Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

tiểu luận đầu tư quốc tế xu hướng vận động của FDI vào việt nam giai đoạn từ năm 2001 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.5 KB, 43 trang )

I.

Khái quát về FDI
1. Khái niệm

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một phương thức thâm nhập thị trường nước
ngoài với sự kiểm soát cao. Công ty đầu tư vốn cổ phần hoặc vốn vào các quốc
gia khác nhằm mục đích xây dựng hoặc mua lại các nhà máy sản xuất, các công
ty con, văn phòng bán hàng hoặc các cơ sở cần thiết khác. Quyền sở hữu ở nước
ngoài về các cơ sở nhà xưởng cho phép công ty duy trì sự hiện diện của mình và
bảo đảm sự kết nối trực tiếp với khách hàng và đối tác. Về phương diện này,
FDI là một dạng vốn cổ phần hay quyền sở hữu của việc thâm nhập vào thị
trường nước ngoài. Việc hiện diện ở nước sở tại là rất cấp bách khi mà các hoạt
động chuỗi giá trị quan trọng phải được tiến hành trên thị trường.Đầu tư trực
tiếp nước ngoài là phương thức thâm nhập có liên quan chặt chẽ nhất với doanh
nghiệp đa quốc gia.
2. Đặc điểm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được mô tả bởi sáu nét đặc trưng:
FDI có sự cam kết về nguồn lực lớn hơn. Với vai trò là phương thức quốc tế
hóa cuối cùng, nó đòi hỏi nhiều nguồn lực và khả năng của công ty hơn bất cứ
phương thức thâm nhập nào khác.
FDI bao hàm sự hiện diện và những hoạt động ở nước sở tại. Bằng cách sử
dụng phương thức FDI, ban quản lý đã chọn cách hiện diện ở nước nhận đầu tư
và thiết lập mối liên hệ trực tiếp với khách hàng, các bên trung gian, những nhà
cung cấp cơ sở vật chất và các khu vực của Chính phủ. Một vài hãng tập trung
vào hoạt động ở một hay một số địa điểm; số khác lại phân tán FDI tới nhiều
quốc gia.
FDI cho phép công ty đạt được hiệu quả trên quy mô toàn cầu, giúp nâng
cao thành tích của công ty. Các nhà kinh doanh chọn mỗi địa điểm dự trên cơ sở



lợi thế so sánh. Điều đó có nghĩa là hãng tìm kiếm để tiến hành các hoạt động
R&D ở những nước có trình độ học vấn cao nhất về lĩnh vực hãng kinh doanh,
tìm những người cung ứng mà có thể cung cấp những hàng hóa trung gian và
hàng hóa cuối cùng tốt nhất, xây dựng các cơ sở kinh doanh sản xuất ở những
địa điểm có tỉ lệ năng suất trên chi phí lao động tốt nhất, và thành lập những chi
nhánh marketing để bán hàng hoặc dịch vụ ở những quốc gia có tiềm năng bán
hàng lớn nhất.
So sánh với những phương thức xâm nhập khác, FDI gây ra sự không chắc
chắn và rủi ro rất lớn, do việc thiết lập sự hiện diện ổn định ở một quốc gia
nước ngoài khiến cho hãng sẽ dễ bị tác động trước những hoàn cảnh đặc biệt
của quốc gia đó. Sự đầu tư lớn vào nhà máy, trang thiết bị và nguồn lực con
người ở nước sở tại sẽ khiến cho nhà đầu tư trực tiếp phải đối mặt với những rủi
ro chính trị và sự can thiệp của chính quyền địa phương về giá, lương và thủ tục
thuê. FDI cũng làm giảm tính linh hoạt của công ty bằng cách thắt chặt vốn cổ
phần trên thị trường nước ngoài. Các nhà đầu tư trực tiếp thường phải đấu tranh
với lạm phát và các điều kiện kinh tế khác ở địa phương đó. Ví dụ,
Procter&Gamble (P&G) có công việc kinh doanh phát đạt thông qua một công
ty con của hãng bán những sản phẩm tiêu dùng ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, Thổ
Nhĩ Kỳ lại có lịch sử về lạm phát cao, thỉnh thoảng lên đến 100% một năm.
P&G đã phải nghĩ ra rất nhiều phương thức khác nhau để tối thiểu hóa những
thiệt hại của mình do những hiệu ứng bất lợi của lạm phát, bao gồm những đàm
phán về lương vẫn đang tiếp diễn với lực lượng lao động địa phương, tăng giá
phù hợp với những điều kiện địa phương và thu hồi lợi nhuận nhanh chóng.
Những nhà đầu tư trực tiếp phải đối mặt nhiều hơn với những vấn đề về văn
hóa và xã hội đặc trưng ở nước sở tại. Các doanh nghiệp đa quốc gia với những
hoạt động gây chú ý lại đặc biệt dễ phải chịu những sự giám sát chặt chẽ từ phía
công chúng đối với những hoạt động đó. Để có thể tối thiểu hóa những vấn đề
tiềm năng, các doanh nghiệp đa quốc gia thường thích đầu tư vào những quốc



gia có văn hóa và ngôn ngữ tương tự với nước đầu tư. Ví dụ, khi mở cửa hàng ở
Châu Âu, các công ty Hoa Kỳ có thể lựa chọn Bỉ hoặc Hà Lan bởi vì Tiếng Anh
được sử dụng rộng rãi ở những nước này.
Trong FDI, các công ty đa quốc gia ngày càng phấn đấu để hành động theo
những cách có trách nhiệm với xã hội ở những nước sở tại. Nhiều công ty đang
cố gắng đào tạo nhân viên của mình theo đúng nội quy ở nước sở tại, đầu tư vào
những cộng đồng địa phương và tìm kiếm để thành lập các tiêu chuẩn quốc tế
về đối xử bình đẳng đối với công nhân. Ví dụ, Unilever, hãng sản xuất hàng tiêu
dùng khổng lồ của Hà Lan-Anh, điều hành một cộng đồng giặt là miễn phí ở
khu ổ chuột Sao Paulo, cung cấp tài chính để hỗ trợ cho những người trồng cà
chua chuyển sang hệ thống tưới nước thân thiện với môi trường, và tái chế 17
triệu pound chất thải hàng năm ở một nhà máy kem đánh răng. Tại Bangladesh,
đất nước chỉ có 20 bác sĩ trên 10000 dân, Unilever đã tài trợ cho một bệnh viện
để cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế miễn phí cho những người nghèo. Tại Ghana,
công ty đã hướng dẫn những nhà sản xuất dầu cọ tái sử dụng chất thải nhà máy
trong khi cung cấp nước uống được cho các cộng đồng nghèo khó. Ở Ấn Độ,
Unilever cung cấp những khoản cho vay nhỏ để giúp phụ nữ ở những làm xa
xôi có thể tạo lập được những cơ sở làm ăn quy mô nhỏ. Tại tất cả các nơi mà
công ty hoạt động, Unilever đều thông báo rõ hãng đã thải ra bao nhiêu cácbon
đioxin và những chất thải nguy hiểm.
3. Phân loại
a. Theo hình thức xâm nhập
Đầu tư mới (greenfield investment)
Mua lại và sáp nhập (merger & acquisition)
b. Theo hình thức pháp lý
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Liên doanh


100% vốn nước ngoài

c. Theo mục đích đầu tư
Đầu tư theo chiều dọc (vertical investment):
Đầu tư theo chiều ngang (horizontal investment): sản xuất cùng loại sản
phẩm
Đầu tư hỗn hợp (conglomerate investment)
d. Theo định hướng của nước nhận đầu tư
FDI thay thế nhập khẩu
FDI tăng cường xuất khẩu
FDI theo các định hướng khác của Chính phủ
e. Theo góc độ chủ đầu tư
Đầu tư phát triển (expansionary investment)
Đầu tư phòng ngự (defensive investment)
f.

Theo ảnh hưởng của FDI đến thương mại của nước nhận
đầu tư

FDI ảnh hưởng tích cực đến hoạt động thương mại của nước nhận đầu tư
FDI ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động thương mại của nước nhận đầu tư
4. Các hình thức đầu tư
Trong các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì đầu tư trực tiếp FDI
có nhiều hình thức đầu tư đa dạng. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể lựa chọn
các loại hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài sau đây:
Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam:


o

Các nhà đầu tư nước ngoài được pháp luật Việt Nam cho phép đầu tư
100% vốn để thành lập các công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp

danh…

o

Các doanh nghiệp này có thể hợp tác với nhau hoặc liên doanh với các
doanh nghiệp trong nước để hợp tác kinh doanh.

Thành lập tổ chức kinh tế liên kết, liên doanh với nhà đầu tư Việt Nam:
o

Nhà đầu tư nước ngoài có thể hợp tác với nhà đầu tư trong nước để thành
lập công ty TNHH 2 thành viên trở lên, công ty cổ phần hoặc công ty hợp
danh theo quy định của Pháp luật.

o

Doanh nghiệp được thành lập theo cách trên được phép liên doanh với
nhà đầu tư trong nước hoặc nước ngoài để thành lập một tổ chức kinh tế
mới.

Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh với các nhà đầu tư tại
Việt Nam:
o

Nội dung hợp đồng hợp tác kinh doanh phải có quy định về quyền lợi,
trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên liên doanh.

o

Trong quá trình đầu tư, các bên có thể thỏa thuận và lập ban điều phối để

thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ban điều phối không phải tổ chức
quản lý các bên liên doanh và các hoạt động, quyền hạn, trách nhiệm của
ban này cần được thỏa thuận cụ thể.

o

Văn phòng phía đối tác nước ngoài có con dấu; được mở tài khoản, tuyển
dụng, ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh trong phạm vi các
quyền và nghĩa vụ quy định trong hợp đồng kinh doanh và theo Pháp luật.
5. Những nhân tố thúc đẩy đầu tư
a. Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước
Helpman và Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng

suất cận biên(số có thêm trong tổng số đầu ra mà một nhà sản xuất có được do


dùng thêm một đơn vị của yếu tố sản xuất)của vốn giữa các nước. Một nước
thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn
thường có năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển
dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì chi
phí sản xuất của các nước thừa vốn thường cao hơn các nước thiếu vốn. Tuy
nhiên như vậy không có nghĩa là tất cả những hoạt động nào có năng suất cận
biên cao mới được các Doanh nghiệp tự sản xuất mà cũng có những hoạt động
quan trọng, là sống còn của Doanh nghiệp thì họ vẫn tự sản xuất cho dư hoạt
động đó cho năng suất cận biên thấp.
b. Chu kỳ sản phẩm
Đối với hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế thì chu kì
sống của các sản phẩm này bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu là: giai đoan sản
phẩm mới; giai đoạn sản phẩm chín muồi; giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa.
AkamatsuKaname (1962) cho rằng sản phẩm mới, ban đầu được phát minh

và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất khẩu ra thị trường nước
ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị
trường bản địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay
thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thụât của
nước ngoài(giai đoạn sản phẩm chín muồi). Khi nhu cầu thị trường của sản
phẩm mới trên thị trường trong nước bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất
hiện(giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa). Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và
do đó dẫn đến sự hình thành FDI.Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi
sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển
của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở
giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung
cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí
sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất sản phẩm sang
những

nước

cho

phép

chi

phí

sản

xuất

thấp


hơn.


c. Có Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia
Stephen H. Hymes (1960, công bố năm 1976), John H. Dunning (1981),
Rugman A. A. (1987) và một số người khác cho rằng các công ty đa quốc
gia có những lợi thế đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty
vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ
chọn nơi nào có các điều kiện (lao động, đất đai,chính trị) cho phép họ phát
huy các lợi thế đặc thù nói trên.Những công ty đa quốc gia thường có lợi thế
lớn về vốn và công nghệ đầu tư ra các nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá
nhân công rẻ và thường là thị trường tiêu thụ tiềm năng...ta dễ dàng nhận ra
lợi ích của việc này.
d. Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương
mại song phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn
do Nhật Bản có thặng dư thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương
mại trong quan hệ song phương. Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư
trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ
và châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn
đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị trường Bắc
Mỹ



châu

Âu.


e. Có đội ngũ chuyên gia và công nghệ
Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước kém
phát triển hơn. Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. Nhật Bản là
nước tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ để khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ. Ví
dụ, các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử


dụngcác chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy.
Không chỉ Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác cũng
có chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài, trong đó có đầu tư vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch Trung
Quốc là Lenovo mua bộ phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa quốc
gia mang quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp cận
công nghệ sản xuất máy tính ưu việt của IBM. Hay việc TCL (Trung Quốc)
trong sáp nhập với Thompson (Pháp) thành TCL-Thompson Electroincs, việc
National Offshore Oil Corporation (Trung Quốc) trong ngành khai thác dầu lửa
mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến lược như vậy.
f. Có nguồn tài nguyên thiên nhiên
Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào
những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài lớn đầu tiên của Nhật Bản vào thập niên 1950 là vì mục đích này. FDI của
Trung

Quốc

hiện

nay


cũng



mục

đích

tương

tự.

g. Các Chính Sách Ưu Đãi và Khuyến Khích Đầu Tư
Khi đầu tư ra nước ngoài thì các chính phủ ở nước đó đều có chính sách ưu
đãi đối với các doanh nghiệp đầu tư và Hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố
định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu sẽ được miễn thuế nhập khẩu. Quy
trình thực hiện cấp phép đầu tư được thực hiện đơn giản nhanh chóng. Các mức
ưu

đãi

thuế

thu

nhập

doanh

nghiệp


h. Có thị trường tiềm năng để phát triển
i. Điều kiện kinh doanh dễ dàng
j.

Môi trường chính trị và xã hội ổn định


k. Nguồn lao động rẻ
6. Ưu nhược điểm của FDI
a. Những mặt tích cực
So với những hình thức đầu tư nước ngoài khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài
có những ưu điểm:
FDI không để lại gánh nặng nợ cho Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư như
ODA hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát
hành trái phiếu ra nước ngoài…
Các nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn ra kinh doanh, trực tiếp điều hành sản
xuất kinh doanh, hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư. Nước tiếp nhận
FDI ít phải chịu những điều kiện ràng buộc kèm theo của người cung ứng vốn
như của ODA.
Thực hiện liên doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh
nghiệp trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính, trong tình huống xấu
nhất khi gặp rủi ro thì các đối tác nước ngoài sẽ là người cùng chia sẻ rủi ro với
các công ty của nước sở tại.
Do vậy, FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương
đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư
FDI không đơn thuần chỉ là vốn, mà kèm theo đó là công nghệ, kỹ thuật,
phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo ra những sản phẩm mới, mở ra thị
trường mới… cho nước tiếp nhận đầu tư .
Đây là điểm hấp dẫn quan trọng của FDI, bởi vì hầu hết các nước đang phát

triển có trình độ khoa học và công nghệ thấp, trong khi phần lớn những kỹ thuật
mới xuất phát chủ yếu từ các nước công nghiệp phát triển, do đó để rút ngắn
khoảng cách và đuổi kịp các nước công nghiệp phát triển, các nước này rất cần


nhanh chóng tiếp cận với các kỹ thuật mới. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể của
mình, mỗi nước có cách đi riêng để nâng cao trình độ công nghệ, nhưng thông
qua FDI là cách tiếp cận nhanh, trực tiếp và thuận lợi. Thực tế đã cho thâý FDI
là 1 kênh quan trọng đối với việc chuyển giao công nghệ cho các nước đang
phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động mạnh đến quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận, thúc đẩy quá trình này trên nhiều
phương diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu
các thành phần kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao động….
Thông qua tiếp nhận FDI, nước tiễp nhận đầu tư có điều kiện thuận lợi để
gắn kết nền kinh tế trong nước với hệ thống sản xuất, phân phối, trao đổi quốc
tế, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước này.
Thông qua tiếp nhận đầu tư , các nước sở tại có điều kiện thuận lợi để tiếp
cận và thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, thích nghi
nhanh hơn với các thay đổi trên thị trường thế giới… FDI có vai trò làm cầu nối
và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, một nhân tố đẩy nhanh quá trình
toàn cầu hóa kinh tế thế giới.
FDI có lợi thế là có thể được duy trì sử dụng lâu dài, từ khi một nền kinh tế
còn ở mức phát triển thấp cho đến khi đạt được trình độ phát triển rất cao. Vốn
ODA thường được dành chủ yếu cho những nước kém phát triển, sẽ giảm đi và
chấm dứt khi nước đó trở thành nước công nghiệp, tức là bị giới hạn trong một
thời kỳ nhất định. FDI không phải chịu giới hạn này, nó có thể được sử dụng rất
lâu dài trong suốt quá trình phát triển của mỗi nền kinh tế.
Với những ưu thế quan trọng như trên ngày càng có nhiều nước coi trọng
FDI hoặc ưu tiên, khuyến khích tiếp nhận FDI hơn các hình thức đầu tư nước
ngoài khác.

b. Một số hạn chế


Bên cạnh những mặt tích cực, FDI có thể gây ra những bất lợi cho nước tiếp
nhận:
Việc sử dụng nhiều vốn đầu tư FDI có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng huy
động tối đa vốn trong nước, gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư , có thể
gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn đầu tư nước ngoài .Do đó, nếu tỷ
trọng FDI chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển thì tính độc lập tự chủ
có thể bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ thuộc bên ngoài, thiếu
vững chắc.
Đôi khi công ty 100% vốn nước ngoài thực hiện chính sách cạnh tranh bằng
con đường bán phá giá, loại trừ đối thủ cạnh tranh khác, độc chiếm hoặc khống
chế thị trường, lấn áp các doanh nghiệp trong nước.
Thực tế đã cho thấy khi thực hiện các dự án liên doanh, các đối tác nước
ngoài đã tranh thủ góp vốn bằng các thiết bị và vật tư đã lạc hậu, đã qua sử
dụng, hoặc nhiều khi đã đến thời hạn thanh lý, gây ra thiệt hại to lớn cho nền
kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư.
Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, sự có mặt của các doanh
nghiệp có vốn nước ngoài gây ra một số ảnh hưởng bất lợi về kinh tế- xã hội
như làm tăng chênh lệch về thu nhập, làm gia tăng sự phân hóa trong các tầng
lớp nhân dân, tăng mức độ chênh lệch phát triển giữa các vùng.
Với những mặt bất lợi của FDI, nếu có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đầy đủ và có
các biện pháp phù hợp, nước tiếp nhận FDI có thể hạn chế, giảm thiểu những
tác động tiêu cực này và sử lý hài hòa mối quan hệ của nhà đầu tư nước ngoài
với lợi ích quốc gia để tạo nên lợi ích tổng thể tích cực.

II.

Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế

1. FDI bổ sung vốn cho nền kinh tế


Từ thế kỷ trước, nhà kinh tế học Paul Samuelson đã đưa ra lý thuyết “vòng
luẩn quẩn của sự chậm tiến và cú huých từ bên ngoài”. Theo lý thuyết này, đa số
các nước đang phát triển đều thiếu vốn, do khả năng tích luỹ vốn hạn chế.
“Những nước dẫn đầu trong chạy đua tăng trưởng phải đầu tư ít nhất 20% thu
nhập quốc dân vào việc tạo vốn. Trái lại, những nước nông nghiệp lạc hậu
thường chỉ có thể tiết kiệm được 5% thu nhập quốc dân. Hơn nữa, phần nhiều
trong khoản tiết kiệm nhỏ bế này phải dùng để cung cấp nhà cửa và những công
cụ giản đơn cho số dân đang tăng lên”.
Trong cuốn “Những vấn đề hình thành vốn ở các nước chậm phát triển”,
R.Nurkes đã trình bày có hệ thống việc giải quyết vấn đề vốn . Theo ông, xét về
lượng cung người ta thấy khả năng tiết kiệm ít ỏi, tình hình đó là do mức độ
thấp của thu nhập thực tế. Mức thu nhập thực tế phản ánh năng suất lao động
thấp, đến lượt mình, năng suất lao động tháp phần lớn do tình trạng thiếu tư bản
gây ra. Thiếu tư bản lại là kết quả của khả năng tiết kiệm ít ỏi đưa lại.Và thế là
cái vòng được khép kín.Trong cái “vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói” đó,
nguyên nhân cơ bản là thiếu vốn. Do vậy, mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước
ngoài được ông xem là giải pháp thực tế nhất đối với các nước đang phát triển.
Samuelson cũng cho rằng, để phát triển kinh tế phải có cú huých từ bên
ngoài nhằm phá vỡ cái “vòng luẩn quẩn” đó, phải có đầu tư của nước ngoài vào
các nước đang phát triển. Theo ông, nếu có quá nhiều trở ngại đối với việc đi
tìm nguồn tiết kiệm trong nước để tạo vốn thì tại sao không dựa nhiều hơn vào
các nguồn bên ngoài? “Chẳng phải lý thuyết kinh tế đã từng nói với chúng ta
rằng, một nước giàu sau khi đã hút hết những dự án đầu tư có lợi nhuận cao cho
mình, cũng có thể làm lợi cho chính nó và nước nhận đầu tư bằng cách đầu tư
vào những dự án lợi nhuận cao ra nước ngoài đó sao”.
FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển mà còn là một luồn vốn
ổn định hơn so với các luồng vốn đầu tư quốc tế khác, bởi FDI dựa trên quan



điểm dài hạn về thị trường, về triển vọng tăng trưởng và không tạo ra nợ cho
chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, do vậy, ít có khuynh hướng thay đổi khi có
tình huống bất lợi.
2. FDI cung cấp công nghệ mới cho sự phát triển
Có thể nói công nghệ là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng và sự phát
triển của mọi quốc gia, đối với các nước đang phát triển thì vai trò này càng
được khẳng định rõ.Bởi vậy, tăng cường khả năng công nghệ luôn là một trong
những mục tiêu ưu tiên phát triển hàng đầu của mọi quốc gia.Tuy nhiên, để thực
hiện mục tiêu này đòi hỏi không chỉ cần nhiều vốn mà còn phải có một trình độ
phát triển nhất định của khoa học - kỹ thuật.
Lênin cũng đã từng khẳng định: “Không có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa
được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có
một tổ chức nhà nước có khoa học khiến cho hàng triệu người phải tuân theo hết
sức nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và phân
phối sản phẩm thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được”.
Đầu tư nước ngoài (đặc biệt là FDI) được coi là nguồn quan trọng để phát
triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện qua hai
khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sãn có từ bên ngoài vào và sự phát
triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ
nhà. Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà
đầu tư nước ngoài.
Chuyển giao công nghệ thông qua con đường FDI thường được thực hiện
chủ yếu bởi các TNC, dưới các hình thức chuyển giao trong nội bộ giữa các chi
nhánh của một TNC và chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNC. Phần lớn
công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNC sang nước chủ
nhà (nhất là các nước đang py_ được thông qua các doanh nghiệp 100% vốn



nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh mà bên nước ngoài nắm phần lớn cổ
phần dưới các hạng mục chủ yếu như tiến bộ công nghệ, ap công nghệ, công
nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản líy,
công nghệ marketing. Theo số liệu thống kê của trung tâm nghiên cứu TNC của
Liên hợp quốc, các TNC đã cung cấp khoảng 95% trong số các hạng mục công
nghệ mà các chi nhánh của TNC ở các nước đang phát triển nhận được trong
năm 1993.
Cùng với hình thức chuyển giao trên, chuyển giao công nghệ giữa các chi
nhánh của các TNC cũng tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây.
Trong giai đoạn 80-96 các TNC đã thực hiện khoảng 8254 hợp đồng chuyển
giao công nghệ theo kênh này, trong đó 100 TNC lớn nhất thế giới chiếm bình
quân khoảng 35%.
Bên cạnh việc chuyển giao các công nghệ sẵn có, thông qua FDI, các TNC
còn góp phần làm tăng năng lực ngiên cứu và phát triển (R&D) công nghệ của
nước chủ nhà. Đến năm 1993 đã có 55% chi nhánh của các TNC lớn và 45% chi
nhánh của các TNC vừa và nhỏ thực hiện các hoạt động R&D ở các nước đang
phát triển. Trong những năm gần đây, xu hướng này còn tiếp tục tăng nhanh ở
các nước đang phát triển châu Á.
Mặt khác, trong quá trình sử dụng các công nghệ nước ngoài )nhất là ở các
doanh nghiệp liên doanh) các doanh nghiệp trong nước học được cách thiết kế,
chế tạo từ công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng
của mình. Đây là một trong những tác động tích cực quan trọng của FDI đối với
việc phát triển công nghệ ở các nước đang phát triển.

3.

FDI giúp phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm


Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm là nhân tố quan trọng thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài là thu được lợi nhuận
tối đa, củng cố chỗ đứng và duy trì thế cạnh tranh trên thị trường thế giới. Do
đó, họ đặc biệt quan tâm đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở các nước tiếp
nhận đầu tư. Số lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp FDI ngày
càng tăng nhanh ở các nước đang phát triển. Ngoài ra, các hoạt động cung ứng
dịch vụ và gia công cho các dự án FDI cũng tạo ra thêm nhiều cơ hội việc làm.
Trên thực tế, ở các nước đang phát triển, các dự án FDI sử dụng nhiều lao động
đã tạo nhiều việc làm cho phụ nữ trẻ. Điều này không chỉ mang lại cho họ lợi
ích về thu nhập cao mà còn góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng phụ
nữ ở các nước này.
FDI cũng có tác động tích cực trong phát triển nguồn nhân lực của nước chủ
nhà thông qua các dự án đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đào tạo. Các cá nhân làm
việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có cơ hội học hỏi, nâng
cao trình độ bản thân khi tiếp cận với công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến.
Các doanh nghiệp FDI cũng có thể tác động tích cực đến việc cải thiện nguồn
nhân lực ở các công ty khác mà họ có quan hệ, đặc biệt là các công ty bạn hàng.
Những cải thiện về nguồn nhân lực ở các nước tiếp nhận đầu tư còn có thể đạt
hiệu quả lớn hơn khi những người làm việc trong các doanh nghiệp FDI chuyển
sang làm việc cho các doanh nghiệp trong nước hoặc tự mình thành lập doanh
nghiệp mới.
Đầu tư nước ngoài còn có vai trò đáng kể đối với tăng cường sức khoẻ và
dinh dưỡng cho người dân nước chủ nhà thông qua các dự án đầu tư vào ngành
y tế, dược phẩm, công nghệ sinh học và chế biến thực phẩm.
4.

FDI giúp mở rộng thị trường và mở rộng xuất khẩu


Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng. Nhờ có đẩy mạnh xuất
khẩu, những lợi thế so sánh của yếu tố sản xuất ở nước chủ nhà được khai thác

có hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Các nước đang phát triển tuy
có khả năng sản xuất với mức chi phí có thể cạnh tranh được những vẫn rất khó
khăn trong việc thâm nhập thị trường quốc tế. Bởi thế, khuyến khích đầu tư
nước ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là ưu đãi đặc biệt trong chính sách thu hút
FDI của các nước này. Thông qua FDI các nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận
với thị trường thế giới, vì hầu hết các hoạt động FDI đều do các TNC thực hiện.
ở tất cả các nước đang phát triển, các TNC đều đóng vai trò quan trọng trong
việc mở rộng xuất khẩu do vị thế và uy tín của chúng trong hệ thống sản xuất và
thương mại quốc tế. Đối với các TNC, xuất khẩu cũng đem lại nhiều lợi ích cho
họ thông qua sử dụng các yếu tố đầu vào rẻ, khai thác được hiệu quả theo quy
mô sản xuất (không bị hạn chế bởi quy mô thị trường của nước chủ nhà) và thực
hiện chuyên môn hoá sâu từng chi tiết sản phẩm ở những nới có lợi thế nhất, sau
đó lắp ráp thành phẩm.
5.

FDI giúp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Yêu cầu chuyển dịch nền kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát
triển nội tại nền kinh tế mà còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá. FDI là một
bộ phận quan trọng của nền kinh tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ
tham gia ngày càng nhiều vào quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trên thế
giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp
với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc
gia phù hợp với trình độ phát triển chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động FDI. Ngược lại, chính FDI lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước chủ nhà, vì nó làm xuất hiện nhiều lĩnh vực
và ngành nghề kinh tế mới và góp phần nâng cao nhanh chóng trình độ kỹ thuật
và công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, phát triển năng suất lao động của các



ngành này. Mặt khác, dưới tác động của FDI, một số ngành nghề được kích
thích phát triển, nhưng cũng có một số ngành nghề bị mai một và dần bị xoá bỏ.


CHƯƠNG II: NGHIÊN CƯU D ICH CHUY ÊN C UA
FDI VAO VIÊT NAM QUA CAC NĂM

I.

Thực trạng của FDI tại Việt Nam giai đoạn 2001–2003
Từ 1998 đến 2000 là thời kỳ suy thoái của FDI. Năm 2000, vốn FDI đăng

kí vào Việt Nam là 1,973 tỉ USD. Sau khi đạt kỷ lục về vốn thực hiện vào năm
1997 với gần 3,2 tỷ USD, thì 3 năm tiếp theo đã giảm rõ rệt, năm 1998 là 2,4 tỷ
USD, năm 1999 và năm 2000 mỗi năm 2,2 tỷ USD.
Từ 2001 đến nay là thời kỳ phục hồi hoạt động của FDI. Vốn đăng ký năm
2001 là 2 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2000. Vốn thực hiện là 2,3 tỷ USD,
tăng 3% so với năm trước. Như vậy, FDI đã đăng kí tăng trở lại với nhưng vẫn
chưa được hai phần ba so với năm 1996.
FDI tăng vào năm 2000 và năm 2001 là kết quả của dự án đường ống Nam
Côn Sơn (2000) với tổng vốn đầu tư là 2,43 tỷ đô-la Mỹ, và Dự án XD-KD-CG
Phú Mỹ (2001) với tổng vốn đầu tư là 0,8 tỷ đô-la Mỹ.
(Các dự án đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam)
Đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn là một đường dẫn khí thiên nhiên từ bể
khí Nam Côn Sơn ngoài khơi Vũng Tàu vào đất liền. Điểm bắt đầu là giàn khai
thác khí Lan Tây và điểm kết thúc là Nhà máy Chế biến khí Dinh Cố (thị trấn
Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Vũng Tàu). Toàn bộ chiều dài của đường ống
là 370 km (không kể đoạn từ nhà máy Dinh Cố đi các nơi khác). Đường kính
của ống là 26 inch và là loại đường ống hai pha. Công suất vận chuyển theo
thiết kế 19,8 triệu m3 khí/ngày (khoảng 7 tỷ m3 khí/năm), có các đầu chờ được

đặt ở vị trí thích hợp để nhận khí từ các mỏ khác ngoài các mỏ Lan Đỏ và Lan
Tây.Dự án lắp đặt đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn được khởi công vào ngày


15 tháng 12 năm 2000 và hoàn thành vào cuối năm 2002 theo phương thức
BOT. Đơn vị thực hiện dự án là một liên doanh gồm Tổng công ty Dầu khí Việt
Nam, tập đoàn BP và Công ty ConocoPhilips.
Qua 5 tháng đầu năm 2001, Việt Nam đã có thêm 148 dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký trên 467 triệu USD,
tăng 44,2% so với cùng kỳ năm 2000. HCM tiếp tục dẫn đầu cả nước với trên
40% tổng lượng vốn đầu tư. 75,7% các dự án được cấp giấy phép (112 dự án)
tập trung chủ yếu vào công nghiệp với số vốn đăng ký khoảng 395,8 triệu USD.
HCM dẫn đầu cả nước về số dự án mới được cấp giấy phép (55) và số vốn đăng
ký (gần 200 triệu USD). Đặc biệt, 2 dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài đầu
tiên vào Việt Nam ở các khu công nghiệp của thành phố với tổng vốn 1,5 triệu
USD.
Dự án của Đài Loan: Công ty Vietnam Taisun, đặt ở khu công nghiệp Tân
Tạo, chuyên sản xuất giấy vệ sinh và khăn giấy, 65% sản lượng dành cho xuất
khẩu. Dự án có vốn 1 triệu USD và thời hạn hoạt động 47 năm.
Dự án tiếp theo là của Australia: Công ty Kim Sơn đặt ở khu công nghiệp Tân
Bình, chuyên sản xuất nữ trang, vàng bạc, đá quý dành hoàn toàn cho xuất
khẩu, cũng có thời gian hoạt động là 47 năm và vốn 500.000 USD.
Các dự án lớn tập trung chủ yếu ở Đông Nam Bộ. Đài Loan vẫn là đối tác dẫn
đầu về số dự án được cấp phép (trên 47 triệu USD cho 39 dự án).
Trong giai đoạn này, cơ cấu vốn FDI đăng ký theo đối tác cũng có nhiều
thay đổi. Năm 2000, vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu là từ châu Âu, chiếm
36,6% tổng vốn FDI vào Việt Nam. Vốn FDI từ các nước ASEAN ngày càng
giảm sút, chiếm 2,4% tổng vốn đăng ký. Tuy nhiên, vốn từ các nước Đông Á
vào Việt Nam lại tăng rõ rệt, chiếm tới 22,4% tổng vốn đăng ký. Năm 2001, vốn
FDI từ các nước châu Âu, châu Mỹ và Đông Á tiếp tục tăng mạnh, chiếm

44,5%; 4,6% và 28,7% tổng vốn đăng ký mới.
Đóng góp của FDI vào GDP: (đơn vị: %)


Năm

2000

2001

GDP

100

100

Khu vực nhà nước

39

39

Khu vực ngoài nhà nước 47,7

48

FDI

13


13,3

Nguồn: Tổng cục thống kê
Năm 2002 được ghi nhận là năm có số vốn đăng ký thấp, nhưng số dự án
cao nhất hay quy mô vốn / dự án là thấp nhất. Theo tổng cục thống kê:

2002
808
2998,8

Số dự án
Vốn đăng kí
(triệu đô la Mỹ)
Tổng số vốn thực 2591,0
hiện (triệu đô la
Mỹ)

2003
791
3191,2
2650,0

Trong khi đó, theo các nguồn số liệu khác, tổng số vốn thực hiện (triệu đô la
Mỹ) của FDI 2002-2003:
UNCTAD
ADB
IMF
World Bank

2002

1.200
1.400
1.400
1.400

2003
1.450
1.450
1.450
1.450

Dễ thấy rằng, trong khi các tổ chức nước ngoài đưa ra các kết quả khá giống
nhau, thì Tổng cục Thống kê lại đưa ra con số cao hơn nhiều, thậm chí có khi
hơn 1,5 lần. Sự khác biệt này lâu nay vẫn được thừa nhận một cách đương
nhiên, tuy nhiên gần đây, một học giả nước ngoài đã dày công nghiên cứu và
đưa ra những kết luận đáng chú ý. Ông là TS. Curt Nestor, hiện đang là một


chuyên gia nghiên cứu và là giảng viên của Khoa Nhân học và Địa lý kinh tế
của Trường Đại học Tổng hợp Goteborg (Thụy Điển).
Theo giải thích của Curt Nestor, các số liệu báo cáo về đầu tư nước ngoài
của các tổ chức nước ngoài rất trùng khớp, nếu không muốn nói là thường giống
hệt nhau, bởi vì các số liệu này được lấy từ cùng một nguồn. Về mặt lý thuyết,
các tổ chức này định nghĩa về FDI dựa trên khái niệm về cán cân thanh toán.
Theo đó, dòng vốn FDI là nguồn tài chính do nhà đầu tư cấp trực tiếp cho công
ty con và bao gồm ba thành phần chính là: vốn cổ phần, khoản tái đầu tư và các
khoản vay từ công ty mẹ. Trong khi đó, các nguồn tài chính khác như vốn góp
và các khoản tái đầu tư của một công ty trong nước trong trường hợp dự án đó
là liên doanh, hoặc các khoản vay thương mại từ các ngân hàng trong và ngoài
nước không được coi là FDI. Còn ở trong nước, Tổng cục Thống kê đưa ra các

số liệu FDI dựa trên cách tính bao gồm tất cả các nguồn vốn của một dự án đầu
tư nước ngoài, nghĩa là bao gồm cả vốn cổ phần, các khoản tái đầu tư bao gồm
phần góp vốn của đối tác trong nước trong công ty liên doanh và tất cả các
khoản vay, kể cả từ công ty mẹ và các khoản vay thương mại từ ngân hàng
trong và ngoài nước.
Trong giai đoạn 2001-2003, FDI thực sự đổ vào Việt- Nam tăng 100 triệu
Mỹ kim mỗi năm và đạt tới mức 1.2 tỉ Mỹ kim trong năm 2003, nhưng vẫn thua
xa con số 2.1 tỉ Mỹ kim của năm 1997 (8). Sự hồi phục này một phần nhờ vào
sự cải thiện môi trường đầu tư tại Việt- Nam và sự khôi phục kinh tế của các
nước Đông Á. Hiệp Định Phát Triển Đầu Tư Việt-Nhật ký kết vào cuối năm
2003 sẽ gia tăng đầu tư của Nhật Bản vào Việt- Nam trong những năm tới.

*Tình hình FDI cụ thể tại Tp.HCM: DỰ ÁN FDI CẤP PHÉP VÀO TP HCM
Nguồn: Niên giám Thống kê TP.HCM 2002, 2003
Năm 2002

Năm 2003


Số dự án

Vốn đầu Số dự án

Vốn đầu tư

tư (ngàn

(ngàn USD)

USD)

Tổng số

223

314.041

201

303.591

Liên doanh

45

58.864

26

25.236

Hợp tác kinh doanh

4

4.000

5

17.010


100% vốn nước ngoài

174

251.177

170

261.345

Công nghiệp

160

191.662

116

130.952

Xây dựng

5

6.250

5

1.800


Thương nghiệp, KS, NH

2

2.670

4

2.350

Vận tải, bưu điện

13

10.111

11

10.334

Kinh doanh BĐS

35

16.182

47

18.903


Ngành khác

8

87.166

18

139.252

17

61.478

12

10.615

1. Theo hình thức

2. Theo ngành

3. Theo nước đầu tư
Mỹ

Như vậy, FDI của Mỹ đầu tư vào TP HCM năm 2003 có giảm đi cả về số dự
án lẫn vốn đầu tư, và so với các dự án trong các tỉnh còn lại, quy mô dự án FDI
của Mỹ vào TP HCM khá nhỏ. Sau thời kỳ đầu vào VN thông qua thăm dò từ
TP HCM, các nhà đầu tư Mỹ đã tìm thấy ở các địa phương khác sự thuận lợi
hơn về quỹ đất đai, về thủ tục đầu tư, cũng như những ưu đãi lớn hơn trong đầu

tư.
Nhật Bản là một trong những đối tác quan trọng của nước ta, kể từ những
năm đầu đổi mới, đã có rất nhiều doanh nghiệp Nhật Bản tin tưởng vào tiềm
năng của Việt Nam và chú trọng đầu tư vào phát triển ngành công nghiệp của


đất nước. Đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản tính đến tháng 11/2003 có 354 dự án với
số vốn đăng ký là 4,47 tỷ USD. Trong 62 vùng lãnh thổ có các dự án FDI đầu tư
vào Việt Nam, Nhật Bản đứng vị trí thứ 3 sau Singapore và Đài Loan về số vốn
đăng ký nhưng lại đứng đầu về kim ngạch đầu tư đã đi vào hoạt động (3,7 tỷ
USD). Tuy nhiên, đến cuối năm 2003, Nhật Bản tụt xuống vị trí thứ 5 trong các
lãnh thổ có vốn đầu tư vào Việt Nam, với số vốn là 78 triệu USD, giảm 35%
cùng kỳ năm 2002. Đứng trước tình hình trên, hai nước đã quyết định ký kết
vào Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư tháng 11 năm 2003 và vào tháng
12 năm 2003 tiếp tục thoả thuận Sáng kiến chung nhằm cải thiện môi trường
đầu tư tại Việt Nam. Từ đây đã tạo đà cho quan hệ hợp tác đầu tư giữa hai bên
và đem lại nhiều kết quả tốt đẹp, số vốn đầu tư đã tăng lên với nhiều dự án hơn
so với năm 2003.

2. FDI vào Việt Nam giai đoạn 2004-2007:
Đây là giai đoạn FDI phục hồi và phát triển. Năm sau tăng gấp đôi so với
năm trước. Năm 2004 chỉ mới đạt 2,084 tỷ USD thì năm 2006 lên tới 10,200 tỷ
USD tăng 400% so với 2004.
Như chúng ta đã biết giai đoạn từ năm 2003 trở về trước là thời kỳ suy
thoái của FDI. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997.
Vốn đăng ký bắt đầu giảm từ năm 1997 và giảm mạnh trong 2 năm tiếp theo.
Năm 1996 vốn đăng ký là 8,498 tỷ USD, thì năm 1997 chỉ bằng 50%, còn 4,649
tỷ USD. Tồi tệ hơn là năm 1999 chỉ còn 1,568 tỷ USD và tiếp tục ngưng trệ cho
đến năm 2003.Đến đầu năm 2004 nền kinh tế mới khởi khắc và bắt đầu có
nhưng bước tiến.

Năm 2004, là 811 dự án đầu tư với tổng số vốn là 4547,6 triêu USD. Năm
2005, tổng dự án đầu tư là 970 với tổng vốn đầu tư là 6839,8 triệu USD.Năm
2006, tổng số dự án là 987 với tông vốn đầu tư là 12004,0 triệu USD.


Giai đoạn này thu hút nhiều vốn FDI như vậy nhưng nền kinh tế vẫn tồn tại
một vấn đáng chú ý: Việt Nam giảm hấp thụ vốn FDI bởi nguồn nhân lực.
Trong khi vốn FDI và dòng vốn đầu tư trong nước tập trung chủ yếu vào các
ngành sản xuất, kinh doanh bất động sản và các ngành dịch vụ như ngân hàng,
bảo hiểm, du lịch..., vốn đầu tư vào các lĩnh vực y tế, giáo dục lại rất hạn chế.
Nếu như lao động làm việc trong các ngành công nghiệp sản xuất chế biến
không cần khắt khe về trình độ học vấn và tay nghề, trong các ngành dịch vụ,
nhất là dịch vụ ngân hàng, yêu cầu về trình độ là một trong những điểm tiên
quyết. Cũng chính vì vậy nhu cầu về lao động chất lượng cao sẽ tăng lên nhiều
và nhanh ở các doanh nghiệp (DN) FDI trong ngành dịch vụ và nhất là ngành
dịch vụ ngân hàng.
Nhìn chung lao động làm việc trong khu vực FDI có yêu cầu về trình độ
cao hơn nhiều trong khu vực doanh nghiệp nhà nước và ngoài quốc doanh.
Điều này khiến các doanh nghiệp FDI gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút lao
động làm việc cho mình, bởi lẽ nguồn cung lao động dịch chuyển từ khu vực
nhà nước và ngoài quốc doanh không dễ có thể thoả mãn nhu cầu trình độ của
các doanh nghiệp FDI.
Số liệu về vốn FDI hiện cho thấy những tín hiệu đáng ngại về khả năng hấp
thụ vốn FDI của Việt Nam. Khoảng cách giữa vốn FDI cam kết và vốn thực
hiện không ngừng doãng ra. Tốc độ tăng của vốn FDI hiện vì vậy thấp hơn rất
nhiều tốc độ tăng của vốn cam kết. Ngay cả trong giai đoạn nở rộ của vốn FDI
cam kết 2004-2006, tốc độ này chỉ đạt được 8% (2004), 16% (2005) và 20%
(2006).
Năm 2006
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt 10.2 tỷ USD, tăng 57% so

với năm 2005 và đạt mức cao nhất về vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
tính đến hết năm 2006.


Vốn đầu tư thực hiện năm 2006 cũng đạt mức cao nhất trong vòng 20
năm qua (tính đến năm 2006). Tổng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện trong cả
năm khoảng 4.1 tỷ USD, tăng 24.2% so với năm 2005.
Chất lượng các dự án ngày càng được nâng cao, có nhiều dự án lớn của
các tập đoàn xuyên quốc gia. Trong đó phải kể đến dự án đầu tư của tập đoàn
Intel tại thành phố Hồ Chí Minh có tổng vốn đầu tư lên tới 1 tỷ USD; dự án
sản xuất thép tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu của tập đoàn Posco Hàn Quốc với
tổng vốn đầu tư khoảng 1.1 tỷ USD; dự án xây dựng nhà mày cán thép tại
Khu Kinh Tế Dung Quất của Công Ty Tycoons Worldwide Steel với tổng
vốn đầu tư 556 triệu USD….
Cơ cầu đầu tư có sự chuyến biến tích cự theo hướng tăng tỷ trọng vốn đầu
tư vào các lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao và công nghệ thông tin, lĩnh
vực y tế.. bên cạnh đó cũng có nhiều ngành công nghiệp nặng như sản xuất
máy fax, máy in laze, sản xuất thép…
Hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế về vốn đầu tư nước
ngoài đạt được nhiều kết quả ngoài mong đợi. Trong năm 2006 đã có thêm
250 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động làm tăng năng
lực sản xuất của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tổng doanh thu
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 29.4 tỷ USD, tăng 31.3%
so với năm 2005. Doanh thu xuất khẩu đạt 14.5 tỷ USD ( không kể dẩu thô),
tăng 30.1% và đạt 22.6 tỷ USD ( chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu của
cả nước) nếu tính cả dầu thô.
Năm 2007
Trong năm 2007, công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã tăng cả về
lượng và chất. Về lượng, thu hút FDI đạt mức kỷ lục 20.3 tỷ USD. Về chất,
thu hút được nhiều dự án quy mô lớn, có ý nghĩa quan trọng , thu hút được

công nghệ nguồn và công nghệ cao.


×