Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN CÁC DỰ ÁN TẠI HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
___________________

ĐỖ VĂN TOÀN

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN CÁC DỰ
ÁN TẠI HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
___________________

ĐỖ VĂN TOÀN

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN CÁC DỰ
ÁN TẠI HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. NGUYỄN QUANG TUYẾN

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có
nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của luận văn
không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã công bố.
Hà Nội, ngày 18 tháng 03 năm 2020
Tác giả

Đỗ Văn Toàn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
ĐỂ THỰC HIỆN CÁC DỰ ÁN Ở VIỆT NAM ...................................................... 8
1.1. Nhận thức về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp để thực hiện các dự án ............................................................................ 8
1.2. Lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp để thực hiện các dự án .......................................................................... 17
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ THỰC HIỆN CÁC DỰ
ÁN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI........................................................................................................... 36
2.1. Thực trạng pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp để thực hiện các dự án ................................................................. 36
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án tại huyện Hoài Đức, thành phố
Hà Nội .............................................................................................................. 51
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ THỰC
HIỆN CÁC DỰ ÁN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI .................................................................................................................... 64
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án và nâng cao hiệu quả thi hành
tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà ................................................................... 64
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án và nâng cao hiệu quả thi hành
tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội ............................................................ 67
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 79


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Bảng thống kê hiện trạng sử dụng đất trên địa bàn huyện Hoài
Đức, thành phố Hà Nội tính đến hết ngày 31/12/2019 ....................... 53
Bảng 2.2. Kết quả công tác thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái định cư
Dự án khu đô thị mới Vân Canh, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức từ
năm 2015 đến 2017 ............................................................................. 57
Bảng 2.3. So sánh giá đất thị trường trung bình với giá đất tính bồi thường . 58
Bảng 2.4. Giá đất trung bình theo thị trường ở khu vực Dự án tại Huyện
Hoài Đức ............................................................................................. 58
Bảng 2.5. Kết quả thanh tra, xử lý vi phạm về bồi thường sau thu hồi đất
của chính quyền huyện Hoài Đức giai đoạn 2016-2019 khu vực

Dự án ................................................................................................... 60


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
[18]; Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân (gọi chung là người sử dụng đất) và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (gọi chung là
GCNQSDĐ) cho người sử dụng đất. Khi Nhà nước cần lấy đất sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) vì lợi ích quốc gia,
công cộng thì việc thu hồi đất là điều khó tránh khỏi. Để bảo hộ quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị thu hồi đất; giúp đỡ họ nhanh chống vượt qua khó khăn, ổn
định cuộc sống, sản xuất thì pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất được ban hành. Lĩnh vực pháp luật này thường xuyên được sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện với việc ban hành Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai
năm 1993, Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng
dẫn thi hành. Dẫu vậy qua thực tế thi hành cho thấy một số quy định về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất chưa hoàn toàn phù hợp với thực tiễn mà dễ nhận thấy
nhất là các quy định về giá đất bồi thường, hỗ trợ … Điều này khiến số lượng các
khiếu nại, tố cáo về bồi thường khi Nhà nước không hề thuyên giảm; người sử dụng
đất chậm bàn giao đất ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các dự án và làm giảm tính
hấp dẫn của môi trường đầu tư, kinh doanh. Muốn đưa ra giải pháp tháo gỡ thì việc
nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống, đầy đủ pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất trên phương diện lý luận và thực tiễn là cần thiết đặt trong bối cảnh
Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT) được Chính phủ giao chủ trì cùng với
các bộ, ngành trung ương và Ủy ban nhân dân (UBND) các địa phương tổng kết
thực tiễn thi hành Luật Đất đai năm 2013 để sửa đổi, bổ sung một số điều cho phù
hợp với yêu cầu của cuộc sống.
Hoài Đức là huyện ngoại thành phía Tây của Thủ đô Hà Nội đang trong quá

trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNHHĐH), đô thị hóa mạnh mẽ. Nhiều dự án sản xuất công nghiệp, xây dựng hệ thống
cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội được triển khai thực hiện trên địa bàn
huyện. Vì vậy, công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm mà Huyện ủy và UBND các cấp của huyện Hoài Đức

1


phải thực hiện. Trong quá trình thực hiện cho dù đã có nhiều cố gắng trong việc áp
dụng pháp luật đất đai song vẫn không tránh khỏi những thiếu xót, yếu kém khi chi
trả tiền bồi thường cho dân; phát sinh các khiếu kiện, tố cáo gây bức xúc trong dư
luận xã hội. Để duy trì ổn định chính trị, phát triển bền vững về mọi mặt đặt trông
mối tương quan bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các hộ gia đình, cá nhân bị
thu hồi đất nông nghiệp thì việc đánh giá toàn diện quá trình thực thi pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Hoài Đức là việc
làm có ý nghĩa nhằm nhận diện những hạn chế và đề xuất giải pháp khắc phục.
Với những lý do cơ bản nêu trên, học viên lựa chọn đề tài “Pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn các dự án tại
huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói
chung và thu hồi đất nông nghiệp nói riêng thu hút sự nghiên cứu của giới khoa học
pháp lý nước ta. Thời gian qua đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh
vực này được công bố mà tiêu biểu phải kể đến một số công trình cụ thể sau đây: i)
Trịnh Thị Hằng Nga (1999), Chế định pháp luật về đền bù thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; ii) Nguyễn
Vinh Diện (2006), Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, Luận
văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; iii) Nguyễn Duy Thạch (2007),
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (qua thực
tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học

Quốc gia Hà Nội; iv) Đặng Anh Quân (2005), Bàn về giá đất khi bồi thường - Nên
cao hay thấp?, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 8; v) Hoàng Lộc (2005), Nông
dân góp vốn bằng đất - Giải pháp đột phá trong đền bù giải toả, Thời báo Kinh tế
Việt Nam số 253, ngày 21/12; vi) Nhóm phóng viên thời sự (2005), Dự án khu đô
thị Nam Thăng Long (CIPUTRA): Từ những bất thường trong đền bù, giải phóng
mặt bằng, Báo Pháp luật Việt Nam số 285, ngày 29/11; vii) Trường Đại học Luật
Hà Nội (2016), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; viii) Phạm
Thu Thủy (2014), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp,
Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; ix) Hoàng Thị Nga (2009),
Pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất, Luận văn

2


thạc sĩ luật học - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; x) Nguyễn Thị Yến (2010),
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn
quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học - Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội; xi) Nguyễn Chí Mỳ và Hoàng Xuân Nghĩa (đồng chủ biên)
(2009), Hậu giải phóng mặt bằng ở Hà Nội - Vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội; xii) Nguyễn Quang Tuyến (2008), Vấn đề thu hồi đất và bồi
thường khi thu hồi đất trong Dự thảo Luật đất đai (sửa đổi, bổ sung), Tạp chí Luật
học, số 12; xiii) Nguyễn Quang Tuyến (2009), Vấn đề lý luận xung quanh khái niệm
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất", Tạp chí Luật học, số 1; xiv) Đặng Đức Long
(2009), Giải bài toán lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể: Nhà nước, người có đất bị thu
hồi và chủ đầu tư khi bị thu hồi đất", Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 5; xv)
Nguyễn Thị Dung (2010), Chính sách đền bù khi thu hồi đất của một số nước trong
khu vực và Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 6; xvi) Trần Quang Huy (2010), Chính
sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất , Tạp chí Luật học, số 10; xvii) Ngân hàng Thế
giới (2011), Cơ chế Nhà nước thu hồi đất và chuyển dịch đất đai tự nguyện ở Việt Nam
(Phương pháp tiếp cận; định giá đất và giải quyết khiếu nại của dân), Hà Nội…

Các công trình nghiên cứu trên đây đã giải quyết được một số vấn đề lý luận
và thực tiễn cơ bản sau: Một là, phân tích khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa
và kinh nghiệm nước ngoài về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất; Hai là, phân tích cơ sở ra đời, khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cấu trúc và các
điều kiện bảo đảm thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất; Ba là, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành tại Việt Nam; Bốn là, đề xuất định
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thi hành... Tuy nhiên, những công trình này
chủ yếu nghiên cứu các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất của Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Hiện
nay, những quy định này đã bị thay thế bởi chế định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Mặt khác, dường như có ít các công trình được công bố nghiên cứu một cách
có hệ thống, đầy đủ, toàn diện về lý luận và thực tiễn pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tham chiếu từ thực tiễn các dự án tại

3


huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Kế thừa những kết quả nghiên cứu của các
công trình liên quan đến đề tài đã công bố, Luận văn đi sâu tìm hiểu một cách có hệ
thống, toàn diện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp từ thực tiễn các dự án tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu tổng quát của luận văn nhằm đưa ra giải pháp hoàn
thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và nâng
cao hiệu quả thi hành tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể sau đây:
- Nghiên cứu và xây dựng các khái niệm bồi thường; khái niệm bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; yêu cầu của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp ….
- Nghiên cứu cơ sở xây dựng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp; khái niệm, đặc điểm và cấu trúc của lĩnh vực pháp luật
này; các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp …
- Tìm hiểu nội dung pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp và đánh giá thực tiễn thi hành tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội
nhằm nhận diện kết quả; những yếu kém và nguyên nhân.
- Đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và nâng cao hiệu quả thi hành tại huyện Hoài
Đức, thành phố Hà Nội trong thời gian tới .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. 1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm:
- Quan điểm, trường phái lý luận về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp.

4


- Lý thuyết về vật quyền, lý thuyết về hài hòa lợi ích trong lĩnh vực đất đai,
lý thuyết về quyền sử dụng đất là tài sản được pháp luật bảo hộ.
- Đường lối, chủ trương của Đảng về hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai
trong thời kỳ đẩy mạng toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm
20202 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại.

- Các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội v.v.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ
thực tiễn các dự án tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội” là đề tài có nội hàm
nghiên cứu rộng. Tuy nhiên, trong khôn khổ của một bản luận văn thạc sĩ luật học,
học viên giới hạn phạm vi nghiên cứu ở một số nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất là: Giới hạn về nội dung.
Một là: Khi Nhà nước thu hồi đất thì người sử dụng đất được bồi thường về
đất và bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất. Tuy nhiên, luận văn này chỉ đi sâu
nghiên cứu về bồi thường về đất mà không nghiên cứu bồi thường thiệt hại về tài
sản trên đất khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án.
Hai là, luận văn chỉ tìm hiểu các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án của Luật Đất đai năm 2013 và
các văn bản hướng dẫn thi hành.
Ba là, luận văn giới hạn ở việc nghiên cứu pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư. Nói cách khác, các dự án trong
phạm vi nghiên cứu của bản luận án này giới hạn chỉ ở dự án đầu tư.
Thứ hai: Giới hạn về phạm vi. Luận văn tìm hiểu thực tiễn thi hành pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án
trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
Thứ ba: Giới hạn về thời gian. Luận văn tìm hiểu thực tiễn thi hành pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án
trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến nay.

5



5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích, luận giải, bình luận…được sử dụng trong Chương
1 khi nghiên cứu cơ sở lý luận về pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam;
- Phương pháp phân tích, đánh giá, diễn giải, so sánh, tổng hợp, quy
nạp…được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi hành từ các dự
án trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
- Phương pháp bình luận, tổng hợp…được sử dụng trong Chương 3 khi
nghiên cứu các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn các dự án trên địa bàn huyện
Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận văn góp phần củng cố và hoàn thiện hệ thống lý luận pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở nước ta dựa trên việc tiếp
cận lý thuyết về vật quyền, lý thuyết về hài hòa lợi ích trong lĩnh vực đất đai và lý
thuyết quyền sử dụng đất là tài sản được pháp luật bảo hộ.
- Luận văn phân tích nội dung các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp.
Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích không chỉ cho các nhà lập pháp, các
cán bộ quản lý đất đai nói chung và cán bộ, công chức quản lý đất đai tại huyện
Hoài Đức nói riêng mà còn cho bất cứ ai quan tâm. Luận văn góp phần bổ sung học
liệu cho các cơ sở đào tạo luật ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, bảng các chữ viết tắt, mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án ở Việt Nam.

6


- Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án trên địa bàn
huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn các dự án trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành
phố Hà Nội.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ THỰC HIỆN
CÁC DỰ ÁN Ở VIỆT NAM
1.1. Nhận thức về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để
thực hiện các dự án
1.1.1. Khái niệm bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để
thực hiện các dự án
i) Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là một trường hợp cụ thể
của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Trước khi tìm hiểu khái niệm bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì cần phải hiểu thế nào là bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất?. Trong sách báo pháp lý nước ta, bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất được hiểu như sau:
Theo Luật Đất đai năm 2003: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc

Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho
người sử dụng đất” [19].
Theo Từ điển Luật học do Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp xuất bản:
“Bồi thường thiệt hại do thu hồi đất: Quyền của chủ thể đang sử dụng đất bị thu
hồi nhằm bù đắp thiệt hại về vật chất cho người sử dụng đất trong trường hợp bị
thu hồi đất để chuyển sang sử dụng vào mục đích khác hoặc vì nhu cầu của Nhà
nước và xã hội” [35] v.v.
Trên cơ sở khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và tìm hiểu nội
dung các quy định của pháp luật đất đai hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp có thể hiểu khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp như sau: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là việc
Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất nông nghiệp, bù đắp những thiệt hại về
tài sản gắn liền với đất nông nghiệp và thiệt hại khác cho người có đất nông nghiệp
bị thu hồi để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội
vì lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định của pháp luật.

8


Bên cạnh các đặc điểm chung của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp còn có một số đặc điểm riêng chủ
yếu sau đây:
Một là, về đối tượng người được bồi thường. Đối tượng được bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp hẹp hơn so với đối tượng bị Nhà nước thu hồi
đất sử dụng vào mục đích quốc phòng - an ninh; phát triển KT-XH vì lợi ích quốc
gia, công cộng (sau đây gọi chung là bị Nhà nước thu hồi đất); cụ thể:
Người sử dụng đất nông nghiệp (bao gồm hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản
xuất nông nghiệp; tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài (ĐTNN), cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo thuê đất hoặc thuê lại đất
nông nghiệp để sử dụng vào mục đích nông nghiệp) có GCNQSDĐ nông nghiệp

hoặc có một trong các loại giấy tờ về đất nông nghiệp quy định tại Điều 100 Luật
Đất đai năm 2013 khi bị Nhà nước thu hồi đất.
Hai là, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp [19] bị thu hồi đất
nông nghiệp thì ngoài việc được Nhà nước bồi thường còn được hỗ trợ đào tạo chuyển
đổi nghề nghiệp, hỗ trợ về đời sống gặp khó khăn do bị thu hồi đất nông nghiệp.
Ba là, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trước hết ưu tiên
việc bồi thường bằng việc giao đất nông nghiệp mới có diện tích tương đương với
đất nông nghiệp bị thu hồi để đảm bảo đời sống bền vững, lâu dài cho người bị thu
hồi đất nông nghiệp (đặc biệt là các hộ gia đình, cá nhân nông dân). Chỉ khi địa
phương không còn đất nông nghiệp để bồi thường thì người bị thu hồi đất nông
nghiệp mới được bồi thường bằng tiền.
ii) Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là trường hợp cụ thể của hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất. Muốn hiểu như thế nào về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp thì cần phải giải mã nội hàm khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất. Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Hỗ trợ: Giúp thêm, góp thêm vào” [36].
Với ý nghĩa đó, Luật Đất đai trong điều giải thích từ ngữ đã quan niệm về hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất như sau: “ Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước
trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển” [17].
Căn cứ vào khái niệm này và nghiên cứu nội dung các quy định về hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp có thể hiểu trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

9


như sau: Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là việc Nhà nước trợ giúp cho
người có đất nông nghiệp thu hồi để giúp họ ổn định đời sống, sản xuất và phát triển”.
Bên cạnh các đặc điểm chung của hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất thì hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp còn có một số đặc điểm riêng chủ yếu sau đây:
Một là, nếu như bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là nghĩa

vụ, trách nhiệm của Nhà nước đối với người bị thu hồi đất nông nghiệp thì hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là sự giúp đỡ của Nhà nước cho người bị thu
hồi đất nông nghiệp sớm vượt qua khó khăn nhanh chóng ổn định sản xuất và đời
sống.
Hai là, trình tự, thủ tục bồi thường, phương án bồi thường, giá đất xác định
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp v.v được pháp luật đất đai quy
định cụ thể, rõ ràng và buộc các cơ quan nhà nước phải tuân thủ nghiêm chỉnh.
Trong khi đó, phương thức, trình tự, thủ tục hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp v.v, pháp luật đất đai không quy định cụ thể, chi tiết. Có nghĩa là so với bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp được thực hiện linh hoạt, mềm dẻo hơn. Xác định mức hỗ trợ có thể do các
bên thỏa thuận.
Ba là, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp có mức hỗ trợ khác nhau
tùy thuộc vào từng trường hợp thu hồi đất nông nghiệp cụ thể. Trong khi đó, giá đất
xác định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được áp dụng thông nhất
cho các trường hợp thu hồi đất. Đây là giá đất cụ thể do UBND cấp tỉnh quyết định
tại thời điểm thu hồi đất.
Bốn là, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được thực hiện
bằng việc giao đất mới có cùng diện tích với đất bị thu hồi (bồi thường bằng hiện
vật) hoặc bồi thường bằng tiền đối với địa phương không còn quỹ đất nông nghiệp
để bồi thường. Trong khi đó, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được
thực hiện hỗ trợ bằng tiền ...
iii) Khái niệm dự án
Dự án là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội và trong
các văn bản pháp luật Như Luật Đầu tư năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2014,
Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và
Luật Quy hoạch năm 2017 v.v. Theo Từ điển Việt thông dụng: “Dự án: Dự thảo

10



một văn kiện quan trọng về luật pháp hay kế hoạch”. Thuật ngữ dự án có nhiều
nghĩa khác nhau tùy thuộc vào từng ngữ cảnh, tình huống cụ thể. Ví dụ: Dự án luật;
dự án đầu tư, dự án nhà ở, dự án xây dựng đường sắt v.v. Xét trong lĩnh vực kinh tế
nói chung và lĩnh vực đất đai nói riêng, dự án được sử dụng để chỉ một dự án đầu tư
mang giá trị kinh tế - xã hội. Trong phạm vi giới hạn nghiên cứu của luận văn, các
dự án được đề cập trong khuôn khổ bản luận văn này là các dự án đầu tư. Vì vậy,
theo Luật Đầu tư năm 2014, dự án đầu tư được hiểu: “Dự án đầu tư là tập hợp đề
xuất bỏ vốn trung hạn hoặc dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư kinh doanh
trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định” [21].
Bên cạnh các đặc điểm chung của dự án; dự án đầu tư còn có một số đặc
điểm riêng cơ bản sau đây:
Một là, về mặt hình thức. Nó là một tập hợp hồ sơ tài liệu trình bày một cách
chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được
những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Hai là, trên góc độ quản lý. Dự án đầu tư là một công cụ quản lý sử dụng
vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, KT-XH trong một thời gian dài.
Ba là, trên góc độ kế hoạch. Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch
chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển KT-XH, làm tiền
đề cho cho các quyết định đầu tư và tài trợ.
Bốn là, về mặt nội dung. Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên
quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra
các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn
lực xác định.
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp để thực hiện các dự án
i) Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trước hết là nhằm bảo
đảm lợi ích quốc gia, công cộng
Thu hồi đất nông nghiệp là biện pháp của Nhà nước nhằm chấm dứt quan
hệ pháp luật về sử dụng đất nông nghiệp giữa một bên là tổ chức, hộ gia đình, cá

nhân được giao đất nông nghiệp, cho thuê đất nông nghiệp và một bên là Nhà nước
với tư cách đại diện chủ sở hữu về đất đai. Thông qua việc thu hồi đất nông nghiệp,
Nhà nước có được một quỹ đất cần thiết đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng

11


KT - XH đồng bộ; phát triển các cơ sở kinh tế, công nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh (SX-KD), thực hiện các dự án v.v... Qua đó, làm tăng tính hấp dẫn của
môi trường đầu tư; kêu gọi sự đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước phục
vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Đồng thời, ở một mức độ nhất định, việc bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cũng góp phần gián tiếp vào
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp,
tăng tỷ trọng sản xuất công nghiệp, dịch vụ. Khi diện tích đất nông nghiệp ngày
càng bị thu hẹp, Nhà nước thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho người nông dân bị
mất đất sản xuất trong việc đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm mới.
Qua đó, góp phần rút bớt một lực lượng lao động ở nông thôn chuyển sang làm việc
trong khu vực sản xuất phi nông nghiệp và dịch vụ.
ii) Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nhằm bảo đảm giải
quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người bị thu hồi đất nông nghiệp và
lợi ích của nhà đầu tư
Vì lợi ích chung, lợi ích của cả cộng đồng, Nhà nước thực hiện thu hồi đất
nông nghiệp của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh;
phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, công cộng. Điều này sẽ gây ra thiệt hại và ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống của những người bị thu hồi đất nông nghiệp. Nếu
không thực hiện tốt việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bị thu hồi đất
nông nghiệp sẽ dẫn đến tình trạng là trong khi các công trình phúc lợi công cộng
được xây dựng trên những diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi mang lại lợi ích cho
số đông dân chúng trong xã hội thì ở thái cực ngược lại người bị thu hồi đất nông
nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn về sản xuất và đời sống do bị mất đất sản xuất.
Do đó, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp phải giải quyết hài

hòa các mối quan hệ về lợi ích của người bị thu hồi đất nông nghiệp với lợi ích của
Nhà nước, của xã hội để vừa bảo đảm sử dụng đất nông nghiệp phục vụ cho nhu cầu
quốc phòng, an ninh; phát triển KT - XH của đất nước; vừa bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người sử dụng đất nông nghiệp, bồi hoàn cho họ những thành quả lao
động, kết quả đầu tư bị thiệt hại do việc thu hồi đất nông nghiệp gây ra. Ở một khía
cạnh khác, nếu việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thực hiện
không có hiệu quả hoặc không công khai, minh bạch, dân chủ và đúng pháp luật
khiến người bị thu hồi đất nông nghiệp không đồng thuận dẫn đến việc chậm bàn

12


giao đất để thực hiện dự án; phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo dài v.v... Điều này
ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà đầu tư do chậm tiến độ triển khai dự án và
làm lỡ cơ hội kinh doanh gây trở ngại đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền
kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể coi trọng phát triển kinh tế, dành nhiều
ưu đãi, thuận lợi cho doanh nghiệp, các nhà đầu tư mà coi nhẹ, không quan tâm
đúng mức đến vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
nông nghiệp mà phải giải quyết hài hòa giữa lợi ích của doanh nghiệp, chủ đầu tư
với lợi ích của người bị thu hồi đất nông nghiệp. Có như vậy thì việc phát triển mới
mang tính bền vững vừa đảm bảo phát triển kinh tế vừa chú trọng giải quyết các vấn
đề an sinh xã hội.
iii) Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp góp phần vào việc duy trì ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội
Cho dù thu hồi đất nông nghiệp để sử dụng vào bất kỳ mục đích gì thì đây
cũng là hành vi "động chạm" trực tiếp đến quyền và lợi ích của người sử dụng đất
nông nghiệp. Vì vậy, thu hồi đất nông nghiệp luôn luôn là vấn đề nhạy cảm, tiềm ẩn
nhiều nguy cơ mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất
và người được hưởng lợi từ việc thu hồi đất nông nghiệp. Thực tế giải quyết các
tranh chấp, khiếu kiện từ việc thực hiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp cho thấy nếu không giải quyết tốt việc bồi thường tổn thất, hỗ trợ, tái định
cư cho người bị thu hồi đất nông nghiệp nhằm giúp họ vượt qua khó khăn nhanh
chóng ổn định đời sống và sản xuất thì sẽ phát sinh nhiều tranh chấp, khiếu kiện kéo
dài, vượt cấp với số đông người dân tham gia. Đây là nguyên nhân cơ bản làm phát
sinh những "điểm nóng" gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và dễ bị kẻ
xấu lợi dụng kích động, lôi kéo người dân không đồng thuận với quan điểm, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về thu hồi đất nông nghiệp để
thực hiện các dự án đầu tư, các công trình hạ tầng công cộng v.v... phục vụ lợi ích
của cộng đồng. Do đó, thực hiện tốt bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp có vai trò quan trọng góp phần duy trì ổn định chính trị, trật
tự an toàn xã hội; tránh nguy cơ nảy sinh các xung đột xã hội.
1.1.3. Yêu cầu của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
để thực hiện các dự án
Như phần trên đã đề cập, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

13


nghiệp để thực hiện các dự án là vấn đề phức tạp; vì nó trực tiếp “động chạm” đến
quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ thu hồi đất. Vì vậy, việc bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án phải đáp ứng các
yêu cầu cơ bản sau đây:
Một là, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực
hiện các dự án phải tuân thủ đúng pháp luật.
Tuân thủ pháp luật là yêu cầu mang tính phổ quát đối với bất kỳ tổ chức, cá
nhân nào và trong bất kỳ lĩnh vực nào. Việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án cũng không phải là một ngoại lệ. Việc
tuân thủ pháp luật trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để
thực hiện các dự án còn là một biểu hiện cụ thể để “định lượng” trình độ phát triển
của một quốc gia.

Việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các
dự án phải tuân thủ đúng pháp luật được hiểu pháp luật là cơ sở cho việc bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án. Có
nghĩa là các hoạt động bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để
thực hiện các dự án phải lấy các quy định của pháp luật làm mẫu để soi chiếu, điều
chỉnh hành vi ứng xử của các tổ chức, cá nhân đảm bảo không sai lệch hoặc mâu
thuẫn, trái với nội dung các quy định của pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật
trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự
án phải bị lên án, phát hiện, xử lý kịp thời và nghiêm minh dựa trên cơ sở quy định
của pháp luật.
Hai là, việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp phải đảm
bảo sự phát triển bền vững.
Ngày nay, phát triển bền vững là một yêu cầu bắt buộc đối với bất kỳ quốc gia
nào trên thế giới mà Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Phát triển bền vững
trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự
án được hiểu trên ba khía cạnh:
i) Việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện
các dự án phải dựa trên hiệu quả kinh tế. Có nghĩa là việc bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án phải được thực hiện

14


nhanh chóng, kịp thời; tiết kiệm thời gian, công sức, nguồn vốn của Nhà nước, của
xã hội để có thể triển khai dự án trong thời gian sớm nhất.
ii) Việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện
các dự án phải giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người bị thu
hồi đất nông nghiệp. Chúng ta không thể “hy sinh” lợi ích của người sử dụng đất
nông nghiệp cho sự nghiệp CNH-HĐH, phát triển kinh tế. Trong bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án không chỉ bồi thường,

hỗ trợ những thiệt hại trực tiếp do việc thu hồi đất gây ra cho người sử dụng đất
nông nghiệp mà còn phải chú ý đến việc giải quyết công ăn việc làm, bảo đảm sinh
kế bền vững, lâu dài cho họ.
iii) Việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện
các dự án phải chú ý đến việc bồi thường cho người sử dụng đất nông nghiệp cả những
thiệt hại do việc triển khai thực hiện dự án tác động đến môi trường sống của họ.
Ba là, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện
các dự án phải đảm bảo công khai minh bạch.
Công khai minh bạch là yêu cầu bắt buộc đối với mọi hoạt động của đời sống
xã hội. Hoạt động bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực
hiện các dự án cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ. Công khai minh bạch
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án
góp phần ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, tình trạng tham nhũng, tiêu cực,
lợi ích nhóm v.v.
Công khai trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để
thực hiện các dự án được hiểu là các văn bản pháp luật; trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ
trợ; phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; điều kiện và
đối tượng được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện
các dự án v.v phải được công bố công khai tại trụ sở các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, trụ sở UBND cấp xã nơi có đất nông nghiệp thu hồi; điểm sinh hoạt cộng đồng
dân cư; trên các phương tiện thông tin đại chúng; công thông tin điện tử; các mạng xã
hội … để mọi thành viên trong xã hội nói chung và người bị thu hồi đất nông nghiệp
nói riêng được biết, dễ dàng tiếp cận, truy cứu tìm hiểu khi cần thiết.
Minh bạch trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để
thực hiện các dự án được hiểu là các quy định của pháp luật; quy trình bồi thường,

15


hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án; các bước lập,

phê duyệt và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ v.v phải được quy định tường minh, cụ
thể để các bên được biết và dễ dàng thực hiện.
Bốn là, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện
các dự án phải lấy ý kiến tham vấn của người bị thu hồi đất.
Mục đích của việc lấy ý kiến tham vấn của người bị thu hồi đất nông nghiệp về
dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực
hiện các dự án nhằm tạo sự đồng thuận xã hội đối với việc thu hồi đất. Tham vấn ý
kiến của người bị thu hồi đất nông nghiệp về dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án được hiểu là dự thảo
phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện
các dự án được tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB lập trước khi trình UBND
cấp có thẩm quyền phê duyệt phải lấy ý kiến đóng góp của người bị thu hồi đất
thông qua việc họp dân, dán tại trụ sở UBND cấp xã nơi có đất thu hồi, gửi đến
từng hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp ... Trường hợp người bị thu hồi
đất không đồng tình với dự thảo phương án này thì người bị thu hồi đất nông nghiệp
về dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để
thực hiện các dự án phải xem xét, điều chỉnh cho phù hợp v.v.
1.1.4. Các hình thức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để
thực hiện các dự án
i) Hình thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án
Nghiên cứu các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp để thực hiện các dự án của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng thi
hành cho thấy có hai hình thức bồi thường, bao gồm:
- Bồi thường cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi đất nông
nghiệp để thực hiện các dự án bằng việc giao đất nông nghiệp mới có diện tích
tương đương.
- Bồi thường bằng tiền cho người sử dụng đất bị thu hồi đất nông nghiệp đối
với địa phương không còn quỹ đất nông nghiệp.
ii) Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án
Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự

án bao gồm:

16


- Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất;
- Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp
thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp;
- Hỗ trợ khác [19].
1.2. Lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp để thực hiện các dự án
1.2.1. Sự cần thiết điều chỉnh pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp để thực hiện các dự án
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có nhiều lợi ích khác nhau (lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của cộng đồng xã hội, lợi ích của tập thể, lợi ích của cá
nhân, lợi ích của doanh nghiệp, nhà đầu tư …), các lợi ích này tồn tại đan xen trong
sự khác biệt, mâu thuẫn và thậm chí đối lập nhau. Để xác lập một trật tự ổn định
trong sự thống nhất cùng tồn tại với sự dung hòa giữa các nhóm lợi ích thì pháp luật
được sử dụng như một “đại lượng công bằng” điều chỉnh những yếu tố không “công
bằng” trong xã hội. Hay nói cách khác, để bảo đảm duy trì sự ổn định “chung sống
hòa bình” giữa các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội, Nhà nước đã sử dụng pháp
luật để điều chỉnh hành vi của những nhóm lợi ích khác nhau dựa trên một thiết chế
công bằng chung. Lĩnh vực bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để
thực hiện các dự án cũng không nằm ngoài xu thế này. Sự cần thiết điều chỉnh pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án
được lý giải bởi các căn cứ chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, pháp luật mang những đặc trưng mà các biện pháp quản lý khác
không có được; đó là tính quy phạm, tính bắt buộc chung, tính cưỡng chế và tính
thích ứng.
- Tính quy phạm của pháp luật: Những quy tắc đạo đức được sử dụng một

cách phổ biến trong quan hệ ứng xử hàng ngày của con người được pháp luật “pháp
điển” hóa thành các quy định pháp luật. Điều này có nghĩa là pháp luật xây dựng
những quy tắc ứng xử mẫu thông qua nội dung các quy định để con người căn cứ
vào đó tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mình cho ngày càng gần với những hành vi
ứng xử mẫu này.
- Tính bắt buộc chung: Quy định của pháp luật được xây dựng trên cơ sở các
quy tắc đạo đức, quy ước chung được xã hội thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên khác với

17


quy tắc đạo đức, quy phạm pháp luật có tính bắt buộc chung đối với mọi người
trong xã hội. Điều này có nghĩa là mọi người phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tuân
thủ, chấp hành pháp luật. Thông qua đó, sự công bằng, bình đẳng được thiết lập
giữa những chủ thể, những giai tầng khác nhau trong xã hội. Mọi người đều có
quyền bình đẳng như nhau về quyền và nghĩa vụ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa- xã hội, v.v nói chung và trong lĩnh vực đất đai nói riêng.
- Tính cưỡng chế: Sự tuân thủ quy tắc đạo đức của con người được thực
hiện dựa trên ý thức tự giác và sức cảm hóa, sự giác ngộ, lan tỏa của lẽ phải, của
ứng xử mẫu mực. Khác với quy tắc đạo đức, pháp luật là thiết chế mang tính quyền
lực nhà nước. Nó do Nhà nước ban hành và đảm bảo sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước. Điều này có nghĩa là nếu con người tự giác chấp hành việc tuân thủ pháp luật
thì họ sẽ được Nhà nước cho hưởng quyền và lợi ích hợp pháp; đồng thời, các
quyền và lợi ích hợp pháp này được Nhà nước bảo hộ thông qua các biện pháp pháp
lý. Ngược lại nếu con người không tuân thủ pháp luật thì họ sẽ nhận được những
chế tài xử lý của Nhà nước. Những chế tài này là sự cưỡng chế bắt buộc và được
đảm bảo bởi yếu tố quyền lực nhà nước. Thuộc tính này đã làm cho pháp luật có
tính nghiêm minh và nhờ đó trật tự xã hội nói chung và trật tự trong quản lý đất đai
nói riêng được thiết lập và duy trì.
- Tính thích ứng: Pháp luật không hoàn toàn là sản phẩm mang tính chủ quan

của con người mà nó còn là “tấm gương” phản chiếu thực tế sinh động cũng như
yêu cầu, đòi hỏi của thực tế cuộc sống. Khi hoàn cảnh khách quan của đời sống xã
hội thay đổi thì pháp luật cũng phải tự thay đổi theo nhằm đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn. Có như vậy thì pháp luật mới phù hợp và có thể đi vào cuộc sống.
Do có những đặc trưng cơ bản trên đây mà pháp luật trở thành biện pháp
quản lý xã hội có hiệu quả nhất. Pháp luật phải được sử dụng để điều chỉnh quan hệ
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp - Nhóm quan hệ phức tạp,
nhạy cảm trực tiếp đụng chạm đến lợi ích thiết thực của các bên liên quan và tiềm
ẩn nguy cơ phát sinh khiếu kiện, tranh chấp về đất đai.
Thứ hai, thông qua cơ chế điều chỉnh của pháp luật giúp Nhà nước giải quyết
hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa các bên liên quan: Lợi ích của Nhà nước, của
cộng đồng; lợi ích của người bị thu hồi đất nông nghiệp; lợi ích của doanh nghiệp,
chủ đầu tư.

18


Nhà nước là một tổ chức trong hệ thống chính trị nhưng khác với các tổ chức
khác, Nhà nước là một tổ chức chính trị, quyền lực. Vì vậy, Nhà nước có một trong
những quyền năng mà các tổ chức khác không thể có được; đó là, quyền ban hành
pháp luật (Nhà nước tự quy định cho mình quyền và nghĩa vụ trong việc thực hiện
các chức năng đối nội và đối ngoại). Tuy nhiên, không vì thế mà Nhà nước được
phép đứng trên pháp luật hoặc đứng ngoài pháp luật. Bởi lẽ, Nhà nước là một tổ
chức do nhân dân thiết lập nên, thay mặt nhân dân quản lý mọi hoạt động của xã hội
và cũng chính nhân dân trao cho Nhà nước quyền lực công (công quyền) để quản lý
xã hội. Do vậy, Nhà nước có bổn phận và nghĩa vụ tự giác chấp hành pháp luật.
Nhân dân thông qua pháp luật để giám sát việc tuân thủ pháp luật của Nhà nước.
Xét trong lĩnh vực bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, nhân dân tin
tưởng vào giao trọng trách cho Nhà nước thay mặt mình trong trường hợp cần thiết
thu hồi đất nông nghiệp sử dụng vào các mục đích chung của xã hội; song việc thu

hồi này không được hành xử tùy tiện mà phải tuân thủ pháp luật nhằm đảm bảo thực
hiện lợi ích của Nhà nước, của xã hội không làm phương hại đến lợi ích hợp pháp
của người bị thu hồi đất nông nghiệp. Hơn nữa, pháp luật là chuẩn mực, là “chiếc
cân công lý” để Nhà nước - với vai trò là tổ chức thay mặt xã hội làm trọng tài - sử
dụng trong việc phân xử, điều hòa lợi ích giữa người bị thu hồi đất nông nghiệp với
lợi ích của doanh nghiệp, chủ đầu tư nhằm đảm bảo việc thực hiện lợi ích của nhóm
người này không làm phương hại hoặc ảnh hưởng xấu đến quyền lợi hợp pháp của
nhóm người khác. Trên cơ sở đó nguyên tắc công bằng trong sử dụng đất đai được
thiết lập.
Thứ ba, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nói riêng là lĩnh vực khó khăn, phức tạp và nhạy
cảm; bởi nó trực tiếp động chạm đến lợi ích thiết thực của các bên liên quan mà
trước hết của người sử dụng đất. Đối với một nước nông nghiệp có khoảng 70% dân
số là nông dân như nước ta thì mỗi một sự động chạm đến lợi ích của người nông
dân sẽ gây ra những hậu quả khôn lường. Đất nông nghiệp có một vai trò hết sức
quan trọng; nó không chỉ là cơ sở để nền sản xuất nông nghiệp tồn tại và phát triển
mà còn là điều kiện vật chất để tạo việc làm, đem lại thu nhập đảm bảo cuộc sống
cho khoảng 56 triệu người sống ở khu vực nông thôn. Hơn nữa, việc có đất hay mất
đất nông nghiệp của người nông dân còn tiềm ẩn nguy cơ đối với sự ổn định chính

19


trị, trật tự xã hội. Vì vậy, trong thu hồi đất nông nghiệp, điều trước tiên mà Nhà
nước phải giải quyết đó là bảo hộ quyền lợi hợp pháp cho người nông dân thông
qua bồi thường. Tuy nhiên, bồi thường như thế nào, bồi thường ra sao để không gây
ra những xung đột xã hội, được tạo ra bởi sự mâu thuẫn về lợi ích giữa Nhà nước
với người bị thu hồi đất nông nghiệp hoặc không gây ra những áp lực vượt quá khả
năng tài chính của Nhà nước, của xã hội v.v. Lời giải cho những câu hỏi này nằm ở
nội dung các quy định của pháp luật; bởi lẽ, pháp luật suy cho cùng là một khế ước

thể hiện sự thỏa hiệp về quyền lợi giữa các giai tầng trong xã hội. Pháp luật quy
định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong xã hội. Khi tham gia các quan hệ xã
hội, con người phải tuân thủ quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định nhằm đảm
bảo hài hòa các lợi ích khác nhau trong xã hội. Thông qua việc tuân thủ các quy
định của pháp luật, người bị thu hồi đất tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mình,
nhằm bảo đảm sự đòi hỏi được bảo hộ lợi ích hợp pháp của mình, không gây
phương hại cho Nhà nước, cho xã hội. Ngược lại, thông qua việc tuân thủ pháp luật
trong việc bồi thường cho người bị thu hồi đất nông nghiệp, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mình để không làm thiệt hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Có như vậy mới không tạo ra
những xung đột, mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên trong bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu tiếp cận vấn đề đất đai trong quá
trình phát triển đất nước.
Thứ tư, pháp luật quy định cụ thể các trường hợp thu hồi đất, mục đích thu
hồi đất nông nghiệp, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thu hồi và phương thức giải quyết
hậu quả do việc thu hồi đất nông nghiệp gây ra. Thông qua việc tuân thủ các quy
định này, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, cân nhắc đưa ra hành vi
ứng xử của mình cho phù hợp, nhằm bảo đảm hạn chế đến mức thấp nhất việc thu
hồi đất nông nghiệp, cũng như việc thu hồi đất nông nghiệp sử dụng vào các mục
đích chung phải đem lại hiệu quả cho toàn xã hội (trong đó có người bị thu hồi đất
nông nghiệp), chống lại việc thu hồi đất vì lợi ích nhóm hoặc không đem lại hiệu
quả chung cho xã hội. Có như vậy mới tạo được sự đồng thuận của người dân đối
với quyết định thu hồi đất. Ở một khía cạnh khác, thông qua các quy định cụ thể và
tường minh của pháp luật, người dân và dư luận xã hội theo dõi, giám sát các hành
vi ứng xử của công chức nhà nước, của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc

20



×