Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT về PHÒNG, CHỐNG bạo lực GIA ĐÌNH đối với TRẺ EM từ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THỊ YÊN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC
GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THỊ YÊN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC
GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH PHÚ YÊN

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THANH HÀ

HÀ NỘI, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn của riêng tôi, các số liệu và kết
quả nghiên cứu trong luận văn “Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình đối với trẻ em từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” là hoàn toàn trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định, không
trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Phú Yên, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn

Bùi Thị Yên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI TRẺ EM ................. 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình đối với trẻ em ................................................................................ 8
1.2. Chủ thể, nội dung và hình thức thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình đối với trẻ em .................................................................................... 17
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình đối với trẻ em .......................................................................................... 24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG,
CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI TRẺ EM TẠI TỈNH PHÚ
YÊN................................................................................................................. 29
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình đối với trẻ em tại tỉnh Phú Yên ......................................................... 29
2.2. Các quy định pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em ở

Việt Nam hiện nay .......................................................................................... 33
2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ
em tại tỉnh Phú Yên ......................................................................................... 39
2.4. Đánh giá chung về thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối
với trẻ em tại tỉnh Phú Yên ............................................................................. 49
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT, BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI TRẺ EM TẠI TỈNH
PHÚ YÊN ....................................................................................................... 59


3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
đối với trẻ em tại tỉnh Phú Yên ....................................................................... 59
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
đối với trẻ em tại tỉnh Phú Yên ....................................................................... 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Nghĩa đầy đủ

Từ viết tắt

1

BLGĐ


Bạo lực gia đình

2

PCBLGĐ

Phòng chống bạo lực gia đình

3

CLB

Câu lạc bộ

4

LHPN

Liên hiệp phụ nữ

5

HCĐB

Hoàn cảnh đặc biệt

6

UBND


Ủy ban nhân dân

7

TBXH

Thương binh xã hội

8

UNICEF

Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

bảng

2.1

2.2

2.3


Tình hình bạo lực gia đình đối với trẻ em trên địa bàn
tỉnh Phú Yên
Thống kê hình thức bạo lực gia đình đối với trẻ em
Hình thức xử lý các trường hợp có hành vi bạo lực gia
đình đối với trẻ em

Trang

30

31

32


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là cái nôi của xã hội, là môi trường giáo dục và phát triển đầu
tiên của con người. Gia đình là nơi hình thành nhân cách của mỗi con người.
Chính vì vậy ai cũng mong mình được sống trong một gia đình tràn đầy yêu
thương, đùm bọc lẫn nhau. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, bạo lực gia
đình đã và đang trở thành một trong những nguyên nhân làm cho gia đình mất
đi ý nghĩa vốn có ban đầu của nó. Bạo lực gia đình đang trở thành vấn đề phổ
biến, là biểu hiện của các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa
người lớn và trẻ em trên toàn thế giới; là một trong những nguyên nhân ảnh
hưởng tới danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mạng của phụ nữ và trẻ em,
làm suy giảm chất lượng cuộc sống nói chung. Bạo lực gia đình đã và đang là
một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng trong xã hội, là lực cản trên con đường
xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại. Vì vậy, trong nhiều năm qua, sự gia
tăng và mức độ nghiêm trọng của bạo lực gia đình là mối quan tâm của nhiều

quốc gia và các tổ chức quốc tế, đặc biệt, tổ chức Liên hợp quốc đã thông qua
Công ước về các quyền dân sự và chính trị; Công ước về quyền trẻ em; Công
ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ… đã thể
hiện sự quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế trong vấn đề bình đẳng giới
và phòng, chống bạo lực gia đình.
Ở nước ta, thúc đẩy bình đẳng giới, tôn trọng và bảo đảm quyền con
người chống lại mọi hành vi bạo lực là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà
nước. Việt Nam đã phê chuẩn và tham gia nhiều công ước liên quan đến
phòng, chống bạo lực như: phê chuẩn Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức
phân biệt đối xử chống lại phụ nữ vào ngày 17/12/1982, phê chuẩn Công ước
quốc tế về quyền trẻ em ngày 20/2/1990… Bên cạnh đó, vấn đề phòng, chống
bạo lực gia đình đối với trẻ em cũng được thể hiện trong các văn bản quy
1


phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, theo đó đều coi bạo lực gia đình là
hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền được bảo hộ tính mạng, sức
khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người, cụ thể như: Luật Hôn nhân và gia
đình; Luật Trẻ em; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Hình sự; Luật Bình đẳng giới; đặc
biệt là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội khóa XII thông qua
ngày 21/11/2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008. Những văn bản
pháp luật nêu trên và các văn bản hướng dẫn thi hành là cơ sở pháp lý quan
trọng cho việc tổ chức thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
và xử lý các hành vi bạo lực gia đình. Tuy nhiên, thực tiễn pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình đối với trẻ em cũng còn nhiều hạn chế: bất bình đẳng
giới vẫn tồn tại trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội; định kiến giới
và tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn nặng nề trong đời sống xã hội; bạo
lực gia đình vẫn diễn biến phức tạp dưới nhiều hình thức tinh vi gây ảnh
hưởng tới gia đình - tế bào của xã hội… Thực trạng bạo lực gia đình diễn ra
có nhiều nguyên nhân, và một trong số đó bắt nguồn từ việc thực thi pháp luật

về phòng chống bạo lực gia đình chưa đầy đủ và thiếu hiệu quả.
Từ năm 2015 đến nay, trên địa bàn tỉnh Phú Yên phát hiện 1.223 vụ
bạo lực gia đình, trong đó có 176 vụ bạo lực gia đình liên quan đến trẻ em chủ
yếu là bạo lực về thể xác; 2 trường hợp trẻ em gái bị xâm hại tình dục. Các
đối tượng xâm hại tình dục bị khởi tố xử lý nghiêm khắc theo quy định của
pháp luật;
Ngoài ra, các vụ việc bạo lực gia đình, xâm hại phụ nữ và trẻ em xảy ra
được chính quyền địa phương, đoàn thể, các tổ chức xã hội... đã kịp thời phát
hiện, can thiệp, ngăn chặn, xử lý. Có thể nhận thấy, thực tiễn công tác phòng,
chống bạo lực gia đình đối với trẻ em trên địa bàn tỉnh Phú Yên còn những
tồn tại, hạn chế nhất định, khiến cho tình trạng bạo lực gia đình diễn biến
phức tạp, khó kiểm soát.

2


Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu những quy định và thực hiện pháp
luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em là hết sức cần
thiết, nhằm đánh giá toàn diện mức độ điều chỉnh, tác động của pháp luật hiện
hành đối với các quan hệ xã hội có liên quan đến vấn đề bạo lực gia đình;
phát hiện những mặt tích cực và hạn chế, khắc phục những điểm còn bất cập
trong thực tiễn thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với
trẻ em ở tỉnh Phú Yên, từ đó, đề xuất những giải pháp cụ thể bảo đảm thực
hiện có hiệu quả pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em,
nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình đối
với trẻ em trên địa bàn tỉnh Phú Yên nói riêng và trên phạm vi cả nước nói
chung.
Xuất phát từ những lý do trên, vấn đề “Thực hiện pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình đối với trẻ em từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” đã được
tác giả lựa chọn làm đề tại luận văn thạc sĩ Luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bạo lực gia đình nói chung và đối với trẻ em nói riêng không phải là
vấn đề mới mẻ, mà là hiện tượng xã hội có tính lịch sử và tương đối phổ biến
trên thế giới.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Trang (2014), Pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình - qua thực tiễn tỉnh Thanh Hoá, Luận văn Thạc sĩ ngành: Lý luận
và lịch sử nhà nước và pháp luật, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã
phân tích để làm rõ cơ sở lý luận pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở
tỉnh Thanh Hóa hiện nay - Những bất cập, tồn tại và nguyên nhân. Luận văn
nghiên cứu xác định đặc điểm về việc thực hiện pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình ở tỉnh Thanh Hóa; đánh giá hệ thống và cụ thể thực trạng
việc triển khai thự chiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở địa
3


phương Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
Tác giả Phạm Thị Diệu Thúy (2015), Pháp luật về phòng chống bạo
lực gia đình đối với trẻ em - thực tiễn tại tỉnh Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên
Huế, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Huế. Tác giả đã giải quyết
một số vấn đề lý luận chung về bạo lực gia đình và pháp luật về phòng chống
bạo lực gia đình. Nghiên cứu các quy định của pháp luật về phòng chống bạo
lực gia đình để chỉ ra những hạn chế trong quy định của pháp luật về vấn đề
này. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình
tại địa bàn tỉnh Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ đó rút ra những
nguyên nhân và hậu quả của vấn đề bạo lực gia đình đối với trẻ em. Trên cơ
sở chỉ ra những vướng mắc trong quy định của pháp luật, những bất cập trong
việc áp dụng pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình.
Bên cạnh đó là tác giả Huỳnh Thị Phúc (2018), Thực hiện pháp luật về

phòng, chống bạo lực gia đình từ thực tiễn tỉnh Phú Yên, thành phố Đà Nẵng,
Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, Học viện Khoa học xã
hội Việt Nam. “Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc phòng
chống bạo lực gia đình” luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Ngọc Bích (2018),
Đại học Luật Hà Nội; Lưu Bích Ngọc, Đinh Ngọc Quý (2012), Phòng, chống
bạo lực gia đình đối với phụ nữ và những thách thức xuất phát từ mâu thuẫn
giữa khung pháp lý và những định chế xã hội, Hà Nội. “Tính hợp lý, khả thi
của một số biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống
bạo lực gia đình” của tác giả Phan Thị Lan Hương đăng trên Tạp chí Gia đình
và trẻ em (2018); “Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em - thực trạng và nguyên
nhân” của Ngô Thị Hường (2017), Đại học Luật Hà Nội…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên đã hệ thống
hóa, tổng hợp, phân tích và đánh giá vấn đề bạo lực gia đình dưới nhiều góc

4


độ khác nhau từ công tác xã hội đến tâm lý học và luật học, tuy nhiên việc
nghiên cứu về pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em từ
thực tiễn một địa bàn cụ thể là tỉnh Phú Yên từ đó đề xuất những giải pháp đề
bảo đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ thì
có rất ít các đề tài đề cập tới. Vì vậy, đề tài nghiên cứu “Thực hiện pháp luật
về phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em từ thực tiễn tỉnh Phú Yên”
không có sự trùng lắp với những công trình nghiên cứu của các tác giả đã
được công bố, các kết quả nghiên cứu trước đó chỉ có giá trị tham khảo khi
tác giả nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ
sở lý luận về thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ

em; đánh giá thực trạng bạo lực gia đình đối với trẻ em tại tỉnh Phú Yên, thực
trạng thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em tỉnh
Phú Yên hiện nay và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm thực hiện có
hiệu quả pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình đối với trẻ em.
- Phân tích tình hình bạo lực gia đình và thực trạng pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình; thực tiễn thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình đối với trẻ em tại tỉnh Phú Yên. Phân tích, đánh giá những kết quả đã
đạt được, những tồn tại, hạn chế của việc thực hiện pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình đối với trẻ em tỉnh Phú Yên và làm rõ nguyên nhân của
những hạn chế đó.
5


- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em tại tỉnh Phú Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng
thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em tại tỉnh Phú
Yên từ năm 2015 đến nay, trong đó tập trung nghiên cứu hoạt động phòng
ngừa xảy ra bạo lực gia đình đối với trẻ em.
Về không gian: Tỉnh Phú Yên
Về thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ
bản của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối
với trẻ em, trên cơ sở những phương pháp nghiên cứu cụ thể: thống kê, tổng
hợp, diễn giải, quy nạp, phân tích, so sánh để phân tích và làm rõ các vấn đề
khoa học cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận, những nội dung được nghiên cứu trong luận văn góp
phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình đối với trẻ em, đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật
về phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay.

6


Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần thay đổi phần nào nhận thức của
người dân về vấn đề bạo lực gia đình đối với trẻ em, bên cạnh đó, những giải
pháp được đề xuất vận dụng vào thực tiễn sẽ nâng cao hiệu quả của công tác
đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em trên địa bàn tỉnh Phú
Yên, cung cấp kinh nghiệm thực tiễn để tham khảo, áp dụng cho những địa
phương khác trên cả nước, đồng thời luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho
những người quan tâm nghiên cứu về thực hiện pháp luật trong phòng chống
bạo lực gia đình đối với trẻ em.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình đối với trẻ em;
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia

đình đối với trẻ em tại tỉnh Phú Yên;
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật,
bảo đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em
từ thực tiễn tỉnh Phú Yên.

7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG
BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI TRẺ EM
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
đối với trẻ em
1.1.1.1. Khái niệm bạo lực gia đình đối với trẻ em
* Trẻ em
Để tìm hiểu về pháp luật phòng chống bạo lực gia đình đối với trẻ em
thì trước hết chúng ta cần hiểu như thế nào được gọi là trẻ em. Theo từ điển
Tiếng Việt thì trẻ em được hiểu là con người ở giữa giai đoạn từ khi sinh ra và
tuổi dậy thì.
Trong hệ thống pháp luật hiện hành có nhiều quy định về tuổi trẻ em.
Tuy nhiên, có một số quy định không thống nhất, thậm chí cùng một tuổi
nhưng ở văn bản này gọi là trẻ em, ở văn bản khác đã thành… người lớn, dẫn
đến những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Trong pháp luật quốc tế, độ tuổi trẻ em được sử dụng tương đối thống
nhất và áp dụng độ tuổi của trẻ em là dưới mười tám tuổi. Bên cạnh đó,
nghiên cứu về trẻ em dưới góc độ bảo vệ quyền trẻ em trong một số văn bản
của quốc tế như: Công ước quốc tế như Tuyên bố của Hội quốc liên về quyền
trẻ em (năm 1924), Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (năm 1989),

Tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (năm 1959)… đã khẳng định
việc áp dụng độ tuổi trẻ em của mỗi quốc gia có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào
nội luật của mỗi nước quy định độ tuổi thành niên sớm hơn. Song, các tổ chức
của Liên hợp quốc và quốc tế như UNICEF, UNESSCO… đều xác định trẻ
em là người dưới mười tám tuổi.
8


Riêng ở Việt Nam tại Điều 1 của Luật Trẻ em năm 2016 đã được điều
chỉnh phù hợp hơn “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” so với các văn bản luật
trước đó.
Bên cạnh các quy định tại các văn bản luật chuyên ngànhn liên quan
đến trẻ em, bao lực gia đình, trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay còn
có nhiều ngành luật khác cũng đề cập tới vấn đề trẻ em như Bộ luật Hình sự,
Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Lao động… Tuy nhiên
trong pháp luật hình sự không dùng thuật ngữ “trẻ em” mà dùng thuật ngữ
“người chưa thành niên”. Trong khi thuật ngữ này lại có nội hàm rộng hơn do
người chưa thành niên là người dưới mười tám tuổi. Thuật ngữ trẻ em theo
quy định của Luật Trẻ em năm 2016 lại xác định trẻ em là người dưới mười
sáu tuổi. Việc mỗi văn bản quy định mỗi thuật ngữ khác nhau cùng điều chỉnh
về vấn đề trẻ em sẽ tạo nên sự không thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Tác giả cho rằng khi có sự không thống nhất giữa các văn bản khác với
Luật Trẻ em năm 2016 thì cần áp dụng Luật Trẻ em để tạo nên sự thống nhất
trong áp dụng pháp luật. Do đó, các cơ quan chức năng cần rà soát, hệ thống
hóa các văn bản luật, đề xuất một độ tuổi thống nhất để sử dụng các thuật ngữ
pháp lý cho phù hợp. Có thể theo phương án, một luật sửa nhiều luật, cụ thể là
Luật sửa đổi, bổ sung một số quy định của các luật liên quan đến độ tuổi của
trẻ em.
Bên cạnh đó, việc quy định độ tuổi của trẻ em dưới mười sáu tuổi vẫn
có nhiều ý kiến khác nhau, trong đó đa số đều tán thành quan điểm nâng độ

tuổi của trẻ em đến dưới mười tám tuổi. Đến thời điểm này, Cục Bảo vệ,
chăm sóc trẻ em (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) vẫn đang tiếp tục
xin ý kiến các chuyên gia pháp luật, nhà nghiên cứu về tâm - sinh lý lứa tuổi
và đặc biệt là lấy ý kiến của trẻ em và người dân về việc nâng độ tuổi của trẻ
em lên dưới mười tám tuổi. Việc quy định nâng độ tuổi của trẻ em vừa phù

9


hợp với luật pháp quốc tế, vừa tránh được việc phải sử dụng nhiều khái niệm
trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, đồng thời việc quy định độ tuổi này
cũng đã phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn
hiện nay. Tạo cho trẻ em trở thành công dân trưởng thành, tham gia đầy đủ
hơn vào đời sống xã hội [17].
Từ những phân tích trên, tác giả sử dụng khái niệm trẻ em theo Luật
Trẻ em 2016 như sau: “Trẻ em là người dưới mười tám tuổi”. Khái niệm này
phần nào có thể bao hàm được cả khái niệm trẻ em của Công ước và của các
ngành luật thuộc hệ thống pháp luật quốc gia, cũng phù hợp với tâm sinh lý
của người Việt Nam hiện nay vì người dưới mười tám tuổi chưa phát triển
đầy đủ về sức khoẻ và nhận thức, chưa đủ các điều kiện cần thiết để trở thành
người thành niên nên đòi hỏi cần có sự quan tâm đặc biệt, cần có sự bảo vệ,
chăm sóc của gia đình và xã hội nhiều hơn để tạo đà cho các em phát triển
đầy đủ, trở thành người có ích cho xã hội, tránh rơi vào các tệ nạn hoặc vi
phạm pháp luật; tạo ra sự thống nhất quản lý xã hội bằng pháp luật đối với
mọi người dân, không tạo ra “khoảng trống” trong việc bảo vệ, chăm sóc
quyền con người theo một chu kỳ vòng đời người. Việc quy định độ tuổi trẻ
em dưới mười tám tuổi là phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
* Bạo lực gia đình đối với trẻ em
Cách hiểu chung nhất về bạo lực gia đình, đó là những hành vi bạo lực
xảy ra trong phạm vi gia đình, là sự xâm phạm hay ngược đãi về mặt thể chất

hoặc tinh thần, tình cảm hay tình dục, kinh tế hay xã hội của các thành viên
trong gia đình. Khái niệm bạo lực gia đình cũng tương đồng với khái niệm
bạo hành gia đình, nó được dịch ra từ tiếng nước ngoài (violence).
Theo Khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007
thì: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại
hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên

10


khác trong gia đình”. Bạo lực gia đình là một hành vi phổ biến, nó xảy ra ở
mọi quốc gia, nền văn hóa, tôn giáo, không có ngoại lệ về trình độ phát triển
hay trình độ dân trí.
Theo quan điểm của khoa học luật thì hành vi bạo lực gia đình được
chia làm bốn nhóm cụ thể như sau: bạo lực tinh thần, bạo lực thể chất, bạo lực
kinh tế và bạo lực tình dục.
Mỗi nhóm bạo lực có thể được thể hiện ở nhiều hành vi khác nhau.
Những hành vi đó được quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình năm 2007.
Việc Luật Phòng, chống bạo lực gia đình liệt kê những hành vi như trên
sẽ đảm bảo được tính minh bạch, thuận tiện khi áp dụng, nhất là đối với công
tác tuyên truyền, giáo dục và xử lí những người có hành vi bạo lực. Tuy
nhiên, cần có sự phân loại hành vi thành từng nhóm bao gồm bạo lực về thể
chất, bạo lực về tinh thần, bạo lực về tình dục và bạo lực về kinh tế.
Để trở thành một con người có nhân cách độc lập trong xã hội, trẻ em
phải được phát triển về cả ba phương diện: thể chất, trí tuệ và tình cảm, sự
phát triển của ba mặt này có quan hệ khăng khít và hỗ trợ thúc đẩy nhau.
Chính vì vậy, trẻ cần được chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trong một môi
trường an toàn, lành mạnh, gia đình là tổ chức xã hội đầu tiên có khả năng
nhất trong việc chăm lo sự phát triển cả ba phương diện của trẻ. Thế nhưng,

hiện nay có không ít trẻ em phải sống trong sự sợ hãi, lo lắng ngay trong
chính gia đình của mình do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó bạo lực
gia đình và các em là nạn nhân trực tiếp của nó là nguyên nhân chính. Nhiều
gia đình có những biện pháp giáo dục thô bạo và những hành vi trừng phạt trẻ
diễn ra có thể để lại những hậu quả lâu dài theo suốt cuộc đời của trẻ nhỏ.Như
vậy, bạo lực gia đình đối với trẻ em là những hành vi bạo hành thể chất, tinh
thần do một thành viên lớn tuổi trong gia đình thực hiện mà nạn nhân là trẻ

11


em. Đối với trẻ em, có hai hình thức bạo lực chính đó là bạo hành về thể xác
và về tinh thần.
Thứ nhất, bạo lực thể xác: Bạo lực thể xác đối với trẻ em như: đánh
đập, gây tổn thương, bỏ đói, đầu độc, không chăm sóc về mặt y tế, không đảm
bảo an toàn sinh hoạt nhất là đối với trẻ em dưới ba tuổi. Bạo lực về mặt thân
thể cũng có nhiều mức độ khác nhau:
- Mức độ nhẹ: Ngắt hoặc véo làm cho đau, hậu quả để lại là những vết
bầm tím, vệt hằn trên da.
- Mức độ vừa: Giật mạnh, kéo, lắc hoặc rứt tóc. Cha mẹ dùng tay, chân
(đánh đấm) hay kết hợp sử dụng các dụng cụ nhỏ như roi, que, thước kẻ, cán
chổi... Hậu quả là làm giảm vận động, trẻ khó hoặc không viết, đi lại bình
thường trong một khoảng thời gian ngắn.
- Mức độ mạnh: cha mẹ sử dụng những dụng cụ to như thanh củi, thắt
lưng da, thanh sắt...và gây ra các hậu quả như làm gãy xương và hoặc thương
tích bên trong, làm tàn tật và hoặc biến dạng vĩnh viễn.
- Mức độ cao nhất và cũng để lại hậu quả lớn nhất đó là hành vi giết
người.
Thứ hai, bạo lực tinh thần: Bạo lực về tinh thần là hành vi bạo lực nguy
hiểm, nếu xảy ra sẽ để lại những hậu quả nghiệm trọng như trầm cảm, tự

sát… bao gồm những hành động như lời nói, thái độ, hành vi ngược đãi hoặc
sỉ nhục của một hay nhiều thành viên làm tổn thương tới nhân phẩm, sức
khỏe, tâm thần của một hay nhiều thành viên khác. Bạo lực tinh thần cũng
còn là sự áp đặt, chỉ đạo hoặc xâm phạm tới nguyện vọng, sở thích riêng của
mỗi người. Không giống với bạo lực thể xác, bạo lực tinh thần còn được chia
ra thành hai dạng nhỏ đó là bạo lực trực tiếp và bạo lực gián tiếp.
- Bạo lực trực tiếp: có nghĩa rằng trẻ em trực tiếp là nạn nhân bị các
thành viên khác trong gia đình chửi mắng, dùng các từ ngữ thô lỗ, đôi khi

12


phạm đến nhân cách chỉ trích hành vi sai trái của trẻ; lăng mạ, sỉ nhục, chửi
rủa, ví trẻ như những con vật hay các hiện tượng xấu xa, ghê tởm.
- Bạo lực gián tiếp: có nghĩa trẻ không phải là nạn nhân mà chỉ là người
chứng kiến những hành vi bạo hành của thành viên này đối với thành viên
khác trong gia đình.
Bất cứ những hành vi bạo lực gia đình nào cũng ảnh hưởng đến sức
khỏe, tâm lý và sự phát triển của trẻ.
Trước khi đưa ra khái niệm phòng chống bạo lực gia đình đối với trẻ
em, chúng ta phải làm rõ khái niệm phòng, chống. Ở đây tác giả đang phân
tích theo hướng phòng ngừa, chống lại và theo từ điển Tiếng Việt thì “phòng
ngừa” là việc phòng không cho điều bất lợi, tai nạn xảy ra và “chống lại” là
hành vi phản ứng lại với những hành động bất lợi, tai nạn xảy ra.
Chính từ những vấn đề đó, việc phòng chống bạo lực gia đình đối với trẻ
em là vô cùng cần thiết và cấp bách, đây không chỉ là trách nhiệm của Nhà
nước mà còn là trách nhiệm của gia đình, cá nhân cũng như toàn xã hội. Tuy
nhiên, khái niệm phòng chống bạo lực đối với trẻ em vẫn chưa được đề cập tới.
Vì vậy, theo quan điểm của tác giả có thể hiểu phòng chống bạo lực gia đình
đối với trẻ em là hoạt động của Nhà nước, gia đình, cá nhân (người có hành vi

bạo lực và trẻ em chịu tác động của hành vi bạo lực gia đình) và toàn xã hội
nhằm đấu tranh phòng ngừa các hành vi bạo hành đối với trẻ em trong gia
đình và có những biện pháp hữu hiệu chống lại những hành vi bạo lực này.
1.1.1.2. Khái niệm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em
Bạo lực gia đình mang lại những hậu quả nặng nề cho gia đình và xã
hội, ảnh hưởng tới sự đóng góp của cá nhân tới sự phát triển chung của xã
hội. Những hành vi bạo lực gia đình là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm
trực tiếp đến danh dự, nhân phẩm, tài sản, sức khỏe, tính mạng của công dân
mà đã được nhà nước quy định và bảo vệ, vì vậy Nhà nước phải xây dựng

13


những chế định cụ thể nhằm phòng ngừa những hành vi bạo lực gia đình và
có những biện pháp xử lý thích đáng đối với những người vi phạm, để kịp
thời điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan tới bạo lực gia đình, định
hướng hành vi cho công dân theo những chủ trương, đường lối và chính sách
pháp luật chung của Nhà nước.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống
văn bản khá đầy đủ làm cơ sở cho công tác xây dựng, phát triển gia đình thời
kỳ đổi mới, không có bạo lực, bao gồm Hiến phápvà các văn bản pháp luật
nhằm thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng về vấn đề này.
Từ đó có thể khái quát: Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với
trẻ em là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà
nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan tới hành vi bạo
lực giữa các thành viên trong gia đình liên quan đến đối tượng là trẻ em,nhằm
bảo vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của trẻ em, tạo điều kiện cần thiết để
trẻ em được sống trong một gia đình bình đẳng, hạnh phúc, văn minh, góp
phần ổn định trật tự xã hội, thực hiện các mục tiêu về quyền con người, quyền
công dân theo những chủ trương, đường lối chung đã được Đảng và Nhà nước

ghi nhận.
1.1.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
đối với trẻ em
Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em là
hành vi của chủ thể (hành động hoặc không hành động) được tiến hành phù
hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
đối với trẻ em. Hay nói cách khác, thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình là hoạt động thực tiễn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được
tiến hành theo những hình thức pháp lý nhất định, có mối liên hệ và quy định
lẫn nhau trong một cơ chế phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn lịch sử,

14


nhằm hiện thựchóa các yêu cầu, nội dung của quy phạm pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình, bảo đảm cho phòng, chống bạo lực gia đình được
thiết lập và duy trì trong đời sống xã hội và gia đình.
1.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
đối với trẻ em
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện: Chủ thể thực hiện pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình đối với trẻ em đó là: các cơ quan nhà nước, các tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Các đơn vị sự nghiệp.
Các đơn vị vũ trang nhân dân. Các gia đình, dòng họ và công dân Việt Nam
có liên quan đến việc thực hiện mục tiêu phòng, chống bạo lực gia đình đối
với trẻ em.
Luật Trẻ em 2016 đã quy định khá cụ thể trách nhiệm của các cơ quan,
tổ chức, gia đình, cộng đồng và các cá nhân trong việc bảo vệ trẻ em, cũng
như xử lý các vụ việc liên quan đến xâm hại và bạo lực trẻ em. Bảo vệ trẻ em
phải bảo đảm tính hệ thống, tính liên tục, có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả

giữa các cấp, các ngành trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách,
pháp luật và cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục,
gia đình, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ trẻ em. Việc bảo vệ trẻ em phải tuân
thủ các quy định của pháp luật, quy trình, tiêu chuẩn do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành.
Thứ hai, về phạm vi thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình đối với trẻ em. Phạm vi thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đìnhđối với trẻ em là môi trườngvà những giới hạn không gian, địa lý để các
chủ thể tiến hành các hoạt động thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình đối với trẻ em. Bên cạnh đó, bạo lực gia đình là thuật ngữ chỉ vấn đề
bạo lực xảy ra trong gia đình, đối với những chủ thể là các thành viên trong

15


gia đình do đó, bạo lực gia đình đối với trẻ em: phạm vi thực hiện xoay quanh
các vấn đề bạo lực gia đình liên quan trực tiếp đến chủ thể là trẻ em.
Thứ ba, về nội dung thực hiện: Thực hiện pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình đối với trẻ em có nội hàm phong phú và được thể hiện qua hệ
thống các chính sách, đề án, chiến lược của Nhà nước, các cơ quan có thẩm
quyền về phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em. Do đó, trong tất cả
các nội dung cần triển khai thì một trong những nội dung không thể thiếu
trong thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình là triển khai thực
hiện các biện pháp thúc đẩy phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em;
tăng cường phổ biến, tuyên truyền về chính sách pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình đối với trẻ em, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao nhận thức
phòng, chống bạo lực gia đình cho đội ngũ cán bộ - những người có liên quan
đến việc thực thi chính sách đến phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em.
1.1.3. Vai trò thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với
trẻ em

Xuất phát từ khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình đối với trẻ em trên đây, có thể thấy thực hiện pháp luật
về về phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em có vai trò đặc biệt quan
trọng trong đời sống xã hội, nó được thể hiện qua các vai trò sau:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với
trẻ là phương thức để những chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng
chống bạo lực gia đình nói chung, chủ trương, chính sách, pháp luật về bảo vệ
trẻ em, quyền trẻ em nói riêng đi vào cuộc sống…
Thứ hai, thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với
trẻ em sẽ giúp các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân nâng cao ý thức pháp
luật nói chung, ý thức về phòng chống bạo lực gia đình, đặc biệt đối với các
đối tượng yếu thế như trẻ em, cũng như ý thức bảo vệ quyền trẻ em nói riêng.

16


Thứ ba, thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với
trẻ em là biện pháp phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình.
1.2. Chủ thể, nội dung và hình thức thực hiện pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình đối với trẻ em
1.2.1. Chủ thể thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối
với trẻ em
Theo quy định tại Điều 32 Luật phòng, chống bạo lực gia đình quy định
về trách nhiệm gia đình và các thành viên như sau: thực hiện việc giáo dục,
nhắc nhở thành viên gia đình thực hiện quy định của pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống
ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác; phối hợp với cơ quan, tổ chức và
cộng đồng dân cư trong phòng, chống bạo lực gia đình; hòa giải mâu thuẫn,
tranh chấp giữa các thành viên gia đình; can ngăn người có hành vi bạo lực

gia đình chấm dứt hành vi bạo lực; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình; thực
hiện các biện pháp khác về phòng, chống bạo lực gia đình theo quy định của
luật này.
Bất cứ thành viên nào trong gia đình cũng có thể có hành vi bạo lực gia
đình: con mắng cha, vợ chì chiết chồng, mẹ chồng ruồng rẫy con dâu, anh em
tranh chấp tài sản dẫn đến đánh nhau....; đồng thời chính họ cũng dễ dàng trở
thành nạnnhân của bạo lực gia đình.
Tuy nhiên, trên thực tế đã cho thấy nhiều trường hợp các thành viên khác
trong gia đình đã tiếp tay cho hành vi bạo lực như: mẹ xúi con trai “giáo dục”
vợ bằng nắm đấm; ông bà yêu cầu phải nghiêm khắc dạy dỗ cháu... Những
hành động này phần nhiều không xuất phát từ ý xấu mà chỉ do quan niệm khác
nhau của mỗi người, nhưng lại tác động rất lớn đến người thực hiện hành vi
bạo lực. Chính vậy pháp luật đã quy định gia đình và các thành viên gia đình
17


phải có trách nhiệm và sự chủ động nhất định trong phòng, chống bạo lực
giađình: giáo dục, nhắc nhở, hòa giải mâu thuẩn giữa các thành viên, ngăn chặn
người có hành vi bạo lực; chăm sóc nạn nhân... Đây là những việc họ hoàn toàn
có khả năng thực hiện, còn việc có thực hiện hay không, thực hiện như thế nào
thì lại phụ thuộc vào mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hoàn cảnh. Pháp luật không
quy định đây là nghĩa vụ mà chỉ là trách nhiệm của gia đình và các thành viên.
Tuy nhiên, trong triển khai thực hiện nếu có những hành vi bị cấm trong phòng,
chống bạo lực gia đình đối với trẻ em thì họ phải chịu trách nhiệm theo quy
định của pháp luật hiện hành.
Bên cạnh đó, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình còn quy định rõ trách
nhiệm của các cá nhân tại Điều 31, cụ thể: thực hiện quy định của pháp luật
về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới,
phòng, chống ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác; kịp thời ngăn chặn
hành vi bạo lực gia đình và thông báo cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm

quyền. Những quy định này nhằm nâng cao tính chủ động, tính cực của các cá
nhân trong xã hội đối với việc phòng, chống bạo lực gia đình cũng như giúp
đỡ nạn nhân.
Đối với các chủ thể là các cơ quan, tổ chức thực hiện các thẩm quyền
mà Nhà nước giao phó thì Luật phòng, chống bạo lực gia đình đã nêu lên
trách nhiệm của rất nhiều cơ quan, tổ chức, trong đó có thể kể tới trách nhiệm
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, đặc biệt là Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Tại Điều 33 Luật phòng, chống bạo lực gia đình: tuyên truyền, giáo
dục, khuyến khích, động viên hội viên và nhân dân chấp hành pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng,
chống ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác; kiến nghị những biện pháp
cần thiết với cơ quan nhà nước có liên quan để thực hiện pháp luật về phòng,

18


×