Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

QUYỀN CHÍNH TRỊ của CÔNG dân QUA các bản HIẾN PHÁP VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG QUÝ PHI

QUYỀN CHÍNH TRỊ CỦA CÔNG DÂN
QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG THỊ PHƯỢNG

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Học Viện Khoa Học Xã Hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học
xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tác giả luận văn

Hoàng Qúy Phi


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CHÍNH TRỊ
HIẾN ĐỊNH CỦA CÔNG DÂN ..................................................................... 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò quyền chính trị hiến định của công dân .... 5
1.2. Nội dung các quyền chính trị của công dân trong hệ thống các
quyền được Hiến pháp ghi nhận ................................................................. 8
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền chính trị hiến định của công dân .. 29
Chương 2: SỰ THỂ HIỆN QUYỀN CHÍNH TRỊ CỦA CÔNG DÂN
QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM ............................................... 37
2.1. Tư tưởng về quyền chính trị trước khi có Hiến pháp ........................ 37
2.2. Quyền chính trị trong các bản Hiến pháp trước Hiến pháp năm 2013 .... 42
2.3. Quy định về quyền chính trị trong Hiến pháp năm 2013 .................. 51
2.4. Một số nhận xét về quyền chính trị hiến định trong các bản Hiến pháp . 58
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CHÍNH TRỊ HIẾN ĐỊNH CỦA CÔNG DÂN ............................................ 64
3.1. Quan điểm đổi mới, hoàn thiện quy định của Hiến pháp về quyền
chính trị hiến định của công dân ............................................................... 64
3.2. Các giải pháp đổi mới, hoàn thiện quy định của Hiến pháp về
quyền chính trị của công dân .................................................................... 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Chữ viết tắt

Tên/cụm từ đầy đủ

ĐBQH:


Đại biểu Quốc hội

HĐND:

Hội đồng nhân dân

ICCPR:

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (International
Covenant on Civil and Political Rights)

ICESCR

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
( International Covenant on Economic, Social and Cultural
Rights )

QLNN:

Quản lý nhà nước

TCYD:

Trưng cầu ý dân

UDHR:

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (Universal Declaration of
Human Rights)


XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền chính trị là một trong những quyền con người, là giá trị mang tính
toàn cầu, là thành quả đấu tranh chung của toàn nhân loại nhằm chống lại áp bức,
bạo lực và bất công. Các quyền chính trị luôn là các quyền không thể thiếu trong
quá trình giành, giữ quyền lực Nhà nước của nhân dân. Đó là kết quả của phong
trào đấu tranh chống lại chế độ phong kiến “cha truyền, con nối” giành quyền làm
chủ về tay người dân. Đến nay, quyền chính trị vẫn được coi là thước đo mức độ tự
do, dân chủ của một quốc gia. Hiến pháp các nước trên thế giới đều có các quy định
về quyền chính trị. Tuy nhiên, tùy thuộc vào lịch sử lập hiến, truyền thống văn hóa tư tưởng và điều kiện của từng nước, số lượng và mức độ ghi nhận các quyền chính
trị ở mỗi nước có sự khác nhau.
Ở Việt Nam, từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay,
Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng, ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ các quyền con
người trong đó có các quyền chính trị. Việt Nam đã có năm bản Hiến pháp là: Hiến
pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992
và Hiến pháp năm 2013. Mặc dù ra đời trong những bối cảnh khác nhau nhưng cả
năm bản Hiến pháp nêu trên đều đã có những quy định về quyền chính trị của công
dân, trong đó, Hiến pháp năm 2013 được đánh giá là ghi nhận nhiều hơn các bản
Hiến pháp trước về các quyền chính trị của công dân. Góp phần quan trọng thể chế
hóa đường lối, chính sách của Đảng về quyền con người.
Thực tế quyền chính trị hiến định của công dân tại Hiến pháp chưa được ghi nhận
đầy đủ như các quyền dân sự, quyền kinh tế, quyền văn hóa xã hội vì đây là một loại
quyền lực gắn với quyền lực của Nhà nước, gắn với một bên chủ thể là Nhà nước và các
cơ quan của Nhà nước. Chính vì hai bên chủ thể một bên là nhà nước, một bên là công
dân nên loại quyền này chưa được đặt lên bàn cân, chưa được nghiên cứu một cách kỹ

lưỡng để tìm ra các giải pháp thúc đẩy quyền này trong bối cảnh Nhà nước đang thực
hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài “Quyền chính trị của công dân
qua các bản Hiến pháp Việt Nam” sẽ góp phần làm sâu sắc hơn cơ sở lý luận và

1


thực tiễn quy định về các quyền chính trị của công dân trong Hiến pháp các bản
Hiến pháp của Việt Nam, đề tài sẽ góp phần hiểu sâu hơn về việc hiến định quyền
quan trọng này ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài
Quyền chính trị là một trong các quyền được ghi nhận và bảo đảm trong luật
pháp quốc tế và pháp luật của quốc gia.
Đối với việc nghiên cứu các quyền hiến định chính trị của công dân, hiện
chúng ta đã có một số công trình nghiên cứu như: “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về quyền dân sự và chính trị” (năm 1997) và đề tài: “Sự phát triển của quyền
dân sự, chính trị sau 15 năm đổi mới” (năm 2002) do Trung tâm Nghiên cứu quyền
con người thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện; “Các quyền
hiến định về chính trị của công dân Việt Nam”, NXB Tư pháp, 2006; Đề tài “Quyền
con người trong Hiến pháp Việt Nam” do Ths. Bùi Ngọc Sơn – Khoa Luật, Đại học
Quốc gia thực hiện năm 2010.
Luận văn "Sự phát triển của quyền dân sự, chính trị qua các bản Hiến pháp
Việt Nam" do tác giả Bùi Thị Hòe - Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội thực hiện
năm 2013 đã làm rõ mối quan hệ giữa Hiến pháp với các quyền dân sự, chính trị;
nêu và phân tích hệ thống các quyền dân sự, chính trị của con người được các Hiến
pháp Việt Nam ghi nhận và bảo vệ; đóng góp một số ý kiến góp ý nhằm tiếp tục
hoàn thiện dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992.
Luận văn "Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay" do tác giả
Nguyễn Công Khanh - Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện năm 2014 đã

cung cấp những vấn đề lý luận về quyền tham gia chính trị, đồng thời nêu lên thực
trạng của việc đảm bảo quyền tham gia chính trị, và có những tổng hợp đánh giá về
quyền chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Bài viết "Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân trong
Hiến pháp năm 2013" của tác giả Phạm Tuấn Anh đăng trong cuốn sách chuyên
khảo Thực hiện các quyền hiến định trong Hiến pháp năm 2013 - Khoa luật Đại học
Quốc gia Hà Nội đã nêu khái quát quy định về quyền tham gia quản lý nhà nước
của công dân trong các bản Hiến pháp Việt Nam, đặc biệt chú trọng phân tích cách

2


thức quy định nhóm quyền này trong Hiến pháp năm 2013.
Qua nghiên cứu, nhận thấy các đề tài trên mới chỉ nghiên cứu góc độ nhất
định về quyền chính trị hiến định của công dân nói chung và quyền này trong pháp
luật nói riêng, ít đề tài nào đi sâu phân tích và so sánh nội dung các quyền chính trong
Hiến pháp trên thế giới và các bản Hiến pháp của Việt Nam. Luận văn này sẽ góp
phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận, thực tiễn về quyền chính trị hiến định của
công dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quyền chính trị hiến định của công dân để làm
rõ nội dung quyền chính trị hiến định của công dân.
- Nghiên cứu nội dung các quyền chính trị hiến định của công dân qua các
bản Hiến pháp để làm rõ sự phát triển của nhóm quyền này, đặc biệt là làm rõ nội
dung quyền này trong Hiến pháp năm 2013.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện và đảm bảo quyền chính trị hiến
định của công dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn này là các bản Hiến Pháp Việt

Nam, mà cụ thể là các quy định về quyền chính trị hiến định trong các bản Hiến
pháp. Ngoài ra còn có các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc thực
hiện quyền chính trị hiến định và Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm
1966 của Liên hiệp quốc.
Luận văn chỉ giới hạn ở việc phân tích quy định về quyền chính trị trong các
Hiến pháp Việt Nam và trong Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966
của Liên hiệp quốc ...
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, các quan điểm, đường lối của Đảng
và Nhà nước Việt Nam về xây dựng pháp luật và nhân quyền.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn này bao

3


gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, trong đó luận văn chủ
yếu dựa trên việc tập hợp và phân tích văn bản, tài liệu và số liệu.
Những nét mới của luận văn
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về quyền chính trị hiến định của công dân; phân
tích cụ thể các quyền chính trị hiến định trong các bản Hiến pháp Việt Nam
Trên cơ sở thực trạng việc thực hiện các quyền chính trị hiến định của công
dân; đối chiếu với các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người, luận văn đề xuất những
giải pháp nhằm hoàn thiện và bảo đảm quyền chính trị hiến định của công dân.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn đưa ra những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền chính trị hiến
định của công dân ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp và là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập
trong các cơ sở đào tạo về luật học, đặc biệt là chuyên ngành pháp luật về quyền con

người và chuyên ngành luật Hiến pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung đề tài được chia thành ba chương như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền chính trị hiến định của công dân.
- Chương 2: Sự thể hiện quyền chính trị của công dân qua các bản Hiến pháp
Việt Nam.
- Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện và bảo đảm quyền chính trị hiến định
của công dân.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CHÍNH TRỊ HIẾN ĐỊNH
CỦA CÔNG DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò quyền chính trị hiến định của công dân
1.1.1. Khái niệm về quyền chính trị hiến định của công dân
Khái niệm công dân được dùng để chỉ mối liên hệ giữa cá nhân và Nhà nước.
Có thể định nghĩa rằng: “Công dân là những cá nhân được mang quốc tịch của một
Nhà nước sở tại”. Công dân của một nước được hưởng những quyền nhất định và
phải thực hiện nghĩa vụ của mình vói Nhà nước đó.
“Công dân là sự xác định một thể nhân về mặt pháp lí thuộc về một nhà nước
nhất định”[34]. Nhờ sự xác định này con người được hưởng chủ quyền của nhà
nước và được nhà nước bảo hộ quyền lợi khi ở trong nước cũng như ở nước ngoài;
đồng thời cũng phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định đối với nhà nước theo
khoản 1 Điều 17 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 thì công
dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Như vậy,
khái niệm công dân gắn liền với khái niệm quốc tịch. Quốc tịch là mối liên hệ bền
vững của một thể nhân với một nhà nước nhất định. Quốc tịch Việt Nam là căn cứ

duy nhất để xác định một người là công dân Việt Nam.
Quyền cơ bản của công dân là các quyền được xác định trong Hiến pháp trên
các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa, là cơ sở chủ yếu để xác định
địa vị pháp lí của công dân.
Trong bất kì nhà nước nào, địa vị pháp lí của công dân được hình thành bởi
tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa một bên là xã hội, nhà
nước với một bên khác là công dân. Những quy phạm pháp luật tạo nên địa vị khác
nhau, bởi vì địa vị pháp lí của công dân phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội của mỗi nhà nước.
Thuật ngữ “chính trị “ có nguồn gốc La-tinh là “politis” mang nghĩa công việc
nhà nước. Cụ thể hơn, có thể hiểu chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan
đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt
lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự

5


tham gia vào công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội
dung hoạt động của nhà nước.
Khi nhà nước tư sản ra đời, cùng với sự thay đổi về bản chất của nhà nước, theo
đó nhà nước không phải là một thế lực thống trị xã hội mà là một tổ chức quyền lực
công, được người dân trao cho quyền lực để ban hành ra pháp luật và quản lý đất
nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân. Quan điểm triết học
hiện đại cho rằng quyền lực chính trị xuất phát từ dân chúng, nó được tạo lập để
phục vụ xã hội. Chính trị là nghệ thuật hay khoa học vận hành và quản lý xã hội
bằng quyền lực Nhà nước. Việc quản lý xã hội này phải tuân thủ theo quy định của
pháp luật và chịu sự giám sát của người dân. Hiểu theo nghĩa rộng thì chính trị là
hoạt động của con người nhằm làm ra, giữ gìn và điều chỉnh những luật lệ chung và
chịu sự điều chỉnh trực tiếp của những luật lệ chung ấy.
Theo từ điển bách khoa toàn thư mở wikipedia thì chính trị là “toàn bộ những

hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các
tầng lớp xã hội mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng
quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của nhà nước, sự xác định hình thức
tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước….”[35]. Quan điểm khác cho
rằng chính trị là “những vấn đề về tổ chức và điều khiển bộ máy nhà nước, hoặc
những hoạt động của một giai cấp, một chính đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền
điều khiển bộ máy nhà nước”[1]. Bản chất của quyền chính trị là quyền tổ chức và
điều khiển hoạt động của bộ máy nhà nước của người dân. Nói cách khác, quyền
chính trị thực chất là quyền của người dân được tham gia vào việc quản lý nhà
nước, tham gia vào các công việc của chính phủ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Quyền chính trị là một lớp các quyền bảo vệ tự do cá nhân khỏi sự xâm phạm
không có cơ sở của chính phủ và các tổ chức tư nhân, và đảm bảo của một người
khả năng tham gia vào đời sống dân sự và chính trị của nhà nước không phân biệt
hay đàn áp. Quyền chính trị là quyền cơ bản nhất của con người, là những quyền tự
nhiên, vốn có của con người, được pháp luật ghi nhận, điều chỉnh và là cơ sở để các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và quyền phát triển được thực hiện.

6


Như vậy quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong lĩnh vực chính trị là
quyền và nghĩa vụ của công dân tham gia vào các công việc quản lí nhà nước. Đó là
các quyền tự do bầu cử, ứng cử, quyền khiếu nại, tố cáo, tham gia đóng góp ý kiến
vào các công việc của Nhà nước. Những quyền chính trị được Hiến pháp ghi nhận
còn được gọi là quyền hiến định về chính trị của công dân.
Như vậy quyền chính trị hiến định của công dân là các quyền về chính trị được
ghi nhận trong Hiến pháp, từ những quyền này, công dân có cơ sở để thực hiện
quyền làm chủ của mình trong tham gia các hoạt động quản lý Nhà nước, góp phần
củng cố, bảo vệ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam.

1.1.2. Đặc điểm của quyền chính trị hiến định của công dân
Thứ nhất, Xét về nguồn gốc, quyền chính trị ra đời sớm hơn quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa. Đặc biệt, quyền được sống trong sự tôn trọng phẩm giá, được làm
người theo đúng nghĩa luôn trở thành vấn đề mang tính lịch sử. Ngay từ thời kỳ
chiếm hữu nô lệ, nhiều cuộc khởi nghĩa của nô lệ chống chính quyền thì mục đích
chính cũng nhằm giành lại quyền làm người mà giai cấp chủ nô đã tước đoạt của nô
lệ. Vấn đề quyền lợi kinh tế không phải là mục tiêu hàng đầu của các cuộc khởi
nghĩa này.
Thứ hai, các quyền hiến định về chính trị của công dân được xác lập trên cơ sở
lí luận của chủ nghĩa Mác- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về các quyền dân tộc cơ bản là độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, toàn vẹn lãnh thổ, tự do, dân chủ, bình đẳng, hạnh phúc.
Thứ ba, những quyền chính trị hiến định của công dân là một loại quyền lực đặc
biệt, gắn với quyền lực nhà nước được quy định và đảm bảo thực hiện cùng với lịch
sử lập nước, giành, giữ vào xây dựng bảo vệ nhà nước. Quyền chính trị hiến định
của công dân có những thay đổi quy định phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của
Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử.
Thứ tư, các quyền hiến định về chính trị của công dân được xác lập đồng thời với
các quyền hiến định khác của công dân, góp phần tạo nên một hệ thống thống nhất các
quyền hiến định của công dân Việt Nam về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội.

7


Thứ năm, các quyền hiến định về chính trị của công dân ngày càng được mở
rộng, phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng và với trình độ phát
triển kinh tế,chính trị, tư tưởng, văn hóa và dân trí của xã hội.
Thứ sáu, quyền chính trị hiến định của công dân là những quyền dễ thực hiện
hơn các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và chúng có thể được công nhận về mặt
pháp lý và được áp dụng ngay lập tức sau khi phê chuẩn Công ước, chúng ít phụ

thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Do điều kiện kinh tế ở mỗi
quốc gia khác nhau, nên khả năng hiện thực hóa sự hưởng thụ các quyền này ở các
quốc gia cũng khác nhau.
1.1.3. Vai trò của quyền chính trị hiến định của công dân
Xét trong bối cảnh lịch sử tư tưởng, lịch sử đấu tranh bảo vệ nhân quyền thì
nhiều quyền chính trị được nhắc đến đồng thời với quyền kinh tế, văn hóa, xã hội.
Ví dụ, trong các bộ luật cổ xưa như Bộ luật Hammurabi, luật Manu hay trong kinh
thánh, kinh Koran, kinh phật... quyền sở hữu (quyền dân sự) của cá nhân được bảo
vệ nhưng đồng thời, quyền của những người yếu thế trong xã hội (mẹ góa con côi,
người già cả) cũng được ghi nhận. Mặc dù có vị trí ngang nhau, nhưng các quyền
chính trị có các vai trò sau:
Là “thước đo” cho mức độ dân chủ của một quốc gia; nội dung các quyền thể
hiện sự ghi nhận của một quốc gia trong việc tôn trọng quyền công dân; có mục
đích đảm bảo cho con người có quyền tham gia đầy đủ vào đời sống dân sự, chính
trị của nhà nước mà không bị phân biệt đối xử và đàn áp; bảo vệ các quyền tự do
của con người, chống lại những hành vi xâm phạm không có lý do chính đáng từ
phía chính phủ hoặc các tổ chức khác.
1.2. Nội dung các quyền chính trị của công dân trong hệ thống các quyền
được Hiến pháp ghi nhận
1.2.1. Các quyền chính trị trong Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người
năm 1948 (UDHR) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966
(ICCPR)
Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhưng do
đây chỉ là một bản “tuyên ngôn”, mang tính chất khuyến nghị nên không có hiệu lực

8


pháp lý ràng buộc với các quốc gia. Sự thực thi phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức của
các nước thành viên Liên hiệp quốc. Chính vì vậy, cần thiết phải chuyển tải các nội

dung của Tuyên ngôn sang hình thức Công ước quốc tế có giá trị bắt buộc các quốc
gia ký kết, phê chuẩn phải tuân theo trở thành vấn đề cấp thiết được nhiều nước ủng
hộ. Tại mục E, Nghị Quyết số 421 của Đại hội đồng Liên hiệp quốc ngày 4 tháng 12
năm 1950 đã tái khẳng định sự cần thiết phải bổ sung các quyền dân sự, chính trị
với các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, vấn đề gây tranh cãi giữa các
nước đó là có nên sắp xếp tất cả các quyền này trong một văn kiện hay nên tách
riêng các nhóm quyền cho phù hợp với tính chất, đặc thù của từng nhóm? Sau nhiều
tranh cãi, ngày 4 tháng 2 năm 1952, Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã thông qua Nghị
quyết số 543 (VI) giao cho Ủy ban Nhân quyền của Liên hiệp quốc song song soạn
thảo hai Công ước riêng biệt phù hợp với đặc thù của hai nhóm quyền căn bản là
Công ước về các quyền dân sự, chính trị và Công ước về các quyền kinh tế, văn
hóa, xã hội [37].
Đến năm 1966, cả hai Công ước này đã được Đại hội đồng Liên hiệp quốc
nhất trí thông qua. Một số quyền chính trị được ghi nhận rộng rãi và cần được đảm
bảo thực hiện trên thực tế. Cụ thể như sau:
1.2.1.1. Quyền tham gia vào đời sống chính trị
Theo Điều 21 Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 thì tất cả mọi người đều có
quyền tham gia vào quản lý của đất nước mình trực tiếp hoặc thông qua những
người đại diện đã được tự do lựa chọn. Thể hiện trong những cuộc bầu cử định kỳ,
phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín hoặc thông qua những thủ tục bầu cử tự do
tương đương. Tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng trong việc tiếp cận dịch vụ
công cộng của đất nước mình.
Điều 25 ICCPR tái khẳng định “Mọi công dân, không có bất kỳ sự phân biệt
nào... và không có bất kỳ sự hạn chế bất hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để: a)
tham gia điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những
đại diện do họ tự do lựa chọn; b) Bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ
chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, nhằm đảm bảo cho

9



cử tri được tự do bày tỏ ý nguyện của mình; c) được tiếp cận với các chức vụ công
ở đất nước mình trên cơ sở bình đẳng ”.[11]
Tại phiên họp thứ 57 ngày 12/7/1996, Ủy ban Công ước đã thông qua Bình luận
chung số 25 về sự tham gia quản lý nhà nước và quyền bầu cử. Theo Ủy ban Công
ước, các quốc gia thành viên cần sử dụng Hiến pháp, pháp luật và các biện pháp cần
thiết để đảm bảm mọi công dân đều có cơ hội được hưởng các quyền tham gia vào đời
sống chính trị. Việc quản lý phải trên cơ sở sự đồng thuận của nhân dân và phù hợp với
các nguyên tắc của Công ước. Các quốc gia có nghĩa vụ xác định rõ bằng pháp luật tư
cách công dân của mình và đảm bảo để mọi công dân được hưởng quyền ngang nhau
và không được phép có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vì bất kỳ lý do gì.
Công dân tham gia quản lý nhà nước thể hiện qua các hình thức dân chủ trực
tiếp hoặc gián tiếp. Hình thức dân chủ trực tiếp thể hiện qua các hành động như:
Tham gia với tư cách là thành viên của các cơ quan lập pháp hay nắm giữ các chức
vụ hành pháp; Tham gia vào cơ quan đại diện cho cộng đồng dân cư để quyết định
các vấn đề của địa phương; Tham gia vào các cơ quan đại diện cho công dân trong
việc tham vấn với chính phủ; Bỏ phiếu quyết định các vấn đề công thông qua bầu
cử hoặc trưng cầu ý. Dân chủ gián tiếp thể hiện thông qua tư cách cử tri hay ứng cử
viên thông qua bỏ phiếu bầu cử định kỳ, trung thực và phù hợp, được tổ chức nhanh
chóng và bảo đảm thẩm quyền của chính phủ kế nhiệm phải trên cơ sở quyền tự do
thể hiện ý chí của các cử tri. Ngoài ra, công dân còn tham gia quản lý nhà nước
thông qua quyền tự do ngôn luận, hội họp, lập hội để bày tỏ quan điểm của mình.
1.2.1.2. Quyền tự do lập hội và tự do hội họp một cách hòa bình
Điều 20 UDHR quy định “1. Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội một
cách hòa bình. 2. Không ai bị bắt buộc phải tham gia bất cứ một hiệp hội nào” Tái
khẳng định Điều 20 của UDHR, tại Điều 21 và Điều 22 ICCPR quy định về quyền
hội họp hòa bình và quyền tự do lập hội trong hai điều riêng biệt.
1.2.2. Nội dung các quyền chính trị hiến định của công dân
1.2.2.1. Quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội của công dân
Trong quản lý Nhà nước và xã hội, công dân vừa là chủ thể quản lý, vừa là

đối tượng quản lý. Như vậy, có thể quan niệm quyền tham gia quản lý Nhà nước và

10


xã hội của công dân việc công dân tham gia vào bộ máy quản lý Nhà nước, tổ chức
xã hội hoặc hoạt động với tư cách cá nhân để thực hiện các công việc của nhà nước,
hoặc xã hội một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, gắn với các hoạt động: xây dựng
chính sách, pháp luật, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, ra quyết định,
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,...
Công dân tham gia quản lý Nhà nước và xã hội đều nhằm mục tiêu đảm bảo
sự ổn định và phát triển của xã hội. Chính vì lẽ đó, các nội dung quản lý Nhà nước
và xã hội cũng có thể được thực hiện bởi công dân thông qua các tổ chức xã hội ở
những mức độ nhất định. Tuy nhiên, sự tham gia, mức độ cống hiến của công dân
trong quản lý Nhà nước, quản lý xã hội còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ví dụ, mức
độ sẵn sàng của công dân, hình thức tham gia (trực tiếp hay gián tiếp); năng lực và
vị trí việc làm; các yếu tố thuộc về cá nhân công dân (vốn con người - các giá trị cá
nhân, vốn văn hóa, vốn xã hội, vốn thông tin, vốn kinh tế, vốn chính trị,..), và đặc
biệt là yếu tố thể chế, chính sách của nhà nước.
1.2.2.1.1. Chính sách, pháp luật về sự tham gia quản lý Nhà nước và xã hội
của công dân
Tại Việt Nam, nguyên lý xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng và thể hiện
trong tư tưởng Hồ Chí Minh ngay từ những ngày đầu thành lập nước. Chính sách
của Nhà nước về quyền lực nhân dân cũng là nhất quán. Tại kỳ bầu cử Quốc hội
khóa I (6/01/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: ''Tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân" và "Đảng ta là Đảng cách mạng, ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng ta
không có lợi ích gì khác"[12]. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc XII tháng
1/2016 xác định: "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân,

được nhân dân tham gia ý kiến"[7]. Thể chế hóa đường lối của Đảng, trong mọi
chính sách phát triển, Nhà nước ta luôn đặt con người ở vị trí trung tâm. Về mặt
pháp lý, Hiến pháp 2013 ghi nhận công dân có quyền tham gia QLNN và xã hội,
tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ
quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý".

11


Điều kiện tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của công dân: Hiến pháp
2013 quy định, công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi
mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc
thực hiện các quyền này do luật định. Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền
biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Để thống nhất thực hiện, Điều 2
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu HĐND năm 2015 xác định rõ
“Tính đến ngày bầu cử được công bố, công dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền
ứng cử vào Quốc hội, HĐND các cấp”[23]. Điều 5 Luật Trưng cầu ý dân năm 2015
(Luật TCYD) cũng quy định "Công dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đủ 18
tuổi trở lên tính đến ngày trưng cầu ý dân có quyền bỏ phiếu để biểu quyết khi Nhà
nước tổ chức trưng cầu ý dân"[24], trừ trường hợp không được ghi tên, bị xóa tên
trong danh sách cử tri tại Khoản 1 và Khoản 2 điều 25 Luật này.
Trường hợp hạn chế quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội bao gồm:
Trường hợp không được bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND:
Luật Bầu cử ĐBQH, đại biểu HĐND năm 2015 quy định một số trường hợp không
được bầu cử (Điều 30), không được ứng cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Điều 37) khi
có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Theo đó, có năm nhóm trường hợp không được
ứng cử ĐBQH và đại biểu HĐND: (i) Người đang bị tước quyền ứng cử theo bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang chấp hành hình phạt tù,
người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự; (ii) Người đang bị khởi tố bị can;

(iii) Người đang chấp hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án; (iv) Người đã
chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Tòa án nhưng chưa được xóa án tích;
và (v) Người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Những trường hợp không được bỏ phiếu để biểu quyết khi Nhà nước tổ chức
trưng cầu ý dân bao gồm: (i) Người bị kết án tử h́ ình đang trong thời gian chờ thi
hành án; (ii) Người đang phải chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án
treo; nếu đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ mà được trả tự do thì những
người này được bổ sung tên vào danh sách cử tri và nhận thẻ cử tri để bỏ phiếu

12


trưng cầu ý dân; (iii) Người đã có tên trong danh sách cử tri nếu đến thời điểm bắt
đầu bỏ phiếu bị kết án tử hình, phải chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng
án treo thì UBND xã xóa tên người đó trong danh sách cử tri và thu hồi thẻ cử tri
(Điều 25 Luật TCYD ).
1.2.2.1.2. Hình thức tham gia quản lý nhà nước và xã hội
Việc thực hiện các quyền này do luật định. Nhà nước ta đã ban hành Luật
bầu cử đại biểu Quốc hội ngày 15/04/1992 ( thông qua tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội
khóa VII ) thay thế cho Luật bầu cử ĐBQH ngày 18/12/1980. Sau đó Luật này được
thay thế bằng Luật bầu cử ĐBQH ngày 15/04/1997 và gần đây được bổ sung, bổ
sung bằng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử ĐBQH năm 2001 và
Luật sửa đổi một số điều của Luật bầu cử ĐBQH và Luật bầu cử đại biểu HĐND
năm 2010. Ngày 25/06/2015 tại kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật
bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND, theo đó những người không có quyền bầu cử và
ứng cử vào Quốc hội và HĐND là những người mất năng lực hành vi dân sự và
những người bị pháp luật hoặc tòa án tước quyền đó. Quyền bầu cử của công dân
được thực hiện với nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, thể
hiện chế độ dân chủ rộng rãi của Nhà nước XHCN, tạo điều kiện cho nhân dân lao

động thực hiện quyền làm chủ Nhà nước và xã hội.
Quản lý Nhà nước và xã hội có đối tượng quản lý rộng, bao quát tất cả các
ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, công dân cần tham gia quản lý Nhà
nước và xã hội ngay từ khi xây dựng chính sách, pháp luật, đến phổ biến chính
sách, pháp luật và giám sát các hoạt động thực tiễn. Trong thực tế, mức độ tham gia
quản lý nhà nước và xã hội của mỗi công dân rất khác nhau, do sự chi phối của các
yếu tố, trong đó quan trọng nhất là việc lựa chọn hình thức tham gia quản lý. Điều 6
Hiến pháp 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ
trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông
qua các cơ quan khác của Nhà nước”[22].
Hình thức tham gia trực tiếp:
Công dân thực hiện tham gia quản lý nhà nước và xã hội của mình bằng cách
tham gia ứng cử ĐBQH hoặc ứng cử vào HĐND các cấp. Khi trúng cử, trở thành

13


ĐBQH hoặc đại biểu HĐND, công dân có thể trực tiếp tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã hội thông qua việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Công dân
có thể tham gia hoạt động trong các cơ quan nhà nước thông qua cơ chế tuyển dụng
theo quy định pháp luật. Tại Luật Cán bộ, công chức 2008 quy định: “Tùy theo
năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, công dân có thể được tuyển dụng vào cơ
quan nhà nước hoặc được bổ nhiệm vào những chức vụ cụ thể trong bộ máy nhà
nước”[30]. Thông qua việc trúng tuyển trong kỳ thi tuyển dụng, công dân trở thành
công chức của nhà nước, tùy theo vị trí việc làm, cấp bậc quản lý mà công dân có
thể có điều kiện và khả năng thuận lợi để trực tiếp tham gia quản lý, ra quyết định,
tạo ra những tác động quan trọng cho xã hội.
Công dân có thể tham gia thảo luận, cho ý kiến trực tiếp đối với các vấn đề ở
tầm quốc gia khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý dựa trên quy định của Luật
TCYD . Với chính sách dân chủ, mở rộng sự tham gia, Nhà nước kỳ vọng người

dân thực hiện quyền và trách nhiệm xã hội ở mức cao, mỗi công dân sẽ trực tiếp
đóng góp ý kiến, trí tuệ vào các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước; phát biểu
ý kiến về các vấn đề quản lý Nhà nước, về nội dung của các quyết định quản lý,
kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật đối với những vấn đề xã hội phát sinh.
Điều này có thể thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hay gửi ý kiến góp ý
đối với cơ quan có thẩm quyền.
Kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, đấu tranh với tệ quan
liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và những hiện tượng tiêu cực
trong bộ máy nhà nước. Tùy thuộc vào tính chất công việc và vị trí việc làm, công
dân có thể tham gia quản lý Nhà nước thông qua cơ chế kiểm tra, giám sát, theo dõi,
đánh giá và đấu tranh chống tiêu cực trong bộ máy nhà nước, làm trong sạch đội
ngũ, đảm bảo sự vận hành hiệu quả của bộ máy quản lý Nhà nước. Để tham gia vào
quản lý Nhà nước với chức năng thanh tra, công dân phải thỏa mãn những điều kiện
nhất định để trở thành thanh tra viên trong các cơ quan thực hiện chức năng thanh
tra hành chính hoặc thanh tra chuyên ngành. Bên cạnh đó, công dân cũng có thể
tham gia quản lý Nhà nước với tư cách là thành viên của Ban thanh tra nhân dân.

14


Công dân tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật:
Phương thức tham gia là cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo có trách nhiệm tạo điều
kiện để các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân tham gia góp ý về dự thảo văn bản; tổ
chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Công dân, có
quyền và trách nhiệm đóng góp ý kiến, phản ánh với Nhà nước về những vấn đề
còn vướng mắc, bất cập của các văn bản pháp luật, để Nhà nước sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích của công
dân. Quyền và nghĩa vụ của công dân tham gia vào việc xây dựng chính sách, pháp
luật được ghi nhận tại Điều 28 Hiến pháp năm 2013, Điều 6, Điều 36, Điều 57 Luật

Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Công dân có thể tham gia bàn và quyết định trực tiếp những vấn đề liên quan
đến đời sống ở cơ sở (Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm
2007): Xuất phát từ việc sinh sống, làm việc tại các địa phương, cơ quan, công dân
có thể góp ý với cơ quan chức năng về những vấn đề bất cập, gây tác động tiêu cực
cho sự ổn định và phát triển, đề xuất các giải pháp để giải quyết.
Hình thức tham gia gián tiếp:
Công dân thực hiện quyền tham gia QLNN bằng việc thực hiện quyền bầu cử
ĐBQH và đại biểu HĐND. Để thực hiện quyền lực nhà nước được Nhân dân trao cho,
ĐBQH và đại biểu HĐND phải chịu sự giám sát, chất vấn của cử tri (công dân) về các
yêu cầu, nhiệm vụ QLNN (Điều 79 và Điều 115 Hiến pháp 2013).
Công dân tham gia quản lý Nhà nước và xã hội thông qua các tổ chức chính
trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp. Khi công dân có yêu cầu và ý
kiến, các tổ chức sẽ tập hợp lại để chuyển tới các cơ quan có thẩm quyền xem xét,
giải quyết. Chính sách của Nhà nước là cho phép công dân thông qua tổ chức mà
mình là thành viên tham gia nhiều hơn trong hoạt động quản lý của Nhà nước, từ
việc phản biện các chính sách, pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà
nước và của công chức, cũng như để đạt nguyện vọng, ý kiến của mình cho các cơ
quan nhà nước xem xét, thực hiện.
Công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội thông qua hoạt động kiểm tra,
giám sát của Mặt trận tổ quốc, Công đoàn, Thanh tra nhân dân…

15


1.2.2.2. Quyền bầu cử và ứng cử của công dân
Quyền Bầu cử và Ứng cử là quyền chính trị quan trọng bảo đảm cho công
dân có thể tham gia vào việc thành lập ra những cơ quan quan trọng nhất của mỗi
quốc gia. Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam công dân Việt Nam có quyền bầu
cử và ứng cử vào hai cơ quan đại diện quyền lực nhà nước của nhà nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là Quốc hội và HĐND các cấp.
Quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước là Quốc hội và
HĐND các cấp. Việc thực hiện các quyền này do luật định . Quyền bầu cử và ứng
cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước là một quyền chính trị cực kỳ quan trọng
của công dân. Nhờ quyền bầu cử mà các công dân có thể lựa chọn những người ưu
tú nhất, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, và quyền lợi của mình vào các cơ quan
quyền lực nhà nước, giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước. Chính ở
quyền này nhân dân lao động thực hiện quyền lực của mình như một quyền thụ
động và chỉ là khả năng “có thể được bầu” của công dân. Thực hiện chủ trương tích
cực hoá vai trò của công dân tham gia vào bầu cử, Hiến pháp 1992 và Luật Bầu
cử đại biểu HĐND năm 1994 đã quy định quyền bầu cử và quyền tự ứng cử của
công dân.
1.2.2.2.1. Quyền Bầu cử
Bầu cử là một quá trình đưa ra quyết định của công dân hoặc của thành viên
một tổ chức để chọn ra các cá nhân nắm giữ các chức vụ thuộc chính quyền, thuộc
ban lãnh đạo của một tổ chức, cơ quan, đơn vị nào đó. Đây là cơ chế phổ biến được
các nền dân chủ hiện áp dụng để phân bổ chức vụ trong bộ máy lập pháp, đôi khi cả
ở bộ máy hành pháp, tư pháp và ở chính quyền địa phương. Bầu cử là cơ sở pháp lý
cho việc hình thành ra các cơ quan đại diện cho quyền lực của Nhà nước.
Muốn cho cuộc bầu cử diễn ra một cách thắng lợi cũng như để đảm bảo cho
cuộc bầu cử được tiến hành một cách dân chủ cần phải tiến hành theo nhiều nguyên
tắc. Có những nguyên tắc mang tính chất của mọi hoạt động xã hội nhưng trong đó
cũng không ít những nguyên tắc mang tính đặc thù của hoạt động bầu cử.
Nguyên tắc Bầu cử trực tiếp:

16


Trong quá trình bầu cử mỗi công dân được tự do thể hiện ý chí, nguyện vọng
của mình. Mục đích của sự thể hiện ý chí nguyện vọng này là bầu được những người

xứng đáng cho mình vào Quốc hội hay HĐND. Nếu sự thể hiện ý chí nguyện vọng này
được tiến hành trực tiếp, tức là cử tri trực tiếp bầu ra người đại diện cho mình vào cơ
quan dân cử thì điều này cũng có nghĩa là cuộc bầu cử đó được tiến hành theo nguyên
tắc bầu cử trực tiếp. Nội dung của nguyên tắc bầu cử trực tiếp là cử tri tín nhiệm người
nào thì trực tiếp bỏ phiếu cho người ấy làm ĐBQH hay đại biểu HĐND mà không
thông qua người nào hay cấp nào khác. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp nhằm mục đích để
cử tri trực tiếp lựa chọn người đủ tín nhiệm vào cơ quan quyền lực Nhà nước bằng lá
phiếu của mình mà không phải thông qua bất kì một khâu trung gian nào. Nguyên tắc
bầu cử trực tiếp được đảm bảo thực hiện bằng nhiều quy định trong Luật bầu cử
ĐBQH, Luật bầu cử đại biểu HĐND và những văn bản dưới luật khác. Để công dân có
điều kiện tham gia bầu cử đầy đủ, pháp luật bầu cử nước ta quy định ngày bầu cử
ĐBQH, đại biểu HĐND là ngày chủ nhật, củ tri phải tự mình đi bầu không được nhờ
người khác bầu thay, không được bầu bằng cách gửi thư, … Nguyên tắc bầu cử trực
tiếp là một trong những nguyên tắc xuyên suốt của pháp luật bầu cử Việt Nam ngay từ
ngày đầu dành được độc lập. Ở đây cử tri tín nhiệm ứng cử viên nào thì trực tiếp bỏ
phiếu cho người đó mà không thông qua người nào hay cấp nào khác. “Cử tri phải thân
hành đi bầu, không được uỷ quyền cũng không được bầu bằng cách gửi thư” (Điều 29
Sắc luật 004/SLT) Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc bầu cử trực tiếp đã được ghi trong
Hiến pháp, ngay từ những năm đầu xây dựng đất nước, các Luật về bầu cử và các văn
bản dưới luật quy định những biện pháp nhằm đảm bảo thực hiện. Theo quy định của
Điều 30 Sắc luật 004/SLT thì “Cử tri không biết chữ hay vì tàn tật không thể tự mình
viết phiếu được, có thể tuỳ chọn người viết hộ, nhưng phải tự tay mình bỏ phiếu. Chỉ
trong trường hợp không thể tự mình bỏ phiếu được, cử tri có thể chọn người bỏ lá
phiếu vào hòm phiếu, nhưng cử tri ấy phải thấy tận mắt lá phiếu của mình được bỏ vào
hòm phiếu”[3]. Sắc luật 004/ SLT cũng quy định ngày bỏ phiếu là ngày chủ nhật hoặc
ngày lễ và được ấn định trước hai tháng để tạo điều kiện cho tất cả các cử tri đi bỏ
phiếu một cách đầy đủ. Các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương thường
xuyên thông báo danh sách tiểu sử những người ứng cử tạo cho cử tri có trách nhiệm

17



và có sự lựa chọn khách quan, dân chủ và đúng luật. Và cho đến nay, nguyên tắc bầu
cử trực tiếp vẫn là một nguyên tắc quan trọng, được duy trì và không ngừng được củng
cố, đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh mới của đất nước.
Hiến pháp và pháp luật về bầu cử hiện hành ở nước ta đều quán triệt nguyên
tắc bầu cử trực tiếp. Cùng với nguyên tắc bỏ phiếu kín, nguyên tắc bầu cử trực tiếp
đảm bảo về mặt pháp lý để thể hiện được tính dân chủ trong việc thành lập ra các cơ
quan nhà nước quan trọng như: Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Cử tri được tự do
biểu lộ ý chí của mình trong việc bầu ra các cơ quan đại diện của nhân dân.
Nguyên tắc Bầu cử phổ thông:
Pháp luật bầu cử của các nước đều khẳng định, nguyên tắc phổ thông đầu
phiếu là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ bầu cử. Nguyên tắc phổ
thông đầu phiếu trong bầu cử bảo đảm để mọi công dân không phân biệt dân tộc,
nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời
hạn cư trú, (trừ những người mất trí hay những người bị tước quyền bầu cử trên cơ sở
của pháp luật), đến tuổi trưởng thành đều được trao quyền bầu cử.
Yêu cầu của nguyên tắc này là Nhà nước phải bảo đảm để cuộc bầu cử thực
sự trở thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi để công
dân thực hiện quyền bầu cử của mình, bảo đảm tính dân chủ, công khai và sự tham
gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân trong bầu cử.
Ví dụ: Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND của nước ta quy định đối với
việc bầu cử ĐBQH:
- Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, được Quốc hội ấn định và công bố
chậm nhất là 115 ngày trước ngày diễn ra bầu cử;
- Các tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập công khai, có sự tham gia
của đại diện các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và đoàn thể nhân dân;
- Thời gian bỏ phiếu được quy định thống nhất trong cả nước từ 7 giờ sáng
đến 7 giờ tối (trừ những trường hợp đặc biệt theo quy định của Luật);
- Mọi công dân cư trú thường xuyên hoặc tạm trú đều được ghi tên vào

danh sách cử tri;

18


- Danh sách cử tri được niêm yết công khai chậm nhất là 40 ngày trước
ngày diễn ra bầu cử;
- Danh sách ứng cử viên cũng được lập và niêm yết công khai chậm nhất là
20 ngày trước ngày diễn ra bầu cử để cử tri tìm hiểu và lựa chọn.
Nguyên tắc Bầu cử bình đẳng:
Bình đẳng trong bầu cử là nguyên tắc nhằm bảo đảm để mọi công dân đều có
cơ hội ngang nhau tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ hình
thức nào.
Nội dung của nguyên tắc bình đẳng là mỗi cử tri có một phiếu bầu đối với
một cuộc bầu cử và giá trị phiếu bầu như nhau không phụ thuộc vào giới tính, địa vị
xã hội, sắc tộc, tôn giáo,... Nguyên tắc này được thể hiện trong các quy định của
pháp luật về quyền bầu cử và ứng cử của công dân.
Nội dung nguyên tắc bình đẳng: Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách
cử tri ở một nơi cư trú; Mỗi ứng cử viên chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu
cử; Mỗi cử tri chỉ được bỏ một phiếu bầu.
Nguyên tắc bình đẳng còn đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu, thành
phần, số lượng đại biểu để bảo đảm tiếng nói đại diện của các vùng, miền, địa
phương, các tầng lớp xã hội, các dân tộc thiểu số và phụ nữ phải có tỷ lệ đại biểu
thích đáng.
Nguyên tắc Bầu cử bỏ phiếu kín:
Nguyên tắc bỏ phiếu kín thể hiện ở việc loại trừ sự theo dõi và kiểm soát từ
bên ngoài đối với việc thể hiện ý chí (sự bỏ phiếu) của cử tri. Mục đích của nguyên
tắc này là nhằm đảm bảo tự do đầy đủ sự thể hiện ý chí của cử tri.
Để bảo đảm khách quan trong việc lựa chọn của cử tri, các nước thường quy
định việc bỏ phiếu kín. Ví dụ: Luật Bầu cử ĐBQH, đại biểu HĐND nước ta quy

định việc bầu cử ĐBQH được tiến hành bằng cách bỏ phiếu kín.
Theo nguyên tắc này, cử tri bầu ai, không bầu ai đều được bảo đảm bí mật.
Khi cử tri viết phiếu bầu không ai được đến gần, kể cả cán bộ, nhân viên các tổ
chức phụ trách bầu cử; không ai được biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của
cử tri. Cử tri viết phiếu bầu trong buồng kín và bỏ phiếu vào hòm phiếu.

19


Bốn nguyên tắc nói trên là một chỉnh thể, thiếu sót ở nguyên tắc nào cũng
ảnh hưởng đến nguyên tắc khác. Để buộc các chủ thể phải tuân thủ các nguyên tắc
nói trên, Nhà nước pháp điển hóa các nội dung của chúng thành các quy phạm pháp
luật. Có nguyên tắc được quy định rõ trong một quy định, có nguyên tắc được thể
hiện bằng nhiều quy phạm pháp luật khác nhau. Theo chiều hướng của sự phát triển
xã hội ngày càng mở rộng dân chủ, thì các hình thức biểu hiện của các nguyên tắc
bầu cử trên đây càng đa dạng, càng phong phú, càng góp phần đảm bảo tính chất
dân chủ của các cuộc bầu cử.
Tóm lại, bầu cử là biểu hiện quan trọng của dân chủ trong xây dựng chính
quyền nhà nước. Chế độ bầu cử là nền tảng của dân chủ, có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với việc kiến tạo chế độ dân chủ. Chế độ bầu cử là một trong những trụ
cột trong cấu trúc dân chủ ở bất cứ nhà nước nào, bất cứ tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội nào. Dân chủ và bầu cử gắn bó mật thiết như hình với bóng. Ở đâu
có bầu cử tự do và trung thực, thì ở đó một chế độ dân chủ được nảy nở và phát
triển. Dân chủ có nghĩa là nhân dân là nguồn gốc, là chủ thể của quyền lực nhà
nước; các cơ quan quyền lực phải được nhân dân bầu hoặc bãi miễn thông qua bầu
cử tự do, bình đẳng và bỏ phiếu kín.
1.2.2.2.2. Quyền Ứng cử
Quyền ứng cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân thể hiện
nguyện vọng của mình được bầu làm đại biểu. Về nguyên tắc so với quyền bầu cử,
quyền ứng cử được pháp luật đòi hỏi cao hơn về chất. Mọi công dân Việt Nam có

quyền bầu cử (nói ở phần trên) đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử.
Quyền ứng cử của công dân thể hiện ở sự chấp thuận việc người khác đề cử mình
hoặc việc công dân tự ra ứng cử.
Ngay từ khi nhà nước ta ra đời đến nay, pháp luật đã có những quy định về
quyền ứng cử của công dân. Điều 12 của Sắc lệnh số 51 ghi rõ “Người ứng cử được
tự do ứng cử nơi mình chọn lấy nhưng chỉ một nơi ấy thôi”[2]. Hiến pháp 1946 và
Hiến pháp 1959 đều quy định quyền ứng cử công dân. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội
1959 còn quy định “cá nhân có quyền tự ra ứng cử”[16] (Điều 24).

20


Cùng với việc xây dựng quyền làm chủ tập thể, Hiến pháp 1980 đã coi quyền
ứng cử như một quyền thụ động và chỉ là khả năng có thể được bầu của công dân.
Thực hiện chủ trương tích cực hoá vai trò của công dân tham gia vào bầu cử, Hiến
pháp 1992 và Luật Bầu cử đại biểu HĐND năm 1994 đã quy định quyền bầu cử và
quyền tự ứng cử của công dân.
So với quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân có những yêu cầu cao hơn.
Trước hết, là độ tuổi. Công dân từ mười tám tuổi trở lên thì có quyền bầu cử, nhưng
phải đủ hai mươi mốt tuổi trở lên mới có quyền ứng cử. Ngay từ Hiến pháp 1946 đã
quy định: “Người ứng cử là người có quyền bầu cử, phải ít ra là hai mươi mốt tuổi,
và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”( Điều 18)[14].
Ngoài quy định về tuổi, Hiến pháp và các luật bầu cử hiện hành không quy
định điều kiện nào khác đối với quyền ứng cử của công dân. Nhưng để thực hiện
quyền ứng cử của công dân phải đạt được một số tiêu chuẩn nhất định. Trước đây,
Luật bầu cử không quy định tiêu chuẩn. Nhưng, thực tế cuộc sống yêu cầu có những
tiêu chuẩn để cử tri theo đó mà lựa chọn. Điều 3 của Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu
HĐND đều quy định: Đại biểu phải là người trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã
hội, có hiểu biết về quản lý Nhà nước, kinh tế, xã hội, hiểu biết và gương mẫu chấp
hành pháp luật, có năng lực thực hiện nhiệm vụ người đại biểu, kiên quyết đấu tranh

bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Dựa vào tiêu
chuẩn này, các công dân tự ứng cử và các tổ chức xã hội thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam giới thiệu, đề cử ứng cử viên.
Trong việc thực hiện quyền ứng cử của công dân, pháp luật hiện hành quy
định công dân có quyền bầu cử, ứng cử. Nhưng để được ghi tên vào danh sách ứng
cử công dân Việt Nam phải được Mặt trận Tổ quốc Việt nam hiệp thương giới thiệu.
1.2.2.3. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
Khiếu nại, tố cáo là quyền tự do, dân chủ của công dân được Hiến pháp quy
định tại điều 74 Hiến pháp năm 1992 “ Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo
với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất
cứ cá nhân nào”[18]. Đây là công cụ pháp lý để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của

21


×