Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện đông giang, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.37 KB, 99 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI ĐỨC NGỌC

ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ THỰC TIỄN

HUYỆN ĐÔNG GIANG, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI ĐỨC NGỌC

ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ THỰC TIỄN

HUYỆN ĐÔNG GIANG, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN ANH HÙNG


HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các kết quả
nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Những tài liệu tham khảo phục vụ
cho luận văn có nguồn gốc rõ ràng.

Quảng Nam, ngày
2020

tháng năm

Tác giả luận văn

Bùi Đức Ngọc


LỜI CẢM ƠN

Luận văn này là kết quả của quá trình học tập và nghiên cứu của bản thân
tôi, được hoàn thành không chỉ bằng nỗ lực của cá nhân mà còn có sự động viên,
giúp đỡ tận tình của các thầy cô, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin gửi đến thầy TS. Nguyễn Anh Hùng lời cảm ơn chân
thành để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với người thầy đã tận tình giúp đỡ, định
hướng, chỉ dẫn, chia sẻ những ý tưởng quan trọng cũng như những nhận xét
thẳng thắn không chỉ trong quá trình điền dã, nghiên cứu mà còn trong việc hoàn
thiện luận văn này.
Tôi xin trân trọng sự giúp đỡ và những tình cảm chân thành của đồng bào

dân tộc Cơtu, các cấp ủy Đảng, Chính quyền, các Phòng, Ban, UBND các xã, thị
trấn trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong công việc cũng như cung cấp những tư liệu quý báu trong quá trình
điền dã thực tế tại địa phương.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô đã giảng dạy và giúp tôi trong quá
trình học tập.
Xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo cơ quan thị trấn Prao đã tạo mọi điều kiện
tốt nhất không chỉ về vật chất mà cả sự động viên tinh thầnh sâu sắc. Đồng thời,
tôi cũng xin cảm ơn các đồng nghiệp, các cán bộ Ban Tổ chức Huyện ủy, phòng
Nội vụ, phòng Dân tộc huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam đã gợi mở những ý
tưởng cũng như cung cấp nhiều tư liệu quý báu, giúp tôi bổ sung những kiến
thức về vấn đề nghiên cứu mà tôi quan tâm. Cuối cùng, xin giành lời tri ân đến
gia đình, là nguồn động viên, động lực to lớn giúp tôi vượt qua mọi khó khăn để
hoàn thành công việc.
Quảng Nam, tháng 3 năm 2020.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ
TỔNG QUAN ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU.........................................................9
1.1. Các khái niệm và những vấn đề liên quan.....................................................9
1.2. Cấu trúc, chức năng và đặc điểm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức dân tộc thiểu số........................................................................................... 17
1.3. Tổng quan địa bàn nghiên cứu..................................................................... 20
CHƯƠNG 2: CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI

DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ


DÂN TỘC THIỂU SỐ CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐÔNG GIANG,
TỈNH QUẢNG NAM........................................................................................ 31
2.1. Thực trạng về công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã là người
dân tộc thiểu số ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam..................................... 31
2.2. Những tích cực và hạn chế........................................................................... 53
2.3. Xu hướng biến đổi........................................................................................ 60
2.4. Những vấn đề đặt ra về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở
huyện Đông Giang hiện nay................................................................................ 61
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN ĐÔNG GIANG, TỈNH QUẢNG NAM.....................64
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác bồi dưỡng đào tạo công chức cấp

xã là người dân tộc thiểu số................................................................................. 64


3.2. Phương hướng của huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam về xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ công chức cấp xã là người dân tộc
thiểu số nói riêng từ đây đến năm 2025.............................................................. 68
3.3. Đề xuất các định hướng và giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng của đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số............................................................................................... 71
3.4. Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao công tác đào tạo bồi dưỡng cho đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã ở huyện Đông Giang, tỉnh

Quảng Nam giai

đoạn 2020-2025................................................................................................... 73
KẾT LUẬN........................................................................................................ 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

CB, CC, VC

Cán bộ, công chức, viên chức

2

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

3

DTTS

Dân tộc thiểu số

4


NXB

Nhà xuất bản

5

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

6

CBCC

Cán bộ, công chức

7

UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang


bảng
2.1

So sánh cán bộ cấp xã và cán bộ cấp xã là người DTTS

36

2.2

So sánh công chức cấp xã và công chức cấp xã là người

37

DTTS
2.3

Cơ cấu giới tính cán bộ cấp xã là người DTTS huyện Đông

38

Giang
2.4

Cơ cấu giới tính công chức cấp xã người DTTS huyện

39

Đông Giang
2.5


Cơ cấu về độ tuổi cán bộ, công chức cấp xã người DTTS

40

huyện Đông Giang
2.6

Cơ cấu thành phần dân tộc cán bộ, công chức cấp xã là

42

người DTTS huyện Đông Giang
2.7

Cơ cấu ngạch cán bộ, công chức cấp xã

42

2.8

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ,công chức cấp

44

xã là người DTTS huyện Đông Giang


2.9

Trình độ lý luận chính trị của cán bộ,công chức cấp xã là


45

người DTTS huyện Đông Giang
2.10

Trình độ quản lý nhà nước của cán bộ,công chức cấp xã là

47

người DTTS huyện Đông Giang
2.11

Trình độ ngoại ngữ, tin học của cán bộ,công chức cấp xã là

49

người DTTS huyện Đông Giang
2.12

Kết quả khảo sát về chất lượng công tác bồi dưỡng công

58

chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở huyện Đông Giang

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu

Tên biểu đồ


Trang

biểu đồ
2.1

Thu nhập cá nhân của cán bộ,công chức cấp xã là người

51

DTTS huyện Đông Giang
2.2

Thu nhập hộ của cán bộ,công chức cấp xã là người DTTS

52

huyện Đông Giang
2.3

Diện gia đình của cán bộ,công chức cấp xã là người DTTS
huyện Đông Giang

52


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác cán bộ, Bác chỉ rõ: “Cán bộ
là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán

bộ tốt hoặc kém”. Quán triệt tư tưởng của Người, trong suốt sự nghiệp cách
mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp.
Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 7, khóa XII của Đảng đã ban hành Nghị quyết
số 26 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến
lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, trong đó khẳng
định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành công hay bại của cách mạng nước
ta; công tác cán bộ là khâu “quan trọng” của công tác xây dựng Đảng và xây
dựng hệ thống chính trị”.
Để nâng cao tỷ lệ cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số ở các cơ quan
của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là ở các địa phương vùng
đồng bào dân tộc thiểu số nhưng không tăng về biên chế đã được cấp có thẩm
quyền giao Chính phủ đã ban hành Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20 tháng
11 năm 2014 về chính sách tinh giảm biên chế. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định số 449/QĐ-TTg, ngày 12 tháng 3 năm 2013; Quyết định số
2356/QĐ-TTg ngày 04 tháng 12 năm 2013 ban hành Chương trình hành động
thực hiện Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020; từng bước hoàn thiện hệ
thống chính sách pháp luật, bảo đảm đồng bộ, góp phần nâng cao chất lượng,
bảo đảm tỷ lệ hợp lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số
tham gia vào các cơ quan của Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập từ Trung
ương đến cơ sở.
Hiện nay, đất nước ta đang tập trung đẩy mạnh CNH, HĐH, nội dung cơ
bản và trước mắt là CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Nhiệm vụ chính trị
mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải xây
dựng được một đội ngũ cán bộ các cấp, trong đó có cán bộ người dân tộc thiểu
1


số (DTTS) ngang tầm, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nói chung, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, phát triển
hài hòa và đoàn kết các dân tộc nói riêng.

Huyện Đông Giang là một trong 6 huyện miền núi cao, đặc biệt khó khăn,
nằm ở phía Tây của tỉnh Quảng Nam, gồm 11 đơn vị hành chính xã, trong đó có
10 xã và 01 thị trấn ; Theo kết quả niên giám thống kê huyện Đông Giang năm
2019 tổng dân số toàn huyện 27.136 người, trong đó dân tộc thiểu số 20.937
người, chiếm 77,16% dân số toàn huyện; người Kinh 6.199 người, chiếm
22,84%. Trong những năm gần đây, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các
cấp ủy đảng và chính quyền tỉnh Quảng Nam, nền kinh tế của huyện đã có những
chuyển biến tích cực, có sự tăng trưởng khá, GDP bình quân đầu người của
huyện không ngừng tăng lên qua các năm, năm 2019 đạt 26,7 triệu
đồng/người/năm. Văn hóa - xã hội được quan tâm, đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân ngày càng được cải thiện; phong trào xây dựng Nông thôn mới đạt
được nhiều kết quả đáng khích lệ, hiện nay huyện đã có 2 xã được công nhận
nông thôn mới đó là xã Ba và xã Tư.
Có được như vậy, một phần rất lớn là sự đóng góp tích cực của đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã người DTTS. Bên cạnh những kết quả đạt được thì chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã người DTTS ở huyện Đông Giang thời
gian qua vẫn còn không ít những hạn chế, bất cập:
Việc chỉ đạo quán triệt và tổ chức thực hiện công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã là người dân tộc Cơtu ở Đông Giang thiếu thường xuyên liên
tục, thậm chí còn lúng túng trong xây dựng chương trình, kế hoạch công tác cán
bộ.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cấp xã luôn có sự biến động theo yêu cầu nhiệm
vụ chính trị và công tác đào tạo; cơ cấu cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa cân đối, tỷ
lệ cán bộ nữ người dân tộc còn thấp; trình độ về quản lý kinh tế còn hạn chế, tỷ
lệ cán bộ chưa qua đào tạo về chuyên môn và lý luận chính trị còn cao.

2


Công tác đánh giá cán bộ nhiều nơi còn hình thức, chưa gắn với hiệu quả

phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở. Công tác đào tạo, bồi dưỡng còn chậm so với
mục tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cơ sở và gắn với đề án vị trí việc làm. Các
cấp ủy đảng chưa chú ý đúng mức đến việc luân chuyển và thực hiện chính sách
sát hợp với đối tượng này.
Đa số cán bộ, công chức cấp xã người DTTS của huyện tuổi đời còn trẻ
chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, trình độ nhận thức và năng lực lãnh đạo,
quản lý còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Việc cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên để xây dựng chương trình, kế hoạch
thực hiện ở địa phương còn yếu, dẫn đến hiệu quả thực hiện không cao.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã là người dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện Đông Giang, tỉnh
Quảng Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật Hiến pháp và
Luật Hành chính của mình. Đề tài được thực hiện sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
của quản lý nhà nước đối với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức là
người dân tộc thiểu số cấp xã ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số, trong số đó, có những công trình tiêu biểu sau
đây:
- Đề tài khoa học Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến
mối quan hệ dân tộc hiện nay, (sách tham khảo) do GS. TS Phan Hữu Dật chủ
biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Có đề cập đến vấn đề cán bộ người
dân tộc thiểu số trong nội dung chương 3 và chương 4. Chương 3: Đề cập đến
cán bộ dân tộc khi nghiên cứu chính sách dân tộc dưới bài học kinh nghiệm sử
dụng con người trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Chương 4: Bàn đến vấn đề

3



cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay gắn với vai trò của họ ở một số vùng cụ
thể.
- Trong cuốn sách Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Luận cứ và giải pháp do
Lê Phương Thảo - Nguyễn Cúc - Doãn Hùng đồng chủ biên (Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội, 2008), các tác giả đã chia thành bốn phần luận bàn về vấn đề xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, trong đó Phần 1: Luận cứ khoa học cho
việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; Phần 2: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở
nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa - Thực trạng và giải pháp;
Phần 3: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trên một số lĩnh vực chuyên
môn - Thực trạng và giải pháp; Phần 4: Đổi mới công tác cán bộ dân tộc thiểu số
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Trong tác phẩm Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta
hiện nay do Phan Xuân Sơn - Lưu Văn Quảng đồng chủ biên (Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội, 2006) là tiếp cận ở một khía cạnh khác khi chỉ luận bàn các chính
sách dân tộc từ một số vấn đề về quan điểm, nhận thức, lý luận và thực tiễn.
Đồng thời, phân tích các chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong giai
đoạn cách mạng, những vấn đề đang đặt ra cho việc thực hiện các chính sách
này; bên cạnh đó đưa ra những quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm
thực hiện tốt các chính sách dân tộc hiện nay.
- Tác phẩm Một số vấn đề về dân tộc và phát triển do Lê Ngọc Thắng biên
soạn (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005) nêu vai trò, vị trí của công tác dân
tộc trong giai đoạn cách mạng và giai đoạn hiện nay; một số vấn đề về đổi mới
công tác dân tộc trong tình hình mới; đáng quan tâm là những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của chính sách đối với nguồn nhân lực trẻ các dân tộc thiểu
số... Ngoài ra, còn có những công trình nghiên cứu cán bộ dân tộc thiểu số như:
Lưu Thị Thu Hạnh, Phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hòa
4



Bình trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Quản lý Hành chính công, Học
viện Hành chính (2010); Lý Trung Thành, Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số - từ thực tiễn ở Thái Nguyên, Tạp chí quản lý nhà nước, số 220
(tháng 5/2014); Trần Thị Tuyết Mai, Tạo nguồn cán bộ, công chức người dân
tộc Khmer tỉnh Trà Vinh, Luận văn Thạc sỹ Quản lý Hành chính công, Học viện
Hành chính, 2009; Trương Thị Bạch Yến, Tạo nguồn cán bộ, công chức xã
người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, Luận văn Tiến
sỹ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2014; Hoàng
Minh Tùng (2014), Đào tạo, bồi dưỡng công chức là người dân tộc thiểu số ở
Gia Lai, Luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính, Phân viện Tây
Nguyên. Những tài liệu trên là nguồn tư liệu phong phú để làm rõ vấn đề đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức nói chung và công chức là người dân tộc thiểu
số nói riêng ở các vùng miền trên cả nước. Tuy nhiên, đến nay chưa có đề tài
nghiên cứu về “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,công chức cấp xã là người
dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam”.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu
số từ thực tiễn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được thực hiện tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.
Tập trung nghiên cứu về công tác bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp xã là
người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam hiện nay.

Phạm vi thời gian nghiên cứu của luận văn: Từ năm 2015 đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận

5



Thực hiện nghiên cứu đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử; nguyên tắc thống nhất lý luận với thực tiễn.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị, văn hoá
chính trị, con người chính trị, về công tác dân tộc.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Phương pháp khảo cứu tài liệu
+ Phương pháp phân tích, so sánh và phương pháp thực chứng để phân tích
làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
+ Phương pháp thống kê;
Nguồn tư liệu được lấy từ các báo cáo thống kê, báo cáo tổng kết của tỉnh
về công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức xã là người DTTS; các kết quả điều tra
nghiên cứu đã được công bố của các cuộc điều tra khảo sát.
Nguồn tư liệu và báo cáo phân tích thực trạng còn bao gồm hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật quy định về đào tạo, bồi dưỡng công chức đã được
cấp có thẩm quyền ban hành.
5. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
5.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác bồi dưỡng công chức cấp xã người
dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Đông Giang, luận văn phân tích đánh giá
những mặt tích cực, đồng thời chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân dẫn đến những
hạn chế. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng công
chức cấp xã là người dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu đổi mới trong giai đoạn
hiện nay.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
6



Luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về công chức cấp xã và bồi dưỡng công
chức cấp xã là người DTTS; kinh nghiệm trong bồi dưỡng công chức cấp xã của
các địa phương khác có điểm tương đồng như huyện Đông Giang, tỉnh Quảng
Nam trong thời gian qua.
- Làm rõ tầm quan trọng của công chức cấp xã người dân tộc thiểu số trong
giai đoạn hiện nay.
- Phân tích đánh giá thực trạng công tác bồi dưỡng công chức cấp xã là
người DTTS trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam để chỉ ra những
mặt tích cực; làm rõ những hạn chế trong việc bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp
xã người DTTS; tìm ra những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp trong việc nâng cao chất lượng
bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp xã người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện
Đông Giang, tỉnh Quảng Nam đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn hiện nay.
6. Đóng góp của đề tài
6.1. Đóng góp khoa học
Xây dựng khung lý thuyết tương đối hoàn chỉnh về đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ,công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện Đông
Giang, tỉnh Quảng Nam hiện nay trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước;
trên nền tảng đó, cung cấp một cách tiếp cận mới trong việc tìm hiểu, nghiên cứu
về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã là người dân tộc thiểu số ở huyện
Đông Giang.
6.2. Đóng góp thực tiễn
Phân tích, đánh giá một cách thiết thực về thực trạng về đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện
Đông Giang, tỉnh Quảng trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời rút ra những ưu -

7



khuyết điểm và nguyên nhân của nó làm cơ sở cho việc đề xuất một số giải pháp
trọng tâm nhằm củng cố và nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ cấp xã là người dân tộc thiểu số ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam hiện
nay.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần “Mở đầu” nêu lên mục đích, ý nghĩa và các vấn đề cần giải
quyết và phần “Kết luận” đưa ra những nhận định khái quát của kết quả nghiên
cứu, nội dung chính của luận văn được trình bày trong bố cục gồm ba chương
chính như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức
là người dân tộc thiểu số và tổng quan địa bàn nghiên cứu.
Chương 2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp
xã từ thực tiễn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã là người dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện
Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

8


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN
TỘC THIỂU SỐ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ TỔNG QUAN ĐỊA
BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Các khái niệm và những vấn đề liên quan
1.1.1. Khái niệm chính quyền cấp xã
Trong hệ thống hành chính nước ta, chính quyền cấp xã, phường, thị trấn
(gọi chung là cấp xã) là cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền 4 cấp hoàn

chỉnh: Trung ương, tỉnh, huyện, xã. Vì vậy, cấp xã chính là nền tảng của hệ thống
chính trị, đóng vai trò thiết thực trong việc xây dựng chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, là yếu tố quyết định sự thành công
của sự nghiệp cách mạng nước ta. Hiến pháp 2013 quy định Chính quyền địa
phương bao gồm Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân, trong đó Ủy ban nhân
dân do Hội đồng nhân dân bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân
dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân “là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương đại diện cho ý chí và nguyện vọng và quyền
làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. Xuất phát từ vị trí chính
quyền cấp xã trong hệ thống chính trị ở cơ sở nên nó có vai trò rất quan trọng
trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân. Có thể khẳng định
chính quyền cấp xã là cầu nối quan trọng của Đảng, Nhà nước với nhân dân.
1.1.2. Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã
Tại Điều 4, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định về Công chức cấp
xã như sau :

9


“Cán bộ cấp xã là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm
kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư
Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công
dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
Các chức vụ của cán bộ cấp xã được quy định tại Khoản 1, Điều 3 Nghị định
92/2009/NĐ-CP về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán
bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã. Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây:

- Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
- Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
- Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
- Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với địa phương có hoạt động
diêm nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và có tổ chức Hội Nông
dân Việt Nam);
- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Tại Điều 4, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Công chức xã là
công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ
thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước”. Theo Điều 3, Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ
về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở
xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Công chức cấp xã gồm các chức danh sau:
- Trưởng Công an;
- Chỉ huy trưởng Quân sự;
10


- Văn phòng - Thống kê;
- Địa chính - Xây dựng - Đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc Địa chính - Nông nghiệp- Xây dựng và môi trường (đối với xã);
- Tài chính - kế toán;
- Tư pháp - hộ tịch;
- Văn hoá - xã hội .
1.1.3. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là quá trình truyền thụ kiến thức, kỹ

năng về chuyên môn, nghiệp vụ dưới các hình thức khác nhau cho cán bộ công
chức phù hợp với yêu cầu giải quyết có chất lượng công việc được các cơ quan
nhà nước giao, do các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức thực hiện.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức giữ vai trò bổ trợ, tăng cường kiến thức, kỹ
năng để người cán bộ công chức có đủ năng lực đáp ứng hoạt động quản lý, điều
hành.
Phân biệt giữa đào tạo và bồi dưỡng
Đào tạo, bồi dưỡng công chức là một trong những nội dung quan trọng
trong công tác quản lý phát triển nguồn nhân lực của các cơ quan nhà nước nhằm
mục tiêu xây dựng, phát triển đội ngũ công chức thành thạo về chuyên môn,
nghiệp vụ, trung thành với nhà nước và tận tuỵ với công việc phục vụ nhân dân.
Quá trình đào tạo, bồi dưỡng bao giờ cũng phải tiến hành trên cơ sở xác định nhu
cầu ĐTBD của từng cơ quan, đơn vị, từng vị trí công việc, đồng thời, phải dựa
trên sự phân tích những “khoảng trống” về năng lực thực hiện công việc của đội
ngũ công chức.
Đào tạo, theo định nghĩa chung nhất là quá trình tác động đến con người,
làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,... một
cách có hệ thống để họ có thể thích nghi với khả năng nhận một sự phân công
lao động nhất định, đóng góp phần công sức của mình vào sự phát triển xã hội
11


nói chung. Đó là quá trình làm cho người ta trở thành có năng lực theo những
tiêu chuẩn, đòi hỏi nhất định, là quá trình trang bị những kiến thức, kỹ năng mới.
Thời gian đào tạo tương đối dài (từ 01 năm học trở lên) và có bằng cấp, chứng
chỉ.
Bồi dưỡng là quá trình tác động đến con người làm cho người đó “tăng
thêm năng lực hoặc phẩm chất”, là quá trình nâng cao trình độ chuyên môn, kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp một cách thường xuyên, là tăng cường năng lực nói
chung trên cơ sở kiến thức, kỹ năng đã được đào tạo. Bồi dưỡng đảm đương

nhiệm vụ cập nhật, trang bị thêm những kiến thức, kỹ năng, thái độ cho công
chức để họ thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn nhiệm vụ được giao.
Như vậy, đào tạo được xem như là một quá trình làm cho người ta “trở
thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định”, và bồi dưỡng được
xác định là quá trình làm cho người ta “tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất”.
Việc tách bạch khái niệm đào tạo và bồi dưỡng riêng rẽ chỉ để tiện cho việc phân
tích điểm giống và khác nhau giữa đào tạo và bồi dưỡng.
Đối với ĐTBD công chức, theo tác giả Ngô Thành Can. “Đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức là quá trình tổ chức những cơ hội học tập cho họ nhằm trang
bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ làm việc để họ thực hiện công
việc được giao tốt hơn, hiệu quả hơn” [19]. Với quan niệm như vậy, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức nhằm các mục tiêu chính sau: Trang bị, cập nhật, nâng
cao kiến thức, kỹ năng, thái độ thực hiện công việc thực tế theo từng vị trí công
việc, việc làm của công chức, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực làm việc hiện
tại của cá nhân và tổ chức;

12


TT

Tiêu chí
so sánh

Đào tạo
Làm thay đổi rõ rệt trình độ,

Bồi dưỡng
Hoàn chỉnh một bước
hoặc nâng cao một mặt


đạt được một mức độ về kiến nào đó trình độ cho người
thức, kỹ năng cụ thể
được bồi dưỡng
Cung cấp tri thức, kỹ năng
Bổ sung các tri thức, kỹ

1

Mục tiêu

2

Nội dung

đầy đủ, hoàn chỉnh, có hệ
thống

3
4

Hình thức
Thời gian

Thường là chính quy
Thường là không chính quy
Dài hạn
Ngắn hạn
Được xác nhận bằng các loại Được xác nhận qua việc


5

Kết quả

văn bằng theo quy định của
nhà nước

năng, chủ trương, đường
lối của Đảng và nhà nước

cấp cho các học viên các
chứng chỉ bồi dưỡng

Trang bị kiến thức, kỹ năng, cách thức làm việc đáp ứng yêu cầu của vị trí
việc làm, tiêu chuẩn ngạch của công chức theo yêu cầu của tổ chức;
Trang bị, cung cấp kiến thức, kỹ năng, thái độ và cách thức làm việc cần
thiết để giúp công chức làm quen, thích ứng với vị trí công việc, việc làm mới do
luân chuyển, thuyên chuyển, biệt phái, đề bạt [19, tr.27]. Qua hai khái niệm trên,
có thể nhận thấy những điểm khác nhau tương đối giữa hai khái niệm “đào tạo”
và “bồi dưỡng”.
Từ những phân tích ở trên cho thấy đào tạo được xem như là một quá
trình làm cho người ta “trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất
định và Bồi dưỡng được xác định là quá trình làm cho người ta tăng thêm năng
lực hoặc phẩm chất. Việc tách bạch khái niệm đào tạo và bồi dưỡng riêng rẽ chỉ
để tiện cho việc phân tích điểm giống và khác nhau giữa đào tạo và bồi dưỡng.
Một định nghĩa chung cho ĐTBD, CBCC có thể được hiểu như là quá trình làm
biến đổi hành vi con người một cách có hệ thống thông qua việc học tập này có
kết quả của giáo dục, hướng dẫn phát triển và lĩnh hội kinh nghiệm theo một
cách bài bản có kế hoạch.
13



Từ quan niệm trên, ĐTBD là để phục vụ các mục tiêu chính sau:
Một là: Trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ thực hiện
công việc thực tế theo từng vị trí công việc, việc làm của CBCC, viên chức theo
yêu cầu của tổ chức.
Hai là: Trang bị kiến thức, kỹ năng, cách thức làm việc đáp ứng yêu cầu
tương lai của vị trí việc làm, tiêu chuẩn của ngạch CBCC, viên chức theo yêu
cầu của tổ chức.
Ba là: Trang bị, cung cấp kiến thức, kỹ năng, thái độ và cách thức làm việc
cần thiết để giúp CBCC, viên chức làm quen, thích ứng với vị trí công việc, việc
làm mới do luân chuyển, thuyên chuyển, biệt phái, đề bạt.
Mặc dù giữa đào tạo, bồi dưỡng có những điểm khác nhau tương đối, tuy
nhiên trong thực tế nhiều khi khó phân biệt một cách rạch ròi. Do vậy, hai khái
niệm này thường được sử dụng cùng nhau: “đào tạo, bồi dưỡng”, “đào tạo - bồi
dưỡng” trong việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức.
Trong luận văn này tác giả sử dụng cách viết “đào tạo, bồi dưỡng” để thuận tiện
cho quá trình xử lý và phân tích thông tin thực tế thu thập được.
1.1.4. Khái niệm “dân tộc thiểu số”
Năm 1992, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua thuật ngữ “dân tộc
thiểu số” trên cơ sở dựa vào quan điểm của Giáo sư Francesco Capotorti (đặc
phái viên Liên Hiệp Quốc) đã đưa ra vào năm 1977:
“Dân tộc thiểu số” là thuật ngữ nói về một nhóm người:
(1) Cư trú trên lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền mà họ là công dân
của quốc gia này;
(2) Duy trì mối quan hệ lâu dài với quốc gia mà họ đang sinh sống;
(3) Thể hiện bản sắc riêng về chủng tộc, văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ của
họ;

14



(4) Đủ tư cách đại diện cho nhóm dân tộc của họ, mặc dù số lượng ít hơn
trong quốc gia này hay tại một khu vực của quốc gia này;
(5) Có mối quan tâm đến vấn đề bảo tồn bản sắc chung của họ, bao gồm cả
yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo và ngôn ngữ của họ”.
Ở Việt Nam, khái niệm “người bản địa” xuất hiện vào thời Pháp thuộc, khi
phân biệt người dân Việt Nam với người Pháp. Có 54 tộc người sinh sống lâu
đời trên lãnh thổ Việt Nam nhưng không có tộc người nào là bản địa hay tộc
người nào là phi bản địa - dù có tộc người sinh sống lâu đời, có tộc người nhập
cư muộn hơn - mà chỉ có tộc người đa số và tộc người thiểu số. Do đó, khái niệm
“tộc người thiểu số”, hay “dân tộc thiểu số” được sử dụng là phù họp với thực
tiễn tộc người ở nước ta. Gọi tộc người thiểu số là để phân biệt với tộc người đa
số mà tiêu chí phổ dụng là xem xét tỉ lệ dân số tộc người trong tổng dân số quốc
gia. Một tộc người chỉ được xem là thiểu số khi đặt dân số tộc người đó với tổng
dân số cả nước mà không xem xét ở phạm vi vùng hay địa phương. Bởi vì, một
tộc người thiểu số nào đó của cả nước nhưng đặt trong phạm vi một địa phương
nhất định có khi lại chiếm đa số, như trường hợp người Cơtu ở huyện Đông
Giang chiếm tỷ lệ 77,16%. Hay nói cách khác “dân tộc thiểu số” (tộc người thiểu
số hay dân tộc ít người) là thể hiện trong mối tương quan về số lượng dân số
(nhân khẩu) giữa các nhóm dân tộc trong một quốc gia. Nếu như dân tộc đa số là
dân tộc chiếm số đông nhất trong một quốc gia có nhiều dân tộc thì ngược lại,
DTTS là dân tộc chiếm số dân ít hơn so với dân tộc đông nhất. Tại Điều 5, Nghị
định về Công tác dân tộc của Chính phủ ban hành ngày 14/01/2011 qui định:
“DTTS là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh
thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và “Dân tộc đa số là dân tộc có
số dân chiếm trên 50% tổng dân số của cả nước, theo điều tra dân số quốc gia”.
Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc, ngoài dân tộc Kinh chiếm đa số với gần
86% dân số cả nước, 53 DTTS còn lại chỉ chiếm gần 14%.


15


Như vậy, “dân tộc thiểu số” là một khái niệm được sử dụng phổ biến ở nhiều
lĩnh vực, ngành khoa học khác nhau trên thế giới, trong đó có khoa học pháp lý.

Ở Việt Nam, trong các văn bản pháp luật cũng như trong công tác nghiên
cứu, học tập và trong hoạt động thực tiễn khái niệm “dân tộc thiểu số” được sử
dụng khá phổ biến. Tại Khoản 2, Điều 4 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày
14/01/2011 của Chính phủ về Công tác dân tộc có đưa ra khái niệm “Dân tộc
thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh
thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1.5. Khái niệm cán bộ dân tộc thiểu số
Cán bộ dân tộc thiểu số là những người dân tộc thiểu số được bầu cử giữ
chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ Đảng, Nhà nước, người đứng đầu các tổ chức
chính trị-xã hội trong hệ thống chính trị.
Công chức dân tộc thiểu số là những người dân tộc thiểu số được tuyển dụng
giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc cơ quan hành chính nhà nước.

1.1.6. Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số
Từ cách hiểu trên về bồi dưỡng công chức, có thể quan niệm về bồi dưỡng
công chức là người DTTS như sau: Bồi dưỡng công chức người DTTS là toàn bộ
hoạt động bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ công chức người DTTS
nhằm giúp họ nâng cao năng lực, trình độ để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được
giao.
Hay nói cách khác, bồi dưỡng công chức người DTTS được xác định là một
quá trình có kế hoạch làm biến đổi thái độ, kiến thức hoặc kỹ năng của công
chức người DTTS thông qua các lớp bồi dưỡng để làm việc có hiệu quả trong
một hoạt động hay trong một loạt các hoạt động nào đó.


16


×