Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

tiểu luận tài chính quốc tế kinh nghiệm điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của trung quốc từ năm 1994 đến năm 2013và bài học kinh nghiệm rút ra cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.41 KB, 53 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế có tầm ảnh hưởng lớn tới nhiều phạm trù khác,

cũng như tạo ra những tác động sâu sắc và nhanh chóng lên quan hệ kinh tế đối ngoại và chính
sách mang tầm vĩ mô của một quốc gia. Việc xác định được một chính sách tỷ giá phù hợp,
phản ánh chính xác và đầy đủ các yếu tố thị trường (như: quan hệ cung - cầu về ngoại hối, sở
thích, chính sách, lạm phát, lợi tức của các tài sản nội ngoại tệ...) để đưa vào vận hành trong
thực tế là một thách thức lớn đòi hỏi công phu nghiên cứu và tính nhạy cảm, khả năng phản
ứng linh hoạt trước từng điều kiện cụ thể của những nhà hoạch định chính sách. Một chính
sách tỷ giá tốt đi kèm với những biện pháp đồng bộ giải quyết các vấn đề nảy sinh là một công
cụ đắc lực góp phần tích cực trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển và làm thay đổi diện
mạo quốc gia.
Trung Quốc là một ví dụ điển hình cho sự phát triển vượt bậc nhanh chóng trong công
cuộc cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế, một trong những phần đóng góp quan trọng nhất có thể
kể đến là cách điều hành linh hoạt và chủ động chính sách tỷ giá hối đoái của Chính phủ
Trung Quốc. Bắt đầu cải tổ nền kinh tế ngay từ cuối những năm 70 và thu được kết quả khả
quan nhưng mãi đến năm 1994 sau một cuộc điều chỉnh tỷ giá kỉ lục đồng NDT (tỷ lệ điều
chỉnh lên tới gần 50%) nền kinh tế Trung Quốc mới chứng kiến bước chuyển mình mạnh mẽ,
liên tục nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Theo số liệu mới đây, GDP của Trung Quốc năm
2013 tăng 6,9% so với năm 2016. Dự trữ ngoại hối đạt mức 3139,9 tỷ USD.
Trung Quốc cũng như Việt Nam là những nước có nền kinh tế đi theo quy trình phát
triển: chuyển đổi từ một nền kinh tế phát triển dựa trên cơ chế kế hoạch hoá tập trung " khép
kín" sang nền kinh tế phát triển dựa trên cơ chế thị trường "mở" chịu sự điều tiết của Nhà
nước theo định hướng XHCN. Mặc dù, thời điểm bắt đầu chuyển đổi và "màu sắc" của định
hướng có khác nhau nhưng ở nhiều góc độ chúng ta đều có thể nhận thấy những nét tương
đồng giữa hai nền kinh tế này. Chính vì thế, những kinh nghiệm đi trước của Trung Quốc
trong điều hành chính sách tỷ giá hối đoái thực sự sẽ là những bài học quý giá cho việc hoạch
định và điều hành chính sách này của Việt Nam. Với những lý do trên, chúng em quyết định


lựa chọn đề tài "Kinh nghiệm điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc từ năm
1994 đến năm 2013và bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam” là đề tài tiểu luận môn Tài
chính quốc tế của mình.
2.
Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ ba mục tiêu sau:

- Làm rõ cơ sở lý luận về chính sách tỷ giá và điều hành chính sách tỷ giá của NHTW.
- Phân tích chính sách tỷ giá và điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc từ năm 1994
đến tháng năm 2013, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Phân tích chính sách tỷ giá và điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam, nghiên cứu các
4


bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc và áp dụng vào thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá ở
Việt Nam.
3.

Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: chính sách tỷ giá và điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc và
Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Chính sách tỷ giá và điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc và
Việt Nam từ năm 1994 đến năm 2013.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện khoá luận, khoá luận chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên
cứu thống kê, tổng hợp và phân tích, đánh giá thông tin từ các nguồn tài liệu sách báo, tạp chí
chuyên ngành, Internet cũng như nghiên cứu của các chuyên gia về chủ đề này đồng thời tuân
thủ chặt chẽ ba nguyên tắc, đó là: đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống và tính logic giữa các
nội dung trong đề tài.

4.

Kết cấu đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục bảng biểu, đồ thị, kết
cấu khoá luận gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận chung về chính sách tỷ giá và điều hành chính sách tỷ giá.
Chương 2: Kinh nghiệm điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc từ năm 1994 đến năm
2013
Chương 3: Bài học kinh nghiệm về điều hành chính sách tỷ giá rút ra cho Việt Nam.

5


Ký hiệu viết tắt

DANH MỤC VIẾT TẮT
Tên đầy đủ

BQLNH
CCTM

Bình quân liên ngân hàng
Cán cân thương mại

CCTT

Cán cân thanh toán

CCVL


Cán cân vãng lai

CSTT

Chính sách tiền tệ

DTBB
FDI

Dự trữ bắt buộc
Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

GNP

Tổng sản phẩm quốc dân

HMTD

Hạn mức tín dụng

ICOR

Hệ số tiêu chuẩn phản ánh hiệu quả vốn đầu tư

NDT

NHNN

Đồng Nhân dân tệ
Ngân hàng nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHTW

Ngân hàng trung ương

PBC

Ngân hàng nhân dân Trung Quốc

QE3

Quantitative Easing: Nới lỏng định lượng lần3

RMB

Kí hiệu đồng Nhân dân tệ

SAFE
TCTD

Cục quản lý ngoại hối nhà nước Trung Quốc
Tổ chức tín dụng


USD

Kí hiệu đồng đô la Mỹ

VND

Kí hiệu đồng Việt Nam

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

6


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ
ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
1. 1 Những vấn đề cơ bản về Ngân hàng Trung ương
1. 1. 1 Khái niệm Ngân hàng Trung ương
NHTW được hình thành là cả một quá trình, bằng cách quốc hữu hoá các ngân hàng
phát hành hiện có kéo dài nhiều thế kỉ theo mô hình Ngân hàng Anh và các nước châu Âu
hoặc thành lập mới thuộc quyền sở hữu nhà nước vào nửa đầu thế kỉ XX. Ở Việt Nam, NHTW
được thành lập thuộc sở hữu Nhà nước với tên gọi là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
NHTW ở bất cứ quốc gia nào đều là một trong những cơ quan có vị thế rất quan trọng,
là ngân hàng đứng đầu trong hệ thống ngân hàng. Chính vì thế, việc làm rõ khái niệm NHTW
là rất cần thiết.
Các quốc gia đều đưa ra khái niệm về Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua những
quy phạm pháp luật xác định đặc điểm, chức năng để thể hiện khái niệm về NHTW. Đối với
Việt Nam, NHTW được đề cập trong Luật Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng,

2010, Nhà xuất bản Tài chính, điều 2, tr.5 như sau: "Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ
quan ngang Bộ của Chính phủ, là Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ
sở chính tại Thủ đô Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối, thực hiện chức năng của Ngân hàng Trung ương về
phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính
phủ".
Như vậy, ta có thể hiểu:" NHTW là một cơ quan thuộc bộ máy Nhà nước, được độc quyền phát
hành giấy bạc ngân hàng và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng
và ngân hàng, với mục tiêu cơ bản là ổn định và an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân
hàng."
1. 1. 2 Chức năng và vai trò của Ngân hàng Trung ương
1.1.2.1 Chức năng của Ngân hàng Trung ương
Ngày nay, tất cả các quốc gia lớn nhỏ trên thế giới đều có một NHTW, tuy có mô hình
tổ chức khác nhau, nhưng mục tiêu hoạt động chủ yếu của NHTW là sự ổn định và lưu thông
tiền tệ, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế xã hội. Để hoàn thành mục tiêu đó NHTW
thực hiện các chức năng:
-

Phát hành tiền và điều tiết lượng tiền cung ứng:
Ngân hàng của các ngân hàng.
Ngân hàng của Chính phủ
1.1.2.2 Vai trò của Ngân hàng Trung ương trong điều tiết vĩ mô
Vai trò quản lý vĩ mô của NHTW thể hiện qua việc: lập và điều hành chính sách tiền tệ
quốc gia và thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng, thiết lập và điều chỉnh cơ cấu kinh tế, ổn
định sức mua của đồng tiền.
1.2.2.1 Lập và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia:
NHTW là cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, với mục
7



tiêu cơ bản là ổn định giá trị đồng tiền. Chính vì thế, NHTW nắm giữ một trong những công
cụ quan trọng nhất để quản lý nền kinh tế vĩ mô, đó là chính sách tiền tệ (CSTT).
CSTT là một bộ phận của chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước. Nó là công cụ quản
lý vĩ mô của Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ do NHTW khởi thảo và thực hiện mục tiêu cao
nhất là ổn định giá trị đồng tiền để từ đó giúp ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Ta cũng có thể hiểu, chính sách tiền tệ là một phương thức theo đó NHTW kiểm soát và
điều tiết khối lượng tiền tệ cung ứng.
Trong quá trình điều hành CSTT, NHTW kiểm soát tiền tệ sao cho khối lượng tiền tệ
cân đối với mức tăng của tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa, cân đối giữa tổng cung và tổng
cầu về tiền. Một chính sách tiền tệ đúng đắn phải hướng vào việc khống chế nguồn gốc làm
tăng hay giảm lượng tiền cung ứng, làm tăng hoặc giảm khối lượng tiền tệ nói chung chứ
không phải chỉ khống chế tiền mặt.
CSTT của một quốc gia có thể được xác định theo hai hướng: CSTT thắt chặt và CSTT
mở rộng.
Thông qua quá trình điều hành CSTT, NHTW đề ra 4 mục tiêu cơ bản như sau: việc làm
cao, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính và ổn định thị trường ngoại hối.
Từ việc xác định được mục tiêu của chính sách tiền tệ, NHTM chỉ đạo chính sách tiền tệ
bằng cách sử dụng các công cụ để tác động vào thái độ của ngân hàng, nhờ đó tác động đến
lượng tiền cung ứng.
NHTM sử dụng ba công cụ chính để tác động đến lượng cung ứng tiền tệ bao gồm:
nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu và dự trữ bắt buộc.
1.2.2.2
Thanh tra, giám sát hoạt động Ngân hàng:
Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW không chỉ cung ứng các dịch vụ
ngân hàng thuần tuý cho các khách hàng của nó, mà thông qua các hoạt động kinh doanh đó
NHTW thực hiện vai trong thanh tra, giám sát thường xuyên hoạt động của các ngân hàng
kinh doanh nhằm hai mục đích: đảm bảo sự ổn định trong hoạt động ngân hàng và đảm bảo
lợi ích của khách hàng, đặc biệt là người gửi tiền trong quan hệ với ngân hàng.

Bảo đảm sự ổn định của hệ thống ngân hàng:
Khác với các tổ chức kinh doanh khác, kinh doanh lĩnh vực tài chính tiền tệ cần thiết
phải được kiểm soát và điều tiết chặt chẽ bởi vì:
Các ngân hàng đảm nhiệm vai trò đặc biệt trên thị trường vốn nói riêng và toàn bộ nền
kinh tế nói chung, nó là kênh chuyển giao vốn từ tiết kiệm đến đầu tư, là công cụ của Chính
phủ trong việc tài trợ vốn cho mục tiêu chiến lược, hoạt động của các trung gian tài chính, đặc
biệt là các tổ chức nhận tiền gửi có ảnh hưởng quyết định đến việc điều hành CSTT...
Không chỉ vậy, hoạt động của các ngân hàng liên quan đến hầu hết các chủ thể kinh tế
trong xã hội nên sự sụp đổ của một ngân hàng sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi
tiền đồng thời đến toàn hệ thống. Các ngân hàng có mối liên hệ và phụ thuộc với nhau chặt
chẽ thông qua các luồng vốn tín dụng luân chuyển và thông qua hoạt động của hệ thống thanh
toán.
Vì vậy sự hoạt động thiếu ổn định của mỗi ngân hàng cũng đều có thể gây tác động tiêu
8


cực đến nền kinh tế. Do vậy, việc NHTW thực hiện quản lý và kiểm soát hoạt động của các
ngân hàng là rất cần thiết để bảo đảm sự hoạt động của chúng luôn luôn được duy trì trong
khuôn khổ luật pháp và góp phần thực hiện hiệu quả chính sách tiền tệ đã được hoạch định.
Bảo vệ chủ thể trong nền kinh tế:
Chức năng thanh tra, giám sát của NHTW còn nhằm đảm bảo sự công bằng và bình
đẳng trong quan hệ giữa ngân hàng và các khách hàng. Điều này được thể hiện ở hai khía
cạnh:
Thứ nhất, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong nền kinh tế khi đến giao
dịch với NHTM. Chẳng hạn, quy định chuẩn mực về phạm vi và mức độ chi tiết của các thông
tin cần báo cáo cho ngân hàng khi vay vốn, chuẩn mực hoá các thủ tục vay vốn và tiếp nhận
các dịch vụ ngân hàng, quy định cụ thể về xử lý và giải quyết tranh chấp giữa ngân hàng với
khách hàng.
Thứ hai, nhằm thúc đẩy cạnh tranh và hiệu quả thông qua quy định về chất lượng và sự
cập nhật của thông tin mà ngân hàng có nghĩa vụ cung cấp cho những người tham gia thị

trường.
Cụ thể, cần quy định rõ cơ chế cung cấp thông tin, loại thông tin và phạm vi cung cấp.
Điều này giúp cho công chúng với tư cách người đầu tư và người sử dụng các dịch vụ tài
chính có khả năng và cơ hội lựa chọn các ngân hàng đáng tin cậy và các dịch vụ tài chính có
chất lượng. Các ngân hàng vì thế sẽ luôn quan tâm hơn tới tính minh bạch và chất lượng của
bảng tổng kết tài sản trong chiến lược cạnh tranh khách hàng.
Để đạt được mục đích này, NHTW và các thể chế điều tiết có liên quan thường đưa ra
các chuẩn mực, các hướng dẫn hoặc quy định về tính đầy đủ và chính xác của thông tin được
công bố.
Trong thập kỉ cuối của thế kỷ XX, chức năng thanh tra giám sát các ngân hàng đang có
xu hướng tách ra khỏi NHTW. Ở một số nước như Anh, Australia, Nhật Bản, Chính phủ thành
lập một thể chế siêu điều tiết có khả năng điều tiết và giám sát các loại hình định chế tài chính.
Thể chế điều tiết này độc lập với NHTW, trực thuộc Văn phòng Chính phủ (Nhật) hoặc Bộ Tài
chính (Anh). NHTW chỉ còn chức năng quản lý vĩ mô duy nhất là xây dựng và điều hành
chính sách tiền tệ quốc gia.
1.2.2.3 Thiết lập và điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế:
NHTW tham gia vào việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội, nhằm thiết lập
một cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả. Trong điều kiện phát triển nhanh chóng của nền
kinh tế thị trường, NHTW vừa góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế hiện có cho phù hợp với
thực tiễn của nền kinh tế đất nước và hội nhập với sự phát triển kinh tế trong khu vực cũng
như trên thế giới, vừa góp phần thiết lập cơ cấu kinh tế hợp lý.
Điều tiết sản xuất một cơ cấu kinh tế có nghĩa là sử dụng các biện pháp cần thiết để
phân phối tài nguyên quốc gia cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế nhằm tạo ra một sự
cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển
nhịp nhàng và cân đối.
NHTW dựa trên sự phát triển của đất nước đề ra các chính sách tiền tệ tín dụng cụ thể
qua đó phân phối tín dụng cho các ngành kinh tế sử dụng tạo ra của cải và cung cấp dịch vụ
cho xã hội qua cơ chế hoạt động tín dụng của ngân hàng một cách nhanh chóng và hiệu quả
9



nhất với sự di chuyển từ ngành này sang ngành khác. Từ đó, giúp điều chỉnh cơ cấu kinh tế
theo hướng ngày càng hợp lý hơn.
1.2.2.4
Ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia:
Sức mua của đồng tiền nội địa chịu tác động từ nhiều phía, NHTW luôn phải tìm biện
pháp để ổn định sức mua của đồng tiền nội tệ nhằm thực hiện các chính sách kinh tế trong
nước và thực hiện chính sách quan hệ kinh tế quốc tế có hiệu quả.
Trước hết, sức mua của đồng tiền chịu tác động của quy luật cung - cầu hàng hoá. Khi
cung hàng hoá lớn hơn cầu hàng hoá, giá cả hàng hoá bị suy giảm và ngược lại khi cung hàng
hoá thấp hơn cầu hàng hoá, giá cả hàng hoá tăng lên. Khi giá cả hàng hoá tăng lên có nghĩa là
quỹ tiêu dùng tiền của xã hội lớn hơn quỹ hàng hoá hiện vật ở trường hợp này. NHTW phải
tìm biện pháp giảm quỹ tiêu dùng, tăng quỹ đầu tư cho sản xuất. Ngược lại khi giá cả hàng
hoá giảm có nghĩa là quỹ tiêu dùng bằng tiền của xã hội đang nhỏ hơn quỹ hiện vật. Trong
trường hợp này NHTW phải dùng biện pháp kích thích tiêu dùng để kích thích sản xuất.
Sức mua của đồng tiền nội địa còn chịu tác động của giá vàng và ngoại tệ, đặc biệt là
ngoại tệ. Khi giá vàng tăng lên tức là sức mua của đồng nội tệ bị giảm sút và ngược lại, khi
giá vàng giảm sút thì sức mua của đồng tiền nội địa tăng lên nhưng không phải lúc nào cũng
vậy.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, ổn định sức mua đồng tiền quốc gia không có nghĩa là cố
định nó. Sức mua đồng tiền đối nội cũng như đối ngoại có thể biến động lên hoặc xuống trong
một thời kỳ nào đó, song sự biến động ấy cần được sự kiểm soát và duy trì ở mức độ hợp lý
cho phép. Sự biến động ấy phải được điều chỉnh để phục vụ nền kinh tế phát triển.
1. 2 Những vấn đề cơ bản về chính sách tỷ giá
1. 2. 1 Những vấn đề cơ bản về tỷ giá
1. 2. 1. 1 Khái niệm Tỷ giá hối đoái
Thị trường ngoại hối là một thị trường phi tập trung toàn cầu cho việc trao đổi các loại
tiền tệ. Người tham gia chính trong thị trường này là ngân hàng quốc tế lớn. Giao dịch ngoại
hối trước đây chỉ dành cho các tổ chức kinh doanh và ngân hàng, nhưng giờ đây đã trở nên
phổ biến và dễ dàng tiếp cận với các nhà đầu tư cá nhân, qua đó trở thành khu vực đầu tư tài

chính phát triển nhanh nhất. Các trung tâm tài chính khắp thế giới giữ chức năng như các neo
của trao đổi giữa các loại người mua và người bán khác nhau suốt ngày đêm, ngoại trừ ngày
cuối tuần. Thị trường ngoại hối xác định giá trị tương đối của các tiền tệ khác nhau, hỗ trợ
thương mại và đầu tư quốc tế bằng cách cho phép chuyển đổi tiền tệ. Chính vì thế, vai trò của
tỷ giá hối đoái là vô cùng quan trọng trong các giao dịch ngoại hối cũng như thị trường ngoại
hối.
Ngày nay, thuật ngữ tỷ giá được đề cập hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại
chúng, số liệu được niêm yết công khai tại các NHTM và trở thành một vấn đề nóng trong
cuộc sống của người dân. Vậy tỷ giá là gì? Hiểu một cách đơn giản: Tỷ giá hối đoái (the
foreign exchange rate) là giá cả của một đồng tiền tính bằng một đồng tiền khác (Bài giảng
Tài chính quốc tế trường Đại học Ngoại Thương - PGS.TS Mai Thu Hiền)
Pháp lệnh ngoại hối của uỷ ban thường vụ quốc hội số 28/2005/PL-UBTVQH11 ngày 13
10


tháng 12 năm 2005 giải thích: "Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là giá của một đơn vị tiền
tệ nước ngoài được tính bằng đơn vị tiền tệ của Việt Nam". Bên cạnh đó, theo Luật Ngân hàng
Nhà nước, 2010, NXB Tài Chính, khoản 1, điều 13, tr.17 có quy định: "Tỷ giá hối đoái của
đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của
Nhà Nước".
Từ những cơ sở trên, ta có thể định nghĩa như sau: " Về hình thức, tỷ giá hối đoái là giá
cả đơn vị tiền tệ của một nước được biểu hiện bằng một số đơn vị tiền tệ của nước kia và được
xác định bởi mối quan hệ cung - cầu trên thị trường tiền tệ. Về nội dung, tỷ giá hối đoái là một
phạm trù kinh tế bắt nguồn từ nhu cầu trao đổi hàng hoá, dịch vụ, phát sinh trực tiếp từ tiền tệ,
quan hệ tiền tệ (sự vận động của vốn, tín dụng...) giữa các quốc gia."
1. 2. 1. 2 Phân loại tỷ giá hối đoái
1) Căn cứ vào sức mua của đồng tiền
Các nhà kinh tế học phân biệt giữa hai loại tỷ giá: tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực. Tỷ
giá danh nghĩa không phản ảnh được nhiều thông tin, vì vậy để phân tích những ảnh hưởng và
nội dung bao hàm trong thay đổi tỷ giá đặc biệt là sức cạnh tranh quốc tế, các chuyên gia kết

hợp phân tích hai loại tỷ giá này.
- Tỷ giá danh nghĩa: là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua một đồng tiền
khác mà chưa đề cập đến tương quan sức mua hàng hoá, dịch vụ giữa chúng.
- Tỷ giá thực: là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát giữa trong nước
với nước ngoài, do đó, nó là chỉ số phản ảnh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ. Tỷ
giá thực cho biết tỷ lệ mà tại đó chúng ta có thể giao dịch hàng hoá của một nước với hàng
hoá nước khác.
Cách tính:

Trong đó:
e : Tỷ giá thực
E : Tỷ giá danh nghĩa
P*: mức giá ở nước ngoài bằng ngoại tệ
P: mức giá trong nước bằng nội tệ
2) Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối
- Tỷ giá điện hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm chuyển
ngoại hối bằng điện. Tỷ giá này thường được niêm yết tại ngân hàng, và là cơ sở để xác định
các mức tỷ giá khác.
- Tỷ giá thư hối: tức là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm chuyển
ngoại hối bằng thư.
3) Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối
-

Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà nước công bố được hình thành trên cơ sở ngang giá
11


vàng.

-


Tỷ giá tự do: là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường do quan hệ cung cầu quy định.

- Tỷ giá thả nổi: là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường và nhà nước không can thiệp
vào sự hình thành và quản lý tỷ giá này.
-

Tỷ giá cố định: là tỷ giá không biến động trong phạm vi thời gian nào đó.

4) Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế:

-

Tỷ giá séc: là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.

- Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay: là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ hạn bằng
ngoại tệ.
- Tỷ giá chuyển khoản: là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc chuyển khoản ngoại
hối không phải bằng tiền mặt mà bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng.
mặt.

Tỷ giá tiền mặt: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả ngoại hối bằng tiền

5) Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối:
- Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối của chuyến
giao dịch đầu tiên trong ngày.
- Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối của
chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày làm việc.
- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại hối sẽ
được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong hợp đồng (có thể là 1,2,3 tháng sau).

6) Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối:
Trong thị trường ngoại hối bán lẻ, tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra khác nhau sẽ được
báo giá bởi các đại lý đổi tiền. Hầu hết các trao đổi đều liên quan đến đồng nội tệ. Tỷ giá mua
vào là tỷ giá mà các đại lý đổi tiền sẽ mua ngoại tệ và tỷ giá bán ra là tỷ giá mà họ sẽ bán
ngoại tệ.
1. 2. 1. 3Phương pháp yết giá

Tỷ giá giao ngay được niêm yết ở tất cả các NHTM, trên các phương tiện thông tin đại
chúng như báo, đài... Nhìn chung có hai cách niêm yết giá trên thị trường giao ngay dành cho
hai đối tượng khách hàng khác nhau. Cách yết giá theo kiểu Mỹ và kiểu Âu dành cho khách
hàng là ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng. Cách yết giá trực tiếp và gián tiếp
dành cho các khách hàng thông thường, tức là các khách hàng không phải là ngân hàng.
1) Phương pháp yết giá kiểu châu Âu và kiểu Mỹ:
Yết giá theo kiểu Mỹ là cách niêm yết tỷ giá bằng số USD trên đơn vị ngoại tệ (tiền
định giá đứng trước, tiền yết giá đứng sau).
Yết giá theo kiểu Âu là cách yết tỷ giá bằng số ngoại tệ trên 1 đơn vị USD. Hay còn có
thể hiểu là coi đồng tiền yết giá đứng trước, tiền định giá đứng sau.
Ví dụ:
12


Kiểu Mỹ

Kiểu Âu

1GBP = 1.64 USD

1USD = 0.61 GBP

1CHF = 1.11 USD


1USD = 0.90 CHF

1EUR = 1.36 USD

1USD = 0.7 EUR

2) Phương pháp yết giá ngoại tệ trực tiếp và ngoại tệ gián tiếp:
Đối với khách hàng không phải là ngân hàng người ta áp dụng các yết giá trực tiếp
hoặc gián tiếp:
“Yết giá trực tiếp là phương pháp thể hiện giá nội tệ của một đơn vị ngoại tệ.” (Bài
giảng Tài chính quốc tế trường Đại học Ngoại Thương PGS.TS Mai Thu Hiền)
Từ đó, có thể rút ra định nghĩa: "Yết giá ngoại tệ trực tiếp là cách niêm yết cho biết
việc đổi một đơn vị đồng ngoại tệ sẽ lấy được bao nhiêu đồng nội tệ. Cách niêm yết này
thường gặp ở quốc gia có đồng nội tệ yếu hơn đồng ngoại tệ".
1 Ngoại Tệ = X Nội tệ
Ví dụ:
Tại Hà Nội, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam ngày 04/01/2014 niêm yết tỷ giá giữa
USD và VND như sau: USD/VND = 21.075/21.115. Tỷ giá mua USD là
21.075 VND còn tỷ giá bán USD bằng 21.115 VND.
Tại Tokyo, Ngân hàng Daichi ngày 04/01/2014 niêm yết như sau:
USD/JPY=104,80/104,82. Tỷ giá mua USD bằng 104,80 JPY. Tỷ giá bán USD bằng 104,82
JPY.
Như vậy, với phương pháp yết giá trực tiếp này, giá bán đồng USD được thể hiện trực
tiếp ra đồng nội tệ là VND hay JPY ở ví dụ trên. Điều này giúp cho người dân ở quốc gia có
đồng nội tệ sẽ thuận lợi trong giao dịch khi mua hoặc bán USD mà không phải tính toán gì
thêm xem 1USD sẽ bằng bao nhiêu đồng nội tệ.
“Yết giá gián tiếp là phương pháp thể hiện giá ngoại tệ của một đơn vị nội tệ.” (Bài
giảng Tài chính quốc tế trường Đại học Ngoại Thương - PGS.TS Mai Thu Hiền)
Do đó, ta có thể rút ra khái niệm: "Phương pháp yết giá ngoại tệ gián tiếp là cách niêm

yết cho biết việc đổi một đơn vị đồng nội tệ sẽ lấy được bao nhiêu đồng ngoại tệ. Cách niêm
yết này thường gặp ở các quốc gia có đồng nội tệ mạnh hơn đồng ngoại tệ".
1 Nội Tệ = X Ngoại Tệ
Ví dụ:
Tại London, Ngân hàng Standard Chartered ngày 02/01/2014 niêm yết tỷ giá giữa USD
và GBP như sau: GBP/USD = 1.6408/1.6464 . Với cách niêm yết này, cho thấy 1GBP =
1.6408 USD là tỷ giá mua USD bằng GBP và 1GBP= 1.6464 USD là tỷ giá bán USD thu về
GBP. Vậy giá 1USD bằng bao nhiêu GBP ta phải làm phép chia:
1USD = 1/1.6408 ≈ 0.69046 GBP là tỷ giá mua USD trả bằng GBP. 1USD =
1/1.6464 ≈ 0.60739 GBP là tỷ giá bán USD trả bằng GBP.
13


Như vậy, khi niêm yết tỷ giá ngoại tệ bằng phương pháp gián tiếp sẽ gây khó khăn cho
trong giao dịch vì người dân phải thông qua một bước trung gian là làm phép chia. Chính do
phương pháp yết giá khác nhau nên cần thận trọng trong niêm yết và nhận biết tỷ giá của các
đồng tiền.
Theo thông lệ quốc tế đồng bảng Anh (GBP), dollar Úc (AUD), dollar Newzealand
(NZD) thường được niêm yết gián tiếp trong khi các đồng tiền khác được niêm yết trực tiếp.
Riêng đồng dollar Mỹ và EUR được niêm yết theo cả hai cách, vừa trực tiếp, vừa gián tiếp.
Xét từ góc độ quốc gia chúng ta có hai phương pháp yết tỷ giá: trực tiếp (trong đó ngoại
tệ đóng vai trò là hàng hoá có đơn vị là 1, nội tệ đóng vai trò tiền tệ) và gián tiếp (nội tệ đóng
vai trò là hàng hoá có đơn vị là 1, ngoại tệ đóng vai trò tiền tệ). Ở Việt Nam, các NHTM áp
dụng cách niêm yết trực tiếp, tức là luôn dùng VND là đồng tiền định giá. Theo Pháp lệnh
quản lý ngoại hối của Việt Nam, các NHTM không được tự do bán ngoại tệ tiền mặt cho
khách hàng, nên bảng niêm yết giá ngoại tệ của các NHTM Việt Nam chỉ có tỷ giá bán ngoại
tệ chuyển khoản. Việt Nam và Trung Quốc đều sử dụng phương pháp yết giá trực tiếp. Chính
vì thế, trong khoá luận này tỷ giá hối đoái sẽ được hiểu là giá ngoại tệ tính theo nội tệ, như vậy
những thay đổi tăng lên trong tỷ giá sẽ tương ứng với sự giảm giá của đồng nội tệ và ngược
lại.

Ví dụ: Tỷ giá các ngoại tệ của Hội sở chính Ngân hàng TMCP Ngoại thương
Việt Nam cập nhật lúc 11:15 ngày 27/09/2018

NT Tên ngoại tệ

Mua tiền mặt Mua chuyển khoản

Bán

AUD AUST.DOLLAR

16753.1

16854.18

17038.2

CAD
CHF
DKK
EUR
GBP
HKD

17648.4
23844.2
27208.5
30341.9
2946.37


17808.64
24012.24
3620.38
27290.36
30555.81
2967.14

18003
24323
3733.84
27533.1
30827.6
3011.55

202.77

320.82
204.82

333.41
209.14

19.38
-

20.4
76986.52

21.68
80006.9


-

5602.18

5674.67

-

2836.01
353.52
6209.91
2619.43

2924.89
393.92
6453.54
2685.36

CANADIAN DOLLAR
SWISS FRANCE
DANISH KRONE
EURO
BRITISH POUND
HONGKONG
DOLLAR
INR INDIAN RUPEE
JPY JAPANESE YEN
SOUTH KOREAN
KRW WON

KWD KUWAITI DINAR
MYR MALAYSIAN
RINGGIT
NORWEGIAN
NOK KRONER
RUB RUSSIAN RUBLE
SAR SAUDI RIAL
SEK SWEDISH KRONA
14


SGDSINGAPORE DOLLAR

16886.2

17005.2

17190.8

705.44
23305

705.44
23305

734.86
23385

THBTHAI BAHT
USDUS DOLLAR

1. 2. 2 Chính sách tỷ giá:

Chính sách tỷ giá hối đoái được hình thành bởi mỗi nước trên thế giới khi bắt đầu mối
quan hệ kinh tế, thương mại và các mối quan hệ khác với một quốc gia nào đó đều phải thiết
lập mối quan hệ giữa đồng tiền của nước mình với đồng tiền của nước khác. Hiện nay, có
những cách định nghĩa khác nhau về chính sách tỷ giá như:
PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, 2010, Giáo trình tài chính quốc tế, NXB Thống Kê, tr.291
định nghĩa: "Chính sách tỷ giá là những hoạt động của Chính phủ (mà đại điện thường là
NHTW) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ chế điều hành tỷ giá) và hệ thống các
công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến
một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế quốc gia".
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, 2010, NXB Tài chính, khoản 2, điều 13, tr.17 có quy
định: "Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá hối đoái, quyết định chế độ tỷ
giá, cơ chế điều hành tỷ giá." Bên cạnh đó, tại điều 10, tr.16 cũng có quy định: "Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia,
bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các
công cụ, biện pháp khắc phục theo quy định của Chính phủ."
Từ các nhận định trên, có thể hiểu: "Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các
công cụ dùng để tác động tới cung cầu ngoại tệ trên thị trường từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối
đoái nhằm đạt tới những mục tiêu kinh tế cần thiết của quốc gia."
Chính sách tỷ giá hối đoái có vị trí như một bộ phận quan trọng của chính sách
tiền tệ và mở rộng hơn là chính sách tài chính quốc gia. Do đó, việc định hướng điều chỉnh
của chính sách tỷ giá có ảnh hưởng đến các khía cạnh kinh tế vĩ mô khác như: ngoại thương,
nợ nước ngoài, lạm phát. Vì thế, hệ thống mục tiêu và nội dung của chính sách tỷ giá hối đoái
phải xuất phát từ định hướng phù hợp với các mục tiêu và nội dung cơ bản của chính sách tiền
tệ ở từng giai đoạn.
Về cơ bản, chính sách tỷ giá tập trung vào hai vấn đề lớn: vấn đề lựa chọn chế độ tỷ
giá hối đoái và vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Hiện nay, đa số các quốc gia có chính sách tỷ giá linh hoạt. Tuy nhiên, việc lựa chọn
các chế độ tỷ giá khác nhau đều không mất đi sự can thiệp của Chính phủ trên thị trường

ngoại hối. Phần lớn các chính sách của Chính phủ đều tác động đến tỷ giá hối đoái. Chính phủ
can thiệp vào thị trường ngoại hối để giữ cho nền kinh tế phát triển nhanh và đồng tiền nước
mình được ổn định theo hướng đề ra.
1. 2. 2. 1Đặc điểm của chính sách tỷ giá

Là một bộ phận của CSTT:
Là một bộ phận của chính sách tiền tệ, nghĩa là chính sách tỷ giá cũng có tác dụng điều
tiết cung tiền trên thị trường để đạt được mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh
đó, được sử dụng như một công cụ hữu hiệu nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá cả. Tỷ giá 15


hối đoái vừa phản ánh sức mua đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ
giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động đến xuất nhập khẩu,
cán cân thanh toán quốc tế, đầu tư hay dự trữ của đất nước. Để duy trì một mức tỷ giá cố định
hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết, thì cần phải có một chế độ tỷ giá và
hệ thống can thiệp thích hợp. Chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách tiền tệ, do đó,
điều hành chính sách tỷ giá phải gắn với điều hành chính sách tiền tệ và các công cụ chính
sách tiền tệ khác. Đồng thời, chính sách về điều hành tỷ giá luôn phải phù hợp với bối cảnh
trong và ngoài nước. Ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi, tỷ giá
là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ
Do NHTW ban hành và quản lý:
Chính sách tỷ giá chính là những quy định cụ thể của NHTW tác động đến cung cầu
ngoại tệ nhằm đạt được mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ cần thiết. Đồng thời, chính sách tỷ
giá cũng là một bộ phận của chính sách tiền tệ như đã nói mà chính sách tiền tệ thì hướng vào
việc thay đổi lượng tiền cung ứng. Chính vì thế, NHTW sẽ chịu trách nhiệm ban hành và quản
lý mọi hoạt động liên quan đến tỷ giá hối đoái.
Thay đổi theo từng thời kỳ :
Thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ là giữ ổn định tiền tệ quốc gia và phục vụ mục tiêu
chính sách kinh tế vĩ mô của quốc gia trong từng thời kì. Chính vì thế, chính sách tỷ giá cần
hỗ trợ tốt việc đảm bảo các chỉ tiêu đặt ra liên quan tới ngoại thương, lạm phát, tăng trưởng

GDP, nợ công...). Do đó, chính sách tỷ giá có đặc điểm là thay đổi theo từng thời kỳ cụ thể của
nền kinh tế quốc gia.
Thông qua chế độ tỷ giá nhất định:
Nhằm thực hiện thông qua một chế độ tỷ giá nhất định phải tác động lên tỷ giá thông
qua sự can thiệp của các công cụ của chính sách tỷ giá. Bao gồm: nhóm công cụ gián tiếp
hoặc trực tiếp tuỳ thuộc vào tính chất tác động.
1. 2. 2. 2Vai trò của chính sách tỷ giá đến tăng trưởng kinh tế:
Đối với cán cân thương mại
Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan trọng đối với một quốc gia vì trước tiên nó
tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu của chính quốc gia đó. Tỷ giá hối đoái
tăng (đồng nội tệ xuống giá) sẽ khiến cho giá cả hàng hoá trong nước giảm một cách tương
đối trong khi giá cả hàng hoá nhập khẩu tăng. Chính vì thế giúp đẩy mạnh xuất khẩu và hạn
chế nhập khẩu. Từ đó gây ra mất cân bằng cán cân thương mại (trong trường hợp này có thể
dẫn đến thặng dư cán cân thương mại nếu trước đó tỷ giá tăng cán cân đang ở trạng thái cân
bằng). Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm (đồng nội tệ tăng giá) làm cho giá cả hàng hoá
nhập khẩu giảm, giá cả hàng hoá trong nước tăng dẫn đến đẩy mạnh nhập khẩu và hạn chế
xuất khẩu. Do đó, cán cân thương mại sẽ thâm hụt nếu trước đó nó đang ở trạng thái cân bằng.
Cả hai tác động này đều cải thiện sức cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước. Các nguồn lực
sẽ được thu hút vào những ngành sản xuất nội địa mà giờ đây có thể cạnh tranh hiệu quả hơn
so với hàng nhập khẩu và cũng sẽ thu hút vào ngành xuất khẩu mà giờ đây có thể hiệu quả hơn
trên các thị trường quốc tế. Kết quả là xuất khẩu tăng nhập khẩu giảm làm
16


cán cân thanh toán được cải thiện. Như vậy, có thể thấy chính sách tỷ giá có vai trò to lớn
trong việc cân đối cán cân thanh toán.
Đối với lạm phát và lãi suất
Khi các yếu tố khác không đổi, tỷ giá hối đoái tăng làm tăng giá các mặt hàng nhập khẩu
tính bằng nội tệ. Các hộ gia đình trong nước phải trả hàng tiêu dùng nhập khẩu với mức giá
tăng cùng với tỷ lệ phá giá. Tương tự như vậy, các nhà xuất khẩu sử dụng các đầu vào nhập

khẩu bao gồm nguyên, nhiên, vật liệu, máy móc, thiết bị cũng bị tổn thất vì phải chấp nhận
mức giá cao hơn. Kết quả mức giá chung trong nền kinh tế trở nên cao hơn đặc biệt là nền
kinh tế nhỏ, mở cửa với thế giới bên ngoài có xuất khẩu và nhập khẩu chiếm tỷ lệ cao so với
GDP. Nếu tỷ giá hối đoái tiếp tục có sự gia tăng liên tục qua các năm có nghĩa là lạm phát đã
tăng. Nếu lãi suất tăng ở mức vừa phải có thể kiểm soát sẽ kích thích tăng trưởng nhưng nếu
lạm phát tăng quá cao sẽ tác động làm lãi suất tăng làm giảm đầu tư ảnh hưởng không tốt đến
đời sống kinh tế giảm sút. Như vậy, việc giảm giá đồng nội tệ có thể châm ngòi cho sự gia
tăng lạm phát, tuỳ theo bản chất và cơ chế tác động trong cơ cấu kinh tế xã hội. Ở những nơi
xảy ra hiện tượng này, tác dụng thực tế của biện pháp phá giá tỷ giá hối đoái danh nghĩa sẽ
nhanh chóng mất tác dụng và chẳng bao lâu tỷ giá hối đoái thực tế chẳng còn cao nữa và khả
năng cạnh tranh cũng không được cải thiện. Lúc này, NHTW áp dụng thắt chặt tiền tệ từ đó
thu hẹp quy mô cung tiền và tăng lãi suất điều hành. Chính vì thế, tốc độ tăng lạm phát được
hạ đáng kể. Cũng trong thời điểm này, khi đồng tiền khan hiếm, trong điều kiện mọi giao dịch
kinh tế bắt buộc dùng VND, buộc những người nắm giữ ngoại tệ phải bán ra. Tất nhiên,
NHTW đã mở sẵn cho họ một cánh cửa "chênh lệch lãi suất". Trong trường hợp này, NHTW
cần phát huy hiệu quả chính sách tỷ giá nhằm giảm lạm phát và lãi suất.
Đối với đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là việc di chuyển vốn từ nước này sang nước khác nhằm thu được lợi
nhuận cao nhất. Có hai hình thức đầu tư: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đối với đầu tư trực tiếp: tỷ giá hối đoái tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư hoặc góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản xuất được đưa vào
nước sở tại thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ giá chính thức. Bên cạnh đó, tỷ giá
còn có tác động tới chi phí sản xuất và hiệu quả của các hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đó,
sự thay đổi tỷ giá có ảnh hưởng nhất định tới hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài trong
việc quyết định có đầu tư vào nước sở tại hay không và đầu tư bao nhiêu. Chính sách tỷ giá
(cùng với chính sách lãi suất) sẽ tác động trực tiếp đến dòng chảy của FDI với tư cách là
những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định.
Sự ổn định của tỷ giá cũng tạo lòng tin vững chắc cho các nhà đầu tư khi quyết định rót vốn
vào thị trường một nước.
Đối với đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc tế cũng

như việc mua và bán các loại chứng khoán có giá trị trên thị trường. Tổng lợi tức nhận được
từ việc đầu tư vào các tài sản quốc tế được tính như sau:
Lợi tức từ khoản cho vay bằng ngoại tệ = Lãi suất ngoại tệ + Giảm giá đồng nội tệ
17


Thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do sẽ xảy ra tình trạng là luồng vốn chảy ra
nước ngoài mỗi khi tổng lợi tức từ khoản cho vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước,
chẳng hạn khi mọi người dự tính đồng nội tệ sẽ bị giảm giá trong tương lai. Và khi lãi suất
trong nước lớn hơn tổng lợi tức từ khoản cho vay ở nước ngoài thì sẽ có luồng vốn lớn đổ vào
trong nước khi đồng nội tệ tăng giá.
Như vậy, muốn tạo được một môi trường đầu tư ổn định nhằm mục tiêu phát triển kinh
tế, đòi hỏi các quốc gia cần xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định, hợp lý. Sự
mất ổn định của tỷ giá hối đoái đồng nghĩa với sự gia tăng rủi ro trong lĩnh vực đầu tư và gây
tổn hại đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Đối với nợ nước ngoài
Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ nước cho vay hoặc
những đồng tiền mạnh nên tỷ giá hối đoái tăng lên cũng đồng nghĩa với sự tăng lên của gánh
nặng nợ nước ngoài. Ngày nay, khi sự luân chuyển vốn quốc tế ngày càng tự do thì các nước
đặc biệt các nước đang phát triển càng cần phải thận trọng hơn trong chính sách tỷ giá để đảm
bảo tăng trưởng và khả năng trả nợ nước ngoài.
Đối với sản lượng và việc làm
Đối với các lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong nước thì khi tỷ giá hối
đoái tăng, sự tăng giá hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh cho các lĩnh vực này
giúp phát triển sản xuất từ đó tạo thêm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp, sản lượng quốc gia
có thể tăng lên và trái lại, đối với lĩnh vực phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu, tỷ
giá tăng đi kèm với chi phí sản xuất tăng, ảnh hưởng tiêu cực tới sản lượng và việc làm.
1. 2. 3 Cơ sở xây dựng chính sách tỷ giá
Trên thực tế, xây dựng chính sách tỷ giá hối đoái tồn tại một số quan điểm sau:
Một là, chính sách tỷ giá phải hướng vào xử lý và điều hành tỷ giá theo đúng bản chất

vốn có của nó là một cơ chế giá thị trường. Một khi đã xem ngoại tệ là một hàng hoá đặc biệt
thì tỷ giá với tư cách là giá cả hàng hoá đặc biệt cũng phải vận hành theo quy luật của giá cả
thị trường và việc điều chỉnh tỷ giá phải dựa vào quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường và
các yếu tố tác động lên nó. Theo quy luật của giá cả trong quá trình vận động, tỷ giá cũng có
thể hoàn toàn tách rời giá trị của đồng tiền, nhưng vì tỷ giá là một trong những vấn đề trung
tâm và nhạy cảm nhất của đời sống kinh tế xã hội, nếu sự tách rời đó vượt quá biên độ cho
phép nào đó thì lập tức sẽ tác động đến các loại giá cả khác trên thị trường bao gồm thị trường
hàng hoá tiêu dùng, thị trường tín dụng, thị trường ngoại hối. Nói cách khác, một sự bất ổn
của tỷ giá chắc chắn gây ra nhiều tổn hại cho nền kinh tế. Chính vì lẽ đó, trong điều hành tỷ
giá hối đoái, mục tiêu ổn định của tỷ giá hối đoái luôn phải được ưu tiên hàng đầu.
Hai là, chính sách tỷ giá phải hỗ trợ tốt nhất cho chính sách khuyến khích xuất khẩu để
cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ. Tỷ giá là trọng tâm đối với sự vận hành của
nền kinh tế thị trường mở cửa và có ảnh hưởng rộng khắp đến khả năng cạnh tranh với bên
ngoài, đến tình trạng cán cân thanh toán và mức dự trữ ngoại tệ quốc gia. Một sự thiếu
18


hụt cán cân thanh toán do tỷ giá gây ra chắc chắn sẽ kéo theo sự bất ổn về tiền tệ và làm giảm
mạnh lượng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Tất cả sẽ tạo thành vòng xoáy cuốn nền kinh tế vào các
cuộc khủng hoảng tài chính.
Ba là, chính sách tỷ giá phải gắn liền với thực tế đặc thù của mỗi nền kinh tế và mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước nhằm đem lại hiệu quả và lợi ích cao nhất cho đất
nước và nền kinh tế đó.
Với những quan điểm về chính sách tỷ giá như trên nên việc xác định cơ sở xây dựng
chính sách tỷ giá là rất quan trọng. Trong đó, việc nắm bắt được một số cơ sở hay học thuyết
kinh điển xác định tỷ giá là cần thiết bởi lý do: một đồng tiền bị định giá cao hơn giá trị khi
giá trị đồng tiền đó trên thị trường cao hơn giá trị dự đoán trong lý thuyết hay các mô hình
kinh tế. Ngược lại, một đồng tiền bị định giá thấp giá trị khi giá trị đồng tiền đó trên thị trường
thấp hơn giá trị dự đoán trong lý thuyết hay các mô hình kinh tế.
1. 2. 3. 1 Xác định dựa vào quan hệ cung cầu

1. 2. 3. 2 Học thuyết ngang giá sức mua (PPP)
Theo phương pháp này, việc xác định tỷ giá được thực hiện bằng cách so sánh sức mua
của hai đồng tiền. Hay nói cách khác, tỷ giá của hai đồng tiền là tỷ lệ so sánh giá cả của rổ
hàng hoá chuẩn tại hai quốc gia.
PPP tương đối chỉ ra rằng, tỷ giá giữa hai đồng tiền bất kỳ sẽ điều chỉnh để phản ảnh
những thay đổi trong mức giá giữa cả hai nước. Mức giá cả nội địa tăng x% (cầu hàng hoá nội
địa giảm so với hàng hoá nước ngoài) thì đồng tiền nội địa giảm giá x% (ngoại tệ lên giá x%)
và ngược lại, đồng thời nó cũng nhấn mạnh tác động của lạm phát lên tỷ giá.

1. 2. 3. 3 Học thuyết ngang giá lãi suất (IRP)
Trong thị trường tài chính, tỷ giá hối đoái và lãi suất luôn có mối quan hệ gắn bó, hỗ
trợ nhau. Dưới góc độ quản lý vĩ mô nền kinh tế, tỷ giá và lãi suất là hai công cụ quan trọng
trong việc điều hành chính sách tài chính - tiền tệ của Chính phủ. Với các nhà quản trị tài
chính, sự biến động lãi suất của hai đồng tiền sẽ giúp các nhà đầu tư dự đoán và xác định tỷ
giá trong tương lai, từ đó có thể hoạch định chiến lược phòng chống rủi ro, thiết lập chiến lược
kinh doanh hiệu quả.
1. 3 Những vấn đề cơ bản về điều hành chính sách tỷ giá
1. 3. 1 Khái niệm về điều hành chính sách tỷ giá
Luật NHNN năm 1997 và Luật NHNN sửa đổi đều quy định mục tiêu điều hành của
NHNN là tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại đồng
tiền, khuyến khích xuất khẩu. Điều này cho thấy NHNN phải đạt được cùng một lúc rất nhiều
mục tiêu.
Điều hành chính sách tỷ giá là việc NHTW chỉ đạo thực hiện một hệ thống các công cụ
dùng để tác động tới cung cầu ngoại tệ trên thị trường từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối đoái
nhằm đạt tới những mục tiêu kinh tế vĩ mô theo đường lối, chủ trương của Nhà nước trong
từng thời kỳ
1. 3. 2 Các chế độ điều hành của chính sách tỷ giá
19



1. 3. 2. 1 Chế độ tỷ giá cố định
Chế độ tỷ giá cố định được định nghĩa là chế độ tỷ giá, trong đó NHTW công bố và
cam kết can thiệp để duy trì tỷ giá cố định (gọi là tỷ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp đã
được định trước.
NHTW buộc phải mua hay bán ra đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì
cố định tỷ giá trung tâm và duy trì biến động của nó trong một biên độ hẹp đã định trước (từ
2-5%). Cũng giống như trên thị trường hàng hoá khác, khi Chính phủ cố định giá cả thì luôn
tồn tại một độ lệch nhất định giữa cung và cầu thị trường, dẫn đến tỷ giá trung tâm bị lệch
khỏi tỷ giá cân bằng cung cầu (tức tỷ giá thị trường). Nếu tỷ giá trung tâm do NHTW ấn định
thấp hơn tỷ giá thị trường thì ta nói nội tệ được định giá quá cao và ngược lại nếu tỷ giá trung
tâm cao hơn tỷ giá thị trường thì nội tệ đang bị định giá thấp.
Ưu điểm của loại chế độ tỷ giá này là hạn chế sự biến động của tỷ giá vì vậy không cần
phải dự phòng cho rủi ro tỷ giá, đảm bảo sự ổn định tỷ giá trong thời gian dài. Hơn nữa, Chính
phủ và NHTW dễ dàng đạt được các mục tiêu liên quan ( Ví dụ: giảm lạm phát trong thời gian
ngắn...). Ngoài ra, chế độ tỷ giá cố định còn giúp tăng tính minh bạch có thể làm tăng lòng tin
của người dân vào chính sách của Chính Phủ.
Song song với ưu điểm thì nhược điểm của chế độ này là tỷ giá cố định trong thời gian
dài không phản ánh đúng sức mua thực tế của đồng tiền tại nhiều thời điểm. Cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á là một minh chứng điển hình. Thị trường ngoại hối
không phát triển và luôn tiềm ẩn những hạn chế và tình trạng mất cân đối cung cầu. Tình trạng
khan hiếm ngoại tệ rất phổ biến hạn chế sự phát triển thương mại quốc tế. Chi phí can thiệp và
quản lý dự trữ ngoại hối rất lớn cũng là một nhược điểm to lớn trong chế độ. Ngoài ra, hạn chế
khả năng của Chính phủ trong vận hành một chính sách tiền tệ nội địa độc lập nhằm duy trì ổn
định kinh tế trong nước.
1. 3. 2. 2 Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn
Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn được định nghĩa là chế độ trong đó tỷ giá được xác định
hoàn toàn theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự can thiệp
nào của NHTW.
Trong chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, sự biến động của tỷ giá không có giới hạn và luôn
phản ánh những thay đổi trong quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Vai trò của NHTW

trên thị trường ngoại hối là hoàn toàn trung lập.
Đối với chế độ này, tỷ giá hối đoái được xác định và thay đổi hoàn toàn phụ thuộc vào
tình hình cung cầu trên thị trường. Nó sẽ tự động điều chỉnh để đảm bảo cân bằng thường
xuyên giữa cung cầu ngoại tệ. Nếu một quốc gia có thâm hụt trong cán cân vãng lai thì tỷ giá
sẽ tự tăng lên để hạn chế nhập khẩu hoặc khuyến khích xuất khẩu cho đến khi sự cân bằng của
cán cân thanh toán được thiết lập. Bên cạnh đó, chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn còn mang ưu
điểm là bảo vệ nền kinh tế vì có thể tránh khỏi những ảnh hưởng của các cú sốc về giá cả của
nền kinh tế khác, nếu giá cả hàng hoá ở những nước khác tăng lên, tỷ giá thả nổi có thể tự
điều chỉnh mức giá theo ngang giá sức mua. Đồng tiền trong nước sẽ tránh được ảnh hưởng
của lạm phát từ các nước khác. Do đó, củng cố sự ổn định của nền kinh tế.
20


Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm mà chế độ này mang lại thì vẫn tồn tại một số
nhược điểm như: Thị trường luôn có rủi ro và méo mó, do vậy không bao giờ đạt được hiệu
quả như mong đợi, nhiều khi quá tải sẽ dẫn đến tỷ giá hối đoái ở mức không phù hợp với các
chỉ số kinh tế cơ bản của nền kinh tế, thậm chí tồn tại trong một thời gian khá dài.
Thực tế không phải nước nào cũng có điều kiện để áp dụng chế độ tỷ giá này. Chỉ có các
nước công nghiệp phát triển và một số nước đang phát triển có nền kinh tế thị trường mới nổi
mới chọn chế độ tỷ giá này vì nó đòi hỏi các nước phải có một thị trường đủ phát triển. Tỷ giá
biến động liên tục do các lực lượng cung cầu trên thị trường thường xuyên thay đổi.
1. 3. 2. 3 Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là chế độ, trong đó, NHTW tiến hành can thiệp tích
cực trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một vùng nhất định.
Trong chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết, tỷ giá không cố định mà cũng không tự do biến
động hoàn toàn. NHTW có tác động tích cực và chủ động can thiệp lên tỷ giá. Khi cầu ngoại
tệ tăng đồng nghĩa với tỷ giá tăng. NHTW sẽ can thiệp bằng cách bán một phần ngoại tệ trên
thị trường ngoại hối, lúc này cung ngoại tệ tăng sẽ kéo tỷ giá giảm nhưng không giảm về mức
ban đầu vì một phần còn do thị trường quyết định. Khi cung ngoại tệ tăng đồng nghĩa với tỷ
giá giảm, NHTW sẽ can thiệp bằng cách mua một phần ngoại tệ dư thừa trên thị trường ngoại

hối, lúc này cầu ngoại tệ cũng sẽ tăng kéo tỷ giá tăng nhưng không tăng về mức ban đầu vì
một phần còn do thị trường quyết định.
Chế độ này được coi là thích hợp với cơ chế thị trường hiện nay vì chế độ tỷ giá này cho
phép thực hiện một chính sách tiền tệ độc lập và nó vừa theo quy luật cung cầu trên thị trường
vừa phát huy được vai trò quản lí, điều tiết linh hoạt của nhà nước để đạt được mục tiêu, yêu
cầu phát triển kinh tế.
Song, chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết lại thiếu tính minh bạch, điều này dẫn đến sự
kém hiệu quả trong thiết lập tín nhiệm vào chính sách của Chính phủ hay làm giảm lạm phát.
Ngoài ra, nền kinh tế vẫn chịu ảnh hưởng từ những cú sốc bên ngoài và biến động tỷ giá lớn
có thể làm tổn thương thương mại là một trong số những nhược điểm của chế độ tỷ giá này.
1.3.3 Các công cụ điều hành chính sách tỷ giá
Để đồng nội tệ trở nên được định giá cao hơn, thấp hơn hay không đổi, Chính phủ phải sử dụng
các công cụ nhất định để can thiệp nhằm ảnh hưởng lên tỷ giá. Các công cụ này được gọi là các
công cụ của chính sách tỷ giá. Tuỳ theo tính chất tác động lên tỷ giá là trực tiếp hay gián tiếp mà
các công cụ này được chia ra làm hai nhóm: Nhóm công cụ trực tiếp và nhóm công cụ gián tiếp.
Nhóm công cụ trực tiếp
NHTW thông qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định hay ảnh hưởng làm
cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định theo mục tiêu đã đề ra. Hoạt động can thiệp trực
tiếp của NHTW tạo ra hiệu ứng thay đổi cung tiền có thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát
không mong muốn cho nền kinh tế vì vậy đi kèm hoạt động can thiệp này, NHTW phải sử dụng
thêm nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ ở lưu
thông. Cụ thể:
21


Nghiệp vụ thị trưởng mở ngoại tệ: được thực hiện thông qua việc NHTW tham gia mua bán
ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ. Một nghiệp vụ mua ngoại tệ trên thị trường của NHTW làm
giảm cung ngoại tệ do đó làm tăng tỷ giá hối đoái và ngược lại. Do đó, đây là công cụ có tác
động mạnh lên tỷ giá hối đoái.
Nghiệp vụ thị trường mở nội tệ: là việc NHTW mua bán các chứng từ có giá. Tuy nhiên, nó

không chỉ tác động gián tiếp đến tỷ giá mà lại có tác động trực tiếp đến các biến số kinh tế vĩ mô
khác (lãi suất, giá cả). Nó được dùng phối hợp với nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ để khử đi sự
tăng, giảm cung nội tệ do nghiệp vụ thị trường mở gây ra.
Biện pháp kết hối: là việc Chính phủ quy định đối với thể nhân và pháp nhân có nguồn thu ngoại
tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời hạn nhất định cho các tổ chức được phép kinh
doanh ngoại hối. Biện pháp kết hối được áp dụng trong những thời kì khan hiếm ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối. Mục đích chính của biện pháp kết hối là nhằm tăng cung ngoại tệ tức thời để
đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thị trường, hạn chế hành vi đầu cơ và giảm áp lực phải phá giá nội
tệ.
Các biện pháp khác như: quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế thời
gian mua ngoại tệ, nhằm giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và giữ cho tỷ giá ổn định.
Nhóm công cụ gián tiếp:
Lãi suất tái chiết khấu: là công cụ hiệu quả nhất. Cơ chế tác động đến tỷ giá hối đoái của nó như
sau: Khi lãi suất chiết khấu thay đổi kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trường.
Từ đó tác động đến xu hướng dịch chuyển của dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn hoặc
ít nhất làm cho người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang đồng tiền có
lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ thể lãi suất tăng dẫn đến xu hướng
là một dòng vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ đổ vào trong nước và người sở hữu vốn
ngoại tệ trong nước sẽ có xu hướng chuyển đồng ngoại tệ của mình sang nội tệ để thu lãi suất
cao hơn do đó tỷ giá sẽ giảm (nội tệ tăng giá) và ngược lại muốn tăng tỷ giá sẽ giảm lãi suất tái
chiết khấu.
Bên cạnh đó, muốn giảm tỷ giá hối đoái thì Nhà nước có thể quy định mức thuế quan cao, quy
định hạn ngạch và thực hiện trợ giá cho những mặt hàng xuất khẩu chiến lược. Và biện pháp
ngược lại sẽ làm tăng tỷ giá hối đoái. Cụ thể là:
Thuế : Việc tăng hay giảm thuế xuất, nhập khẩu sẽ làm ảnh hưởng đến cung, cầu hàng hoá xuất
nhập khẩu. Tức là nếu Nhà nước áp dụng tăng thuế đối với hàng nhập khẩu sẽ khiến cho giá cả
mặt hàng này tăng cao hơn so với hàng hoá có thể thay thế trong nước từ đó cầu nhập khẩu
giảm. Điều đó dẫn đến làm giảm thâm hụt trong cán cân thương mại. Tương tự, nếu giảm thuế
đối với nhập khẩu thì giá cả hàng nhập khẩu sẽ giảm so với hàng trong nước hay hàng xuất khẩu
dẫn đến tăng thâm hụt cán cân thương mại. Cung cầu hàng hoá xuất nhập khẩu thay đổi sẽ ảnh

hưởng đến cung, cầu ngoại tệ gây tác động đến tỷ giá hối đoái.
Hạn ngạch: là quy định của một nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm
hàng được phép xuất hoặc nhập từ một thị trường trong thời gian nhất định thông qua hình thức
cấp giấy phép. Khi áp dụng hạn ngạch đối với các mặt hàng xuất, nhập khẩu sẽ gây ảnh hưởng
đến cung, cầu hàng hoá xuất nhập khẩu. Từ đó, gây nên sự thay đổi của tỷ giá hối đoái. Ví dụ
22


như trong trường hợp, Chính phủ quy định hạn ngạch nhập khẩu đối với xe ô tô nhập từ Mỹ vào
Việt Nam. Điều đó sẽ gây nên giảm cầu nhập khẩu ô tô tại Việt Nam, đồng nghĩa với giảm cầu
ngoại tệ và dẫn đến tỷ giá giảm.
Tóm lại, quy định về thuế quan hay hạn ngạch đối với nhập khẩu sẽ nhiều hay ít tác động làm
tăng giá hàng ngoại nhập, làm giảm tương đối nhu cầu với hàng nhập khẩu, góp phần bảo hộ,
khuyến khích tiêu dùng hàng trong nước. Do đó, làm tăng giá đồng nội tệ vì hàng hoá trong
nước sẽ tiếp tục được bán tốt hơn ngay cả khi đồng nội tệ tăng giá. Như vậy, trong dài hạn, thuế
quan và hạn ngạch nhập khẩu sẽ làm tăng giá đồng tiền nội tệ làm thay đổi tỷ giá hối đoái.
Trợ giá: là quy định Nhà nước sẽ trợ cấp cho xuất khẩu hoặc nhập khẩu nhằm ổn định nền kinh
tế. Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp trợ cấp trực tiếp hoặc cho vay với lãi suất thấp với
các nhà xuất, nhập khẩu trong nước. Khi trợ giá cho các nhà xuất khẩu trong nước sẽ khiến giá
cả hàng hoá xuất khẩu giảm, thúc đẩy xuất khẩu dẫn đến tăng cung ngoại tệ trong nước khiến tỷ
giá giảm. Tương tự nếu trợ giá cho các nhà nhập khẩu sẽ khiến giá hàng nhập khẩu giảm, thúc
đẩy nhập khẩu làm tỷ giá tăng.
Ngoài ra Chính phủ có thể sử dụng một số biện pháp khác như:
Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ: ảnh hưởng trực tiếp đến cung, cầu ngoại tệ trên
thị trường gây tác động lên tỷ giá. Nếu NHTW ban hành quy định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với ngoại tệ sẽ làm giảm cung ngoại tệ trên thị trường. Hệ quả là tỷ giá sẽ tăng.
Quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn với tiền gửi bằng ngoại tệ: Việc quy định trần lãi suất
huy động giúp ổn định lãi suất huy động, cho vay ngoại tệ trên thị trường, hỗ trợ tốt cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp, cá nhân dẫn đến tăng cường xuất khẩu, thu ngoại
tệ để tăng cung ngoại tệ trong nước khiến tỷ giá giảm.

Chính sách này giúp các NHTM không chạy đua huy động ngoại tệ bằng lãi suất, chuyển dịch
xu hướng vay, mượn ngoại tệ trên thị trường sang xu hướng mua, bán ngoại tệ. Từ đó, phản ánh
thực chất hơn cung cầu ngoại tệ dẫn đến ổn định tỷ giá.
Nhà nước sử dụng hai biện pháp này nhằm mục đích là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, hạn chế đầu cơ
ngoại tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối.
Cơ sở điều hành chính sách tỷ giá
Trong quá trình hội nhập kinh tế gắn với tự do hoá thương mại, chính sách tỷ giá đóng vai trò
quan trọng như một công cụ điều tiết các quan hệ kinh tế quốc tế và tác động đến tăng trưởng
kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán. Do đó, điều hành chính sách tỷ giá trở nên vô cùng quan
trọng. NHTW phải ban hành và yêu cầu các tổ chức tài chính thực hiện những quy định về tỷ giá
hối đoái phù hợp với từng thời kỳ dựa trên các cơ sở sau:
Mục tiêu điều hành CSTT của quốc gia trong từng thời kỳ: Đối với các nước trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng thì tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu quốc gia.
Chính sách tiền tệ cần đảm bảo các mục tiêu đề ra như kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng
bản tệ, tạo công ăn việc làm và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bên cạnh đó còn có các
mục tiêu trung gian khác. CSTT thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ phát triển
của nền kinh tế. Ở mỗi giai đoạn khác nhau, Nhà nước có thể đặt ra các mục tiêu khác nhau, liên
23


quan đến lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp...
Do đó, mục tiêu của CSTT cũng sẽ thay đổi theo từng thời kỳ nên chính sách tỷ giá cần có sự
điều chỉnh theo từng thời kỳ để phù hợp với mục tiêu chung của CSTT. Chẳng hạn như, một
quốc gia đặt mục tiêu thực hiện CSTT làm sao để kiềm chế lạm phát thì ngoài việc điều chỉnh
tăng các mức lãi suất điều hành đồng nội tệ (lãi suất thị trường mở, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất
chiết khấu...), chính sách tỷ giá cần phải hạn chế được cầu hàng hoá nhập khẩu (tương ứng với
giảm tiêu dùng trong nước). Theo đó, NHTW có thể thực hiện điều chỉnh tăng tỷ giá để khiến
cho giá cả hàng hoá nhập khẩu tăng lên.
Cung cầu ngoại tệ: Trên cơ sở theo dõi sát diễn biến cung cầu ngoại tệ, NHTW điều hành linh
hoạt tỷ giá và hoạt động mua bán ngoại tệ nhằm ổn định thị trường và tăng dự trữ ngoại hối Nhà

nước thông qua điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân đồng thời điều chỉnh giảm trần lãi
suất tiền gửi USD, phù hợp với diễn biến cung cầu ngoại tệ. Bên cạnh đó khuyến khích người
dân nắm giữ nội tệ, giảm nắm giữ ngoại tệ. Đồng thời, điều hành linh hoạt tỷ giá mua vào của
NHTW theo hướng khuyến khích các TCTC bán ngoại tệ cho NHTW để tăng dự trữ ngoại hối
nhà nước và điều chỉnh linh hoạt tỷ giá bán ra để can thiệp thị trường phù hợp với mục tiêu ổn
định thị trường. Kết hợp chặt chẽ với các công cụ chính sách tiền tệ để điều hoà lượng tiền nội tệ
cung ứng khi mua ngoại tệ để tránh áp lực lên lạm phát và phù hợp với định hướng điều hành tỷ
giá, đồng thời góp phần hỗ trợ thanh khoản và giảm mặt bằng lãi suất cho vay đồng nội tệ.
Tình trạng thặng dư hay thâm hụt của cán cân thanh toán: Bên cạnh đó, các số liệu thống kê cán
cân thanh thoán quốc tế là một trong những số liệu thống kê vĩ mô quan trọng, làm cơ sở cho
việc điều hành chính sách tỷ giá của NHTW.
Chính sách tỷ giá là một trong những chính sách kinh tế có tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
thông qua khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước, hỗ trợ xuất khẩu.
Tăng trưởng xuất khẩu đóng vai trò quan trọng vào tăng trưởng GDP, giúp tăng thu ngoại tệ và
cải thiện cán cân thanh toán. Trên thực tế, NHTW cần điều hành chính sách tỷ giá hướng tới
mục tiêu khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu các mặt hàng trong nước có thể sản xuất
được nhằm cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán, góp phần tăng trưởng kinh tế.
Theo số liệu từ NHNN thì giai đoạn từ năm 2008 đến nay, NHNN đã điều hành chính sách tỷ giá
theo hướng giảm giá đồng Việt Nam ở mức vừa phải đã có tác động làm giá bán hàng xuất khẩu
của Việt Nam trên thị trường thế giới cạnh tranh hơn. Các nhân tố ảnh hưởng đến điều hành
chính sách tỷ giá.
Trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá được điều tiết bởi quan hệ cung-cầu tiền tệ. Các nhân tố ảnh
hưởng đến cung - cầu ngoại tệ chính là các yếu tố tác động đến tỷ giá hối đoái. Sự biến động của
các nhân tố này được biểu hiện bằng việc tăng giảm của các khoản mục trong cán cân thanh
toán. Quan sát sự thay đổi trong từng khoản mục trong cán cân thanh toán sẽ giúp các nhà quản
lý, kinh doanh tiền tệ nắm bắt dòng tiền phải thanh toán cho nước ngoài hoặc nhận được từ bên
ngoài. Trong nền kinh tế, chính sách tỷ giá bị tác động bởi các nhân tố sau: Hoạt động xuất nhập
khẩu hàng hoá, dịch vụ
Cầu ngoại tệ của một quốc gia bắt nguồn từ nhu cầu nhập khẩu và cung ngoại tệ trong nền kinh
24



tế xuất phát từ khả năng xuất khẩu của quốc gia đó. Nói cách khác, cung cầu ngoại tệ trong nền
kinh tế được quyết định bởi tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ trong kỳ. Nếu
giá trị nhập khẩu tăng nhanh hơn mức tăng giá trị xuất khẩu thì cầu ngoại tệ sẽ tăng nhanh hơn
cung, kết quả ngoại tệ lên giá. Và ngược lại, khi cán cân thanh toán của quốc gia thặng dư, cung
ngoại tệ trong nền kinh tế dồi dào sẽ tạo áp lực ép ngoại tệ giảm giá. Khi tỷ giá lên cao, NHTW
sẽ điều hành chính sách tỷ giá nhằm tăng cường bán ngoại hối ra thị trường làm cung ngoại hối
trên thị trường tăng lên do đó làm giảm bớt căng thẳng về cung cầu ngoại hối trên thị trường.
Tương tự khi tỷ giá giảm, NHTW sẽ điều hành chính sách nhằm mua vào ngoại hối, tăng nhu
cầu ngoại hối trên thị trường, và làm giảm bớt căng thẳng trong quan hệ cung cầu ngoại hối dẫn
đến tỷ giá hối đoái từ từ tăng lên.
Chuyển tiền một chiều
Chuyển tiền một chiều bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, chuyển lợi nhuận, trả lãi,
thanh toán tiền thuê, kiều hối, chi phí du học... Các hoạt động này tạo nên các luồng tiền chuyển
ra hoặc chuyển vào quốc gia, làm thay đổi cung cầu ngoại tệ và tác động đến tỷ giá hối đoái.
Nếu một quốc gia có khoản chuyển tiền vào trong nước lớn hơn các khoản phải chuyển ra nước
ngoài, cung ngoại tệ sẽ tăng. Chính vì thế nội tệ lên giá. Ngược lại, các quốc gia có khoản
chuyển tiền ròng ra quốc tế, cầu ngoại tệ của các nước này sẽ tăng và nội tệ giảm giá. Điều này
khiến cho NHTW phải kịp thời điều hành chính sách tỷ giá một cách phù hợp nhất nhằm ổn
định tỷ giá hối đoái.
Đầu tư quốc tế
Đầu tư nước ngoài bao gồm các khoản đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, và các khoản vay mượn
quốc tế. Các giao dịch này tạo nên nguồn cung-cầu ngoại tệ cho nền kinh tế thông qua hoạt động
chuyển và thu hồi vốn đầu tư, chuyển tiền lãi, cổ tức, lợi nhuận về nước sau một chu kỳ kinh
doanh, tiền gửi tại ngân hàng nước ngoài hoặc tiền gửi ngoại tệ của người không cư trú...
Khi nhận được một khoản đầu tư của nước ngoài, cung ngoại tệ của quốc gia nhận vốn sẽ gia
tăng. Ngược lại, khi các nhà đầu tư trong nước chuyển vốn ra nước ngoài kinh doanh, cầu ngoại
tệ của quốc gia chuyển vốn sẽ tăng. Vì vậy, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá trị
đồng nội tệ của một quốc gia sẽ tăng nếu quốc giá đó có luồng vốn đầu tư ròng vào trong nước,

và nội tệ của một quốc gia sẽ giảm giá khi quốc gia này có khoản đầu tư ròng ra nước ngoài. Bên
cạnh sự tác động của lượng vốn đầu tư, chính sách điều hành tỷ giá hối đoái còn bị ảnh hưởng
bởi tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư, cũng như độ rủi ro của các nước nhận vốn đầu tư. Đây là các
yếu tố đóng vai trò quyết định hiệu quả của vốn đầu tư. Nếu lợi nhuận đầu tư của một nước tăng
lên, cung ngoại tệ của nước đó cũng tăng theo do các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư thêm
vốn vào nước này, đồng thời làm giảm cầu ngoại tệ do các nhà đầu tư trong nước hạn chế luống
vốn chuyển ra nước ngoài kinh doanh. Kết quả chính là nội tệ lên giá. Tương tự như vậy, giá trị
đồng nội tệ của quốc gia sẽ giảm sút khi khả năng sinh lời trên vốn đầu tư thấp hoặc độ rủi ro
của quốc gia đó cao. Thực trạng cho thấy, khi cung ngoại tệ tăng, NHTW sẽ mua số ngoại tệ này
để ổn định tỷ giá hối đoái và dự trữ số ngoại tệ này. Tuy nhiên, khi cung ngoại tệ giảm, NHTW
sẽ mua đồng nội tệ, điều này đòi hỏi lượng dự trữ ngoại tệ bắt buộc của Ngân hàng phải có đủ
khả năng nhằm duy trì sự ổn định của tỷ giá và đạt được mục
25


tiêu điều hành của chính sách tỷ giá trong từng thời kỳ.
Lạm phát
Một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chính sách điều hành tỷ giá là mức độ
lạm phát của nền kinh tế, bởi vì, lạm phát tác động trực tiếp đến giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu,
làm ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của quốc gia trên thị trường thế giới, qua đó làm thay đổi tỷ
giá hối đoái. Thật vậy, nếu tốc độ lạm phát của một quốc gia cao hơn các nước khác, hàng xuất
khẩu tính bằng ngoại tệ của nước này sẽ trở nên đắt hơn, hậu quả là khả năng cạnh tranh của
quốc gia trong thương mại quốc tế giảm sút. Điều này đồng nghĩa với cung ngoại tệ giảm. Đối
với nhập khẩu, giá trị nhập khẩu tăng nhẹ (do yếu tố lạm phát ở nước ngoài) nhưng mức tăng giá
của hàng nhập thấp so với mức tăng giá của hàng hoá trong nước (do tỷ lệ lạm phát trong nước
cao hơn nước ngoài), nên cầu hàng nhập khẩu không giảm. Mặt khác, trong ngắn hạn, người tiêu
dùng trong nước chưa kịp thay đổi thói quen sử dụng, các doanh nghiệp nội địa chưa kịp sản
xuất hàng thay thế hàng nhập, do đó, nền kinh tế buộc phải trả một lượng ngoại tệ nhiều hơn để
nhập hàng. Hậu quả là cầu ngoại tệ gia tăng, cung ngoại tệ giảm sẽ tạo áp lực đẩy ngoại tệ lên
giá, kéo nội tệ hạ giá. Như vậy, để ưu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát, NHTW cần có những

thay đổi trong điều hành chính sách tỷ giá theo hướng tỷ giá cần phải thực sự linh hoạt, công bố
tỷ giá liên ngân hàng phải sát đúng với tỷ giá giao dịch trên thị trường.
Các chính sách tài chính quốc gia
Do tỷ giá là một trong các công cụ của chính sách tài chính - tiền tệ của Nhà nước, nên ngoài
việc chịu điều tiết bởi cung cầu tiền tệ, tỷ giá còn chịu tác động bởi mục tiêu của các chính sách
kinh tế, tài chính của quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. Trên thế giới, hầu hết các chính phủ
đều tác động trực tiếp hay gián tiếp đến tỷ giá hối đoái. NHTW sẽ thực hiện điều hành chính
sách tỷ giá thông qua các công cụ như: hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết
khấu...
Yếu tố tâm lý
Lòng tin của công chúng vào giá trị của đồng tiền nói riêng và vào chính sách kinh tế, tiền tệ của
Nhà nước nói chung đóng một vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu tỷ giá. Khi người dân lo
sợ về sự ổn định của nền kinh tế (có hoặc không có cơ sở), họ luôn tìm cách đẩy đồng nội tệ ra
lưu thông hoặc chuyển nó thành ngoại tệ, bất động sản, hoặc hàng hoá... Việc làm này được diễn
ra nhanh chóng với một khối lượng chuyển đổi rất lớn, tạo cơn sốt giả tạo về ngoại tệ, đẩy ngoại
tệ tăng giá và kéo nội tệ giảm giá. Tương tự như vậy, khi công chúng tin tưởng vào chính sách
phát triển đất nước của Chính phủ, vào sự bình ổn của nền kinh tế thì lòng tin của họ vào đồng
nội tệ đều được củng cố. Giá trị nội tệ ổn định, tỷ giá ít biến động là điều mà mọi Nhà nước đều
mong ước trong quá trình thiết lập và thực hiện chính sách tiền tê. Chính vì thế, để tăng độ tin
cậy trong lòng người dân về mức độ ổn định của tỷ giá, NHTW phải điều hành chính sách tỷ giá
phù hợp với tình hình kinh tế vĩ mô, tăng cường quản lý, kiểm soát giữ ổn định thị trường.

26


CHƯƠNG 2. KINH NGHIỆM ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA TRUNG QUỐC
TỪ NĂM 1994 ĐẾN NĂM 2013
2.1 Khái quát tình hình kinh tế Trung Quốc
2.1.1 Khái quát tình hình kinh tế Trung Quốc trước năm 1994
Tình hình kinh tế Trung Quốc từ ngày thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa

(1/10/1949), cho đến trước cải cách- mở cửa kinh tế trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm với
nhiều hạn chế, yếu kém của mô hình kế hoạch hoá tập trung.
Thông qua những chính sách kinh tế sai lầm, coi thường các quy luật khách quan của
"Đại nhảy vọt" và "Đại cách mạng văn hoá vô sản", nền kinh tế Trung Quốc đã rơi vào khủng
hoảng và sa sút. Hậu quả là, thu nhập quốc dân giảm, các ngành kinh tế bị thụt lùi, nền kinh tế
bị mất cân đối nghiêm trọng. Cuộc "Đại nhảy vọt" và "Công xã nhân dân" đã gây ra lãng phí
to lớn về sức người, sức của, làm nền tài chính bị cạn kiệt... Trong mười năm cách mạng văn
hoá, thu nhập quốc dân Trung Quốc đã bị thiệt hại khoảng 500 tỷ nhân dân tệ, mức lương
trung bình của công nhân viên giảm 4,9%, thu nhập bình quân của nông dân không được cải
thiện, thậm chí nhiều nơi rơi vào tình trạng đói kém. Tại thời điểm này, kinh tế Trung Quốc
gần như hoàn toàn thuộc sở hữu công cộng, chiếm tới 99,1% tổng sản phẩm trong nước vào
năm 1978. Cùng với tiến trình cải cách, nhận thức về kinh tế công hữu ngày càng có sự thay
đổi sâu sắc, đã tiến tới khẳng định rằng nguồn vốn trong chế độ công hữu không chỉ thể hiện
ở số lượng mà còn ở chất lượng, và quan trọng hơn nữa, ở vai trò khống chế Nhà nước, ở vai
trò chủ đạo của kinh tế công hữu. Với chủ trương theo nhiều loại hình kinh tế cùng phát triển,
không chỉ có các doanh nghiệp cá thể, tư nhân, mà còn có cả doanh nghiệp "ba loại vốn", các
doanh nghiệp theo chế độ sở hữu hỗn hợp như chế độ cổ phần và chế độ hợp tác cổ phần.
Năm 1979, Trung Quốc tiến hành cải cách kinh tế. Nhiều chính sách kinh tế mới được
ban hành nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, Trung Quốc chú trọng phát
triển cơ sở hạ tầng, các ngành sản xuất công nghiệp phụ trợ, khuyến khích các nhà đầu tư
nước ngoài đặc biệt là Hoa kiều đầu tư đầu tư vào Trung Quốc để xuất khẩu thu ngoại tê.
Chính phủ Trung Quốc bảo lãnh việc cân đối ngoại tệ cho các dự án xuất khẩu thu ngoại tệ.
Để phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế, chế độ tỷ giá cũng có thay đổi, bên cạnh tỷ giá
chính thức do Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc công bố, sử dụng để hạch toán, tính thuế xuất
nhập khẩu, Trung Quốc cho phép một loại tỷ giá thứ hai được tồn tại, sử dụng để mua bán,
giao dịch trên thị trường ngoại tệ. Năm 1991, Trung Quốc chuyển từ tỷ giá cố định sang tỷ giá
thả nổi có quản lý, duy trì hai loại tỷ giá. Do tỷ giá thị trường biến động mạnh đã tạo ra
khoảng cách giữa hai loại tỷ giá. Đến năm 1993, thị trường giao dịch hối đoái giữa các doanh
nghiệp phát triển, làm cho chênh lệch giữa hai loại tỷ giá càng gia tăng. Trong thời gian này
các doanh nghiệp được phép giữ lại một phần ngoại tệ để sử dụng. Kết quả là ngoại tệ tập

trung vào nhà nước ít hơn so với khu vực dân cư nắm giữ, Trung Quốc gặp khó khăn trong
việc cân đối ngoại tệ. Như vậy, năm 1993, mức điều chỉnh tỷ giá (phá giá) so với năm 1985 đã
là gần 70%. Nhưng mặc dù phá giá liên tục với biên độ lớn như vậy, tổn thất xuất khẩu do tỷ
giá (đánh giá cao đồng NDT) gây ra vẫn rất lớn.
27


2.1.2 Khái quát tình hình kinh tế Trung Quốc từ năm 1994 đến năm 2013
Để khắc phục các khó khăn do thị trường tự phát gây nên, để thực hiện kế hoạch mở cửa
kinh tế đối ngoại, đồng thời tạo điều kiện cải thiện cán cân thương mại, Trung quốc đã đưa tỷ
giá chính thức lên ngang bằng với tỷ giá thị trường. Việc điều chỉnh thống nhất hai loại tỷ giá
này được thực hiện từ ngày 01/01/1994. Kèm theo đó là các quy định xoá bỏ chế độ tự giữ
ngoại hối, các doanh nghiệp chuyển sang chế độ kết hối ngoại tệ 100%, các doanh nghiệp có
nhu cầu ngoại tệ thanh toán hàng nhập khẩu được mua ngoại tệ thanh toán hàng nhập khẩu
được mua ngoại tệ tại các ngân hàng theo quy định. Riêng các giao dịch thương mại không
được phép mua ngoại tệ của các ngân hàng.
Đến cuối năm 1997, tỷ trọng của các loại hình kinh tế phi công hữu trong tổng sản
phẩm trong nước đã từ 0,9% (năm 1978) lên 24,20%, cùng với đó là mức giảm của kinh tế
công hữu đã từ 99,1% xuống 75,8%. Tuy nhiên, vai trò chủ thể của kinh tế công hữu không vì
thế mà giảm đi. Được thực hiện tách rời quyền kinh doanh (của doanh nghiệp và quyền sở
hữu của Nhà nước), từng bước áp dụng chế độ xí nghiệp hiện đại, chịu sự dẫn dắt của thị
trường, đặc biệt được hoạt động trong các ngành nghề quan trọng, huyết mạch của nền kinh
tế, khu vực kinh tế công hữu tuy còn nhiều khó khăn, nhưng vai trò chủ thể chắc chắn sẽ được
củng cố.
Từ năm 2002 đến nay, đây cũng là giai đoạn tiếp tục cải cách sâu rộng của nền kinh tế,
đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và bước đầu thực hiện mục
tiêu "tập trung lực lượng xây dựng toàn diện xã hội khá giả."
Tại Hội nghị Trung ương khoá 5 tháng 12/2005, Đại hội lần thứ XVI đã thông qua kế
hoạch 5 năm lần thứ 11 có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chính thời điểm này, Trung quốc
chuyển từ xã hội nông thôn sang xã hội công nghiệp, xây dựng xã hội ấm no sang xã hội khá

giả với những mục tiêu và nội dung sau:
-

Đảm bảo tăng trưởng bền vững.

-

Thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, phát triển một "xã hội hài hoà" có tầm quan trọng
như phát triển kinh tế, chính trị xã hội.

-

Thay đổi phương thức tăng trưởng kinh tế: chuyển từ đầu tư và xuất khẩu vào công
nghiệp, tài nguyên và nhân lực sang tiêu dùng và đầu tư, công nghiệp và dịch vụ, nhân
lực và khoa học kỹ thuật, tăng trưởng có chất lượng cao.

-

Thay đổi cơ cấu ngành nghề, tăng ngành có hàm lượng khoa học cao.

-

Phát triển cân đối giữa các vùng, khu vực, thành thị và nông thôn

-

Giải quyết tốt vấn đề tam nông (nông nghiệp, nông thôn và nông dân).

-


Giải quyết tốt vấn đề ô nhiễm môi trường, tạo công ăn việc làm, giảm thất nghiệp và
các vấn đề xã hội.

-

Xây dựng một xã hội công bằng, văn minh.

-

Về đối ngoại thực hiện nguyên tắc hoà bình và phát triển, hợp tác. Thực hiện khẩu
hiệu: "An ninh với láng giềng, giàu có với láng giềng, hợp tác với láng giềng."
Từ năm 2003, cán cân thương mại Trung quốc luôn duy trì mức tăng xuất khẩu cao
28


×