẻ môn bài mà họ phải thuê lại của người Lào gốc….Đây là một trong
những nguyên nhân giải thích tại sao người Việt đến Lào chủ yếu sống ở các
thành phố và hoạt động kinh doanh của họ mang quy mô vừa hoặc nhỏ và có
những bất cập nhất định.
Đối với nhóm người cư trú tạm thời của Lào đôi khi vẫn phạm luật khi
họ vì kế sinh nhai đã di cư sang Lào. Giấy thông hành hết hạn họ không về
nước và ở tại Lào họ vẫn kiếm được việc làm mặc dù đồng lương thấp. Trong
mỗi đợt kiểm tra, bị công an Lào bắt họ không có khả năng nộp phạt vì số tiền
phạt quá lớn đối với thu nhập của họ. Thiết nghĩ, phía chính phủ Việt Nam và
chính phủ Lào cần có sự hợp tác tìm biện pháp thực tế giúp nhóm người Việt
cư trú tạm thời trên đất Lào hiểu biết đầy đủ, tôn trọng luật pháp của nước Lào.
Tiểu kết chƣơng 1
1.Lào là một quốc gia nằm ở trung tâm của tiểu vùng sông Mê Công.
Trong lịch sử, thời phong kiến, Lào là một quốc gia độc lập, phát triển hùng
mạnh. Do mâu thuẫn nội bộ, nước Lào rơi vào trạng thái phân liệt và trở thành
thuộc địa của Xiêm, sau trở thành thuộc địa của thực dân Pháp từ năm 1893.
Trải qua những năm tháng đấu tranh cách mạng, giành độc lập dân tộc, năm
1975 Lào thực sự được giải phóng. Nhân dân các bộ tộc Lào bước vào thời kỳ
khôi phục và xây dựng đất nước. Thành phố Viêng Chăn là thủ đô của nước
Lào. Viêng Chăn là trung tâm kinh tế, chính trị của đất nước và cũng là trung
tâm di sản văn hóa của thế giới bởi sự trường tồn của nhiều công trình kiến trúc
tôn giáo cổ.
2. Lào là một quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không có đường biên
giới biển nhưng Lào luôn là một quốc gia có nhiều tiềm năng phát triển. Một
vùng đất văn hóa đa dạng, có nền chính trị - xã hội hài hòa, cởi mở nhưng dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

16





số ít nên từ rất sớm Lào là điểm đến của cư dân các nước láng giềng trong quá
trình di cư tự phát. Người Việt đến Lào định cư nhiều nhất ở thời kì Lào là một
xứ nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Thành phố Viêng Chăn là
một trong những tỉnh có đông người Việt cư trú. Người Việt nhanh chóng thích
nghi, hòa nhập với cuộc sống của người Lào và trở thành một cộng đồng định
cư đặc biệt của người nước ngoài tại Lào. Cộng đồng người Việt đoàn kết với
nhân dân Lào, hiện nay họ có tổ chức đại diện ở 11 tỉnh thành của Lào. Đó
chính là Hội người Việt Nam ở Viêng Chăn, Hội người Việt Nam ở Luông Pha
Băng, Hội người Việt ở Xiêng Khoảng….
3. Nhìn lại lịch sử, Lào không thể phủ nhận vai trò của người Việt ở Lào
trong mọi lĩnh vực. Ngay từ năm 1930, chi bộ Đảng đầu tiên được thành lập tại
Viêng Chăn và sau đó là ở một số tỉnh khác của Lào. Lực lượng nòng cốt ở các
chi bộ là người Việt. Việt kiều đã đóng góp xương máu làm nên thắng lợi của
dân tộc Lào. Đất nước Lào độc lập, trong công cuộc đổi mới hiện nay ở
Lào,Việt kiều tích cực tham gia hoạt động trong mọi lĩnh vực góp phần xây
dựng và bảo vệ đất nước Lào tươi đẹp. Cuộc sống, sinh hoạt của người Việt
trên đất nước Lào về cơ bản được chính phủ và nhân dân Lào tôn trọng và tạo
điều kiện thuận lợi. Song, trong luật định của Lào về vấn đề nhập cư, cấp quốc
tịch cũng như những quy định về các điều kiện sở hữu bất động sản hay phúc
lợi xã hội đối với người nước ngoài trong đó chủ yếu là người Việt định cư tại
Lào vẫn có những khó khăn nhất định. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá
trình sinh sống của người Việt.
4. Tìm hiểu về Viêng Chăn, về quá trình di cư của người Việt đến Lào và
định cư tại Viêng Chăn cũng như nghiên cứu kĩ về chính sách của chính phủ
Lào đối với người nước ngoài mà trong đó chủ yếu là người Việt đã giúp cho
tôi có cơ sở tiếp cận, nghiên cứu sâu và giải thích được những hoạt động kinh
tế và văn hóa của người Việt ở Lào. Trước hết, tôi đã khảo sát thực tế trên địa

bàn thành phố Viêng Chăn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

17




×