Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số giải pháp nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh trường THPT lang chánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.2 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT LANG CHÁNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO
HỌC SINH TRƯỜNG THPT LANG CHÁNH

Người thực hiện: Lê Thị Tâm
Chức vụ:
Tổ Trưởng chuyên môn
SKKN thuộc lĩnh vực:
Công tác Chủ nhiệm

MỤC LỤC
THANH HOÁ NĂM 2018


MỤC LỤC

Mục
1

Nội dung

Trang

Mở đầu


2

1.1

Lí do chọn đề tài

2

1.2

Mục đích nghiên cứu

2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

3

1.4

Phương pháp nghiên cứu

3

Nội dung

4


2.1

Cơ sở lí luận

4

2.2

Thực trạng trước khi áp dụng SKKN

4

2.3

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vân đề

7

2.4

Hiệu quả của SKKN

17

3

Kết luận, kiến nghị

17


Tài liệu tham khảo

19

Danh sách SKKN đã được Hội đồng Sở GD&ĐT đánh giá

20

2

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là công
cụ không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói
chung và nền đạo đức nói riêng, làm lành mạnh hoá đời sống xã hội và góp phần
bồi đắp nên những giá trị mới. Tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật được thể
hiện thông qua hành vi hợp pháp của con người. Do đó việc nâng cao ý thức
pháp luật của công dân trong đó có đối tượng là học sinh có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng góp phần phát huy quyền làm chủ nhân dân, xây dựng con người mới
XHCN, là yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh trong nhà trường, đặc biệt trong các
trường phổ thông có ý nghĩa quan trọng, góp phần hình thành một cách vững
chắc nhân cách của người công dân có ý thức chấp hành pháp luật, đáp ứng
những yêu cầu của xã hội. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm
tới việc đưa pháp luật vào các trường học, các cấp học, từ phổ thông đến đại
học, đúng theo tinh thần Chỉ thị số 32 - CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư
trung ương Đảng và Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg của TTCP “Chú trọng việc

chuẩn hóa nội dung chương trình, tài liệu, sách giáo khoa giảng dạy pháp luật
chính khóa cũng như việc tổ chức các hoạt động giáo dục pháp luật ngoại khóa
bằng nhiều hình thức phong phú”.
Hiện nay, ý thức chấp hành pháp luật của người dân đặc biệt là lứa tuổi học
sinh trung học phổ thông vẫn còn những hạn chế do thiếu kiến thức pháp luật.
Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới các hành vi vi phạm pháp luật đặc
biệt là hành vi phạm tội, ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống về vật chất lẫn tinh
thần của bản thân và gia đình. Vì vậy, nhà trường cần phải tiếp tục quan tâm hơn
nữa và xác định phần kiến thức pháp luật là nội dung quan trọng hình thành
nhân cách của học sinh, từ đó lựa chọn nội dung giảng dạy phù hợp, thiết thực,
hiệu quả nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh, giảm thiểu tình trạng học
sinh phạm tội khi đang ngồi trên ghế nhà trường. Từ những lý do nêu trên tôi đã
lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh
trường THPT Lang Chánh".
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Giáo dục pháp luật trong các nhà trường, đặc biệt là các trường phổ thông
có ý nghĩa chiến lược, góp phần hình thành vững chắc nhân cách của người
công dân có ý thức chấp hành pháp luật đáp ứng những yêu cầu của xã hội hiện
nay và tương lai. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta quan tâm đẩy mạnh các hoạt
động tuyên chuyền giáo dục pháp luật, nhất là công cuộc đổi mới hiện nay. Để
thực hiện tốt pháp luật của nhà nước cần phải tăng cường công tác tuyên truyền
giáo dục pháp luật. Vì vậy, tuyên truyền giáo dục pháp luật là một bộ phận quan
2


trọng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo dục chung của Đảng và
Nhà nước nhằm giáo dục đạo đức, ý thức pháp luật xây dựng các văn bản luật tổ
chức thực hiện tốt pháp luật và góp phần xây dựng con người mới XHCN, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam trong thời kì mới. Từ đó tôi nhận thấy việc giáo dục pháp luật cho học sinh

THPT có tính cấp thiết của các nhà trường phổ thông nói chung, để các em hạn
chế tối đa các vụ việc vi phạm luật do thiếu hiểu biết pháp luật. Với tầm quan
trọng nêu trên nên tôi chọn đề tài "Một số giải pháp nâng cao ý thức pháp
luật cho học sinh trường THPT Lang Chánh".
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu vấn đề chấp hành pháp luật của học sinh và đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật đối với học sinh trường
THPT Lang Chánh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài tôi đã thống kê số lượng học sinh vi phạm pháp luật trong
các năm học trước của nhà trường, và lớp chủ nhiệm phân loại những hành
vi mà học sinh vi phạm. Thống kê những lỗi các em thường mắc phải như đánh
nhau, lập gia đình khi chưa đủ tuổi, vi phạm luật giao thông đường bộ, nghiện
game, và một số trò chơi khác. Mỗi tháng tôi thực hiện hai lần trong tiết sinh
hoạt cuối tuần thời gian khoảng 20 phút để trao đổi với các em về kiến thức
pháp luật thông qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan và một số tình
huống thường xảy ra trong cuộc sống, cuối buổi tôi luôn khen ngợi, động viên
những học sinh có nhiều câu trả lời đúng. Ngoài những buổi hoạt động ngoài giờ
lên lớp của nhà trường tổ chức, hai tháng tôi tổ chức một buổi hoạt động ngoài
giờ lên lớp cho lớp chủ nhiệm nội dung thi” rung chuông vàng” với chủ đề “sức
khoẻ sinh sản vị thành niên”. Đối với những học sinh có hạnh kiểm loại yếu tôi
phối hợp với phụ huynh, chính quyền địa phương và những tác động sư phạm
giúp các em nhìn lại nhũng gì các em đã làm để các em nhận thức được trách
nhiệm của bản thân đối với việc học tập.

Đánh giá qua quá trình thực hiện ở lớp đối chứng và thực nghiệm nhằm đối
chứng so sánh học sinh đã thực hiện tốt về pháp luật qua những tiêu chí:
+ Giảm tỉ lệ học bỏ học để lập gia đình.
+ Giảm tỉ lệ học sinh vi phạm đánh nhau.
+ Giảm tỉ lệ học sinh vi phạm luật giao thông.

+ Giảm tỉ lệ học sinh cá biệt.
2. NỘI DUNG
3


2.1. Cơ sở lý luận:
2.1.1. Khái niệm pháp luật và ý thức pháp luật:
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống
trị và là nhân tố điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích
của giai cấp mình.
Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội, là một trong những
biểu hiện của trình độ văn hoá xã hội. Có thể định nghĩa ý thức pháp luật là tổng
thể những học thuyết, tư tưởng, tình cảm của con người thể hiện thái độ, sự đánh
giá về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của
pháp luật hiện hành. Pháp luật cần phải có tính hợp pháp hay không hợp pháp
trong cách xử sự của con người, trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức
(nguồn tài liệu Internet trang “ Pháp luật Việt Nam”).
2.1.2. Các yếu tố cấu thành của ý thức pháp luật:
Ý thức pháp luật được cấu thành từ hai bộ phận: tư tưởng pháp luật và tâm
lý pháp luật.
- Tư tưởng pháp luật là tổng thể những tư tưởng, quan điểm phạm trù, khái
niệm học học thuyết về pháp luật tức là mọi vấn đề lý luận về pháp luật về
thượng tầng kiến trúc pháp lý của xã hội.
- Tâm lý pháp luật được thể hiện qua thái độ, tình cảm, tâm trạng, xúc cảm
đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác, được hình thành một cách tự
phát thông qua giao tiếp và dưới tác động của các hiện tượng pháp lý, phản ánh
một cách tự nhiên của con người đối với các hiện tượng đó(nguồn tài liệu
Internet trang “ Pháp luật Việt Nam”).
2.1.3. Mục đích của việc nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh:

- Bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và lòng tự tôn dân
tộc.
- Hình thành ý thức sống và làm việc theo pháp luật. Nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật, ý thức tự giác tuân thủ và bảo vệ pháp luật của học sinh, ngăn
ngừa có hiệu quả các hành vi, vi phạm pháp luật, góp phần tăng cường trật tự,
kỷ cương, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh.
- Trang bị những kiến thức, những hiểu biết cơ bản về quyền, nghĩa vụ cơ
bản của công dân; về những vấn đề cần biết, cần thực hiện liên quan đến cuộc
sống, lao động, học tập và rèn luyện của học sinh.
2.2. Thực trạng ý thức pháp luật của học sinh trường THPT Lang
Chánh:
2.2.1. Đặc điểm tình hình chung của trường THPT Lang
Chánh: + Đặc điểm về nhà trường:
Trường THPT Lang Chánh đóng trên địa bàn thị trấn Lang Chánh, huyện
Lang Chánh. Trường được xây dựng từ năm 1983, trước kia gọi là trường cấp 2,
4


3 Lang Chánh đến năm 2000 trường tách và có tên gọi là trường THPT Lang
Chánh. Trường có 04 tổ chuyên môn và một tổ hành chính. Tổng số cán bộ giáo
viên, nhân viên là 60. Trong đó Ban Giám hiệu: 04, giáo viên: 53, nhân viên: 05
Chất lượng đội ngũ giáo viên 100% cán bộ, giáo viên đạt chuẩn và trên
chuẩn trong đó thạc sỹ 05, Đại học 50.
Chi bộ Đảng gồm 30 đảng viên. Nhà trường có 29 phòng (phòng học kiểu
truyền thống), 7 phòng học bộ môn. Trang thiết bị, đồ dùng dạy học tương đối
đầy đủ. Thư viện đáp ứng đầy đủ sách giáo khoa cơ bản cho học sinh mượn. Sân
chơi, bãi tập còn thiếu về không gian và diện tích; chưa có nhà tập đa năng. Nhà
trường 1 khu ký túc xá đáp ứng được khoảng 200 chỗ ở cho học sinh.
+ Đặc điểm về học sinh:
Trường THPT Lang Chánh có tổng số học sinh 1037 (tính đến 18/9/2017)

trong đó dân tộc thái chiếm 53,04%, dân tộc mường chiếm 35,58%, dân tộc kinh
chiếm 11,19%, dân tộc ê đê chiếm 0,19%. Tỉ lệ học sinh nữ chiếm 50,24%. Do
trường đóng trên địa bàn miền núi nên tỉ lệ hộ nghèo và cận nghèo chiếm gần
48%.
2.2.2. Những thuận lợi và tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ
nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh:
* Thuận lợi: Trường THPT Lang Chánh có đội ngũ giáo viên còn trẻ nên
nhiệt tình trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh. Lãnh đạo, giáo viên,
nhân viên gương mẫu, nhiệt tình có tinh thần và ý thức trách nhiệm cao trong
công việc, tập thể giáo viên đoàn kết, nhất trí, tương trợ lẫn nhau, các tổ chức
đoàn thể, cơ cấu các tổ chuyên môn, văn phòng tương đối phù hợp với tình hình
thực tế của nhà trường. Học sinh của nhà trường cơ bản các em ngoan. Nhà
trường đóng trên địa bàn thị trấn nên thuận lợi cho công tác giáo dục.
* Những tồn tại, hạn chế:.
Trường THPT Lang Chánh đóng trên địa bàn của một huyện miền núi nên
đội ngũ giáo viên luôn biến động, một số năm gần đây do thiếu giáo viên mỗi
giáo viên phải dạy thêm giờ nhiều, giáo viên còn trẻ nên kinh nghiệm giảng dạy
và giáo dục chưa nhiều. Số lượng giáo viên ở dưới xuôi lên công tác chiếm phần
đông nên tính ổn định không cao. Chất lượng đầu vào của học sinh còn thấp so
với các huyện. Học sinh ở phân tán, điều kiện đi lại khó khăn do đó việc duy trì
sĩ số, nề nếp gặp khó khăn. Số lượng học sinh hộ nghèo gia tăng. Ý thức học tập
của một bộ phận học sinh chưa cao, động cơ học tập chưa rõ ràng. Còn một bộ
phận phụ huynh do mưu sinh nên chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của
con em phó thác việc học tập cho nhà trường.
Tỉ lệ học sinh là người dân tộc thiểu số chiếm số đông nên những phong
tục, tập quán, thói quen trong sinh hoạt đã ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình
hình thành nhân cách của học sinh. Từ thực tế đó, một bộ phận học sinh có lối
sống tự do, theo thói quen hoặc lại bị ràng buộc của những phong tục, tập quán
5



làm mất đi tính chủ động, tích cực trong suy nghĩ, hành vi của các em làm cho
những quy định của pháp luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công
dân; pháp luật về an toàn giao thông đường bộ, trật tự an toàn xã hội; pháp luật
về bình đẳng giới; vấn đề về bạo lực gia đình; ma túy… gặp phải những khó
khăn trong quá trình tổ chức thực hiện.
- Về chất lượng công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho học sinh còn
nhiều hạn chế.
- Kiến thức pháp luật của đội ngũ giáo viên chưa sâu, rộng, chưa đáp ứng
được yêu cầu, đòi hỏi của học sinh dẫn tới việc giảng dạy những nội dung pháp
luật dễ nhàm chán, không thu hút được học sinh, không phát huy được vai trò
chủ động của học sinh trong việc tìm hiểu pháp luật.
- Tình trạng đạo đức, lối sống của một bộ phận học sinh hiện nay có nhiều
bất ổn, từ thái độ học tập, ý thức chấp hành nội quy, kỷ luật của nhà trường,
chấp hành pháp luật đến những hành vi tiêu cực trong học tập, thi cử của học
sinh và sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào học đường.
Bảng điều tra khảo sát về tình hình học sinh lớp 11A2, 11A3 vi phạm pháp
luật trong năm học 2015- 2016.
Lớp

Số lượng học sinh vi phạm pháp luật
Sĩ số

Số lượng bỏ
học lập gia
đình

Số lượng học
sinh vi phạm
đánh nhau


Số lượng học
sinh vi phạm
luật giao thông

Số lượng học sinh
cá biệt (xếp HK
loại yếu)

41
02
03
04
03
11A2
41
02
04
03
03
11A3
* Nguyên nhân của những tồn tại khó khăn:
- Về phía học sinh: Độ tuổi của học sinh THPT, đây là độ tuổi đang bắt đầu
có sự thay đổi về tâm, sinh lý; là lứa tuổi bồng bột, chủ quan, nông nổi, tiếp
nhận thông tin ít chọn lọc, vốn sống và vốn hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn
chế, dễ bị ảnh hưởng, lôi kéo bởi những tác động bên ngoài. Nhận thức về vai
trò của pháp luật trong cuộc sống, trong mối quan hệ với cha mẹ, anh em, bạn bè
và tất cả mọi người xung quanh mình còn chưa đầy đủ. Cùng với thói quen, tự
do trong sinh hoạt là kinh nghiệm sống và trình độ nhận thức còn hạn chế, khả
năng kiềm chế chưa cao, dễ bị kích động, lôi kéo vào những hoạt động phiêu

lưu, mạo hiểm đây là một trong số các nguyên nhân dẫn tới những hành vi vi
phạm pháp luật ở lứa tuổi học sinh.
- Về phía gia đình: Một số gia đình vì điều kiện kinh tế khó khăn, cha
mẹ đi làm ăn xa không có nhiều thời gian dành cho con cái. Một số gia đình là
đồng bào dân tộc thiểu số còn bị ảnh hưởng rất lớn bởi những phong tục tập
quán. Một số bậc phụ huynh chưa thực sự quan tâm tới sự phát triển tâm sinh lý
của các em, đặc biệt là ở độ tuổi THPT là lứa tuổi rất dễ bị ảnh hưởng của những
luồng thông tin xấu dẫn tới sự lệch lạc về hành vi. Những ảnh hưởng từ
6


phía gia đình dần dần hình thành cho các em những thói quen không tốt, môi
trường sống tự do, tùy tiện ảnh hưởng tới quá trình hình thành nhân cách và
nhận thức về trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội.
- Về phía xã hội: Do ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường đã tác
động không nhỏ tới tư tưởng, nhận thức và quá trình hình thành nhân cách của
học sinh, hình thành lối sống hưởng thụ, thực dụng trong một bộ phận học sinh
và có xu hướng lan tỏa ở phạm vi rộng hơn.
2.3. Các giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh
trường THPT Lang Chánh:
Thứ nhất, nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh thông qua các môn học
đặc biệt là môn giáo dục công dân:
+ Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đưa giáo dục pháp luật
vào nhà trường, nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh, các cơ quan quản
lý nhà nước về tư pháp và giáo dục, đào tạo (Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục - Đào
tạo) đã phối hợp xây dựng chương trình, đưa nội dung kiến thức pháp luật vào
các môn học Giáo dục công dân. Đồng thời, nghiên cứu tích hợp, lồng ghép các
nội dung kiến thức pháp luật vào các môn học như Giáo dục công dân, sinh học,
địa lý,...
Bằng vốn kiến thức pháp luật và kỹ năng sư phạm tôi đã phối hợp với các

thầy cô giáo dạy môn Giáo dục công dân. Mỗi tháng tôi tổ chức hai lần mỗi lần
khoảng 20 phút vào những buổi sinh hoạt cuối tuần cho lớp chủ nhiệm 12A2
bằng hình thức tuyên truyền qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan, và
một số tình huống thường xảy ra trong đời sống. Sau những buổi hoạt động tìm
hiểu pháp luật tôi luôn tuyên dương những học sinh có nhiều câu trả lời đúng, và
xử lý các tình huống đúng theo quy định. Sau 4 tháng thực hiện cách làm này tỉ
lệ học sinh đánh nhau của lớp chủ nhiệm không còn nữa so với năm học trước
lớp 12A2 xảy ra ba vụ đánh nhau, và một vụ hai bạn nữ nói xấu nhau qua
facebook. Tôi có hỏi những học sinh năm học trước vi phạm các lỗi trên vì sao
các em đánh nhau và xúc phạm nhân phẩm của bạn các em đều trả lời do các em
chưa hiểu biết về pháp luật nên nghĩ việc đó là bình thường. Sau một thời gian
tìm hiểu về pháp luật các em nhận ra rằng những việc các em làm của năm học
trước đã vi phạm pháp luật.
+ Hệ thống câu hỏi:
Câu 1. Việc bảo đảm cho pháp luật được mọi người thi hành và tuân thủ trong
thực tế là trách nhiệm của chủ thể nào dưới đây?
A. Công dân
B. Tổ chức
C. Nhà nước
D. Xã hội
Câu 2: Pháp luật là phương tiện để
A. Quản lí nhà nước.
B. Quản lí công dân
C. Quản lý xã hội
D. Quản lí kinh tế
Câu 3. Pháp luật là phương tiện để công dân thực hiện bảo vệ
7


A. Quyền và lợi ích kinh tế của mình

B. Các quyền và nghĩa vụ của mình.
C. Các quyền và lợi ích cơ bản của mình.
D. Quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Câu 4. Cảnh sát giao thông xử lý đúng luật việc A đi xe máy ngược chiều gây tai
nạn là biểu hiện rõ nhất đặc trưng nào dưới đây của pháp luật?
A. Tính quyền lực, bắt buộc chung.
B. Tính quy phạm phổ biến.
C. Tính chặt chẽ về hình thức.
D. Tính chặt chẽ về nội dung.
Câu 5. Hành vi nào dưới đây không phải là thực hiện pháp luật?
A. Làm những việc mà pháp luật cho phép làm.
B. Làm những việc mà pháp luật quy định phải làm.
C. Không làm những việc pháp luật cấm.
D. Làm những việc pháp luật cấm.
Câu 6. Hành vi nào dưới đây là thực hiện pháp luật?
A. Vượt qua ngã ba, ngã tư khi có tín hiệu đèn đỏ.
B. Đi xe hàng hai, hàng ba, cản trở các phương tiện khác.
C. Lạng lách, đánh võng, chở hàng cồng kềnh.
D. Nhường đường cho các phương tiện được quyền ưu
tiên. Câu 7. Hành vi nào dưới đây phải chịu trắc nhiệm hình sự?
A. Cố ý lây truyền HIV cho người khác.
B. Lái xe máy đi ngược đường một chiều.
C. Không thực hiện chia tài sản theo di chúc của người mất.
D. Xả chất thải chưa xử lí ra môi trường.
Câu 8. Người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng là những người
A. Đủ 14 tuổi trở lên đến 16 tuổi.
B. Đủ 14 tuổi trở lên đến 18 tuổi.
C. Đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi.
D. Đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi.

Câu 9. Biết C và D yêu nhau. H đã tìm đọc trộm tin nhắn của D và kể cho một
số bạn trong lớp nghe làm D rất bực mình. H đã xâm phạm đến quyền nào dưới
đây của D?
A. Quyền được pháp luật bảo hộ danh dự nhân phẩm.
B. Quyền bí mật thông tin cá nhân.
C. Quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư tín, điên thoại, điện tín.
D. Quyền được tự do yêu đương.
Câu 10. Nếu một người tung tin bịa đặt nói xấu mình, em sẽ lựa chọn cách xử
sự nào dưới đây mà em cho là đúng pháp luật?
8


A. Coi như không biết gì.
B. Mắng cho một trận để hả giận.
C. Không chơi với người đó nữa.
D. Khuyên bảo để người đó không có hành vi như vậy nữa.
Câu 11. Do mâu thuẫn với nhau nên C đã bịa đặt tung tin xấu về D trên
Facebook. Việc làm của C đã xâm phạm tới quyền nào dưới đây của D?
A. Quyền bảo vệ bí mật đời tư của cá nhân.
B. Quyền tự do cá nhân.
C. Quyền được pháp luật bảo hộ về danh dự, nhân phẩm.
D. Quyền được bảo đảm bí mật thư tín, điện tín.
Câu 12. Trong lúc chơi game, giữa H và A xãy ra mâu thuẫn dẫn đến chửi nhau
trên mạng. Hai bên thách đố và tìm gặp nhau, đánh nhau. Kết quả H đã đánh A
gây thương tích. Hành vi của H đã xâm phạm tới quyền nào dưới đây của công
dân.
A. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể.
B. Quyền bất khả xâm phạm về sức khoẻ.
C. Quyền được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ.
D. Quyền được bảo đảm an toàn về thân thể.

Câu 13. Giờ ra chơi H và P ở lại trong lớp, lấy điện thoại của V để trên bàn có
tin nhắn, H nói P đọc và P đã nhanh chóng đọc tin nhắn trên điện thoại của V.
Hành vi này của P đã xâm phạm đến.
A. Quyền bí mật đời tư của V.
B. Quyền được pháp luật bảo hộ về danh dự.
C. Quyền được bảo đảm an toàn và bảo mật thư tín, điện tín.
D. Quyền bất khả xâm phạm thông tin cá nhân.
Câu 14. Hai sinh viên L và M là cùng thuê chung nhà ở của ông N. Do chậm trả
tiền thuê nhà nên ông N đã yêu cầu hai bạn ra khỏi nhà nhưng M và L không
đồng ý, thấy vậy, ông N khoá trái cửa nhà và nhốt cả hai bạn lại. Hành vi của
ông N đã xâm phạm đến quyền nào dưới đây của công dân.
A. Bất khả xâm phạm về chỗ ở.
B. Được bảo hộ về sức khoẻ.
C. Bất khả xâm phạm về thân thể.
D. Được đảm bảo an toàn về thân thể.
Đáp án:
Câu 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10 11 12 13 14
Đáp C C
D A D D A C C
D C
C

C
C
án
Câu 15. Cảnh sát giao thông phạt 2 bố con bạn A vì cả 2 đều lái xe máy đi
ngược đường một chiều. Bố bạn A không chịu nộp tiền phạt vì lí do ông không
9


nhận ra biển báo đường một chiều, bạn A mới 16 tuổi, còn nhỏ, chỉ biết đi theo
ông nên không đáng bị phạt.
Theo em, lí do mà bố bạn A đưa ra có xác đáng không? Cảnh sát giao thông
phạt cả hai bố con bạn A có đúng không? Bạn A có phải chịu trách nhiệm về
hành vi của mình không?
* Trả lời:
Lí do bố bạn A đưa ra là không xác đáng vì cả 2 bố con đều là những người
tham gia giao thông nên phải biết và nắm được luật giao thông, trong đó có quy
định về đường một chiều
- Cảnh sát giao thông phạt tiền 2 bố con bạn A là đúng
- Bạn A phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình vì bạn đã 16 tuổi Trong
tình huống trên cả 2 bố con bạn A đều có lỗi. Họ đều biết rằng đi
vào đường ngược chiều là sai, có thể gây tai nạn nguy hiểm cho bản thân hoặc
những người khác nhưng họ vẫn vi phạm.
Hai bố con bạn A phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
- Cảnh sát giao thông với thẩm quyền được giao, nhân danh pháp luật và
quyền lực nhà nước, căn cứ vào các quy định của pháp luật, cụ thể là luật giao
thông về đường bộ và nghị định 146/ 2007/NĐ - CP ngày 14/09/2007 của chính
phủ quy định về xử phạt hành chính.
Câu 16. T. 14 tuổi đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, bị cảnh sát giao
thông dừng xe và ra quyết định xử phạt. Có ý kiến cho rằng T chưa đủ tuổi sử
dụng xe máy (theo quy định người đủ 16 tuổi được sử dụng xe máy) nên không

bị xử phạt vi phạm hành chính. Ý kiến đó đúng hay sai. Pháp luật quy định thế
nào về độ tuổi xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm
pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm?
Trả lời:
Theo Điểm a Khoản 1 Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012
quy định độ tuổi xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên như
sau :
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi
phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành
chính về mọi vi phạm hành chính.
Ý kiến cho rằng T chưa đủ tuổi sử dụng xe máy nên không thể xử phạt
hành chính là không đúng. T đã 14 tuổi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hành chính
theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính. T có thể bị xử phạt vi
phạm hành chính đối với hai hành vi sau:
- Người điều khiển, người ngồi trên xe không đội mũ bảo hiểm (Điểm i
khoản 3 Điều 9 Nghị định số 34/2010/NĐ- CP ngày 2/4/2010 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ đã sửa đổi
bổ sung theo Nghị định số 71/2012/NĐ-CP)
10


- Vi phạm quy định về điều kiện của người điều khiển xe cơ giới (khoản 1
Điều 24 Nghị định số 34/2010/NĐ- CP ngày 02/04/2010 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ đã sửa đổi
bổ sung theo Nghị định số 71/2012/NĐ-CP) theo đó, Khoản 1 Điều 24 quy định
xử phạt các hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người điều khiển xe cơ
giới như sau:
Phạt cảnh cáo người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi điều khiển xe mô tô, xe
gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự mô tô hoặc điều khiển xe ô
tô, máy kéo và các loại xe tương tự ô tô.

Câu 17. T. 14 tuổi đi xe máy vào đường ngược chiều bị cảnh sát giao thông
dừng xe và ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T. Cụ thể, T bị
phạt cảnh cáo đối với hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người điều
khiển xe cơ giới và phạt tiền đối với hành vi đi ngược chiều của đường một
chiều. Xin cho biết quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T có phù hợp
với nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên không ?
Pháp luật quy định thế nào về việc áp dụng hình thức phạt tiền đối với người
chưa thành niên vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không
phải là tội phạm ?
Trả lời:
- T. 14 tuổi đi xe máy nên vi phạm quy định về điều kiện của người điều
khiển xe cơ giới. Theo quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định số 34/2010/NĐCP hành vi này bị xử phạt cảnh cáo. Vì vậy cảnh sát giao thông ra quyết định xử
phạt cảnh cáo T là đúng.
- T mới 14 tuổi, theo quy định tại khoản 3 Điều 134 Luật xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 về nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với người
chưa thành niên thì trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm
hành chính thì không áp dụng hình thức phạt tiền. Vì vậy cảnh sát giao thông ra
quyết định xử phạt tiền đối với hành vi đi ngược chiều của đường một chiều đối
với T là trái với nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành
niên.
- Việc áp dụng hình thức phạt tiền đối với người chưa thành niên được quy
định tại Khoản 3 Điều 134 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 như sau:
+ Việc áp dụng hình thức xử phạt, quyết định mức xử phạt đối với người
chưa thành niên vi phạm hành chính phải nhẹ hơn so với người thành niên có
cùng hành vi vi phạm hành chính.
+ Trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì
không áp dụng hình thức phạt tiền.
+ Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính bị
phạt tiền thì mức tiền phạt không quá 1/2 mức tiền phạt áp dụng đối với người
thành niên; trường hợp không có tiền nộp phạt hoặc không có khả năng thực

11


hiện biện pháp khắc phục hậu quả thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải thực hiện
thay.
Câu 18. Mới 17 tuổi nhưng L đã nổi tiếng ăn cắp vặt và gây gổ đánh nhau
khắp xóm làng từ bé. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi L cư trú đã một lần
ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn đối với L
nhưng L vẫn chứng nào tật đấy. Cứ vài hôm trong xóm lại có một nhà bị mất
trộm. Chỉ trong thời gian hai tháng L đã ba lần thực hiện hành vi trộm cắp, gây
rối trật tự công cộng tuy chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Xin hỏi
cần áp dụng biện pháp xử lý hành chính nào đối với trường hợp của L ?
Trả lời:
L đã 17 tuổi chỉ trong thời gian hai tháng đã ba lần thực hiện hành vi trộm
cắp, gây rối trật tự công cộng tuy chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự,
trước đó lại đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn. Vì vậy, cần
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng để tạo môi trường quản lý giáo
dục có kỷ luật đối với L.
Khoản 4 Điều 92 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định đối
tượng đưa vào trường giáo dưỡng như sau : “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi 02 lần trở lên trong 06 tháng thực hiện hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc,
gây rối trật tự công cộng mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và
trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn”.
Câu 19. Nguyễn Văn N, 19 tuổi, là thanh niên hư hỏng, nghiện ma túy.
Không có tiền để hút, N đã nảy ý định đi cướp xe máy. N tìm được người quen
là Trần Văn A, 17 tuổi, bỏ học đi lang thang ở bến xe để cùng bàn kế hoạch đi
cướp. Hai tên đã thuê người chở xe ôm, đến chỗ vắng chúng dùng dao uy hiếp,
cướp xe máy và đâm người lái trọng thương ( thương tật 70%).
Căn cứ vào hành vi phạm tội của N và A là phạm tội có tổ chức, có kế
hoạch và sử dụng hung khí nguy hiểm gây thương tích nặng cho nạn nhân, Tòa

đã xử Nguyễn Văn N tù chung thân, Trần Văn A bị phạt tù 17 năm. Gia đình N
cho rằng Tòa án xử như vậy là thiếu công bằng vì N và A cùng độ tuổi, cùng
nhau thực hiện vụ cướp của giết người. Vậy theo em, thắc mắc của gia đình N là
đúng hay sai? Vì sao?
Trả lời:
+ Thắc mắc của gia đình N là sai, vì:
- Đối với Nguyễn Văn N: Tòa án đã căn cứ vào quy định tại điểm a khoản
4 Điều 133 Bộ luật Hình sự về tội cướp tài sản: Người nào phạm tội gây thương
tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ thương tật từ 61% trở lên
thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Tòa đã xử Nguyễn Văn N ( 19 tuổi) tù chung thân là đúng.
- Đối với Trần Văn A: Trần Văn A tuy cùng thưc hiện một tội phạm với
Nguyễn văn N, nhưng vì mới 17 tuổi, nên ngoài việc áp dụng điểm a khoản 4
12


điều 133 Bộ luật hình sự, Tòa còn áp dụng khoản 1 Điều 73 Bộ luật Hình sự về "
quy định đối với người chưa thành niên phạm tội", theo đó mức hình phạt cao
nhất áp dụng đối với hành vi tội phạm này là không quá mười tám năm tù.
Câu 20. Tuấn là học sinh lớp 11 trường THPT A (16 tuổi). Một hôm nhân
khi ba mẹ đi vắng, Tuấn đã lấy xe mô tô 125 phân khối chở một bạn cùng lớp đi
học. Tuấn đã bị công an giao thông thổi phạt. Tuy nhiên Tuấn lại không nhận
thức được rằng: Công dân dưới 18 tuổi không được đi xe mô tô trên 100 phân
khối. Hỏi:
+ Theo em hành vi vi phạm pháp luật của Tuấn là hành vi vi phạm pháp
luật gì?
+ Tuấn phải chịu trách nhiệm pháp lí gì?
Trả lời:
+ Tuấn đã vi phạm hành chính
+ Tuấn phải chịu trách nhiệm hành chính theo qui định của pháp luật dù

cho
Tuấn không nhận thức được hành vi sai trái của mình vì: theo qui định của
pháp luật người đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành
chính do mình gây ra.
Thứ hai, nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh thông qua các hoạt động
ngoài giờ lên lớp
Cùng với việc giáo dục pháp luật cho học sinh qua các môn Giáo dục công
dân, tôi còn tổ chức cho học sinh lớp12A2 tham hoạt động ngoài giờ lên lớp, hai
tháng một lần bằng hình thức tổ chức cho các em thi” rung chuông vàng” với
chủ đề “sức khoẻ sinh sản vị thành niên” hệ thống câu hỏi tôi được các thầy cô
giáo dạy môn sinh học và trung tâm dân số của huyện cung cấp. Đây là chủ đề
mà thu hút được nhiều học sinh của lớp quan tâm. Cuối buổi hoạt động ngoài
giờ lên lớp tôi cùng với ban đại diện cha mẹ học sinh trao thưởng cho những học
sinh trả lời đúng các câu hỏi nhiều nhất. Sau một thời gian tổ chức hoạt động
ngoài giờ lên lớp tôi hỏi các em học sinh của lớp có muốn lập gia đình khi chưa
đủ tuổi hay không? Các em đều trả lời không vì làm như vậy là vi phạm luật hôn
nhân và gia đình. Khi các em nắm bắt được tác hại của việc lập gia đình khi
chưa đủ tuổi thì chính các em còn là tuyên truyền viên trong gia đình và nơi các
em cư trú trong về vấn đề hôn nhân, giới tính . Qua những buổi hoạt động ngoài
giờ lên lớp giúp các em có vốn kiến thức nhất định về sức khoẻ sinh sản, luật
hôn nhân và gia đình đây cũng là hành trang để các em bước tiếp con đường
tương lai ở phía trước.
Thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp học sinh, sẽ được tiếp thu kiến thức
pháp luật một cách tự nhiên, sinh động với nhiều hình thức phù hợp, hấp dẫn tạo
nên sân chơi lành mạnh mang tính giáo dục cao, thu hút được đông đảo học sinh
trong lớp tham gia góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh.
13


Hoạt động ngoài giờ lên lớp

Câu hỏi:
Câu 1. Tuổi vị thành niên có những đặc trưng sau.
A. Thay đổi về sinh lí.
B. Thay đổi về thể chất.
C.Thay đổi về nhân cách.
D. Tất cả các đáp án A, B, C.
Câu 2. Sự phát triển thể chất ở nữ vị thành niên được đánh giá bằng các yếu tố
sau.
A. Sự phát triển của vú.
B. Phát triển chiều cao cân nặng.
C. Thay đổi giọng nói.
D. Tất cả các đáp án A, B, C.
Câu 3. Nữ vị thành niên dạy thì là lúc biểu hiện.
A. Có kinh nguyệt.
B. Độ tuổi 9 đến 11.
C. Phát triển về thể chất.
D. Phát triển về trí tuệ.
Câu 4. Gọi là dạy thì ở vị thành niên nam khi thấy các dấu hiệu sau.
A. Giọng nói trầm hơn.
B. Hệ thống lông mu, lông nách phát triển.
C. Cơ quan sinh dục phát triển.
D. Tất cả các đáp án A, B, C.
Câu 5. Dấu hiệu có giá trị nhất để đánh giá sự thay đổi sinh lý vị thành niên nam
là.
A. Tinh trùng trưởng thành.
14


B. Tinh hoàn tiết nội tiết.
C. Có hiện tượng cương dương, xuất tinh.

D. Cơ thể béo nhanh.
Câu 6: Nguyên nhân lớn nhất gây mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục ở vị
thành niên là.
A. Ít dùng bao cao su.
B. Do có những cuộc tình ngẫu hứng.
C. Tỉ lệ nhiễm HIV dưới 20 tuổi cao.
D. Giao hợp với nhiều đối tượng.
Câu 7. Tuổi dậy thì được đặc trưng bởi những thay đổi về.
A. Nội tiết tố.
B. Hình thái học.
C. Tâm sinh lý.
D. Các câu trên đều đúng.
Câu 8: Dấu hiệu nào sau đây thường xuất hiện sớm nhất đánh dấu tuổi dạy thì ?
A. Phát triển lông mu, lông nách.
B. Phát triển tuyến vú.
C. Nỗi mụn trứng cá.
D. Chảy máu kinh.
Câu 9. Thay đổi tâm lý của tuổi dạy thì.
A. Luôn khẳng định mình là người lớn.
B. Hoài bão, mơ mộng.
C. Bồng bột thiếu chín chắn.
D. Các câu trên đều là đúng.
Câu 10. Tuổi vị thành niên đã có kinh, khi tự nhiên mất kinh cần chú ý có thể
do.
A. Vấn đề dinh dưỡng giảm sút.
B. Sút cân, suy giảm thể lực.
C. Có thai ngoài ý muốn.
D. Cả A, B, C đều đúng.
Đáp án:
Câu

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Đáp án D
D
A
D
C
D
D
D
D
D
Thứ ba, nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh thông qua công tác phối
hợp giữa nhà trường với chính quyền địa phương và gia đình.
Trong năm học 2015- 2016 lớp 11A2 có 03 học sinh hạnh kiểm loại yếu.
Với tư cách là giáo viên chủ nhiệm tôi liên hệ với chính quyền địa phương giáo
dục các em bằng cách cho các em tham gia vào chiến dịch thanh niên tình
nguyện làm đường cho những làng đi lại khó khăn trong địa bàn xã các em sinh
sống. Trong thời gian 10 ngày tình nguyện cùng với Đoàn thanh niên xã Đồng
Lương các em đã san lấp được gần 3km đường có nhiều hố, rãnh sâu. Trong quá
trình lao động các em được Bí thư Đoàn đánh giá là rất nhiệt tình và luôn tuân
15



thủ sự phân công của cấp trên. Sau 3 tháng hè các em được chính quyền địa
phương nhận xét thực hiện tốt quy định của pháp luật.
Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội đây là khâu hết sức
quan trọng để trao đổi nắm bắt được tư tưởng của từng học sinh. Trong năm học
2016 - 2017 trong lớp chủ nhiệm tôi phân loại học sinh gồm 03 nhóm, nhóm
một là nhóm có ý thức học tập tốt, tích cực trong các hoạt đọng của lớp của
trường, nhóm hai là nhóm học tập trung bình, tham gia tích cực các hoạt động,
nhóm ba không có thái độ học tập chuyên phát ngôn không đúng mực và hay
tham gia chơi điện tử, và có hành vi dùng những lời lẽ thô tục trên các trang
mạng xã hội. Lớp 12A2 của tôi có 03 học sinh thuộc nhóm ba. Trong lớp tôi bố
trí chỗ ngồi 03 học sinh trên lần lượt với 03 học sinh thuộc nhóm một (mỗi bàn
ngồi 02 học sinh) lúc đầu các em phản ứng rất quyết liệt nhất quyết không ngồi
bằng những cử chỉ ân cần và sự quan tâm của tôi, tôi đã thuyết phục các em tuy
nhiên thời gian đầu các em vẫn chưa thay đổi để học. Trong phiên họp phụ
huynh lần thứ nhất của năm học tôi phân tích cho phụ huynh thấy được những
thuận lợi khi tham gia hệ thống vnedu và cách quản lý của giáo viên chủ nhiệm
thông qua hệ thống và cuối cùng phụ huynh đồng ý tham gia( vì trường THPT
Lang Chánh thuộc huyện miền núi nghèo nên trình độ văn hoá, nhận thức của bà
con còn chậm tiến bộ). Trong ba tuần đầu của năm học tôi thường xuyên liên lạc
với phụ huynh về tình hình học tập cũng như tinh thần thái độ của các em.
Những hôm 03 học sinh bỏ học đi đánh điện tử tôi trực tiếp liên lạc với phụ
huynh để phụ huynh kịp thời đi tìm con em và có biện pháp giáo dục. Còn đối
với những học sinh đi chơi game vào buổi tối quá giờ quy định, chính quyền địa
phương lập biên bản chủ quán và báo về gia đình học sinh và yêu cầu cam kết
nếu còn tái phạm gia đình không được công nhận gia đình văn hoá. Cùng với
phối hợp với gia đình và chính quyền địa phương sau một học kỳ 03 học thuộc
nhóm ba đi học đầy đủ và có ý thức học tập tốt hơn. Sau cuối học kỳ một xét
hạnh kiểm tôi cùng một số học sinh trong lớp nhận xét về tinh thần, thái độ

trong học tập cũng như rèn luyện của 03 học sinh, tạo niềm tin cho các em phấn
đấu trong thời gian tiếp theo.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với đồng nghiệp và nhà trường:
Với ba giải pháp trong sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng cho tất cả
các buổi lồng ghép sinh hoạt cuối tuần và các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp
và có thể mở rộng trong phạm vi toàn trường, và giúp cho giáo viên chủ nhiệm
thực hiện tốt công việc giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh. Để thực hiện tốt,
tôi đã khảo sát như sau:
Chọn lớp 12A2 để thực nghiệm và hai lớp 12A3 đối chứng và kết quả thu
được sau một năm học .
* Đánh giá kết quả
16


- Ý thức của học sinh khi tham gia các buổi sinh hoạt cuối tuần, hoạt động
ngoài giờ lên lớp.
- Số lượng học sinh tham gia trả lời câu hỏi.
- Tính trách nhiệm của học sinh khi phân công nhiệm vụ.
- Sự tiến bộ của những học sinh vi phạm
* Kết quả thực nghiệm
Kết quả
Lớp
Sĩ số

12A2(TN)
12A3( ĐC)

41
41


Số lượng bỏ
học lập gia
đình

0
02

Số lượng học
sinh vi phạm
đánh nhau

Số lượng học
sinh vi phạm
luật giao thông

01
04

01
04

Số lượng
học sinh
cá biệt
(xếp HK
loại yếu)

0
03


3. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN:
3.1. Một số kiến nghị:
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước: Dành tỷ lệ ngân sách phù hợp cho
các hoạt động của nhà trường để góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho học
sinh (phương tiện, trang thiết bị và tài liệu phục vụ cho giảng dạy...)
Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ giáo
viên, đặc biệt là các giáo viên giảng dạy bộ môn giáo dục công dân để cập nhật
kiến thức về pháp luật áp dụng giảng dạy phù hợp với thực tế trình độ của học
sinh.
Đối với các bậc phụ huynh học sinh: Cần quan tâm, có hình thức quyết
liệt hơn nữa trong việc phối hợp cùng với nhà trường để giáo dục nhằm nâng
cao ý thức pháp luật cho con em của mình.
3.2. Kết luận:
Với mục đích nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh, nhằm xây dựng một
thế hệ trẻ có ý thức chấp hành pháp luật tốt; có kiến thức pháp luật để tự bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình; góp phần định hướng và hình thành nhân
cách, lối sống của một người công dân tốt cho thế hệ trẻ; làm lành mạnh hóa xã
hội; bảo đảm trật tự an toàn xã hội, kỷ cương trong gia đình, nhà trường, đáp
ứng yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật. Công tác giáo dục nâng cao ý thức
pháp luật cho học sinh đang trở thành một yêu cầu khách quan trong giai đoạn
hiện nay. Việc trang bị kiến thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm, thói quen pháp
luật là trách nhiệm của bản thân mỗi học sinh, là trách nhiệm chung của gia
đình, nhà trường và xã hội. Trang bị cho các em vốn kiến thức pháp luật, kỹ
năng sống, tạo môi trường thuận lợi cho các em học tập và rèn luyện trở thành
17


những người công dân tốt cho xã hội, biết “ sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật”.

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Lê Thị Tâm

Tài liệu tham khảo
1. Nguồn tài liệu internet trang “ Pháp luật Việt Nam”
2. Báo cáo Hội nghị cán bộ công chức năm học 2016 – 2017 trường THPT Lang
Chánh.
3. Sách trắc nghiệm môn GDCD 12 của nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tác
giả: Nguyễn Thi Thanh Mai – Dương Thúy Nga

18


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Lê Thị Tâm
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ Trưởng CM, Trường THPT Lang Chánh
TT


Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá xếp
loại (A, B,
hoặc C)

Năm học đánh
giá xếp loại
19


Ứng dụng đạo hàm để giải một
1. số bài toán phương trình, bất
phương trình có chứa tham số.
Một số giải pháp nhằm khắc
2. phục tình trạng học sinh bỏ học
ở trường THPT Lang Chánh,
Thanh Hóa

Cấp tỉnh

C

2012 - 2013


Cấp tỉnh

C

2015- 2016

20



×