Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN kết nối các PHƯƠNG PHÁP dạy học TÍCH cực, NHẰM NÂNG CAO TÍNH TÍCH cực, CHỦ ĐỘNG, SÁNG tạo TRONG LĨNH hội KIẾN THỨC môn GDQP AN của học SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.31 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT THIỆU HÓA

S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

§Ò tµi:
“KẾT NỐI CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC, NHẰM
NÂNG CAO TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO TRONG
LĨNH HỘI KIẾN THỨC MÔN GDQP-AN CỦA HỌC SINH ”

Người thực hiện: Lê Duy Hoàng
Chức vụ: Phó tổ trưởng
SKKN thuộc lĩnh vực môn: GDQP-AN

THANH HÓA, THÁNG 5 NĂM 2019
MỤC LỤC

1


Stt

Mục

Nội dung

Trang

1

A



ĐẶT VẤN ĐỀ

1

2

I

Lời mở đầu

1

3

II

Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

2

4

1

Thực trạng

2

5


2

Kết quả của thực trạng trên

2

6

B

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

3

7

I

Các giải pháp thực hiện

3

8

1

Phương pháp lên lớp

3


9

2

Phương pháp hội thao

8

10

3

Phương pháp ôn luyện

8

11

4

Phương pháp kiểm tra đánh giá

9

12

II

Biện pháp tổ chức thực hiện


16

13

1

Biện pháp thứ nhất

16

14

2

Biện pháp thứ hai

16

15

3

Biện pháp thứ ba

17

16

C


KẾT LUẬN

17

17

1

Kết quả

17

18

2

Kiến nghị

18

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
I. Lời mở đầu.
2


Trong quá trình đấu tranh để tồn tại và phát triển của đất nước, của dân tộc,
từ khi giành được độc lập tự chủ đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và
coi trọng công tác giáo dục nói chung và bộ môn "Giáo dục quốc phòng - An ninh"
nói riêng, đặc biệt là thế hệ trẻ hiện nay. Thế kỉ thứ XXI, Việt Nam bước vào thời

kì Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, vì vậy giáo dục luôn được Đảng và
nhà nước đặt lên hàng đầu với mục tiêu: "Đào tạo cho đất nước những thế hệ trẻ
đầy nhiệt huyết và sáng tạo, với con người phát triển toàn diện".
Thời gian vừa qua, tình hình thế giới nói chung và khu vực nói riêng có
nhiều diễn biến phức tạp, khủng bố diễn ra ở nhiều quốc gia, chiến tranh diễn ra
liên tục như: Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) là tổ chức Nhà nước Hồi giáo khủng
bố đang ngang nhiên thách thức cả thế giới, Irắc, Pakinstan, ... Bên cạnh đó thì tình
hình trong khu vực cũng đang có nhiều diễn biến phức tạp về việc tranh chấp trên
biển đông giữa các bên trong đó có Việt Nam và Trung Quốc; vấn đề vũ khí hạt
nhân của Triều Tiên... Chính vì vậy, An ninh Quốc phòng là vấn đề đặt ra với nhiều
nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Điều đó đòi hỏi cả quốc gia cũng như dân
tộc và mỗi công dân Việt Nam phải có ý thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
luôn cảnh giác cao với mọi âm mưu của kẻ thù. Chúng ta không quên nhiệm vụ
quốc phòng an ninh quốc gia, kiên quyết đánh bại "Chiến lược diễn biến hòa bình"
của các thế lực thù địch phản động âm mưu gây bạo loạn lật đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa của đất nước.
Hiện nay đất nước ta đang hội nhập Đảng cần luôn coi trọng ổn định và phát
triển. Từ Đại Hội IV Đảng ta đã chỉ rõ: "Phải có ổn định chính trị mới xây dựng
được đất nước". Vì vậy công tác Quốc phòng - An ninh trong thời kì mới được đặt
lên hàng đầu. Điều này đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về nhiệm
vụ An ninh Quốc phòng nói chung và Giáo dục Quốc phòng An ninh nói riêng.
Ta thấy, ngay trên mảnh đất quê hương cách mạng anh hùng Thiệu Hóa đã
ghi nhiều dấu ấn của các danh nhân như: Nhà Sử học Lê Văn Hưu, Nguyễn Quán
Nho, ... và trường THPT Thiệu Hóa là trường hiện đang đóng trên địa bàn của
mảnh đất này, trường đã có truyền thống trong công tác đào tạo các thế hệ trẻ cho
quê hương cho đất nước, trong công tác Giáo dục Quốc phòng - An ninh cũng vậy.
Trên cơ sở nêu trên, trong những năm vừa qua ở bộ môn Quốc phòng trước đây và
bây giờ là môn Giáo dục quốc phòng - An ninh đã đạt được những thành tích đáng
khích lệ như năm học 2005-2006 trường đã có hai giải nhì, năm giải ba và một giải
khuyến khích, xếp thứ nhì toàn đoàn cấp tỉnh, các năm gần đây thành tích thi học

sinh giỏi môn Giáo dục quốc phòng - An ninh cũng được xếp vào tốp 20 trường
dẫn đầu toàn tỉnh và đặc biệt năm học 2012-2013 trường đã được nhận cờ giải 3
toàn đoàn; năm học 2014-2015 về giải cá nhân gồm có 1 giải nhì, 5 giải ba và 1
giải khuyến khích, giải toàn đoàn đạt giải khuyến khích tại Hội thi GDQP-AN toàn
tỉnh; năm học 2016-2017 về giải cá nhân gồm có: 2 giải nhì, 6 giải ba và 2 giải
khuyến khích, 01 giải khuyến khích toàn đoàn, 01 giải ba đồng đội môn Đội ngũ
từng người không có súng tại Hội thi GDQP-AN toàn tỉnh; năm học 2018-2019 về
giải cá nhân gồm có: 2 giải nhì, 6 giải ba và 3 giải khuyến khích, 01 giải khuyến
khích toàn đoàn, 01 giải ba đồng đội môn Băng bó cứu thương tại Hội thi GDQPAN toàn tỉnh. Có được những thành tích đó là nhờ vào sự cố gắng tìm tòi nghiên
3


cứu và ứng dụng các phương pháp vào trong quá trình truyền đạt kiến thức của
người thầy cho học sinh THPT.
II. Thực trạng của vấn đề nghiên
cứu. 1.Thực trạng.
Để viết sáng kiến kinh nghiệm để đạt chất lượng cao và ứng dụng được vào
thực tế giảng dạy ở các trường THPT, bản thân đã nghiên cứu thực trạng ở trường
mình và tìm hiểu các đơn vị bạn trong huyện cũng như trong tỉnh và ngoài tỉnh về
công tác giảng dạy môn GDQP-AN, và đặc biệt là các phương pháp giảng dạy cho
bộ môn vẫn còn đang chưa thực sự có hiệu quả cao và tối ưu nhất. Bởi vậy tôi đã
trăn trở và suy nghĩ để đưa ra một số phương pháp được phối hợp đan xen trong tiết
học môn GDQP - AN, nhằm khắc phục các điểm yếu đã nêu.
Việc thực hiện công tác giáo dục bộ môn Quốc phòng - An ninh trong các
nhà trường hiện tại vẫn còn có rất nhiều vấn đề hạn chế nhất định. Thực trạng này
cũng do nhiều nguyên nhân và theo suy nghĩ chủ quan của cá nhân tôi, thì chủ yếu
là do nhận thức của một số bộ phận cán bộ giáo viên còn thiếu trách nhiệm, đôi khi
còn xem nhẹ công tác chuyên môn. Bên cạnh đó cũng cần đề cập tới công tác quản
lý chuyên môn của nhà trường chưa chặt chẽ đối với giáo viên giảng dạy bộ môn
này, đối với học sinh cũng chưa có nhận thức đúng đắn về vai trò vị trí của môn

học. Từ đó đã hình thành tư tưởng không tích cực trong tiếp thu kiến thức môn
GDQP - AN, nếu có tiếp thu cũng chỉ là bắt buộc, thụ động và không hứng thú.
Với nhiều năm giảng dạy tôi thấy có những vấn đề cần quan tâm như: Đội
ngũ giáo viên còn chưa đồng đều về kiến thức, trình độ và không chịu khó nghiên
cứu tìm tòi các phương pháp tối ưu nhất để truyền thụ kiến thức của môn học, bên
cạnh đó còn một số giáo viên về mặt giáo án hồ sơ cũng còn sơ sài, lên lớp không
có giáo án. Ngoài ra cũng có các điểm hạn chế khác như: Chữ viết xấu, cách trình
bày bảng chưa khoa học, trang phục nhiều khi cũng không chuẩn mực.
Không những thế, những tiết học cần tranh ảnh thì giáo viên lại không sử
dụng để minh họa cho vấn đề mà mình nêu ra và giải quyết cho học sinh. Việc này
ta có thể nhận định ở một số vấn đề như: Coi thường môn học, ngại sử dụng đồ
dùng dạy học hoặc một số vấn đề khách quan và chủ quan khác, điều này đã làm
cho học sinh lại càng không hứng thú trong học tập và rèn luyện, từ đó sẽ phát sinh
thêm nhiều hiện tượng xấu trong tiết học chẳng hạn: Đùa nghịch, không chú ý nghe
giáo viên giảng bài, tụ tập nói chuyện riêng...
Giảng dạy các tiết học thực hành ngoài thao trường thì khẩu lệnh của người
thầy còn nhỏ, chưa rõ ràng, động tác mẫu chưa đẹp, chưa chính xác, phân tích còn
lũng củng, không thể hiện được tính lôgíc, tác phong và phong cách sư phạm của
giáo viên chưa chuẩn mực, trong khi học chưa tạo ra được tính cạnh tranh thi đua
rèn luyện và học tập tích cực cho học sinh, thể hiện việc dạy học qua loa đối phó
không in đậm trong trí óc người học.
2. Kết quả của thực trạng trên.
Từ thực trạng nêu trên cho chúng ta thấy, công tác giảng dạy bộ môn Giáo
dục quốc phòng - An ninh đạt kết quả cao, chất lượng tốt hơn, khẳng định vị trí và
vai trò bộ môn Giáo dục quốc phòng. Bản thân đã tư duy suy nghĩ và mạnh dạn cải
4


tiến phương pháp giảng dạy của riêng mình nhằm tạo cho học sinh tính tích cực,
hứng thú và phát huy được tính tự giác trong khi học Giáo dục quốc phòng từ đó

đạt hiệu quả cao. Tôi nghiên cứu và thực nghiệm sáng kiến kinh nghiệm trong
giảng dạy đó là:"Kết nối các phương pháp dạy học tích cực, nhằm nâng cao tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và lĩnh hội kiến thức môn Giáo dục quốc phòng - An
ninh của học sinh". Hy vọng rằng với đề tài này sẽ là tài liệu tham khảo giúp cho
đồng nghiệp trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn
Giáo dục quốc phòng - An ninh.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Các giải pháp thực hiện.
Giáo dục quốc phòng - An ninh là một bộ môn khoa học, được đưa vào giảng
dạy ở bậc học THPT, điều này cũng đồng nghĩa với việc học sinh tiếp thu môn học
này là hoàn toàn mới. Ở cấp THCS và Tiểu học, học sinh chưa được học mà chỉ
được biết đến qua các hoạt động ngoại khóa, hiểu biết qua phim ảnh và qua bộ môn
Lịch sử. Nên khi lên cấp học THPT học sinh chưa chú trọng đến môn học, dẫn đến
không đem lại hiệu quả. Chính vì vậy, giáo viên giảng dạy cần phải có phương
pháp truyền đạt tốt nhất, hiệu quả nhất để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức, kỹ
năng... chủ động, tích cực khi học tập, rèn luyện môn Giáo dục quốc phòng - An
ninh.
Ở những vấn đề nêu trên, tôi suy nghĩ trăn trở tìm ra một số giải pháp hiệu
quả nhất cho môn Giáo dục quốc phòng – An ninh như sau:
Giải pháp thứ nhất.
Trong công tác giảng dạy hàng ngày, trong công tác chuyên môn bản thân
luôn tìm tòi và nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học tôi đã áp dụng, để
tạo ra những phương pháp tối ưu và tích cực nhất trong giảng dạy.
Bước vào nội dung chính, xin được chi tiết một chút về các phương pháp
và những ví dụ, minh họa, để hiểu sâu hơn và phối hợp các phương pháp trong việc
truyền thụ kiến thức môn học một cách tốt nhất.
Phương pháp là con đường, là cách thức hành động để đạt được mục đích
nhất định. Con đường hay cách thức là hành động gồm hai mặt: Nghiên cứu và tìm
hiểu quy luật khách quan sự tồn tại và phát triển của đối tượng, tìm phương tiện,
biện pháp, thủ thuật cho đối tượng phải biến đổi theo mục đích đã định. Hai mặt

này phải phù hợp, thống nhất với nhau thì phương pháp mới có hiệu quả.
Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của sự thống nhất giữa giáo
viên và học sinh, trong đó giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập
nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ học, sự sáng tạo, cải tiến không ngừng của giáo viên
và học sinh. Phương pháp dạy học không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ
thuật với những yêu cầu về thủ pháp sư phạm.
Từ những vấn đề nêu trên và mục đích, yêu cầu đối tượng, tổ chức giảng
dạy môn Giáo dục quốc phòng - An ninh, tôi đã áp dụng một số phương pháp sau
đây vào trong giảng dạy để đạt hiệu quả cao nhất trong giảng dạy môn Giáo dục
quốc phòng - An ninh.
1. Phương pháp lên lớp:
5


a. Phương pháp thuyết trình:
Đó là phương pháp giáo viên dùng lời nói để truyền đạt, thông báo, trình bày
những tri thức cho học sinh một cách có hệ thống. Phương pháp thuyết trình được
sử dụng phổ biến khi giảng tài liệu học tập mới hoặc trình bày làm sáng tỏ vấn đề
phức tạp.
Ngôn ngữ lời nói luôn gắn kết với các phương tiện khác như đọc tài liệu,
trình bày tranh ảnh, bản vẽ, đồ vật minh họa, biểu diễn cách làm, sử dụng các
phương tiện kỹ thuật, đặt câu hỏi, nêu vấn đề cho học sinh v.v...
Ví dụ:

Giáo viên phân tích trình tự các
bước, kỹ
thuật thực hiện Trung đội (x)
thành 3 hàng dọc tập hợp; đây là
phương pháp thuyết trình nhưng kết
hợp với trình bày tranh vẽ, bản vẽ v.v...

đưa ra một tranh vẽ sau đây là đội hình
trung đội 3 hàng dọc (Hình 1).

3-5 bước
GV

3

2

1

Hình 1: Trung đội 3 hàng dọc.

Hoặc là giáo viên đưa ra
minh họa hình vẽ kỹ
thuật băng cẳng chân
kiểu băng số 8 với ba cử
động thực hiện kỹ thuật
băng (xem Hình 2).

Hình 2: Băng cẳng chân kiểu số 8.
Giáo viên đặt câu hỏi về lý thuyết:
Trọng lượng quả Lựu đạn nặng bao nhiêu, sau khi đã rút chốt và ném thì bao
lâu là nổ?
Trả lời của học sinh:
6


Trọng lượng của quả Lựu đạn là 450g - Thời gian nổ sau khi rút chốt và ném

là 3,2 giây đến 4,2 giây.
Thuyết trình có các dạng sau:
Giảng thuật:
Là phương pháp thuyết trình có chứa các yếu tố trần thuật hoặc miêu tả, sử
dụng để giảng dạy các quan điểm, nguyên tắc, tình huống v.v...
Giảng giải:
Giáo viên dùng những luận cứ, những sự kiện, số liệu để giải thích, chứng
minh làm sáng tỏ các vấn đề, các nguyên tắc v.v...giảng giải chứa các yếu tố suy
luận và phán đoán, có nhiều khả năng phát huy tính tích cực, phát huy sự thông
minh và tính sáng tạo của học sinh.
Diễn giải:
Là giáo viên đặt vấn đề, phân tích và kết luận, dẫn dắt một cách liên tục cho
học sinh nhận thức những vấn đề hoặc nội dung mà giáo viên cần truyền đạt cho
học sinh.
b. Phương pháp vấn đáp.
Là phương pháp hỏi - đáp giữa Giáo viên và Học sinh, nhằm làm sáng tỏ
những vấn đề mới, tìm ra những tri thức mới, rút ra những kết luận.
Phương pháp này có ưu điểm phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh,
bồi dưỡng năng lực bằng lời nói, tạo nên không khí sôi động trong học tập, giúp
Giáo viên thu được các thông tin ngược chiều từ phía Học sinh để điều chỉnh trong
giảng dạy và học cho phù hợp.
Phương pháp vấn đáp lại có các dạng sau:
Vấn đáp gợi mở.
Vấn đáp củng cố.
Vấn đáp tổng kết.
Vấn đáp kiểm tra.
Ví dụ: Tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập năm nào?
Học sinh trả lời:
Tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập vào ngày 22 tháng 12
năm 1945. Tùy vào tiêu đề bài và câu hỏi để sử dụng cho phù hợp.

c. Phương pháp trực quan.
Là phương pháp mà Giáo viên tác động vào mọi giác quan của học sinh, giúp
học sinh có cách học và hiểu nhanh chóng.
Quan sát:
Đây là phương pháp nhận thức cảm tính tích cực, được sử dụng trong giảng
dạy để Học sinh rút ra những nhận xét, những kết luận có cơ sở thực tiễn, quan sát
của Học sinh được Giáo viên tổ chức và hướng dẫn để giảng bài mới, khi học thực
hành, luyện tập và ôn tập bài cũ.
7


Ví dụ:
Ở trang phục sau đây, các em nhận xét đánh giá xem đó là trang phục mùa
gì? (Hình 3.) các em quan sát:
Trả lời: Đây là lễ phục sỹ
quan nữ, được sử dụng vào
mùa hè.

Hình 3.
Trình bày trực quan: Là phương pháp có sử dụng đến phương tiện trực
quan hoặc hành động mẫu.
Phương pháp trực quan sử dụng đến động tác mẫu để trình bày thực hiện
động tác, giáo viên làm 3 bước (Bước 1: Làm nhanh; Bước 2: Làm chậm có phân
tích từng cử động; Bước 3: Làm tổng hợp), học sinh khái quát, nhận biết hiểu rõ ý
nghĩa của từng cử động.
Ví dụ: Kĩ thuật động tác băng vết thương vùng đầu: Bao gồm có tranh vẽ,
động tác làm mẫu của giáo viên theo ba bước (Bước 1: Làm nhanh kỹ thuật động
tác băng 1 lần; Bước 2: Làm chậm có phân tích từng cử động động tác băng đầu;
Bước 3: Làm tổng hợp động tác băng đầu), (xem hình 4.)


Hình 4.
Băng vết thương vùng đầu.
8


d. Phương pháp thảo luận.
Là phương pháp thể hiện việc trao đổi giữa Giáo viên với Học sinh
theo thứ tự các vấn đề, nội dung bài học, phương pháp phát huy tính tích cực của
học sinh, tạo nên niềm say mê tự giác, củng cố kiến thức đã có, tiếp thu và nhận
biết nội dung mới, tìm tòi sáng tạo xung quanh các vấn đề, nội dung Giáo viên
truyền đạt.
Phương pháp này được sử dụng khi Giáo viên giảng dạy lý thuyết, nhằm
nhấn mạnh nội dung trọng tâm, kiến thức mới, giảng dạy thực hành tìm ra cái đúng,
cái sai để cùng sửa chữa.
Ví dụ: Để thảo luận cần phải chia các tổ, nhóm với nhau. (Bài 3 lớp 11: Giới
thiệu một số loại súng bộ binh. Phần II Súng tiểu liên AK.) Câu hỏi: Cấu tạo súng
tiểu liên AK gồm bao nhiêu bộ phận, nêu thứ tự tháo lắp các bộ phận?
- Các nhóm thảo luận, sau đó trình bày những vấn đề thảo luận của nhóm
mình.
- Trả lời: Gồm 11 bộ phận; Tháo: Bệ khóa nòng, nắp hộp khóa nòng ...
e. Phương pháp luyện tập.
Luyện tập là lặp đi lặp lại nhiều lần những hành động nhất định nhằm hình
thành và củng cố những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết. Qua đó củng cố kiến thức, thuần
thục động tác vận động nhanh chóng, chính xác phù hợp vào các loại địa hình địa
vật trong chiến đấu cũng như trong luyện tập.
Phương pháp luyện tập bao gồm:
Luyuện tập từng người tự nghiên cứu: Phương pháp này là học sinh tự tư
duy lại những kiến thức đã học, tìm tòi nhớ lại và tự luyện tập, giúp nhận thức, nhớ
lâu, vận dụng linh hoạt sau này.
Luyện tập theo nhóm: Là từ 2-3 người cùng luyện tập động tác, giúp cho

nhau thấy sai sót để khắc phục, người tiếp thu nhanh giúp đỡ người tiếp thu chậm.
Luyện tập tổng hợp, luyện tập phân đội.
Ví dụ:
Nhóm 1
- Dưới sự chỉ đạo của nhóm trưởng.
Phần luyện tập Bài 4 lớp 10.
Động tác đội ngũ từng người không
có súng. Phần 1 mục a. "Đội hình
tiểu đội một hàng ngang" Chia
thành các nhóm tổ với nhau để
3-5 bước
luyện tập: Từ 2 đến 3 người hoặc từ
5 đến 7 người.
6

5

4

3

2

1
Thứ nhất là ôn luyện "Đội
9


Nhóm 2
- Dưới sự chỉ đạo của nhóm trưởng.


3-5 bước

6

5

4

3

2

hình tiểu đội một hàng ngang". Khi
đã luyện tập xong thì chuyển nội
dung khác, thời gian luyện tập Giáo
viên đã phổ biến.
Đội hình luyện tập được mô
phỏng như (Hình 5).

1

Hình 5.
Tiểu đội một hàng ngang.
2. Phương pháp hội thao.
Ta thường thấy Hội thao được tiến hành sau các buổi học hoặc tiết học, để
Giáo viên đánh giá nhận thức và thực hiện động tác của học sinh, sau đó so sánh rút
kinh nghiệm và kiểm tra các thành viên trong lớp học.
Hội thao là kiểm tra, thi, đánh giá kết quả sau quá trình học tập rèn luyện.
Để tiến hành hội thao ta phải lên được kế hoạch thực hiện cụ

thể. Nội dung: Chọn một số nội dung tiến hành hội thao.
Số lượng: Hợp lý và khoa học, không nhiều quá cũng không ít quá mà vừa
đủ là tốt nhất.
* Ví dụ: Tổ chức hội thao giữa các tổ với nhau trong lớp, hội thao cấp trường
phải lên kế hoạch một cách cụ thể chi tiết, chẳng hạn như trang thiết bị, trọng tài ...
3. Phương pháp ôn luyện.
Là phương pháp giúp Học sinh nắm vững kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát
huy tính tích cực, độc lập từ đó Giáo viên sửa chữa những thiếu sót hoặc sai lầm
của học sinh sau khi tập luyện.
Ôn luyện được tiến hành như
sau: Học sinh tự ôn luyện.
Học sinh ôn luyện có sự hướng dẫn và sửa sai của Giáo viên.
Ví dụ: Trong thực hành tháo lắp súng tiểu liên AK của lớp 11. Giáo viên cho
ôn luyện các nội dung như: Nắm chắc các chi tiết của súng, lắp vào và tháo ra có
bao nhiêu bộ phận.
Học sinh phải nắm chắc các bước hay còn gọi là thứ tự tháo lắp của súng tiểu
liên AK.
Quá trình thực hiện Giáo viên là người sửa sai cho Học sinh, giúp người học
hình thành được kỹ năng, kỹ xảo thực hiện động tác tháo lắp súng tiểu liên AK.
4. Phương pháp kiểm tra đánh giá.
Kiểm tra về tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thực hiện kỹ thuật động tác.
Kiểm tra gồm có các dạng sau:
10


Kiểm tra vấn đáp.
Kiểm tra viết.
Kiểm tra thực
hành. * Ví dụ:
Kiểm tra thực hành băng bó cứu thương được đánh giá ở các nội dung sau:

Thời gian và đúng kỹ thuật. Kiểm tra thực hành có thể diễn ra vào đầu tiết học hoặc
cuối tiết học.
Tóm lại:
Các phương pháp nêu trên đã là một dây truyền mắt xích tạo nên một thể
thống nhất trong quá trình truyền đạt kiến thức. Mỗi phương pháp dạy học cũng chỉ
là tương đối không phải là 100%, bởi nó còn liên quan một chút các phương pháp
khác tạo nên sự hoàn chỉnh về vấn đề truyền đạt kiến thức hay kỹ thuật động tác.
Nhưng mỗi nội dung bài học tiết học chúng ta phải vận dụng một cách hợp lý, khoa
học và khéo léo để tạo nên một hệ thống phương pháp truyền đạt tối ưu nhất, người
giáo viên phải phát huy tối đa được vai trò của mình, trong giờ học ngoài việc đóng
vai trò chủ yếu trong truyền đạt nội dung giáo dục thì người thầy còn là người tổ
chức, người hướng dẫn, điều chỉnh sự sai sót của học sinh. Trong học tập vai trò
của người giáo viên được đề cao hơn, giáo viên truyền đạt một cách hợp lý và khoa
học nhằm giúp Học sinh có cái hiểu đúng đắn và phát triển ở các em các kỹ năng
của sự quan sát, thu thập thông tin, đưa ra những suy luận, phán đoán và kết luận
vấn đề.
Trên thực tế, bản thân giảng dạy môn học Giáo dục quốc phòng - An ninh và
đã vận dụng những kỹ năng nêu trên, không bó hẹp kiến thức ở sách giáo khoa mà
phát huy tính tư duy, suy nghĩ sáng tạo từ phía học sinh, ngoài kiến thức trong sách
giáo khoa thì người thầy còn phải có kiến thức có liên quan khác để lồng ghép
trong bài giảng được thêm phong phú, liên hệ đến nhiều vấn đề có liên quan đến
thực tế trong cuộc sống, có như vậy người thầy mới đề cao được óc sáng tạo của
Học sinh, sự trao nhận thông tin giữa thầy và trò. Từ đó mới có sức cuốn hút ham
học của Học sinh, cũng như khẳng định nghiệp vụ chuyên môn của người thầy
đáng để tiếp thu kính trọng góp phần vào việc phát triển tối đa năng lực, phẩm chất
của Học sinh. Trong giờ dạy giáo viên luôn luôn sử dụng khéo léo các phương pháp
để chất lượng tiết học có hiệu quả hơn và gây hứng thú cho người học hơn.
Giải pháp hai:
Thu thập các thông tin từ phía Học sinh bằng cách cho Học sinh viết vào
giấy, từ đó học thể hiện đúng tâm tư và nguyện của mình cho vấn đề giảng dạy của

thầy và học tập của Học sinh. Trên cơ sở các thông tin ấy sẽ xem xét, nghiên cứu
các phương pháp, phát huy những mặt tốt và rút kinh nghiệm cho những vấn đề còn
hạn chế trong giảng dạy nhằm đi đến một tiết dạy có phương pháp tối ưu nhất.
Để chọn ra phương pháp tối ưu, phát huy tính tích cực và chủ động của
học sinh nhằm đạt hiệu quả tốt nhất, tôi thực hiện với hai giờ học thực hành và giờ
học lý thuyết trong bộ môn Giáo dục Quốc phòng - An ninh gồm các vấn đề sau:
Giảng dạy giờ học lý
thuyết: GV:
11


Nêu vấn đề (Hãy nêu những yếu tố tạo nên sự yêu thích, chủ động, và hào
hứng trong tiết học? Yếu tố nào làm các em yêu thích môn Giáo dục Quốc phòng An ninh?)
Học sinh:
Thể hiện nội dung trả lời bằng ngôn ngữ chữ viết trong giấy gồm các ý cơ
bản sau:
Khi giảng dạy người thầy phải có thái độ nghiêm túc, khi phổ biến ý định
giảng dạy, giáo viên nói ngắn gọn và đủ ý, và truyền thụ kiến thức một cách dễ nhớ
và khoa học, luôn tạo cho học sinh có sự tập trung cao độ, tạo không khí sôi nổi
trong giờ học, phát huy sự tư duy và tính sáng tạo của người học
Giáo viên phải có vốn kiến thức phong phú, chính xác để khi giảng bài có
thể liên hệ vào thực tế cuộc sống và sát với nội dung bài học. Cần cụ thể hoá nội
dung học không trừu tượng dễ gây không khí trầm lắng làm cho học sinh có cảm
giác không thích học.
Thứ ba là cách nói và tác phong của giáo viên trong khi lên lớp: Giáo viên
truyền đạt kiến thức bằng ngôn ngữ lời nói, hành động để học sinh hiểu và ghi nhớ
kiến thức bài học, bởi vậy, giáo viên phải luôn giữ mối quan hệ với người học và
người truyền đạt kiến thức.
Ví dụ:
Tác phong của thầy giáo nghiêm túc khi lên lớp

(xem hình 6).
Khi nói, giáo viên phải nhìn vào học sinh để truyền
đạt như thế học sinh sẽ có cảm giác là thầy giáo đang nói
với mình. Mặt khác như đã nêu trên điều đó còn là việc
duy trì tiếp xúc, cũng như thể hiện được sự tâm huyết,
nhiệt tình của người thầy trong khi giảng bài.
Đồng thời qua đó, giáo viên có thể nắm bắt được
nội tâm học sinh, nắm được kết quả giảng dạy. Học sinh
phải chăm chú nghe giảng, nếu giáo viên vẫn thấy học
sinh nghe giảng mà vẫn xì xào, bàn tán, thì có thể có vấn
đề gì đó mà học sinh chưa hiểu, hoặc các hiện tượng như:
Buồn ngủ, nhìn ra ngoài ... như thế cũng đồng nghĩa với
tiết dạy chưa gây được hứng thú cao cho người học. Khi
có các hiện tượng đó giáo viên khéo léo kiểm tra lại giọng
H ì nh 6

12


nói, tác phong và độ chính xác của nội dung, để có cách khắc phục kịp thời các
điểm yếu như đã nêu ở trên.
Còn nếu trong quá trình giảng bài học sinh chưa hiểu bài, lớp ồn ào, giáo
viên phải nói chậm lại; phải bình tĩnh, đồng thời phải kiểm tra lại giọng nói và tác
phong cũng như độ chính xác về mặt nội dung để có biện pháp khắc phục, nhằm
tạo hứng thú cho học sinh tiếp thu nội dung kiến thức bài.
Ta sử phương tiện nói khi giảng bài có tác dụng đến tình cảm và tương tưởng
cho người học. Nên Giáo viên phải luôn luôn luyện giọng nói, diễn đạt rõ ràng
nghe đủ, nhịp điệu không nhanh quá.
Quá trình truyền đạt thì nói là phương tiện trực tiếp để giáo viên truyền thụ
kiến thức cho học sinh, nó tác động trực tiếp đến tình cảm, hình thành tư tưởng cho

người học.
Vì vậy, giáo viên phải luôn rèn luyện giọng nói, diễn đạt rõ ràng, đủ nghe,
nhịp điệu không nhanh quá. Khi nhấn mạnh phải nói to, rõ, giọng nói luôn liền với
thái độ biểu hiện, tác phong.
Ví dụ:
Không thể hiện được sự nhiệt tình ca ngợi những hành động anh hùng của
nhân dân ta trong chiến đấu, người dạy không dung cảm trước những hành động ấy
thì không thể truyền thụ cho học sinh lòng tự hào dân tộc hay lòng căm thù quân
xâm lược.
Từ đó thì vấn đề chúng ta sử dụng Bảng để hệ thống nội dung, minh
họa, viết thuật ngữ khó nhằm duy trì mối quan hệ giữa người dạy và người
học, khi sử dụng bảng chúng ta cần phải chuẩn bị giẻ lau, phấn, thước và
một số dụng cụ có liên quan khác. Khi viết giáo viên có thể chia bảng thành
2 hoặc 3 phần, trong đó khoảng 1/3 dùng để viết mục bài chính, phần còn
lại sử dụng để viết và minh họa ...
Tiếp theo là sử dụng mô
hình hoặc vật mẫu:
Chẳng hạn khi giáo viên giới thiệu
"Điểm ngắm đúng" như hình 7, thì
phải có tranh rồi sau đó mới nêu
khái niệm
là điểm được xác định từ
trước trên mục tiêu sao cho khi
ngắm vào đó để bắn thì quỹ đạo
đường đạn đi qua điểm định bắn
trúng trên mục tiêu.
13


Hình 7: Điểm ngắm đúng.

Và cuối cùng là sử dụng câu hỏi trong quá trình giảng dạy:
- Khi truyền thụ kiến thức làm tăng hứng thú cho học sinh, sự tự giác để học trả
lời câu hỏi.
- Ví dụ: Sự ra đời của đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày tháng
năm nào?.
- Học sinh trả lời: Ngày 22 tháng 12 năm 1944 tại khu rừng Cao Bằng.
Giảng dạy giờ dạy thực hành:
Học thực hành giáo viên luôn là người chủ đạo, trong các kỹ thuật động tác,
làm mẫu của thầy phải đẹp rõ ràng, chính xác, phân tích động tác ngắn gọn, dụng
cụ học tập, vị trí luyện tập và tính kỷ luật nghiêm trong tiết học thực hành:
Ví dụ:
Kỹ thuật cấp cứu và chuyển
thương. (Xem hình 8).
*Gải pháp 3:
Ứng dụng 2 giải pháp
trên vào thực tế trong giảng
dạy khối 11 và lấy một vài
ví dụ ở các khối khác nhau:
Ví dụ: Kỹ thuật hô hấp nhân
tạo lớp 11 (xem hình 9).
- Làm càng sớm càng tốt,
kiên trì.
- Làm đúng nguyên
Hình 8:
tắc, lực đủ mạnh, nhịp độ
đều đặn
- Làm tại chỗ thoáng
mát.
- Không làm cho
người bị nhiễm chất độc, bị

sức ép.
- Tuyệt đối không
chuyển người bị ngạt thở về
các tuyến sau, khi nạn nhân
chưa tự thở được.
Giáo viên hỏi: Nêu tiến
triển của việc cấp cứu ngạt
thở?.
Hìmh 9:
14


Giáo viên gợi ý:
Học sinh suy nghĩ và nhanh chóng trả lời ngắn gọn.
*Tiến triển tốt:
- Hô hấp dần hồi phục.
- Vẫn tiếp tục hô hấp.
* Tiến triển xấu:
Ngừng hô hấp nhân tạo khi:
- Xuất hiện các mảng tím tái trên da.
o

- Nhãn cầu mềm và nhiệt độ dưới 25 C.
- Có hiện tượng cứng đờ của xác chết.
Sau đó nhận xét về câu trả lời của học sinh, đúng, sai ở mức độ như thế nào?
Rồi giảng cho các em nắm bắt thêm một số thông tin về bài mới thì sẽ đem lại kết
quả cao cho tiết học.
Tiếp đó giáo viên cho điểm cho câu trả lời đúng, không cho điểm với câu trả
lời sai mà chỉ ghi nhận sự nhiệt tình cố gắng trong học tập, lần sau cần cố gắng
hơn. Cuối cùng giáo viên giao bài tập về nhà để học sinh có liên hệ bên ngoài cuộc

sống.
Giảng dạy phải tùy vào nội dung cụ thể của bài học để sử dụng phương pháp
cho phù hợp và khoa học. Ví dụ: nội dung bài học nêu trên tôi đã sử dụng phương
pháp gợi ý, giảng giải, minh họa ... nhằm giúp học sinh chủ động tư duy.
Bảng số liệu kiểm tra mức độ học sinh nắm và hiểu bài trong tiết học
của học sinh khối 11.
Stt

Lớp

Sĩ số

1

11A

45

Số học
sinh hiểu bài
45

Số học sinh
không hiểu bài
0

Tỷ lệ
hiểu bài
100%


2

11B

53

52

1

98%

3

11C

50

50

0

100%

Ghi chú

Kết thúc tiết học tranh thủ tâm sự với học sinh, hay nói cách khác là một
chút phỏng vấn để người học nói lên những ưu điểm nhược điểm trong tiết học.
Đa số học sinh trả lời sau:
Kiến thức môn GDQP - AN liên quan đến môn Lịch Sử rất nhiều như:

Giáo dục lòng yêu nước, yêu Chủ nghĩa xã hội, xây dựng lòng tự hào truyền thống
dân tộc, của Quân đội nhân dân Việt Nam, nhận thức đúng đắn về nghĩa vụ bảo vệ
Tổ quốc, sẵn sàng nhập ngũ bảo vệ đất nước.
Truyền thụ cho học sinh có kiến thức Quân sự phổ thông, rèn luyện tư thế
động tác, kỹ năng quân sự cơ bản.
15


Tạo cho học sinh có ý thức tổ chức kỷ luật, có nếp sống lành mạnh, đúng
đắn và có thể vận dụng vào thực tế cuộc sống thường ngày.
Giải pháp thứ 4:
Ứng dụng giải pháp 1 và giải pháp 2 cho lớp 10 - 12 chẳng hạn:
Ta giảng bài 5 lớp 10 "Thường thức phòng tránh một số loại bom đạn". Về
mặt nội dung thì giáo viên tóm tắt sơ bộ nội dung bài học, hoặc nói qua về nội dung
chính của bài kèm theo tranh minh họa về bom đạn.
Giáo viên nêu vấn đề: Khi bom đạn nổ thì tác hại của nó sẽ như thế
nào?. Gợi ý:
Học sinh suy nghĩ và trả lời ngắn gọn.
Bom đạn nổ sẽ gây sát
thương ở nhiều mức độ khác
nhau, gây chết người bằng các
mảnh vỡ bị phá ra, ngoài ra còn
gây thiệt hại về của cải, cơ sở
hạ tầng của nhân dân.
Người dạy nhận xét nội dung trả
lời của học sinh: Đúng; sai ở mức độ nhiều
hay ít, sau đó có thể phân tích giảng giải cho
học sinh hiểu thêm một số thông tin khác về
bài mới, điều này khi dạy nội dung bài thì
học sinh cơ bản đã nắm được nội dung kiến

thức. Khi học sinh trả lời thì giáo viên phải có
nhận định và cho điểm khuyến khích động
viên kịp thời nhằm tạo

nguồn cảm hứng tốt nhất cho
học sinh.

Hình 10:

Người thực hiện: Đại tá.TS. CNK

Máy

bay thả

bom

Đồng Xuân Quách

Kết thúc tiết học: Giáo viên giao bài tập về nhà có sự liên hệ đến kiến thức
trong cuộc sống.
Câu hỏi: Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam Đế quốc Mĩ đã thả bao
nhiêu tấn bom lên đất Việt ...
Ở phần I: Cấp cứu ban đầu các tai nạn thông
thường. Nêu vấn đề: Thế nào được gọi là bong gân?
Gợi ý: Người học suy nghĩ và trả lời ngắn gọn. Sau đó giáo viên gọi học
sinh lên trả lời câu hỏi và đồng thời cho học sinh quan sát hình ảnh bong gân.
Người học giải quyết vấn đề: Bong gân là sự tổn thương dây chằng chung
quanh khớp do chấn thương gây nên, các dây chằng có thể bong ra khỏi chỗ16bám,
bị rách hoặc bị đứt nhưng không làm sai khớp (xem hình 11).



Ta thấy, ở chương
trình sách GDQP - AN
lớp 10, khi dạy phải tùy
vào nội dung của bài để
ta sử dụng phương pháp
nào cho hợp lí.

Hì nh 11:

Chẳng hạn: Khi dạy nội dung nêu trên tôi đã sử dụng phương pháp gợi ý hay
còn gọi là nêu vấn đề, giảng giải, minh họa, giúp cho người học tư duy, tạo sự tập
trung nhưng hứng thú cao trong tiếp thu bài.
Bảng số liệu kiểm tra mức độ hiểu bài trong tiết học của học sinh lớp 10.

1

10A

53

Số học
sinh hiểu bài
52

2

10B


50

49

1

98%

3

10C

50

50

0

100%

4

10D

37

37

0


100%

Stt

Lớp

Sĩ số

Số học sinh
không hiểu bài
1

Tỷ lệ
hiểu bài
98%

Ghi chú

Đối với khối 12 tôi áp dụng bằng bài giảng thực hành:
Ví dụ:
Bài 4: Tư thế động tác trong chiến đấu.
Người dạy phổ biến nội dung của bài học và đây là bài học thực hành nên tôi
sử dụng phương pháp trực quan, người dạy chủ đạo và bao quát lớp, cho lớp tập
hợp theo hình chữ L khi truyền đạt kiến thức, làm mẫu nhanh
Chậm có phân
tích
Làm tổng hợp ngắn gọn theo các bước quy định.
Yêu cầu thực hiện nghiêm túc nội quy, quy định tiết học:
Nêu vấn đề: Tại sao phải thực hiện các tư thế kĩ thuật trong chiến đấu? Quan
sát và làm thử đồng thời cho biết tư thế đó áp dụng vào tình huống nào? (cho học

sinh xem tranh vẽ của động tác Lê thấp).
17


Giải quyết vấn đề: Đây là động tác Lê thấp. Như thế học sinh sẽ hình dung
dung ra nội dung cơ bản của tiết học nhanh nhất và có độ bền vững về mặt kiến
thức cao.
Bảng số liệu kiểm tra mức độ hiểu bài trong tiết học của học sinh lớp 12.
Stt Lớp
1
2
3
4

12B
12C
12D
12E


số
50
53
49
47

Số học
sinh hiểu bài
49
52

49
47

Số học sinh
không hiểu bài
1
1
0
0

Tỷ lệ
hiểu bài
98%
98%
100%
100%

Ghi chú

II. Biện pháp tổ chức thực hiện.
1. Biện pháp thứ nhất:
Truyền thụ kiến thức các giờ lý thuyết ở cả ba khối lớp, thì vấn đề ứng
dụng các phương pháp thuyết trình, giảng thuật, vấn đáp, diễn giải, trực quan sinh
động vào trong quá trình sư phạm để người học tiếp thu một cách đầy đủ khoa học
và mang tính bền vững, tạo không khí hứng khởi trong tiếp thu thì phải có thực
hiện nghiêm túc các nội quy đặc thù của môn học:
Tiếp thu tiết học lý thuyết học sinh phải chú ý lắng nghe và chắt lọc ghi
chép nhanh các ý chính mà giáo viên nhấn mạnh, nếu ghi thêm được các ví dụ
minh họa thì càng tốt ...
Có thái độ nghiêm túc, tích cực trong quá trình tiếp thu kiến thức tiết học,

kể cả trong quá trình thảo luận nội dung bài.
Kiểm tra đánh giá quá trình tiếp thu trong tiết học của cá nhân học sinh và
tập thể lớp học phải chặt chẽ và tuân thủ theo đúng quy trình, đánh giá phải chuẩn
và chính xác được năng lực thực của người học.
Đánh giá kiểm tra phải có biểu dương học sinh có tinh thần, thái độ, trách
nhiệm, tốt trong học tập. Phê bình kịp thời các học sinh còn có những điểm hạn chế
trong tiếp thu và yêu cầu các tiết học sau phải nghiêm túc khắc phục. Bên cạnh đó
thì kiểm tra kiến thức bài học trước cũng phải được thực hiện thường xuyên liên tục
trong cả năm học.
2. Biện pháp thứ hai:
Thực hiện đầy đủ chương trình do Bộ GD&ĐT ban hành một cách nghiêm
túc, ứng dụng linh hoạt các phương pháp trong giờ thực hành như phương pháp:
Trực quan, làm mẫu, phân nhóm ...
Học sinh cần phải có thái độ nghiêm túc đối với môn học, tính kỷ luật cao,
trang phục đảm bảo theo quy định, phát ngôn đúng mực
18


Phương tiện dụng
cụ trong quá trình truyền
thụ kiến thức cũng cần
được chuẩn bị đầy đủ
nghiêm túc:
Ví dụ: Nội dung
thực hành "Ném Lựu đạn"
hoặc "Tháp lắp súng AK"
thì phải có chuẩn bị Lựu
Đạn cũng như súng một
cách đầy đủ và an toàn và
có trước khi diễn ra tiết

học ...
Hình 12:
Súng AK đã tháo
3. Biện pháp thứ ba:
Các buổi ngoại khóa: Nhà trường luôn coi trọng các buổi học ngoại khóa,
ngoại khóa được thực hiện theo các chủ đề chủ điểm, theo từng tháng thì nội dung
cũng được soạn phù hợp.
Ví dụ: Tháng 3 là tháng Thanh niên; Tháng 12 có ngày 22 tháng 12 là ngày
Hội QPTD.
Tôi đã phối hợp với Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến binh lồng ghép các câu
hỏi có liên quan đến môn GDQP - AN vào trong giáo án của buổi ngoại khóa.
Nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm cho học sinh trong thời kì hiện nay đối với công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.
C. KẾT LUẬN.
1. Kết quả:
Trên cơ cơ sở đó bản thân đã mạnh dạn nghiên cứu và ứng dụng sáng kiến
khoa học vào quá trình sư phạm đối với môn học GDQP - AN tại trường tôi kết quả
học tập của học sinh được nâng lên rất cao so với phương pháp dạy cũ trước đây:
Về tác phong: Giúp cho học sinh có được tác phong chững chạc, nghiêm
túc và thanh lịch, phát ngôn chuẩn mực.
Về kiến thức: Học sinh hiểu và nắm vững được kiến thức cơ bản mang tính
bền vững và khoa học, trên cơ sở đó các em có ý thức cao trong việc tham gia các
hoạt động công tác Quốc phòng An ninh đối với nhà trường và địa phương, xây
dựng cho học sinh lòng tự hào dân tộc, niềm tin lý tưởng, yêu quê hương, yêu đất
nước và con người Việt Nam.
TRong học tập và luyện môn GDQP - AN đã hình thành cho học sinh về mặt
nhân cách, phẩm chất đạo đức, điều này đã góp phần đáng kể trong công tác xây
dựng nền Quốc phòng toàn dân vững mạnh trong giai đoạn hiện nay.
Đây là toàn bộ sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân tôi trong quá trình giảng
dạy môn GDQP - AN đã tìm hiểu nghiên cứu và bước đầu cũng đã mang lại kết

19


quả đáng khích lệ. Điều này đã khẳng định việc phối kết hợp các phương pháp dạy
học tích cực trong tiết học phù hợp và mang tính khoa học thì chất lượng tiếp thu
của người học sẽ được tăng lên rõ rệt.
Phát huy được vai trò quan trọng của môn học GDQP - AN trong chiến lược
đào tạo con người mới trong thời kỳ hiện nay, thời kỳ CNH - HĐH đất nước thì
trong hệ thống Giáo dục quốc phòng toàn dân phải là những con người phát triển
về mọi mặt, toàn diện: Tư tưởng trong sáng, thông minh sáng tạo, có sức khỏe tốt
và có lý tưởng cách mạng cao đẹp.
Từ những nội dung thể hiện ở trên, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các
thành viên trong tổ TD; GDQP - AN trường THPT Thiệu Hóa, Hội nghị khoa học
thẩm định sáng kiến kinh nghiệm cấp trường và Hội đồng thẩm định cấp Tỉnh.
2. Kiến nghị:
Tôi đề nghị Bộ GD&ĐT tăng cường hỗ trợ Giáo viên và Học sinh đổi mới
phương pháp dạy và học theo hướng giúp Học sinh tích cực chiếm lĩnh kiến thức,
thực hành vận dụng kiến thức; phát triển năng lực tự học; phát triển tư duy phê
phán sáng tạo, năng lực hợp tác, phát triển các kỹ năng theo yêu cầu đặc thù bộ
môn.
Sự phù hợp của mức độ nội dung sách giáo khoa với trình độ phát triển của
Học sinh và trình độ Giáo viên. Ví dụ: Lớp 10 - Bài. "Tác hại của ma túy và trách
nhiệm của học sinh trong phòng chống ma túy"; Lớp 11 - Bài. "Bảo vệ chủ quyền
và lãnh thổ biên giới quốc gia"... Đây là những bài có thể nói là khó, tích hợp nhiều
môn học khác nhau trong bài, nên đề nghị trong thời gian tới phải tiếp tục được tập
huấn thêm về mặt phương pháp cũng như về mặt kiến thức khác có liên quan đến
bài học để giúp giáo viên giảng bài được tốt hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hiệu trưởng


Thiệu Hóa, ngày 9 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết
không sao chép nội dung của người khác.

Tác giả

Lê Đăng Điển

Lê Duy Hoàng

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Tài liệu tập huấn giáo viên, giảng viên Giáo dục quốc phòng và an ninh
các trường THPT, trung cấp, cao đẳng, đại học năm 2016 do Vụ GDQP-AN Bộ
GD&ĐT ban hành.
2. Hình1: Trung đội 3 hàng dọc; Hình 2: Băng cẳng chân kiểu số 8; Hình số
4: Băng vết thương vùng đầu; Hình số 11: Băng vết thương vùng đầu, các hình nêu
trên được sử dụng trong sáng kiến kinh nghiệm từ nguồn sách giáo khoa GDQPAN lớp 10-Mã số: KH001M8-DAI, số ĐKKH xuất bản: 513-2008/CXB/71143/GD.
3. Hình 8: Bế nạn nhân; Hình 9: Phương pháp Syuester, các hình nêu trên
được sử dụng trong sáng kiến kinh nghiệm từ nguồn sách giáo khoa GDQP-AN lớp
11-Mã số: KH101M8-DAI, số ĐKKH xuất bản: 513-2008/CXB/8-1143/GD.
4. Hình 3: Lễ phục sĩ quan nữ mừa hè; Hình 6: Lễ phục sĩ quan nam mùa hè được
sưu tầm trong bộ tranh trang phục do Bộ Quốc Phòng in ấn và ban hành.

21




×