Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN giáo dục học sinh chậm tiến ở lớp 7b trường THCS trung chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.59 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
TT
I

PHẦN MỞ ĐẦU

Trang
1

1

Lý do chọn đề tài

1

2
3
4
II
1
2
3
4

NỘI DUNG

Mục đích nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm


Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
III KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1
Kết luận
2
Kiến nghị
3 TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
3
3
4
4
6
7
14
14
14
16
18


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Suốt thời gian đi học của mỗi người, hình ảnh người thầy, người cô được
lưu lại trong tâm trí học trò ở một vị trí quan trọng,nhưng trang trọng nhất vẫn là
hình ảnh của người thầy, người cô chủ nhiệm.Đó có thể là sự khâm phục về

chuyên môn, lòng thành kính biết ơn, nhưng cũng có thể là một sự không hài
lòng , không vui hoăc thậm chí là sự nổi loạn đầy tính con trẻ. Vậy sao hôm nay
đây,bản thân chúng ta đang là những nhà giáo dục,tại sao lại không gieo vào tâm
hồn các em những hình ảnh tốt, hướng đến sự phát triển hoàn thiện về nhân cách
và đạo đức của mỗi học sinh.
Trong cuộc sống hiện nay có nhiều tác động đa chiều đến học sinh. Đó là
về các kiến thức xã hội được cập nhật và phố biến rộng rãi qua các kênh truyền
thông, truyền hình, mạng xã hội. Đó là điều kiện kinh tế các gia đình ngày càng
được nâng cao, giúp các em có được sự chăm lo đầy đủ về vật chât lẫn tinh
thần . Bên cạnh đó Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội ngày càng quan tâm
và chăm lo nhiều cho giáo dục. Nhưng nếu không được quản lý sát sao, không
hướng dẫn hợp lý, không được định hướng kịp thời cho các em, thì hậu quả thật
khó lường. Ngày nay, các em chịu nhiều áp lực từ việc học, sự kỳ vọng của
người lớn,thiếu kiến thức pháp luật, thiếu kỹ năng sống,thiếu sự định hướng đạo
đức, cộng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin và mạng xã hội;gia đình thì
sắm điện thoại riêng cho con nhưng không quản lý,quán net, tiệm game thì
nhiều. Bố mẹ vì cuộc sống mưu sinh nên thường đi làm ăn xa, gửi con lại cho
ông bà chăm nom… Điều đó làm các em sao nhãng việc học hành, lời ăn tiếng
nói với người hơn tuổi, với thầy cô đôi khi không bình thường. Vì vậy các em
thường khó bảo, hay quậy phá trong các giờ học, hay bỏ học hoặc nghỉ học
không có lý do. Chất lượng giáo dục về đạo đức và học tập vì thế mà giảm
xuống. Qua quan sát thì đa số các em diện học sinh đã có học lực yếu đều liên
quan đến đạo đức chưa tiến bộ. Các đối tượng học sinh này tạm gọi là “học sinh
chậm tiến”, phần còn lại là những học sinh ngoan nhưng chưa có cố gắng trong
học tập hoặc khả năng hoàn thiện bản thân có hạn. Cho nên muốn nâng cao chất
lượng giáo dục đại trà thỉ cần có cách tác động vào nhóm học sinh này, để các
em biết nghe lời khuyên bảo của thầy cô, biết trân trọng tình cảm của bạn bè và
gia đình. Được như vậy các em sẽ tiến bộ, sẽ học tốt hơn để mỗi giờ lên lớp của
thầy cô sẽ ý nghĩa, nhẹ nhàng và vui vẻ hơn.
Nhưng việc đó không phải một sớm một chiều mà làm ngay được và giáo

dục các học sinh chưa ngoan kia bằng cách nào. Đây chính là trăn trở của bản


thân tôi và nhiều đồng nghiệp khác. Ngày nay khi đối mặt với các học sinh chưa
ngoan các thầy cô hành động như thế nào đây. Roi vọt như ngày xưa thì vi phạm
đạo đức nhà giáo, còn quát mắng lại càng không được và còn ảnh hưởng đến
hình ảnh người thầy. Một là các em sẽ ngoan dần lên và hai là sẽ tiến bộ được
trong học tập. Phần nhiều tôi thấy các thầy cô sẽ làm như sau: Khi lớp có học
sinh bị nhắc nhở, bị ghi sổ đầu bài; học sinh đánh nhau hoặc vi phạm nội quy bị
nhà trường kỉ luật... giáo viên chủ nhiệm thường yêu cầu học sinh viết bản
tường trình và bản kiểm điểm, rồi kiểm điểm hoặc trách phạt trước tập thể lớp,
phản ánh và trao đổi với phụ huynh học sinh,...Tất cả những cách đó vẫn được
nhiều giáo viên chủ nhiệm áp dụng trong thực tế tại các trường hiện nay. Làm
những cách đó rồi mà học sinh không có tiến bộ gì thì phần nhiều giáo viên chủ
nhiệm sẽ chọn cách im lặng,hoặc bỏ mặc học sinh đó. Vậy người giáo viên chủ
nhiệm cần có cách tiếp cận, ứng xử và giáo dục các em “học sinh chậm tiến”
này như thế nào để giúp các em tiến bộ đây?.
Gần đây, có một tỉ lệ không nhỏ các thanh thiếu niên vi phạm pháp luật
hoặc phạm lỗi đều có liên quan đến các em học sinh chưa ngoan khi đang còn
độ tuổi ngồi trên ghế nhà trường. Vậy muốn giảm tỉ lệ phạm tội ở lứa tuổi thanh
thiếu niên trong xã hội thì nhiệm vụ cần làm ngay là giảm ngay số lượng các em
học sinh chưa ngoan khi còn đang tham gia các hoạt động học tập trong nhà
trường, vì đây là cơ hội để giáo dục những đối tượng học sinh đó một cách dễ
dàng nhất. Thực tế, chưa có một sự thống kê hay báo cáo chính thức nào của
mỗi nhà trường về số lượng và sự tồn tại có thực về những học sinh chưa ngoan
trong trường phổ thông nói chung và cấp THCS nói riêng. Nhưng lảng tránh nói
về điều này hoặc nói không có là không đúng và không có tác dụng giải quvết
vấn đề.
Qua các xem xét tìm hiểu của cá nhân, tham dự các lớp học chuyên đề, tìm
hiểu qua đồng nghiệp, cũng như các văn bản chỉ đạo điều hành hướng dẫn các

hoạt động giáo dục trong năm học của các cấp quản lí. Tôi không thấy đề cập
đến phương pháp giáo dục, giúp đỡ học sinh chưa ngoan hay các kinh nghiệm
khi lên lớp hoặc làm chủ nhiệm lớp có đối tượng học sinh này. Tôi thấy đây là
một lỗ hổng rất đáng được quan tâm vì xã hội ngày càng phức tạp, tỉ lệ tội phạm
vị thành niên ngày càng gia tăng trong những năm qua, các tệ nạn xã hội đang
tấn công vào người trẻ trong đó có những học sinh lứa tuổi THCS như: ma túy
đá, nghiện game, trộm cắp, hiếp dâm.. .Ví dụ: Vụ 5 học sinh lớp 9 trường THCS
Loóng Luông, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La hiếp cô giáo N.T.H đêm hôm ngày
24/12/2015. Rồi vụ án do một học sinh lớp 9 trường THCS Hà Thái - Hà Trung


xảy ra trong năm 2015 cướp giật,có cả giết người….
Với tất cả lí do trên tôi chọn viết sáng kiến kinh nghiệm “ Giáo dục học
sinh chậm tiến ở lớp 7B trường THCS Trung Chính” sau khi được phân công
làm giáo viên chủ nhiệm lớp 7B. Đây cũng là cơ hội để tôi được nói lên suy nghĩ
của mình và đi tìm một sự đồng cảm, sự chia sẻ ở các đồng nghiệp, qua đó thể
hiện mong muốn được trao đổi phương pháp giáo dục HS chậm tiến trong chính
lớp tôi chủ nhiệm và nhà trường nơi tôi đang công tác. Từ đó để bản thân làm tốt
hơn công tác giáo dục nhân cách, đạo đức và con người của học sinh trong nhà
trường hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu, hoàn thiện đề tài rồi áp dụng để giảm số lượng và tỉ lệ học sinh
chậm tiến ở trong trường THCS Trung Chính nói riêng. Qua đó tôi cũng muốn
trao đổi kinh nghiệm làm chủ nhiệm lớp với các đồng chí trong cùng trường.
Góp phần làm giàu thêm các tài liệu về kinh nghiệm làm chủ nhiệm lớp có các
học sinh cá biệt, chưa ngoan. Làm tốt công tác chủ nhiệm và nâng cao chất
lượng đạo đức cho học sinh là góp một phần nhỏ trong việc định hướng nhân
cách và qua đó giảm tỉ lệ học sinh, thanh thiếu niên vi phạm pháp luật, phạm tội
trong nhà trường và ngoài xã hội
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

3.1 Đối tượng nghiên cứu.
- Tâm lí lứa tuổi đặc trưng của học sinh THCS.
- Nhân cách và sự ảnh hưởng nhân cách người thầy đến học trò - - Tổng kết
các kinh nghiệm và cách ứng xử với học sinh chưa ngoan đạt hiệu quả cao.
- Một vài tình huống mà tôi đã trải nghiệm với học sinh qua các năm học ở
các trường đã dạy(THCS Trường Trung).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Học sinh chậm tiến của lớp 7B trường THCS Trung Chính khóa học
2015-2019
4. Phương pháp nghiên cứu. Tôi
đã sử dụng các phương pháp:
- Đọc và tìm hiểu qua tài liệu, sách báo.
- Qua các modul của chương trình BDTX (Modul 3- trong năm học 2016 –
2017) khi xây dựng cơ sơ lí thuyết.
- Nói chuyện, quan sát, lắng nghe, tìm hiểu đối tượng học sinh qua
bạn bè, hàng xóm, người thân, bố mẹ,cán bộ thôn xóm,… khi khảo sát thực tế,
thu thập thông tin, thống kê xử lí số liệu thu thập được.


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
1.1.Đặc điềm tâm sinh lí của lứa tuổi học sinh THCS.
Do đặc thù của sự phát triển tâm sinh lí lứa tuổi, các em đang tập làm
người lớn, lứa tuổi này được phản ánh bằng các tên gọi khác nhau như: “ Thời kì
quá độ", “Tuổi khó bảo", "Tuổi khủng hoảng”, “Tuổi bất trị"…. Hầu hết mọi
thầy cô chủ nhiệm đều biết đến điều này nhưng cách tiếp cận và ứng xử thì
không nhiều thầy cô thành công như mong đợi. Ở những thầy cô thất bại trong
công tác quản lí và giúp đỡ học sinh thì ít chịu đổi mới công tác chủ nhiệm,bỏ
mặc, còn dập khuôn giáo điều, luôn cho mình cái quyền được đúng, ít lắng nghe
và tìm hiểu nguyện vọng của học sinh, không đặt mình vào vị trí của các em và

nhớ về tuổi đi học của mình để hiểu được các em hơn. Hầu hết các thầy cô chỉ
đưa ra yêu cầu dạng mệnh lệnh hoặc bắt một đứa trẻ phải mang một tính cách
của người lớn. Vì khi thấy các em sai đã vội vàng kết luận và trách phạt mà
không cho các em cơ hội được nói, được sửa sai. Điều này chẳng khác gì bắt
người lớn chúng ta phải mang tính cách của một đứa trẻ.
1.2. Ảnh hưởng của tấm gương, nhân cách của người thầy đối với sự hình
thành nhân cách học trò.
Trong các hoạt động giáo dục và giúp đỡ học sinh chưa ngoan thì người
thầy phải là nhà thực hành trong các hoạt động thực tiễn.Tuyệt đối tránh tình
trạng nói có nhưng đi đôi với không làm hoặc nói suông. Ví dụ như có hiện
tượng là nhà trường có nội quy là giáo viên không được sử dựng điện thoại khi
lên lớp, học sinh không được sử dụng điện thoại khi đến trường vậy mà giáo
viên vẫn có người sử dụng khi lên lớp, hỏi vậy thì sao nói được học sinh. Khi
trách phạt bằng giao việc cho học sinh nhưng không kiểm tra cẩn thận, không
chỉ ra được học sinh làm tốt, học sinh chưa hoàn thành. Phạt học sinh vi phạm
cần tránh hình thức phạt bằng tiền. Chỉ có lao động và thông qua lao động thì
con người ta nói chung và những học sinh chưa ngoan của chúng ta nói riêng,
mới thấm nhuần được tinh thần của giáo dục - giáo dưỡng. Một người thầy khôn
khéo sẽ chọn thời điểm có thể lao động cùng học sinh, để qua đó nắm bắt tâm tư
tình cảm, tạo dựng các mối liên hệ tin tưởng lẫn nhau giữa thầy và trò. Khi giáo
viên đã được học trò tin tưởng, tin yêu rồi thì công việc chủ nhiệm sẽ nhẹ nhàng
hơn rất nhiều.
Nhà giáo dục K.Dushinsk từng viết: “Không còn nghi ngờ gì, kỷ cương
trong nhà trường có vai trò to lớn, nhưng điều chủ yếu, quvết định vẫn là ở


nhân cách của người giáo viên trực tiếp làm việc với học sinh. Nhân cách của
nhà giáo dục có sức mạnh to lớn đối với học sinh đến mức không thể thay thế
bằng sách giáo khoa, những lời khuyên bảo về đạo đức, hệ thống khen thưởng
và kỷ luật nào cả” (K.Dushinsk - Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam.)

1.3 .Kỉ luật, kỉ cương của các thầy cô chủ nhiệm đối với học sinh hiện nay.
Để làm được tốt công tác chủ nhiệm lớp trong tình hình hiện nay, người
giáo viên càng cần lắm một tình thương nhiều hơn với học trò. Cần thương học
sinh như con em mình, coi các em và bản thân mình là một khối thống nhất
không thể tách rời, như một gia đinh thứ 2 vậy. Mỗi việc làm, mỗi hành động,
mỗi lời nói của giáo viên đều tác động đến học sinh.Các em cũng đã biết nhận
xét đánh giá, so sánh khá sâu sắc về mỗi việc giáo viên đã làm, mặc dù chẳng
bao giờ chúng ta nghe được điều đó.
Vậy nên mỗi giáo viên hãy chọn cách làm sao cho các em được nhận
những điều tốt đẹp nhất. Đó chính là sự nghiêm khắc, chuẩn mực của người giáo
viên, sự công bằng và minh bạch trong các quyết định, không bao che lỗi lầm
của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm cần tạo cơ hội để học sinh sửa sai, kết hợp
uốn nắn và động viên kịp thời, biết dùng lời khen khi học sinh có tiến bộ dù là
nhỏ nhất.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Thực trạng chung.
Công tác chủ nhiệm lớp ở trường THCS hiện nay thường được giao cho
một giáo viên quản lí, với sổ tiết giảm trừ là 4 tiết/tuần, công việc chủ nhiệm lớp
thường mất nhiều thời gian của giáo viên. Ngoài những buổi sinh hoạt 15 phút
đầu mỗi buổi học, người giáo viên chủ nhiệm còn phải hoàn thành các hồ sơ của
lớp chủ nhiệm, trực tiếp giải quyết những vân đề xảy ra với lớp chủ nhiệm, tiếp
phụ huynh học sinh, làm việc với ban đại diện cha mẹ của lớp,...
Một gia đình hai vợ chồng dạy dỗ hai đứa con nhiều khi còn vất vả. Nhưng
ở đây, một giáo viên phải giáo dục, quản lí từ 25- 30, thậm chí nhiều hơn nữa.
Từng ấy học sinh là từng ấy hoàn cảnh, điều kiện sống, từng ấy cách giáo dục
con cái khác nhau của mỗi gia đình. Tập hợp các em lại trong một tập thể lớp,
hướng dẫn, giáo dục các em để cùng nhau nhìn về một hướng, cùng đoàn kết yêu thương, học tập và tiến bộ. Công việc như vậy để làm tốt thì thật sự là
không dễ dàng với người giáo viên chủ nhiệm. Nếu giáo viên chủ nhiệm không
biết tự làm mới công việc chủ nhiệm thì quản lí lớp sẽ rất vất vả. Nếu lớp mà
còn có vài học sinh chưa ngoan, hay phạm lỗi hay vi phạm kỉ luật thì thực



sự là mệt mỏi vô cùng.
2.2. Thực trạng với học sinh.
Giúp đỡ, giáo dục và quản lí học sinh hiện nay đang là vấn đề có nhiều khó
khăn với công tác chủ nhiệm ở trường phổ thông nói chung và trường THCS nói
riêng. Kinh tế xã hội nước ta hiện nay có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống
nhân dân được nâng cao. Các hoạt động văn hóa giải trí, truyền thông ngày càng
nở rộ. Mặt trái là học sinh ngày nay quan tâm nhiều đến trò chơi điện tử, mạng
xã hội, điện thoại di động, kỹ năng sống còn hạn chế. Chuyện say mê đèn sách
ngày càng ít dần đi với một số bộ phận học sinh. Hằng ngày, hằng giờ mối quan
tâm của một số không nhỏ học sinh THCS là lên facebook đăng ảnh, bình luận,
nhắn tin cho nhau. Một số em còn dùng cách nói trên mạng vào ngôn ngữ đời
sống thực, ít quan tâm đến bạn bè, thầy cô và những người xung quanh vì quá
chú tâm vào cuộc sống ảo. Có nhiều em học sinh nam thì ham vào chơi điện tử.
Ban đầu các em chỉ chơi tranh thủ sau mỗi buổi đi học về, sau thì bỏ cả học, bỏ
cả việc nhà để chơi, chơi thấu ngày đêm, nhiều gia đình phải đi tìm con trong
các quán đó... Càng ngày, tính cách những em này trở nên khó bảo, khó gần, dễ
nổi nóng với bạn bè và có khi cả với thầy cô và người thân trong gia đình . Thực
tế ở địa bàn xã Trung Chính hiện nay có một số không nhỏ các em lứa tuổi
THCS đã phải đối mặt với những khó khăn không phù hợp với lứa tuổi của
mình. Đó là cha mẹ đi làm ăn xa, một hai năm mới về một lần…các em được
gửi ở với ông bà nên mọi sinh hoạt được “tự do - tự tại’’ quá sớm. Từ đây đã có
những em có hành vi, thái độ chưa ngoan, hay vi phạm nội quy ,bị nhắc nhở về
ý thức kỉ luật và nề nếp của lớp, của trường, thậm chí cả ở địa phương.
2.3.Thực trạng đối với giáo viên.
Phải nói thật rằng công tác chủ nhiệm lớp càng ngày càng khó, cùng với
ngày càng thêm việc, vậy nên phần nhiều giáo viên gặp khó khi làm công việc
kiêm nhiệm này. Muốn làm tốt công tác chủ nhiệm lớp có học sinh chưa ngoan
cần một tấm lòng, một tình yêu thương, sự thấu hiểu, tình thương và cảm thông

với học trò thì không còn có việc gì là khó nữa. Ngoài ra các giáo viên đứng lớp
cũng cần phải “đều tay”, thống nhất cùng nhau, tránh tình trạng giờ cô A thì học
sinh học đâu ra đấy,giờ cô B thì lại ồn như chợ vỡ do cô B non tay trong quán lí
giờ dạy. Mỗi giáo viên khi xử lí tình huống với học sinh chưa ngoan cần đặt
mình vào hoàn cảnh của các em,để hiểu rồi mới cảm hóa giáo dục được chính
các em .


3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề.
Qua kinh nghiệm thực tế và những quan điểm đã được trình bày ở trên, tôi
xin đưa ra một vài giải pháp cá nhân hằng mong nhận được sự trao đổi, đóng
góp ý kiến của các đồng nghiệp cùng cơ quan và các cấp quản lí trong ngành
giáo dục.
3.1. Giải pháp 1. Xây dựng và đặt niềm tin, tạo mối quan hệ tốt với
từng học sinh
Tìm hiểu rõ đặc điểm cá nhân học sinh lớp chủ nhiệm thông qua bạn bè.
Bạn hãy nói chuyện tập thể hoặc nói chuyện riêng, kết hợp với đến chơi và thăm
gia đình một vài học sinh cần đặc biệt qua tâm. Đó là công việc mỗi giáo viên
chủ nhiệm cần phải làm nếu muốn làm tốt công việc chủ nhiệm lớp của mình.
Tại sao có những giáo viên họ làm công tác chủ nhiệm lớp rất nhẹ nhàng, không
bao giờ nghe thấy họ quát mắng hoặc la rầy học sinh, họ dễ dàng truyền đạt
những mong muốn hay ý kiến chỉ đạo đến học sinh,để có được điều đó bạn phải
tạo dựng được sự tin tưởng của học sinh. Bạn là người mà không bao giờ đặt
học sinh xuống dưới bản thân. Giáo viên phải đặt học trò và nhân cách của các
em lên trên bản ngã cá nhân mình, qua đó để hiểu các em nhiều hơn và cùng là
để các em hiểu thầy (cô) được đầy đủ hơn. Nên sử dụng các câu hỏi như: Tại
sao em thường hay đến trường muộn vậy? Em không nghe lời thầy (cô), vậy em
có lí do gì không? Tại sao em hay vi phạm nội quy của lớp của trường như
thế?,... Để nghe được các câu trả lời thành thật thì người giáo viên phải được

học sinh tin tưởng. Có một thực tế, trong nhiều tình huống học sinh vi phạm
đang trình bày theo yêu cầu của thầy (cô), đến phần giáo viên cho rằng em ấy
không nói thật nữa thì lại cho dừng kèm những câu nói như: Thôi thôi tôi hiểu
rồi, thôi anh (chị) không cần nói nữa, anh (chị) tưởng tôi không biết sao mà nói
như vậy, ...Như vậy giáo viên đã tự để mất một cơ hội để hiểu học trò hơn. Có
thể giáo viên biết là học sinh đang nói sai nhưng hãy cố gắng để nghe hết câu
chuyện. Sau đó nói với em đó rằng từ nãy đến giờ thầy (cô) đang muốn nghe
câu chuyện thật của em cơ, câu chuyện đó khác câu chuyện em vừa kể.
Tôi muốn kể ra ở đây câu chuyện đã xảy ra vào năm 2008. Năm học 20082009, tôi chủ nhiệm 9B trường THCS Trường Trung, lớp tôi có em Nguyễn Thị
Tiên, một cô học sinh chuyển từ Miền Nam ra và được biên chế vào lớp tôi học.
Trong quá trình học, qua phản ánh của các học sinh thì bạn ấy thường xuyên
không tham gia trực nhật với tổ vì hay đi muộn. Tôi cũng có nhắc nhở nhưng


qua theo dõi thì tình hình không có thay đổi gì. Em Tiên vẫn trả lời tôi và cả lớp
là không thể đi sớm được. Tôi đã quyết định cùng lớp trưởng tìm hiểu qua bạn
bè và đến thăm nhà em Tiên thì thấy hoàn cảnh rất khó khăn. Mẹ mất sớm, em
còn nhỏ, bố đi làm thuê xa, bà nội thì đau yếu. Một mình em vừa làm ruộng, vừa
lo toan mọi việc trong gia đình. Tôi đã rất xúc động với những khó khăn mà em
đang phải gánh vác. Mỗi sáng phải lo cơm, cháo cho bà nội,cho đứa em còn
nhỏ, rồi công việc nhà buổi sáng... Tôi đã hiểu vì quá nhiều việc nên em không
thể kịp đi trực nhật được. Sau đó,tôi đã đưa câu chuyện của em Tiên ra trước lớp
và lớp trưởng cùng với các bạn trong lớp bàn bạc lên kế hoạch giúp đỡ em Tiên.
Về sau này em Tiên đã rất tiến bộ. Tôi hiểu các học sinh của tôi đã hiểu tôi và
cảm thông với bạn Tiên từ đây.
Kinh nghiệm được rút ra là: Để được học sinh tin tưởng, để có được mối
quan hệ tốt với học trò, để học trò biết lắng nghe bạn nói, hiểu những điều bạn
mong muốn và truyền đạt, thì bạn phải biết lắng nghe và thấu hiểu học trò,đó
cũng là điều kiện cần phải có của mỗi giáo viên chủ nhiệm.
3.2 Giải pháp 2. Trách phạt và kỉ luật học trò vi phạm thì người giáo

viên chủ nhiệm cần phải đặt trách nhiệm cá nhân của mình vào trong dó.
Cái cần được hiểu và nói rõ trách nhiệm ở đây là một sự tự nguyện có chủ
định của người giáo viên, chứ không phải vì áp lực của một bên nào đó. Khi lớp
bạn có học sinh bị nhắc nhở, đánh nhau hoặc vi phạm nội quy bị lớp hoặc nhà
trường kỉ luật,... người giáo viên chủ nhiệm cần cư xử như thế nào với học sinh
đó, yêu cầu viết bản tường trình và kiểm điểm, trách phạt trước tập thể lớp, phản
ánh với phụ huynh học sinh, gặp phụ huynh... Tất cả những cách đó vẫn được
nhiều giáo viên chủ nhiệm áp dụng trong thực tế tại các trường hiện nay. Nó tạo
ra niềm tin với những giáo viên chủ nhiệm rằng mình đã làm đúng và đó là sự
lựa chọn khôn ngoan. Đúng, điều đó dễ dàng có kết quả với những học sinh
không có cá tính mạnh, những học sinh vi phạm lần đầu hoặc những học sinh có
nề nếp gia đình cơ bản. Còn với những học sinh có cá tính mạnh mẽ, cái tôi cá
nhân bộc lộ sớm nếu học sinh này vi phạm thì đây là những học sinh khó bảo,
“cứng đầu”. Giáo viên mà áp dụng những cách làm trên thì chắc chắn không
hiệu quả và là một thất bại được báo trước. Điều giáo viên cần làm lúc này là tạo
ra tình huống để người học sinh đó thấy rằng thầy (cô) của em cũng là một
người bạn, người sẵn sàng chia sẻ những gì mà em sẽ phải trải qua khi vi phạm
kỷ luật. Tình huống này chỉ giáo viên và học sinh đó biết để em ấy không phải
xấu hổ với bạn bè, đó cũng là cách chúng ta tôn trọng nhân cách học trò.


Câu chuyện tôi muốn chia là: Năm học 2016-2017 tôi được phân công chủ
nhiệm lớp 7B. Tôi biết rằng trong lớp có nhiều học sinh đặc biệt cả về nhân cách
và hoàn cảnh gia đình. Trong lớp tôi chú ý vào học sinh Nguyễn Duy Quang, tìm
hiểu tôi biết bố mẹ em đi làm ăn xa, gửi em cho ông bà nội gìa yếu nên không
quản lý được. Em Quang thường xuyên tự do - tự tại một mình,ít ở nhà và
thường xuyên đi chơi, học hành thì chểnh mảng, không tập trung, ít học bài cũ, ít
và thậm chí không làm bài tập ở nhiều môn học . Có hôm tôi gọi em lên bảng
kiểm tra bài cũ, vở ghi, vở bài tập thì em đi lên và không có vở gì cả, em còn
nói: “Em không học bài cũ, cũng không có vở gì cả cô à”. Tôi thực sự giật mình

vì sự không nghiêm túc của em, nhưng tôi vẫn giữ vẻ bình thản và nói nhỏ
“Nghĩa vụ của học sinh là học bài và trả bài. Đó là dịp để thể hiện bản thân
trước các bạn.Em nói như thế là không được rồi. Hôm nay cô không kiểm tra
em nữa nhưng cô sẽ cho em cơ hội và kiểm tra vào tiết học sau”. Tôi nghĩ đó
chính là tạo cơ hội để học sinh sửa sai và cho học sinh tự tìm thấy niềm vui
trong học tập. Và tiết học sau em Quang đã tự nguyện xung phong lên bảng trả
bài, vở ghi, vở bài tập đầy đủ.
Kinh nghiệm đưọc rút ra là: Mỗi người thầy, người cô nên tạo lôí mở với
học trò,để học sinh tự nguyện trao niềm tin cho bạn.
3.3 Giải pháp 3. Khen và động viên học sinh kịp thời trước tập thể,
hạn chế chê học trò và tuyệt đối không chì chiết hay so sánh học sinh với
một đối tượng nào đó.
Giáo viên chúng ta đã là người lớn vậy mà một lời khen đúng lúc, nhẹ
nhàng, hợp thời điểm, đúng thực tế bạn còn muốn nghe, huống chi là một đứa
trẻ với tuổi bắt đầu trưởng thành. Thực tế chỉ ra rằng một lời khen đúng thời
điểm, kịp thời với học sinh có tác dụng rất to lớn, nó thúc đẩy con người ta
muốn làm thêm nhiều việc tốt nữa để được ghi nhận và khẳng định giá trị bản
thân.
Nhưng thực tế có bao nhiêu giáo viên chủ nhiệm đã hành động theo cách
này. Khi một học sinh thực hiện tốt nội quy, hoàn thành tốt công việc được giao
thì bạn lại cho rằng đó là việc học sinh đó phải làm. Khi giáo viên phạt một học
sinh và khi em ấy hoàn thành thì bạn nghĩ rằng em ấy xứng đáng phải bị phạt
như vậy, thay vì một lời khen và động viên thì bạn nói với học sinh rằng nếu còn
tái phạm tôi sẽ phạt nặng hơn vì bạn nghĩ răng như vậy sẽ đe dọa được học sinh
này. Bạn đã sai vì như vậy chỉ làm cho học sinh ấy chai sạn và bất hợp tác với
bạn trong những lần sau. Để tạo điều kiện cho các em chưa ngoan được thể hiện


mình và được khen bạn hãy giao những việc từ nhỏ nhất, để các em dần tham
gia vào các công việc của tập thể, qua đó nhằm hình thành tinh thần và trách

nhiệm với tập thể lớp và với thầy (cô) chủ nhiệm.
Trong một dịp nhà trường tổ chức hội nghị.Lớp tôi được phân công lau
dọn,vệ sinh cho phòng họp. Trong quá trình phân công công việc,trong lớp có
em Nguyễn Văn Tâm, trước đây cùng là một học sinh khó bảo,có biểu hiện
“cứng đầu”. Nhưng trong khi phân công, em đã tự nguyện xung phong mang
dụng cụ lau nhà từ nhà mang đến và làm việc một cách rất tự giác và có hiệu
quả. Sau khi công việc kết thúc, khi nhận xét hiệu quả của công việc, tôi đã nói
trước tòan tập thể lớp : "Nếu mỗi bạn nghĩ cho tập thể một chút, bớt tự ái cá
nhân của mình đi một chút,đừng tị nạnh hơn kém nhau thì mọi công việc của lớp
sẽ suôn sẻ đi nhiều. Bạn Tâm lần này làm cô thấy rất vui và hài lòng vì tinh thần
với tập thể. Cô rất mong em Tâm và các bạn trong lớp hãy ghi nhớ những việc
mình đã làm, rồi hãy cố gắng làm tốt hơn ở những lần sau".
Trong các buổi lên lớp, các buổi sinh hoạt lớp, nói chuyện ngoài giờ, sinh
được những mặt tích cực và hạn chế cần khắc phục của từng học sinh, sau đó
mỗi cuối tuần bạn phải tự tổng hợp và có đưa ra nhận xét sát đúng với từng vấn
đề và những học sinh mà bạn đang quan tâm. Điều này cũng không mất nhiều
thời gian như chúng ta vẫn nghĩ. Giáo viên cần phải khéo léo lồng ghép khen
trước và nếu cần chê thì phải chê sau.
Kinh nghiệm được rút ra là: Trong dạy học cũng như trong cuộc sống,
mỗi người, mỗi học sinh đều có điếm tốt, điểm xấu riêng. Chúng ta là những nhà
sư phạm thì cần tìm ra điểm tốt ở mỗi học sinh, tăng cường khen và động viên
kịp thời đê các em phát huy điểm tốt đó. Đồng thời cũng chỉ ra cái chưa tốt và
hướng khắc phục - giúp đỡ để các em hoàn thiện. Mỗi khi người giáo viên đứng
trước học sinh thì cần tỏ thái độ nghiêm túc mà gần gũi, hòa đồng mà trang
trọng, tuyệt đối tránh hiện tượng quát mắng học trò và dùng những lời nói không
trong sáng hoặc so sánh học trò với những đối tượng hay con vật nào đó. Cũng
không thể dễ dãi với học sinh, tình thương và sự mong muốn học trò tiến bộ
không có chỗ cho sự dễ dãi hoặc như câu nói của ông cha thường nói là: “Cá mè
một lứa”. Nếu không bạn sẽ bị học trò chi phối. Đã bao nhiêu lần mà bạn nói
học sinh không nghe, bạn đưa ra yêu cầu mà học sinh không thực hiện,... bạn

cảm thấy bị bất lực với một hoặc vài học sinh nào đó. Khi đó sức mạnh, cái uy
cần có của một giáo viên chủ nhiệm của bạn đã bị mất và bạn không quản lý
được lớp chủ nhiệm theo cách tốt nhất.


3.4. Giải pháp 4. Giáo viên phải biết chấp nhận và có lòng yêu thương
hoc sinh.
Frank McCourt - một thầy giáo người Mỹ (người từng đoạt giải nhà giáo
của năm 1967 đông thời là chủ nhân của giải Publitzer năm 1996) trong hồi ức
đồng thời là tác phẩm văn học “Người thầy” đã kể: Trường hướng nghiệp nơi
thầy dạy được xem là “bãi rác” cho những học sinh không đủ trình độ vào
trường Trung học bình thường. Ngày nhận lớp cùng là ngày thầy đứng quan sát
chúng quậy phá, la ó... đủ kiểu. Cao điểm là lấy bánh mì ném nhau và một học
sinh lên tiếng: “Để xem tay thầy giáo mới này sẽ làm gì?”. Frank McCourt nói
ông cố nghĩ về những kiến thức được học ở Trường ĐH Sư phạm New York để
tìm cách đối phó. Tiếc là chỉ có những triết lý giáo dục, các mệnh lệnh đạo đức
và luân lý, mà không có cách giải quyết tình huống... “ném bánh mì”. Cuối
cùng, ông quyết định... ăn chiếc bánh mì. Ông viết: “Đó là hành xử đầu tiên của
tôi trong lớp. Cái miệng đầy bánh của tôi thu hút sự chú ý của cả lớp. Chúng trố
mắt nhìn tôi đầy nét thán phục... Tôi nghĩ, tôi đã nắm được chúng trong tay...”.
Kinh nghiệm được rút ra là: Đôi khi chúng ta phải hi sinh cái tôi cá nhân
của mình, chấp nhận thực tế bằng lòng yêu thương chứ không phái bằng sự chán
chường. Bạn có thể mệt mỏi nhưng không được bi quan, ca thán hay bỏ cuộc.
Bởi nếu bạn thành công thì ý nghĩa giáo dục, thành quả bạn thu được là rất to
lớn. Người học sinh mà bạn cảm hóa bằng tình thương sẽ không quên được bạn
trong hành trang vào đời của em ấy.
3.5 Giải pháp 5. Sử dụng sức mạnh của ánh mắt và ngôn ngữ trong
sáng của tiếng Việt đê tạo ra sức mạnh về hình ảnh và cái uy của người thầy
trong tâm trí học trò.
Sử dụng sức mạnh của ánh mắt - “cửa sổ tâm hồn”. Có thể ít giáo viên nói

chung và giáo viên chủ nhiệm nói riêng để ý đến điều này. Đôi mắt là “cửa sổ
của tâm hồn” nó có sức mạnh bằng cả ngàn lời nói. Người giáo viên nên tập sao
cho học sinh của bạn hiểu những mong muốn của bạn qua ánh mắt, muốn vậy
bạn cần nói rõ điều này cho học sinh của bạn được biết. Tôi thường xuyên nói
với học sinh của mình rằng hãy nhìn vào ánh mắt của thầy cô để hiểu điều thầy
cô đang mong muốn. Bạn cần tập sao cho phát huy hết sức mạnh của nó, dùng
đôi mắt và ánh mắt bạn nhìn học sinh để điều khiển và truyền tải thông tin mà
bạn muốn học sinh thể hiện. Khi người giáo viên làm tốt được điều này thì bạn
sẽ nhẹ nhàng đi rất nhiều trong công tác chủ nhiệm lớp. Ví dụ như: Bạn vào lớp
mà thấy học sinh đang không nghiêm túc, bạn nên dừng bài rồi đưa mắt về phía


đó, bạn chỉ mất 30 giây để làm cho học sinh đó trở lại bình thường mà không
mất một lời nào. Đó là sức mạnh của ánh mắt và sự im lặng, sự im lặng của thầy
cô là điều đáng sợ nhất với học trò. Tôi có nghe và để ý thấy có một vài thầy cô
nếu vào lớp mà học sinh chưa nghiêm túc, thì cầm thước gõ xuống bàn hay đập
lên bảng, những tiếng kêu phát ra nghe rất khó chịu cho học sinh và cả giáo viên
lớp bên. Nếu giáo viên đó vẫn giữ thói quen này thì mãi mãi bạn phải sử dụng
nó vì bạn đã tập cho học sinh thói quen và cái “phản xạ có điều kiện” này. Để có
được sự nghiêm túc, giúp đỡ và dạy dỗ được những học sinh chưa ngoan trong
một tập thể lớp, người thầy người cô cần phát huy tối đa ánh mắt và ngôn ngữ
của mình. Đây là một gợi ý nhỏ của tôi: Khi bạn bước vào lớp, đây là khoảnh
khắc quan trọng nhất của thầy và trò trong một tiết học và có khi là cả ngày đi
dạy của bạn. Bạn đừng chào học sinh một cách cho có, một số giáo viên khi vào
lớp học sinh còn đang đi lại tự do, học sinh đang lau bảng hay đang quay xuống
và có cả học sinh còn chưa đứng dậy mà đã cho học sinh ngồi xuống. Điều này
bạn vô tình đã tập cho học sinh thói quen xấu là ít tập trung vào những việc các
em đang thực hiện. Vậy thì khi giảng bài bạn sẽ mong học sinh học như thế nào.
Điều bạn cần làm nhân cơ hội này là truyền tải một thông điệp đến cho những
học sinh cả lớp rằng bạn là một người nghiêm túc, tập trung vào việc mình đang

làm và luôn đòi hỏi học sinh của mình cũng như vậy, ở đây không có sự dễ dãi.
Muốn như vậy khi vào lớp bạn nên sử dụng khoảng 25 đến 30 giây để đưa mắt
quan sát tất cả các ánh mắt các em đang nhìn bạn, em nào đang chưa nghiêm túc
bạn hãy dừng ánh mắt ở đó và tỏ ra không hài lòng (cần phải nói), tôi chắc chắn
rằng qua một vài buổi bạn sẽ nhận được kết qủa tích cực từ học sinh. Bạn cho
các em ngồi và nói rằng lần sau khi đứng chào thầy các em nên nhìn vào mắt
thầy cô vì khi đó thầy cô cũng đang nhìn để chào các em, vì chẳng có ai chào
nhau mà không nhìn vào mắt nhau hay mặt lại quay đi chỗ khác cả. Tôi tin rằng
bạn sẽ dần đưa nền nếp của lớp vào quỹ đạo mà bạn mong muốn chỉ bằng vài
cách cư xử nhẹ nhàng như vậy.
Sử dụng ngôn ngữ trong sáng của tiếng Việt và chuẩn mực với học trò. Người
giáo viên nên gọi học sinh là “em” hoặc tình cảm hơn là “trò” và trong mọi trường
hợp đều phải xưng là “thầy” hoặc “cô”, tại sao lại phải như vậy ?. Tôi quan sát các
đồng nghiệp quanh tôi khi họ không hài lòng về một việc gì đó với học sinh, họ
thường sử dụng những từ để gọi học sinh không được thích hợp cho lắm, họ gọi
học sinh là anh (chị) và xưng tôi. Hay nặng nề hơn là ví học sinh là một con vật gì
đó..., mới nghe tưởng như vậy là răn đe và dọa nạt được học


sinh, có sức nặng để quy phục học sinh, nhưng theo tôi không phải như vậy.
Giáo viên gọi học sinh là các anh, các chị và xưng tôi thường xuyên, thứ nhất sẽ
không phù hợp với học sinh lứa tuổi THCS vì các em vẫn còn chưa đến tuổi
trưởng thành. Thứ hai, gọi như vậy sẽ ảnh hưởng đến hình ảnh người thầy của
bạn trong tâm trí học trò. Học sinh sẽ nghĩ đến bạn như một người dạy họ chứ
không phải là người thầy đúng như ý nghĩa. Khi bạn gọi học sinh là em (trò) và
xưng là thầy hoặc cô thì như một lẽ tự nhiên, từ “thầy (cô)” đã nâng bạn lên một
bậc cao mới mà điều này người khác không dễ dàng có được. Người giáo viên
vì vậy dễ dàng truyền đạt dụng ý của mình đến học sinh. Giúp học sinh nhận ra
các mối quan hệ “thầy - trò” và “trò – thầy” cần có trong nhà trường. Nó cũng
như các mối quan hệ cần phải có trong một gia đình vậy. Mặt khác nó còn giúp

giáo viên tạo ra không khí của các buổi nói chuyện hay giáo dục thêm ấm áp,
gần gũi. Bạn đã dùng sức mạnh mềm để đạt được những việc mà bạn mong
muốn. Để có những ví dụ về sự hiệu qủa của ngôn ngữ tác động đến tâm lí học
sinh và sức mạnh vô hình của nó, ta có thể đối chiếu các câu thường được dùng
và các câu gợi ý thay thế sau đây:
- Anh (chị) ra đây tôi bảo = Em ra đây thầy (cô) có việc muốn hỏi.
- Hôm nay anh (chị) làm tôi mất mặt với Ban giám hiệu quá = Hôm nay
các em đã làm thầy (cô) không được vui đấy, em hiểu là sao không?.
- Anh(chị) cứ nói tôi nghe xem nào = Em có gì để nói và giải thích với thầy
(cô) không, v.v... Ngoài ra khi gọi học sinh là em và xưng thầy (cô) thì bạn đã
tôn trọng bản thân mình. Tại sao nhà trường, xã hội và chính các em đã ban cho
giáo viên một tiếng thầy (cô) và nhận là trò, giáo viên lại tự mình vứt bỏ nó.
Cũng nói rằng mỗi khi giáo viên dùng những từ ngừ không chuẩn mực, thì bản
thân giáo viên cũng không được thoải mái. Điều đó chỉ giúp giáo viên giải tỏa
được sự bực dọc và nóng giận khi đó, nhưng hậu quả của nó thì giáo viên phải
dần dần hứng chịu. Đó là sự cứng đầu của học sinh ngày càng rõ nét, bạn dần
nhận ra rằng những lời nói kia ngày càng mất dần sức mạnh và tác dụng, mà lúc
đầu bạn không nhận ra điều đó. Tuyệt đối không gọi học sinh và sử dụng các từ
ngữ không trong sáng trong nhà trường. Không nên so sánh hai học sinh hoặc
một nhóm học sinh với nhau dưới mọi hình thức. Tốt nhất những lúc nóng giận
giáo viên không nên nói gì nhiều và không được nói nặng nề với học sinh, chắc
chăn học sinh sẽ bất ngờ và "‘giật mình" với những ứng xử của bạn. Khi đó giáo
viên sẽ dễ dàng hơn trong việc đưa ra các câu hỏi và các yêu cầu với học sinh vi
phạm. Đây là cơ hội để bạn hoàn thiện nhân cách và phát triển ngôn ngữ ở học


sinh.
Kinh nghiệm được rút ra là: Trong giảng dạy và làm chủ nhiệm lớp ta
cần sử dụng nhiều đến ánh mắt và ngôn ngữ, kể cả ngôn ngữ hình thể. Sử dụng
ngôn ngữ hợp lí, trong sáng, lời nói dứt khoát, đúng thời điểm, nói đi đôi với

hành động của thầy (cô)..., thì sẽ có sức thuyết phục và răn đe đối với học sinh.
Lời nói và hành động của thầy (cô) phải chuẩn mực, được xuất phát từ lòng yêu
thương và sự chân thành, chỉ khi đó người giáo viên mới ở cái tầm mà mỗi học
sinh khi tiếp xúc đều muốn hướng đến và mới là “Thầy ra thầy - trò ra trò ”.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Công tác chủ nhiệm lớp luôn là vấn đề được các giáo viên bàn thảo sôi nổi
mỗi khi có một vấn đề tiêu cực từ phía học sinh. Sáng kiến kinh nghiệm này
giúp giáo viên giảng dạy và giáo viên trực tiếp làm công tác chủ nhiệm có thêm
những cách tiếp cận với học sinh chưa ngoan. Qua đó biết cách cảm hóa giáo
dục các em học sinh này. Giúp các em chậm tiến trở thành những học sinh
ngoan, sau này trở thành những công dân có ích cho xã hội. Một tập thể lớp
không có học sinh quậy phá, nghịch nghợm, không có học sinh có các vấn đề xã
hội thì chắc chắn tập thể đó sẽ vững mạnh. Các em học sinh trong tập thể đó sẽ
tiến bộ từng ngày. Điều này trực tiếp nâng cao chất lượng dạy và học của lớp nói
riêng và của nhà trường nói chung. Có một thực tế trong nhà trường nói chung
và cấp THCS nói riêng là lớp nào có nhiều học sinh quậy phá, khó bảo thì chất
lượng học tập ở lớp đó sẽ không cao. Bởi khi thầy cô vào lớp phải dẹp trật tự,
giữ ổn định, nhắc nền nếp thì còn tâm sức đâu mà truyền giảng những lời hay
ý đẹp. Khóa học 201 5-2019 ở trường THCS Trung Chính là năm đầu tiên tôi
được phân công làm công tác chủ nhiệm lớp sau khi chuyển về từ trường THCS
Công Bình. Đây cùng là năm đầu tiên tôi ấp ủ ý tưởng cho sáng kiến kinh
nghiệm “ giáo dục học sinh chậm tiến” sau rất nhiều năm giảng dạy và làm
công tác chủ nhiệm có học sinh chậm tiến này. Trong những năm qua,tôi liên tục
tìm tòi vận dụng những ý tưởng của mình vào thực tế công việc,nên gần hết năm
học 201 6-2017 tôi cũng thấy rõ được hiệu quả thực tế của mình. Cụ thể là: Đâù
năm học 2016 - 2017, số học sinh chậm tiến của lớp 7B là 12em, cuối kì I còn
lại 2 em (đó là em Minh và em Nam) và hiện nay 2 em này cũng đang có chiều
hướng chuyển biến tích cực. Số học sinh đạt thành tích học tập Khá Giỏi tăng từ
4 em lên 7 em. Có được thành công đó phần nhiều là do nề nếp học tập, đạo đức

học sinh được tôi và các đồng nghiệp cùng nhau bàn bạc và thống nhất


cách giáo dục nhất quán theo tinh thần nội dung của sáng kiến kinh nghiệm này.
Trong sáng kiến kinh nghiệm này của tôi chỉ nói về một chủ đề hẹp. Đó là cách
giúp đỡ, cảm hóa, giáo dục những học sinh trong lớp chủ nhiệm nói chung và
học sinh chưa ngoan thực tế ở lớp 7B nói riêng. Vì vậy các kết qủa bản thân tôi
thu được là rất tốt ở nhóm học sinh mà tôi đang quan tâm. Những học sinh chưa
ngoan sẽ dần biết nghe lời thầy cô và chịu khó, tích cực hơn trong học tập và các
hoạt động tập thể,vì các em có được sự lắng nghe, chia sẻ, được tôn trọng
từ phía các thầy cô.
Tôi đưa ra đây một bảng số liệu thông kê số học sinh chưa ngoan trước và
sau khi tôi áp dụng kinh nghiệm này, khi tôi nói chuyện và thực hiện công việc
chủ nhiệm lớp như đã phân công, tôi không bao giờ tách học sinh chưa ngoan ra
khỏi tập thể lớp. Vì tập thể lớp chính là đòn bẩy để kích thích và là nguồn cổ vũ
để các em chưa ngoan có động lực phấn đấu hoàn thiện bản thân mình.
(Bảng số liệu tham khảo qua một số năm với các lớp được theo dõi)

Năm học

Lớp

2015-2016
2016-2017

6B
7B

Sỉ sổ
26

25

Số HS chưa ngoan
đầu năm
SL
%
10
38,4%
12
48%

Số HS chưa ngoan
cuối năm
SL
%
12
46,1%
2
1%

IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Tôi nhận ra rằng người giáo viên chủ nhiệm lớp không phải là người quản
lý học sinh,mà là người giúp đỡ, người tư vấn, người hướng dẫn, người đồng
hành với các em trên hành trình các em hoàn thiện nhân cách một con người.
Qua các năm từ khi ra trường cho đến bây giờ, bản thân tôi luôn cố gắng làm tốt
nhất công việc được giao, trong công tác chuyên môn và giảng dạy. Đồng hành
với công việc dạy học là công tác chủ nhiệm lớp.Do vậy tôi luôn cố gắng tìm
tòi, quan sát, thử nghiệm các cách xử lí với học sinh và tự đưa so sánh để rút ra
kinh nghiệm cho mình. Qua các năm công tác tôi đã tự đúc rút và có trao đổi với

các đồng nghiệp để kinh nghiệm của mình được hoàn thiện hơn, ít mang tính
chủ quan duy ý chí. Hiệu qủa của kinh nghiệm thì bản thân tôi đã dược trải
nghiệm và thấy rõ, tính thực tế dễ dàng thực hiện, tính phù hợp với nhiều học
sinh và giáo viên, tính khoa học trong các giải pháp và đặc biệt là sự gần gũi của


kinh nghiệm.
Đọc kinh nghiệm này, hầu hết trong chúng ta ai cũng thấy những việc mình
đã làm có ở trong đó.Nhưng khác biệt là ở chỗ, ở đâu đó hay chính lúc nào đó
bạn có thực hiện được như vậy một cách lẻ tẻ, không có sự chủ định, bài bản, có
ý đồ nhất quán và hơn nữa bạn chưa chủ động để tạo ra tình huống mà nhờ nó
bạn muốn thu phục được học trò. Cũng cần phải nói thêm rằng có những học
sinh ngoan với thầy cô này nhưng lại là không ngoan với thầy cô khác, nói như
vậy có vẻ mâu thuẫn nhưng thực tế lớp học và nhà trường lại chỉ ra như vậy.
Vậy nguyên nhân ở đâu, vào cuối tháng 12 năm 2016 tôi có làm một cuộc
khảo sát nhỏ lớp chủ nhiệm, với câu hỏi: “Em có mong muốn gì ở thầy, cô và
nhà trường?", và yêu cầu câu trả lời mà không cần ghi tên. Kết quả đã được tôi
tổng hợp và có trao đổi với Ban Giám Hiệu cùng hội đồng giáo viên trong buổi
họp hội đồng tháng 1/2017. Có một số mong muốn của các em mà tôi rất lưu
tâm như: Mong cô ... chấm điểm kiểm tra công tâm hơn, mong cô ... ….., mong
thầy…….Cho nên, với những thầy (cô) vẫn còn đang xem mình là trung tâm của
lớp học,học sinh phải nghe lời và phục tùng mọi quyết định của thầy (cô) đã đưa
ra thì thật khó để thu phục được nhân tâm của các em, và như vậy thì vẫn còn
học chưa ngoan trong các giờ của thầy (cô) đó.
Vậy đấy, những ứng xử của chúng ta với học trò có thể làm tốt lên một con
người. Nhưng nếu giáo viên không chú ý, cẩu thả trong hành động và đưa ra
quyết định có thể làm phát sinh những học sinh không còn tính phấn đấu, không
nghe lời thầy (cô).
2. Kiến nghị.
Với nhà trường: Cần tăng cường áp dụng, quán triệt nội dung sáng kiến

kinh nghiệm này đối với tất cả các giáo viên chủ nhiệm và cả giáo viên bộ môn.
Bởi mỗi lớp học có hơn 10 giáo viên đứng lớp, nếu không đều tay vận dụng thì
sẽ dẫn đến khó thành công.
Với phòng giáo dục: Trong thời gian tới các cấp quản lý giáo dục từ
trường đến Phòng giáo dục và Đào tạo cần tăng cường trao đổi nắm bắt thông
tin về số lượng những học sinh chưa ngoan ở cấp THCS qua báo cáo đầu năm
học, những học sinh cần trợ giúp tâm lí, những học sinh cần tư vấn hiểu biết xã
hội và pháp luật. Cần lập tổ tư vấn học đường bằng cách sử dụng các giáo viên
có kinh nghiệm làm chủ nhiệm giỏi hay những giáo viên có khả năng thuyết
phục và biết nói chuyện với các bạn học sinh lứa tuổi THCS. Do tình hình hiện
nay ở mỗi trường THCS trên địa bàn huvện thì việc này là khó thực hiện vì cơ


cấu giáo viên đã kín tiết. Vì vậy phòng GD&ĐT cần là đơn vị đứng ra thành lập
tổ tư vấn này, thành viên của tổ tư vấn lấy từ nhiều nguồn như: Giáo viên, công
an, bác sĩ, thanh niên tiến bộ ở địa phương, các học sinh xuất sắc cấp THPT, ...
mỗi năm tổ chọn ra vài chủ đề nhất định và mỗi tháng dựa vào nhu cầu của các
trường THCS hoặc theo lịch của phòng GD&ĐT tổ tư vấn sẽ về trường nói
chuyện với học sinh và truyền kinh nghiệm giúp đỡ và giáo dục học sinh chưa
ngoan cho giáo viên chủ nhiệm. Kinh phí để duy trì và thực hiện tổ tư vấn này
nên vận động sự đóng góp của các tổ chức ngoài xã hội và kêu gọi sự tình
nguyện của các tư vấn viên.
Hướng mở rộng của sáng kiến kinh nghiệm: Những học sinh chưa ngoan
trong trường THCS là đối tượng chính của SKKN này. Có được kết quả tốt như
vậy nên ta cần mở rộng đối tượng lên ở độ tuổi cao hơn là ở lớp 10 đầu cấp
THPT.

XÁC NHẬN
CỦA NHÀ TRƯỜNG


Trung Chính, ngày 18 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan SKKN này là của mình,
không copy sao chép của người khác!

Người viết

Trịnh Thị Thúy Vinh


TÀI LIỆU THAM KHẢO
+) Tác phẩm “Người thầy” - Frank McCourt, một thầy giáo người Mỹ
(người từng đoạt giải Nhà giáo của năm - 1967, đồng thời là chủ nhân của giải
Pubhtzer năm 1996).
+ ) Tài liệu bồi dường thường xuyên trong các năm học 2015-2016, 2016 2017.
- Module 3 giáo dục học sinh chậm tiến
- Hướng dẫn tư vấn cho học sinh THCS - Module THCS 7 - Tác giả Phạm
Thanh Bình - Viện khoa học giáo dục Việt Nam
- Nâng cao năng lực chăm sóc hỗ trợ tâm lí cho học sinh trong quá trình
giáo dục - Module THCS 10, Module THCS 11, Module THCS 12 - Các tác giả:
Phạm Thanh Bình, Nguyền Quang Uẩn, Nguyễn Thị Hương - Viện khoa học
giáo dục Việt Nam và Cục nhà giáo và cán bộ quản lí cơ sở giáo dục.
+) Các bài viết về giáo dục của nhà giáo dục học K.Dushinsk - Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam


PHỤ LỤC
- Giải thích từ ngừ viết
tắt: GV: Giáo viên
HS: Học sinh
THCS: Trung học cơ sở

THPT: Trung học phổ thông
SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm
GD&ĐT: Giáo dục và Đào tạo
Học sinh chậm tiến, chưa ngoan là:
- Học sinh hay vi phạm nội quy lớp, trường
- Học sinh hay nói ngang với thầy, cô.
- Học sinh không hoàn thành ở mức tối thiểu chương trình giáo dục.
- Học sinh ít khi chấp hành tốt các yêu cầu của tập thể lớp, của nhà trường,
thầy cô.
- Học sinh hay bắt nạt học sinh khác yếu hơn mình.


ẢNH MINH HỌA BUỔI HỌP LỚP VÀ HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ



×