Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tiểu luận tài chính quốc tế khủng hoảng nợ công ở châu âu năm 2010 và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.98 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG (BPO)............5
1.1. Khái niệm về nợ công và các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công........................5
1.2. Khái niệm và đặc điểm của khủng hoảng nợ công.......................................... 7
CHƯƠNG 2: CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở CHÂU ÂU NĂM 2010......7
2.1. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công ở Châu Âu 2010........................7
2.1.1. Nguyên nhân bên trong..............................................................................7
2.1.2. Nguyên nhân bên ngoài............................................................................. 9
2.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu.............................................. 9
2.2.1. Trước khi xảy ra khủng hoảng nợ công Châu Âu (từ 2009 trở về trước) .. 9

2.2.2. Trong và sau cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu (2009 – 2014)..........10
2.3. Tác động của cuộc khủng hoảng nợ công tới thế giới, liên minh Châu Âu...11
2.3.1. Tác động tới Châu Âu..............................................................................11
2.3.2. Tác động đến thế giới...............................................................................12
2.4. Xu hướng cải cách nhằm khắc phục khủng hoảng nợ công ở cấp độ Liên
minh...................................................................................................................... 14
2.4.1. Cải cách ngắn hạn.................................................................................... 14
2.4.2. Cải cách dài hạn.......................................................................................15
2.4.3. Những khó khăn trong ứng phó với khủng hoảng nợ công.....................15
CHƯƠNG 3: NỢ CÔNG VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VỚI VIỆT NAM................................................................16

3.1. Tình hình nợ công.......................................................................................... 16
3.1.1. Quy mô nợ công.......................................................................................16
3.1.2. Cơ cấu nợ công........................................................................................ 17
3.2. Tình hình sử dụng nợ công............................................................................ 18
3.3. Nguyên nhân nợ công ở Việt Nam tăng cao.................................................. 19
3.3.1. Tăng trưởng kinh tế chậm........................................................................19
3.3.2. Bội chi ngân sách nhà nước.....................................................................20


3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ công............................................... 20
KẾT LUẬN..............................................................................................................23
2


TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................24
Mục lục hình ảnh
Hình 1: Nợ chính phủ EU (%GDP)......................................................................... 10
Hình 2: Tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2018..........................................13
Hình 3: Tỷ lệ nợ công trên GDP (2013 – 2018).......................................................17
Hình 4: Cơ cấu nợ công Việt Nam (2010 – 2017)................................................... 18

3


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu và chi của nhà nước, khi tổng chi tiêu
của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu không mang tính hoàn trả của ngân
sách nhà nước thì nước đó rơi vào tình trang thâm hụt ngân sách và có thể dẫn đến
nợ công.
Có thể nói hầu hết các quốc gia đều có nợ công, dù ít hay nhiều, tạm thời hay mãn
tính. Nợ công đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển nhưng sẽ trở thành quốc
nạn khi bắt đầu gây tổn hại đến nền kinh tế. Nó có thể dẫn đến lạm phát, làm cho quốc
gia mất khả năng thanh toán và các nhà đầu tư mất niềm tin… Trong lịch sử phát triển
tài chính, thâm hụt ngân sách nhà nước đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến trong
các nước phát triển và các nước kinh tế chậm phát triển. Kể từ cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008 – 2009, nợ công ở các nền kinh tế phát triển đã tăng đáng kể. Nổi bật
nhất trong khoảng thời gian vừa qua là cuộc khủng hoảng nợ công
ở khu vực Châu Âu. Nguy cơ Hy Lạp vỡ nợ là rất cao. Khủng hoảng nợ ở Hy Lạp

có thể lây lan đến một loạt các nước khác trong EU có mức nợ quốc gia tương
đương với Hy Lạp như Ý, Bồ Đào Nha, Ireland, và Tây Ban Nha. Cuộc khủng
hoảng này không chỉ có những ảnh hưởng to lớn đến khu vực Châu Âu mà còn ảnh
hưởng đến nền kinh tế thế giới và đe dọa đến tiền trình phục hồi kinh tế toàn cầu.

Sau khi gia nhập WTO (2007), kinh tế Việt Nam đã hội nhập khá sâu vào kinh tế
thế giới, thể hiện qua tỷ lệ xuất nhập khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam chiếm tỷ lệ khá cao. Nếu cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp xảy ra thì kinh tế
của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề. Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
cũng là bài học cho Việt Nam khi nhìn lại vấn đề nợ công và mô hình tăng trưởng
của nền kinh tế. Nhận thức được đây là một đề tài lớn, rộng và mang tính kỹ thuật,
từ những tư liệu tham khảo và sưu tầm trên báo và mạng Internet, chúng em chọn
đề tài “Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu năm 2010 và bài học cho Việt Nam”.
Do tính phức tạp của đề tài cùng nguồn tài liệu hạn chế, bài nghiên cứu còn nhiều
thiếu xót, chúng em mong sẽ nhận được nhiều sự góp ý từ cô giáo!
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với mục đích cung cấp những thông tin tổng quan về nợ
công và bản chất của nợ công, cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu, xem xét
nguyên nhân, diễn biến, tác động và những cải cách cho vấn đề này, từ đó đánh giá,
rút ra bài học cho Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu.
4. Cấu trúc bài nghiên cứu
4


Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
bài nghiên cứu gồm 3 chương:
• Chương 1: Cơ sở lý luận về khủng hoảng nợ công.
• Chương 2: Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu năm 2010.

• Chương 3: Nợ công Việt Nam và bài học của cuộc khủng hoảng nợ công
ở Châu Âu với Việt Nam.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG (BPO)
1.1. Khái niệm về nợ công và các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công
a. Khái niệm Nợ công
Theo quan điểm của ngân hàng thế giới (WB) thì: Nợ công là tất cả các khoản nợ
của Chính phủ của một quốc gia.
Nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của bốn nhóm chủ thể bao gồm:
(1) nợ của Chính phủ trung ương và các Bộ, ban, ngành trung ương;
(2) nợ của các cấp chính quyền địa phương;
(3) nợ của Ngân hàng trung ương;
(4) nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc
quyết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ hoặc Chính phủ là
người chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ.
Theo Luật Quản lý Nợ công số 29/2009/QH12 Việt Nam, Nợ công được quy
định trong Luật này bao gồm Nợ chính phủ, Nợ được Chính phủ bảo lãnh và Nợ
chính quyền địa phương. Trong đó,
− Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài,
được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản
vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của
pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
− Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính,
tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
− Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát
hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, một cách khái quát nhất, có thể hiểu “nợ công là tổng giá trị các
khoản tiền mà Chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm
5



bù đắp cho các khoản thâm hụt ngân sách” và Chính phủ phải chịu trách nhiệm
trong việc chi trả khoản vay đó. Vì thế, nợ công nói cách khác là thâm hụt ngân
sách lũy kế tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ Chính
phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với GDP.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu công quá lớn của Chính phủ. Chi tiêu công
nhằm: Phân bổ nguồn lực; phân phối lại thu nhập; ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên,
chi tiêu công quá lớn hay kém hiệu quả cũng sẽ gây ra những bất ổn cho nền kinh
tế. Nhu cầu chi tiêu quá nhiều trong khi các nguồn thu không đáp ứng nổi buộc
Chính phủ phải đi thông qua nhiều hình thức (như phát hành công trái, trái phiếu,
hiệp định tín dụng) và vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế
tài chính quốc tế… để bù vào khoản thâm hụt, từ đó dẫn đến tình trạng nợ công.
Về bản chất, nợ công chính là các khoản vay để trang trải thâm hụt ngân sách.
Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, nhà nước sẽ phải thu
thuế tăng lên để bù đắp. Vì vậy, suy cho cùng, nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian
đánh thuế: hôm nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là
cách đánh thuế dần dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các
hoạt động chi ngân sách.
b. Các nhân tố ảnh hưởng tới nợ công:
(1) Thâm hụt ngân sách cơ bản
Cân đối NSNN là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến nợ công. Từ bản chất nợ công
có thể thấy mức thâm hụt ngân sách phản ánh giá trị tuyệt đối của nợ chính phủ.
Nếu NSNN thâm hụt cơ bản, nhu cầu vay nợ của Nhà nước sẽ gia tăng và làm trầm
trọng thêm tình hình nợ công. Ngược lại, nếu NSNN thặng dư cơ bản, nhu cầu vay
nợ giảm hoặc Chính phủ có thêm nguồn tài chính để mua lại trái phiếu chính phủ
(TPCP) trước hạn làm cho mức nợ công giảm xuống.
(2) Lãi suất thực tế
Sự biến động của lãi suất trên thị trường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những khoản
nợ công có lãi suất thả nổi và những khoản vay mới. Tỷ lệ các khoản nợ công có lãi

suất thả nổi trong tổng nợ càng cao thì sự ảnh hưởng của lãi suất đến nợ công càng
lớn. Mặt khác, ngay cả những khoản vay có lãi suất cố định thì sự biến động của lãi
suất thị trường cũng sẽ ảnh hưởng đến giá cả của các công cụ nợ, nghĩa là, gián tiếp
ảnh hưởng tới quy mô nợ công. Bởi khi lãi suất tăng lên, chi phí vay nợ (trả lãi và
phí) tăng lên, các khoản vay của Chính phủ sẽ trở nên đắt hơn và khó khăn hơn, làm
gia tăng nợ công.
(3) Tốc độ tăng trưởng thực tế ảnh hưởng đến nợ công theo hai cơ chế. Một
là, nền kinh tế phát triển hơn thì chính phủ dễ dàng vay tiền hơn, dẫn đến khả
năng nợ công tăng lên. Hai là, tăng trưởng nhanh thường đi kèm với lạm phát, dẫn
đến việc cấp bù lạm phát cho các khoản nợ đã đến hạn thanh toán.
(4) Lãi suất ngoại tệ có liên quan đến các khoản vay nước ngoài của chính phủ.
Cơ chế tác động của nhân tố này tương tự như lãi suất thực tế, chỉ khác nhau đề đối
tượng hưởng lãi.
6


(5) Tỷ giá
Trong cơ cấu danh mục nợ công có những khoản nợ vay bằng đồng ngoại tệ, do
đó, sự biến động của tỷ giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nợ công. Nếu nợ vay bằng
ngoại tệ, đặc biệt là những ngoại tệ có sự biến động lớn về giá trị chiếm tỷ lệ cao thì
ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá đến nợ công càng lớn.
1.2. Khái niệm và đặc điểm của khủng hoảng nợ công
a. Khủng hoảng nợ công là gì?
Khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm chao đảo nền
kinh tế do mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu cầu chi quá nhiều
trong khi nguồn thu không thể đáp ứng nổi dẫn đến chính phủ phải di vay tiền
thông qua nhiều hình thức như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,…
để chi. Từ đso dẫn tới tình trạng nợ không có khả năng hoàn trả. Thâm hụt ngân
sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Nợ không trả sớm để lâu thành “lãi mẹ đẻ
lãi con” và ngày càng chồng chất thêm.

b. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công
Dựa vào những định nghĩa nêu trên, có thể chỉ ra một số đặc trưng quan trọng
mang tính bản chất đối với các cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới.
Một là, khủng hoảng nợ công mang bản chất là khủng hoảng kinh tế, làm suy giảm
các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế.
Hai là, khủng hoảng nợ công không phân biệt quốc gia phát triển hay quốc gia đang
phát triển. Điều này có nghĩa là, bên cạnh vấn đề thiếu nợ thường xuyên tái diễn
ở các quốc gia thuộc “Thế giới thứ ba”, khủng hoảng nợ hoàn toàn có khả năng xảy
ra ở những nước phát triển, nơi nền kinh tế tăng trưởng một cách tương đối cao và
ổn định.

Ba là, khủng hoảng nợ công một khi đã diễn ra thường kéo dài trong một thời
gian, kéo theo nhiều hệ lụy không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trong chính trị văn hóa - xã hội.
Bốn là, khủng hoảng nợ công gắn liền với mức độ tín nhiệm của chính phủ quốc
gia xảy ra sự kiện. Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm
theo báo cáo của các tổ chức chuyên đánh giá tín nhiệm công ty và quốc gia, niềm
tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay; khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục
tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
CHƯƠNG 2: CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở CHÂU ÂU NĂM
2010 2.1. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công ở Châu Âu 2010
2.1.1. Nguyên nhân bên trong
Thứ nhất, việc gia nhập vào EU và vào Khu vực đồng tiền chung Euro khiến cho
các nước thành viên phải từ bỏ chính sách tiền tệ riêng của mình.
7


Có một thực tế diễn ra trong khối liên minh EU là trình độ phát triển của các
thành viên trong khối là rất khác biệt nhau, trong khi các nước Nam Âu (như Bồ
Đào Nha, Hy Lạp) tăng trưởng rất chậm chạp, nhiều nước rơi vào khủng hoảng nợ
công thì nhiều nước như Đức lại tăng trưởng rất nhanh. Điều này đòi hỏi phải có

chính sách riêng cho mỗi nước. Tuy nhiên thực tế ấy đã không được đáp ứng đầy
đủ, điển hình là chính sách về tiền tệ. Chính sách tiền tệ - là một công cụ hữu hiệu
để điều hành nền kinh tế vĩ mô – lại không do Chính phủ mỗi nước nắm giữ. Cụ
thể, lãi suất trên thị trường do ECB quy định, lãi suất trái phiếu chính phủ do chính
phủ mỗi nước quy định. Dẫn đến các nước kém cạnh tranh sẽ phải phat hành trái
phiếu chính phủ với lãi suất cao hơn để có tiền chi tiêu.
Thứ hai, các nước thành viên Khu vực đồng Euro có cơ hội tiếp cận các nguồn
vốn đầu tư nước ngoài dễ dàng, nhưng sự yếu kém trong quản lý vốn vay cũng là
một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến các nước này lâm vào tình trạng thâm
hụt ngân sách nghiêm trọng. Ngoài ra nạn trốn thuế, tham những cũng gây thất
thoát nguồn thu không nhỏ, gây ảnh hưởng tới ngân sách của chính phủ.
Ví dụ: Năm 2006, tỉ lệ trốn thuế ở Hy Lạp là 3,4% GDP, hơn 15% hoạt động
kinh tế ở Italia diễn ra “trong bóng tối” gây thiệt hại cho nước này lên tới khoảng
100 tỷ Euro.
Thứ ba, kinh tế tăng trưởng chậm, sức cạnh tranh kém, năng suất lao động thấp.
Sự yếu kém của một số nước đã dẫn đến tình trạng “con sâu làm rầu nồi canh”, là
nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng trong tổ chức liên minh EU. Trong khu vực
đồng EURO, Bồ Đào Nha được coi là mắt xích yếu kém nhất với tỉ lệ tăng trưởng
thấp vào năm 2001 và năm 2003 đã có tình trạng suy thoái (tăng trưởng kinh tế là 0,9%). Tỷ lệ thất nghiệp cao dẫn đến tình hình phát triển kinh tế ở Italia.
Thứ tư, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu làm trầm trọng thêm
tình hình nợ công ở các nước này.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008- 2009 ở Hy lạp buộc nước này phải níu giữ
gói cứu trợ khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế làm tình hình thâm hụt ngân sách càng trở
nên nghiêm trọng hơn. Khủng hoảng cũng làm bộc lộ những yếu kém trong chính sách
phát triển kinh tế cũng như mô hình quản trị tài chính của nước này. Hệ quả là ngày
27/4/2010 công ty xếp hạng tín dụng Standard & Poor’s đã đánh giá mức độ tín dụng
của Hy Lạp xuống mức có khả năng vỡ nợ. Cuộc khủng hoảng nợ công diễn ra tại
Ireland lại khởi nguồn từ sự bùng nổ bong bóng bất động sản giai đoạn 2001-2007.

Thứ năm, rủi ro nợ công cao, và khoản vay nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn.

Tỷ lệ trái phiếu do nước ngoài nắm giữ tại Hy Lạp chiếm tới 80% và các chủ nợ
phần lớn là các Ngân hàng Châu Âu. Nợ nước ngoài càng cao sẽ khiến nền kinh tế
trong nước dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố từ nước ngoài.
8


Thứ sáu, mặc dù trình độ kinh tế của các nước trong EU-28 và khu vực đồng tiền
chung Euro là rất khác nhau, nhưng các nước này vẫn phải đảm bảo mục tiêu duy
trì các dịch vụ công và chế độ an sinh xã hội ở mức khá cao.
Thứ bảy, thiếu tính thống nhất giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Cùng với những nguyên nhân chung mà các nước thành viên trong khủng hoảng
nợ công đều vấp phải, thì các lí do dẫn đến khủng hoảng nợ công của từng nước
thành viên cũng có những điểm đặc thù và rất khác nhau. Có nguyên nhân liên quan
đến điều kiện và gia nhập trở thành nước thành viên EU, các chế độ vay ưu đãi, tài
chính và chi tiêu công, đầu tư công ,yếu kém trong sử dụng vốn và quản lí vốn vay
của ngân hàng, bản chất của nợ công (ví dụ, nợ tư nhân chuyển thành nợ công…),
hoặc thực hiện chính sách thuế khóa sai lầm, bất cân đối…
2.1.2. Nguyên nhân bên ngoài
Thứ nhất, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
2007 – 2008 gây ra.
Thứ hai, do ảnh hưởng của các Tổ chức/Hãng xếp hạng tín nhiệm tín dụng quốc
tế gây ra.
Những động thái tiêu cực của xếp hạng tín nhiệm ở thời điểm nhạy cảm, dễ tổn
thương của nền kinh tế, là một nguyên nhân khiến cho khủng hoảng nợ công bùng
phát và lan rộng trên phạm vi một khu vực hay toàn cầu.
2.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
2.2.1. Trước khi xảy ra khủng hoảng nợ công Châu Âu (từ 2009 trở về trước)
Trước năm 1999, để thỏa mãn các quy định về tài chính công trong Thỏa ước ổn
định và tăng trưởng (mức thâm hụt ngân sách không được vượt quá 3% GDP và nợ
công không được vượt quá 60% GDP), các chỉ tiêu này đều được các quốc gia ứng

viên tuân thủ nghiêm túc. Tuy nhiên, xu hướng này có dấu hiệu đảo chiều khi Liên
minh Kinh tế tiền tệ châu Âu (EMU) đi vào hoạt động. Từ năm 2003, phần lớn các
nước khu vực đồng Euro có tỷ lệ nợ trên 60% GDP. Điều này cho thấy các nước bắt
đầu không tuân thủ nghiêm ngặt các quy định trong EMU.
Trước năm 2008 (khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu), nợ công trung bình của
khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) ổn định qua các năm ở mức xấp xỉ 70%
GDP, tuy nhiên nợ công giữa các nước thành viên lại có sự khác biệt tương đối lớn.
Trong khi Ai-len, Tây Ban Nha, Hà Lan duy trì mức nợ công dưới 60% GDP, thì hầu
hết các nước khác nợ công đều có xu hướng tăng lên, điển hình như Đức, Pháp và Bồ
Đào Nha; nợ công của Hy Lạp, Italia thường xuyên ở mức trên 100% GDP. Ai-len và
Tây Ban Nha luôn duy trì được tình hình tài chính lành mạnh khi ngân sách thường
xuyên thặng dư và nợ công luôn ở mức thấp (nợ công Ai-len giảm
9


đều đặn qua các năm từ 48,6% năm 1999 còn 27% năm 2007, nợ công Tây Ban
Nha thường xuyên ở mức xấp xỉ 50% GDP).
2.2.2. Trong và sau cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu (2009 – 2014)
Nợ công ở các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) đều có xu hướng tăng
đáng kể sau 2007, hầu hết nợ công ở các quốc gia thuộc EU đều vượt ngưỡng quy
định, lý do bởi chính sách tài khóa lỏng lẻo và khả năng quản trị tài chính công kém
hiệu quả.

Hình 1: Nợ chính phủ EU (%GDP)
Tháng 9/2008, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra xuất phát từ khủng
hoảng tín dụng và nhà đất ở Mỹ đã tạo nên một “cú sốc” mạnh mẽ đến nền kinh tế
các nước thành viên EU. Để cứu vãn nền kinh tế, các quốc gia đều phải tăng chi
tiêu công, biến các khoản nợ tư nhân thành nợ công. Hệ quả là sau thời điểm này,
nợ công của EU đều có xu hướng tăng vọt, điển hình là Hy Lạp và Italia đều ở mức
trên 115% vào năm 2009.

Khi lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ
3,47% vào tháng 01/2010, lên 9,73% vào tháng 07/2010 cũng chính là dấu hiệu khởi
đầu cho cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu. Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu
được bắt đầu từ Hy Lạp, sau đó lần lượt xảy ra ở Ai-len, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,
CH Síp. 5 nước này đã phải cầu viện sự trợ giúp của bộ 3 các nhà cứu trợ để tránh vỡ
nợ, đó là EU, ECB, IMF. Đồng EUR đã liên tục bị mất giá, cuộc khủng hoảng nợ công
châu Âu đã làm tổn thất hàng nghìn tỷ USD thu nhập tài chính của các nước thành viên
EU. Từ năm 2009, diễn biến cuộc khủng hoảng nợ công của các nước EU ngày càng
xấu đi, khi nợ công của EU cứ liên tục tăng, nếu như năm 2008 là 62%,
10


2009 là 74,6%, năm 2010 là 80%, năm 2011 là 82,5%, năm 2012 là 85,5% và năm
2013 đã tăng lên đến 86,8% GDP, và mức thâm hụt ngân sách của EU từ 2,4% năm
2008 đã tăng lên 6,9% năm 2009, 6,6% năm 2010 (gấp 2 lần, thậm chí 3 lần so với
quy định của Hiệp ước tăng trưởng và ổn định là 3%).
Năm 2014, các nước châu Âu tuy đã vượt qua khỏi đáy của cuộc khủng hoảng nợ
công, nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát trở lại. Xu hướng nợ công châu Âu vẫn
tăng.
2.3. Tác động của cuộc khủng hoảng nợ công tới thế giới, liên minh Châu Âu
2.3.1. Tác động tới Châu Âu
a. Tác động tới thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Châu Âu:
Lo ngại về tình trạng nợ công ở châu Âu ngày càng xấu hơn khiến giá trái phiếu
sụt giảm và lợi tức thì tăng cao. Lợi tức trái phiếu kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp tăng
lên 19% và của Bồ Đào Nha là 5.7%.
Các nhà đầu tư ngại rót vào vào hệ thống ngân hàng châu Âu do các ngân hàng
này đang ôm rất nhiều trái phiếu chính phủ, riêng các công ty tài chính lớn nhất
Châu Âu nắm giữ trên 134 tỉ Euro trái phiếu Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
Sự do dự này của các nhà đầu tư đã làm tăng lãi suất trái phiếu ngân hàng, một số
ngân hàng châu Âu phải trả chi phí vay vốn cao hơn so với trước đây. Vào ngày

2/9/2010, các nhà đầu tư yêu cầu tăng lãi suất thêm 393 điểm cơ bản khi mua lại
trái phiếu chính phủ thời hạn 5-10 năm từ ngân hàng BNP Paribas (dữ liệu của ngân
hàng Merrill Lynch). Kết quả điều tra của Morgan Stanley cho thấy, các ngân hàng
khu vực nằm khoảng 90% nợ chính phủ Hy Lạp trên bảng cân đối tài sản. Việc các
nhà đầu tư e ngại rót vốn vào hệ thống ngân hàng cũng dẫn tới một hệ quả tất yếu
nữa là ngân hàng chậm trễ trong thế kỉ 21.
Việc tăng vốn cần thiết, gây khó khăn trong việc cho vay, kể cả cho vay lẫn nhau,
làm tăng lượng tiền gửi tại ngân hàng trung ương châu Âu (ECB)
b. Tác động tới đồng tiền Euro:
Cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp đã đẩy số phận của đồng Euro tới miệng vực khi
đồng tiền này liên tục mất giá so với đồng USD và các đồng tiền chủ chốt khác.
Đồng Euro bắt đầu dược giao dịch từ tháng 1/1999 với tỉ giá 1,1837USD/Một
Euro. Bầu không khí ảm đạm của khủng hoảng nợ Hy Lạp đã ảh hưởng xấu đến
đồng euro sau 11,5 năm lưu hành, đồng tiền này mất 15% trong 6 tháng đầu 2010,
xuống mức kỉ lục 1,1877 USD trong vòng 4 năm vào ngày 7/6. Sau đó, đồng tiền
này đã tăng trở lại 6.7% và giao dịch ở mức 1,3207 USD và ngày 5/8 tại Frankfurt,
nhưng lại giảm mạnh và chỉ còn 1,2665 USD và ngày 9/9. Theo ước lượng trung
bình của 39 nhà chiến lược do Bloomberg điều ra, đồng euro sẽ giảm còn 1,21 USD
trong năm nay. Nhưng theo dự báo của Shaun Osborne thuộc công ty Chứng Khoán
tại TD tại Toronto, đồng tiền ày sẽ giảm xuống còn 1,08 USD vào cuối năm nay.
11


Vóng xoáy khủng hoảng đã khiến niềm tin của giới đầu tư vào đồng Euro ngày
càng thêm suy sụp, trong khi các đồng tiền có mức lãi suất thấp như USD và Yên
Nhật đang được xem là có độ cao an toàn hơn. Tính đến tháng 7/2010, Euro đã
giảm giá khoảng 15,7% so với USD và 8.5 so với GBP và 20% so với JPY và hiện
đang giao dịch ở mức 106,44 yên(ngày 10/90, đồng Euro có thể tiếp tục giảm
xuống dưới 100 yên, mức thấp nhất kể từ tháng 6/2001.
Cuộc khủng hoảng nợ công Hy lạp đã phơi bày khiếm khuyết của đồng Euro mà

người ta vẫn lo ngại ngay từ khi nó chính thức ra đời. Chung 1 chính sách tiền tệ
trong ta ngân hàng trung ương châu Âu ECB khiến các nước không thể thực hiện
phá giá tiền tệ để giải quyết các khó khăn về thâm hụt ngân sách. Sai lầm trong chi
tiêu của 1 nước gây ảnh hưởng đến kinh tế các nước khác do cùng sử dụng 1 đồng
tiền, khi các giải pháp cứu trợ không phát huy hiệp quả tình hình xấu nhất là Hy
Lạp có thể rút ra khỏi Eurozone, trở lại dùng đồng Drachma có giá trị thấp hơn
Euro, kéo theo đó là Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha.. Đức cũng có thể ra khỏi khối
do không chấp nhận tiếp tục chi trả trợ giúp cho những khoảng nợ khổng lồ của
những nước thành viên. Kết cục dẫn tới là đồng euro sẽ sụp đổ.
c. Tác động tới chính trị - xã hội:
+Những bất đồng về chính trị: chính quyền Berlin tỏ ra không đồng ý với thói
quen chi tiêu bị xem là “hoang phí” của chính phủ Hy Lạp. Các nhà làm luật ở
Berlin đã khiến Athens thất vọng khi gợi ý : Nếu muốn có tiền, tại sao Hy Lạp
không bán bớt đi vài hòn đảo? Dường như ngay lập tức, Phó thủ tướng Hy Lạp
Theodoros Pânglos tuyên bố, Đức có thể giải quyết cuộc khủng hoảng nợ ở Hy Lạp
bẳng cách trả lại số vàng bạc mà quân đội Đức quốc xã đã chiếm giữ trong 23 năm
thời gian chiến thắng. “Họ đã lấy đi của cải của Hy lạp mà chẳng thấy đem trả lại.
trong tương lai, sẽ đến lúc chúng tôi phải nói tới chuyện này”, ông Pânglos nói.
+Bất ổn xã hội : Trung tâm của sự giận dữ không đâu khác chính là Hy Lạp “cái
nôi của khủng hoảng nợ và biểu tình”
Toàn bộ hệ thống giao thông cả đường thuỷ lẫn đường bộ, nhiều chuyến bay
quốc tế và nội địa đã bị hủy bỏ, lùi giờ bay do các nhân viên không lưu tham gia bãi
công. Đây cũng là tình trạng chung đối với nhiều quốc gia ở lục địa già khi chiến
dịch cắt giảm ngân sách ngày càng được tăng tốc.
2.3.2. Tác động đến thế giới

12


Hình 2: Tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2018

Nền kinh tế toàn cầu có mối quan hệ qua lại và ngày càng tùy thuộc lẫn nhau, vì
vậy, nếu các khối thương mại lớn như EU (chiếm 17, 2 % xuất, nhập khẩu thế giới,
năm 2011) hoặc khu vực đồng Euro (18nước thành viên EU), hoặc các quốc gia như
Mỹ hay Trung Quốc… gặp suy thoái sẽ gây ra những ảnh hưởng lớn đến tăng
trưởng kinh tế toàn cầu. Rủi ro tín dụng chính phủ liên tiếp ở châu Âu đã dấy lên
mối quan ngại về sự phục hồi chậm chạp tăng trưởng kinh tế toàn cầu . Tăng trưởng
sản lượng chậm lại đáng kể trong năm 2011, và tăng trưởng yếu tiếp tục diễn ra
trong năm 2012 và 2013.
Kinh tế thế giới đã đứng trên bờ vực của cuộc khủng hoảng tiếp theo khi mà tăng
trưởng kinh tế bắt đầu suy giảm trên diện rộng từ giữa năm 2011 và tăng trưởng
trung bình trong năm 2011 là khoảng 2,8%, tăng trưởng kinh tế tiếp tục sụt giảm
trong năm 2012 và 2013. Theo một báo cáo của Liên hợp Quốc, năm 2013, tăng
trưởng tổng sản phẩm thế giới năm 2012 là 2,6% và năm 2013 là 3,0%, thấp hơn
mức tăng trưởng toàn cầu giai đoạn trước khủng hoảng.
Trong khi các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi tiếp tục sẽ là
động lực cho nền kinh tế thế giới, với mức tăng trưởng trung bình là 5,4 % vào năm
2012 và 5,8% vào năm 2013. Trong số các nước đang phát triển như, tăng trưởng
của Trung Quốc giảm từ mức10,3% năm 2010 xuống 9,3% năm 2011 và tiếp tục
giảm xuống còn dưới 9% năm 2013, kinh tế Ấn Độ mở rộng khoảng từ mức 7,7 %
đến 7,9% trong giai đoạn 2012 và 2013, giảm so với mức 8,5% năm 2010, tốc độ
tăng trưởng kinh tế vẫn được duy trì.
13


Các nước thu nhập thấp chỉ bị tác động nhẹ bởi cuộc khủng hoảng toàn cầu. Tính
theo đầu người, tăng trưởng thu nhập giảm từ 3,8% năm 2010 xuống 3,5% năm
2011 và bất chấp sự suy thoái toàn cầu, các quốc gia nghèo hơn vẫn có thể đạt mức
tăng trưởng trung bình hiện tại hoặc cao hơn một chút trong năm 2012 và 2013.
Các vấn đề tác động đến tài chính, kinh tế toàn cầu rất đa dạng, phức tạp và liên
quan chặt chẽ với nhau. Thách thức phải giải quyết lớn nhất là ở chỗ, khủng hoảng

việc làm vẫn đang tiếp diễn và sụt giảm triển vọng tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là
tại các nước công nghiệp phát triển. Do tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao ở mức gần 9% và
thu nhập không tăng, và rất khó phục hồi trong ngắn hạn, do thiếu tổng cầu. Nhưng,
khi ngày càng nhiều người lao động mất việc trong thời gian dài, đặc biệt là lao
động trẻ, triển vọng tăng trưởng trung hạn cũng sẽ chịu ảnh hưởng do tác động bất
lợi đối với lao động có kinh nghiệm và kỹ năng cao. Nền kinh tế hạ nhiệt nhanh
chóng vừa là nguyên nhân, nhưng cũng vừa là yếu tố ảnh hưởng đến khủng hoảng
nợ công tại Khu vực đồng euro, và các vấn đề tài khóa ở các khu vực khác.
Khủng hoảng nợ công chìm sâu tại một số quốc gia châu Âu trong năm 2011 đã làm
trầm trọng thêm những mặt yếu kém của lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Thậm chí,
những bước đi táo bạo của các chính phủ quốc gia Khu vực đồng Euro nhằm từng
bước khắc phục nợ công của Hy Lạp, đã vấp phải bất ổn liên tục trên thị trường tài
chính, dấy lên mối quan ngại ngày càng cao về khả năng vỡ nợ của các nền kinh tế lớn
hơn trong Khu vực đồng tiền chung Euro, đặc biệt là Italia….Một số biện pháp
chính sách “thắt lưng buộc bụng” được tiến hành để ứng phó với khủng hoảng lại
làm xấu đi triển vọng về việc làm và tăng trưởng, và làm cho việc điều chỉnh tài
khóa và chỉnh sửa các bảng cân đối ở lĩnh vực tài chính trở nên khó khăn hơn.

Kinh tế Mỹ cũng đối mặt với thất nghiệp cao, kéo dài dai dẳng, làm lung lay
niềm tin của doanh nghiệp và người tiêu dùng, và sự mong manh của lĩnh vực tài
chính. EU và Mỹ là hai nền kinh tế lớn nhất thế giới và có mối liên hệ qua lại với
nhau sâu sắc. Các vấn đề của nước này có thể dễ dàng lan nhanh sang nước kia và
dẫn đến suy thoái kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Các nước đang phát triển đã dần
hồi phục sau cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2009.
2.4. Xu hướng cải cách nhằm khắc phục khủng hoảng nợ công ở cấp độ Liên
minh
2.4.1. Cải cách ngắn hạn
Một là, Thiết lập Quỹ Bình ổn Tài chính Châu Âu (EFSF).
Hai là, tái cơ cấu vốn của các ngân hàng.
Ba là, hỗ trợ tài chính gắn với chính sách khắc khổ, thắt lưng buộc bụng.

Bốn là, giải pháp xóa nợ cho các nước mắc nợ lớn.
Năm là, giải pháp mua trái phiếu chính phủ.
Sáu là giải pháp đưa ra các kế hoạch thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
14


Bảy là, giải pháp tiến hành bơm vốn trực tiếp cho các ngân hàng.
Tám là, giải pháp nới lỏng điều kiện cứu trợ cho các ngân hàng Tây Ban Nha.
Chín là, linh hoạt hơn khi tiếp cận các biện pháp can thiệp vào thị trường trái phiếu.
2.4.2. Cải cách dài hạn
Một là, thành lập Quỹ Cơ chế bình ổn châu Âu (ESM)
Hai là, thành lập Liên minh ngân hàng
Ba là, dự kiến ban hành loại thuế giao dịch tài chính chung (hiện đã có 11 nước
thành viên đang tham gia đàm phán ở cấp độ EU (năm 2012)).
2.4.3. Những khó khăn trong ứng phó với khủng hoảng nợ công
Thứ nhất, cơ chế cũ không còn phù hợp, cơ chế mới đang hình thành và cần phải
có thời gian đi vào cuộc sống.
Thứ hai,gói giải cứu thứ hai và việc tái cấu trúc nợ ở Hy Lạp đã giảm bớt áp lực
lên tình hình tài chính của quốc gia này từ ngắn hạn đến trung hạn; và tránh gây ra
ảnh hưởng dây chuyền tiêu cực đến các quốc gia còn lại trong khu vực.Tuy nhiên,
triển vọng ở Hy Lạp còn khá mờ mịt,khi nước này buộc phải tiến hành hàng loạt
biện pháp cải cách khắc nghiệt theo Chương trình cứu trợ, trong điều kiện nền kinh
tế nước này đã chìm sâu vào suy thoái cũng như phải đối mặt với làn sóng biểu tình,
phản đối và bất ổn xã hội.
Thứ ba, Hiệp ước về tăng trưởng và ổn định, phối hợp và quản lý trong
EMU,mặc dù được đa số nước thành viên EU đồng ý, nhưng đã phải đối mặt với
nhiều rủi ro như việc trưng cầu dân ý ở Ailen, hay yêu cầu đàm phán lại ở
Pháp.Mặc dù,đây là bước tiến quan trọng trong kiểm soát ngân sách quốc gia,
nhưng vẫn chưa thể hiện rõrànglộ trình cho Liên minh tiền tệ và những chương
trình cải cách nợ công ở khu vực ngoại vi châu Âu.

Thứ tư, quy mô Quỹ giải cứu khu vực đồng Euro còn hạn chế.
Thứ năm, một số yếu tố bất ngờ từ các nước thành viên.Cục diện kinh tế - chính
trị châu Âu đột ngột thay đổi sau chiến thắng bước ngoặt của ông François
Hollande trong cuộc bầu cử Tổng thống Pháp và những bất ổn trong việc thành lập
Chính phủ Hy Lạp.
Nếu trước kia,biện pháp “thắt lưng buộc bụng” được xem là kim chỉ nam hành
động của hầu hết các nhà lập pháp châu Âu nhằm giải quyết khủng hoảng nợ công
khu vực, thì điều này có thể thay đổi,khi Pháp và Hy Lạp đã phát ra những tín hiệu
cho thấy họ ít nhiều sẽ theo đuổi chính sách kích thích tăng trưởng kinh tế.
Thứ sáu, sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng kinh tế và khả năng cạnh tranh giữa các
nước thành viênđược cho là một trong những thách thức lớn hiện nay đối với EU.
Tóm lại, triển vọng kinh tế và sự ổn định tài chính cũng như khủng hoảng nợ
công nghiêm trọng hiện nay của châu Âu là mối đe dọa lớn nhất đối với phục hồi
kinh tế toàn cầu. Để giải quyết những bất ổn này, EU cần thực hiện các giải pháp
toàn diện và mạnh mẽ, gồm cả tài chính công, sức cạnh tranh của nền kinh tế và cơ
chế ổn định trong tương lai. Tuy nhiên, giải pháp này sẽ khó lòng đạt được, nếu
từng quốc gia thành viên EU vẫn tiếp tục đặt lợi ích quốc gia riêng cao hơn mục
tiêu ổn định, hài hòa chung của toàn khối EU- 28 và Khu vực đồng Eur-18.
15


CHƯƠNG 3: NỢ CÔNG VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC CỦA CUỘC KHỦNG
HOẢNG NỢ CÔNG CHÂU ÂU VỚI VIỆT NAM
3.1. Tình hình nợ công
Trong những năm qua, nguồn vốn vay công (còn gọi là nợ công) đóng vai trò
quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ
tầng, cải thiện đời sống nhân dân và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
nước ta. Tuy nhiên, Việt Nam là một nước đang phát triển, với khoảng cách giữa
tiết kiệm và đầu tư còn lớn, việc duy trì bội chi ở mức cao trong thời gian dài để có
nguồn lực cho đầu tư cũng dẫn đến nợ công tăng nhanh. Kéo dài tình trạng này sẽ

có nguy cơ tác động xấu đến việc hoạch định, điều hành các chính sách vĩ mô. Làm
thế nào để nâng cao hiệu quả quản lý nợ công và giảm nợ công ở Việt Nam là vấn
đề luôn nhận được sự quan tâm của xã hội.
3.1.1. Quy mô nợ công
Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính), nợ công của Việt
Nam so với GDP tương ứng lần lượt qua các năm 2011, 2012, 2013, 2014, 2015,
2016 là 54,9%; 50,8%; 54,5%; 58,0%; 61,0%; 63,7%. Tính đến cuối năm 2017, dư
nợ công của Việt Nam đạt khoảng 62,6% GDP, nợ Chính phủ khoảng 51,8% GDP
và nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 45,2% GDP.
Như vậy, trong giai đoạn 2011-2016, mức dư nợ công tại Việt Nam có xu hướng
tăng nhanh. Từ năm 2017, bằng nhiều biện pháp quyết liệt từ Chính phủ, Bộ Tài
chính và các bộ, ngành, địa phương trong việc kiểm soát, nâng cao hiệu quả quản
lý, tình trạng nợ công đã có xu hướng giảm.
Đánh giá về diễn biến nợ công của Việt Nam trong những năm gần đây, một số tổ
chức tài chính nước ngoài có chung nhận định, cơ cấu nợ công của Việt Nam đang
từng bước được điều chỉnh theo hướng bền vững hơn.

16


Hình 3: Tỷ lệ nợ công trên GDP (2013 – 2018)
3.1.2. Cơ cấu nợ công
Theo khoản 2 Điều 1 Luật Quản lý nợ công của Việt Nam, nợ công bao gồm tất cả
các khoản nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương.
Có chung nhận định tích cực về tình hình nợ công, trong Báo cáo tình hình kinh tế
- tài chính năm 2017 và triển vọng năm 2018, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
cũng cho biết, tỷ lệ nợ công/GDP năm 2017 của nước ta ước ở mức 62,6%, thấp
hơn so với mức 63,6% cuối năm 2016 do tăng trưởng kinh tế khả quan cùng với các
giải pháp đồng bộ về cơ cấu lại ngân sách, nợ công của Chính phủ. Theo đó, dư nợ
và áp lực trả lãi của Chính phủ có xu hướng giảm. Dư nợ Chính phủ so với GDP

giảm xuống mức 51,8% (năm 2016:52,6%).
Về kỳ hạn, với nợ trong nước, chủ yếu phát hành trái phiếu trong nước, nếu trong
giai đoạn 2011-2013 phần lớn ngắn hạn thì đến năm 2014 kỳ hạn là 3 năm; năm
2015, kỳ hạn kéo dài lên 4,4 năm; năm 2016 kỳ hạn kéo dài lên 5 năm.
Đặc biệt, năm 2017 đã phát hành 159,9 nghìn tỷ đồng trái phiếu chính phủ, kỳ
hạn bình quân là 13,52 năm, tăng 4,81 năm so năm 2016; lãi suất bình quân khoảng
6,07%/năm, giảm 0,2%/năm so năm 2016. Trong đó, tỷ trọng trái phiếu có kỳ hạn
20 năm, 30 năm đã tăng đáng kể, chiếm lần lượt 9,98% và 14,7% tổng khối lượng
phát hành (năm 2016 tương ứng là 1% và 8%). Như vậy, 2017 là năm có khối lượng
trái phiếu kỳ hạn dài và “siêu dài” trúng thầu lớn nhất từ trước đến nay…
Nhìn chung, trong cơ cấu của nợ công, các khoản vay nước ngoài phần lớn đều là
vay dài hạn, với lãi suất ưu đãi, hiện tại nợ công không gây sức ép cho NSNN về nghĩa
vụ trả nợ đến hạn. Theo Bộ Tài chính, hiện các chỉ số nợ của Việt Nam đang ở
17


mức an toàn và được quản lý chặt chẽ theo quy định của Luật Quản lý nợ công, các
khoản nợ trong nước và nước ngoài đều được thanh toán đầy đủ, không có nợ xấu.
Hàng năm, NSNN bố trí trả nợ từ 14 - 16% tổng số thu ngân sách (giới hạn cảnh
báo là dưới 25%) bằng khoảng 4,5% xuất khẩu (giới hạn cảnh báo là dưới 15%).
Đây là chỉ tiêu an toàn, so với các nước đang phát triển có cùng hệ số tín nhiệm thì
chỉ số nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam ở mức trung bình.
Riêng trong năm 2017, nghĩa vụ nợ của Chính phủ khoảng 260.150 tỷ đồng, gồm
trả nợ trong nước là 214.878 tỷ đồng, trả nợ nước ngoài trực tiếp là 28.022 tỷ đồng,
trả nợ của các dự án vay lại nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ trong năm
2017 ở mức khoảng 17.250 tỷ đồng.

Hình 4: Cơ cấu nợ công Việt Nam (2010 – 2017)
3.2. Tình hình sử dụng nợ công
Thứ nhất, còn tình trạng chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ NSNN và

nguồn vốn trái phiếu chính phủ.
Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công các năm gần đây chưa đạt được kế hoạch được
giao, nhất là giải ngân nguồn vốn trái phiếu chính phủ.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn nhà nước thấp là nguyên nhân cơ bản
gây khó khăn cho công tác thu NSNN. Nếu không có các giải pháp thúc đẩy tiến độ
giải ngân, tăng trưởng của nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng, trong khi tỷ lệ và nghĩa vụ
vay trả nợ công ngày càng có nguy cơ tăng cao.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư chưa cao, thể hiện qua chỉ số ICOR:
18


Năm 2015, tăng trưởng kinh tế dần hồi phục, với tăng trưởng GDP đạt 6,68% mức cao nhất kể từ năm 2008 đến nay, hiệu quả đầu tư đã có bước cải thiện, với
ICOR giai đoạn 2011-2015 đạt 6,91, giảm so với giai đoạn 2006-2010 (là 6,96).
Điều này có nghĩa là, nếu giai đoạn 2006-2010, Việt Nam cần 6,96 đồng vốn để tạo
ra được 1 đồng sản lượng, giai đoạn 2011-2015 chỉ cần đầu tư 6,91 đồng.
ICOR của Việt Nam còn cao, hiệu quả đầu tư còn thấp so với nhiều nền kinh tế
trong khu vực. Nguyên nhân một phần là do nền kinh tế đang trong giai đoạn tập
trung đầu tư cho hạ tầng, bao gồm cả hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa và đầu tư cho xóa
đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội cộng với tình trạng đầu tư còn có sự dàn
trải, lãng phí.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với tổng nhu cầu vốn đầu tư
toàn xã hội cho cả giai đoạn 5 năm 2016 - 2020 lên tới gần 10.600.000 tỷ đồng,
bằng khoảng 32-34% GDP.
Phải huy động được nguồn vốn này, Việt Nam mới có thể đảm bảo tốc độ tăng
trưởng kinh tế 6,5-7% và thực hiện khâu đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
đồng bộ, hiện đại, trong đó tập trung vào hệ thống giao thông, hạ tầng đô thị lớn.

Huy động vốn đã khó, nhất là trong bối cảnh ngân sách thâm hụt, bội chi lớn,
không đủ để chi thường xuyên và trả nợ, còn nợ công đang tăng nhanh, áp lực trả
nợ lớn, càng đòi hỏi phải sử dụng hiệu quả từng đồng vốn đầu tư, làm giảm ICOR,

đồng thời gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế.
3.3. Nguyên nhân nợ công ở Việt Nam tăng cao
3.3.1. Tăng trưởng kinh tế chậm
Trước hết, tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại, chưa đạt chỉ tiêu đề ra là
nguồn gốc sâu xa làm tăng nợ công. Khi chi NSNN vượt quá các khoản thu, dẫn
đến việc phải vay nợ trong và ngoài nước.
Trong cơ cấu khoản thu thì thu thường xuyên từ thuế, phí, lệ phí là khoản thu
quan trọng, ổn định và lâu dài. Khoản thu này có sự biến đổi cùng chiều với sự tăng
trưởng của hoạt động kinh tế. Giai đoạn 2011 - 2015, tăng trưởng GDP bình quân
đạt 5,91%/năm, thấp hơn giai đoạn 2006 - 2010 (6,3%/năm), năm 2016 ở mức
6,21%; năm 2017 đạt 6,81%.
Sự tăng trưởng chậm lại (giai đoạn 2011 - 2016), sản xuất kinh doanh gặp khó khăn
hơn đã làm cho nguồn thu NSNN bị giảm theo. Chi NSNN lại đòi hòi phải nhiều hơn,
nhất là chi cho đầu tư phát triển nhằm kích thích nền kinh tế tăng trưởng trở lại, từ đó,
nhu cầu chi đã vượt quá so với nguồn thu, nguồn tiết kiệm có được cùng kỳ, cụ thể:
giai đoạn 2011 - 2015, vốn đầu tư toàn xã hội vẫn ở mức khá cao 32 - 33%
19


GDP, nhưng tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế chỉ đạt khoảng 25% GDP. Thiếu hụt về
vốn đầu tư đó, Nhà nước phải đi vay để bù đắp, làm cho nợ công tiếp tục gia tăng.
3.3.2. Bội chi ngân sách nhà nước
Trong những năm qua, bội chi NSNN diễn ra liên tục và ở mức cao. Để có nguồn
bù đắp, tất yếu nợ công ngày càng tăng lên. Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài
của nước ta giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã quy định, tỷ lệ bội
chi NSNN/GDP cần duy trì ở mức 5%.
Tuy nhiên, trên thực tế, trong một thời gian dài, điển hình là giai đoạn 2012 - 2016,
tỷ lệ bội chi NSNN/GDP nước ta đều vượt quá 5%, bình quân thời kỳ này là 6%.

Nguyên nhân dẫn đến bội chi NSNN giai đoạn 2012 - 2016 là do nguồn thu

thường xuyên huy động từ nền kinh tế chưa đầy đủ. Nguồn thu từ dầu thô sụt giảm
mạnh trong những năm gần đây, dẫn đến thu NSNN không đạt. Trong khi, để tiếp
tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức 6% trở lên, đòi hỏi chi tiêu
NSNN rất lớn, vượt xa nguồn thu từ nội tại nền kinh tế...
Hiện nay, khuôn khổ pháp lý về quản lý vay nợ, trả nợ đã có nhưng hiệu lực pháp
lý chưa cao. Trong thời gian vừa qua, các khoản đi vay được phân công cho 3 cơ
quan: Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm về các khoản vay ODA, vay ưu đãi;
Ngân hàng Nhà nước vay các tổ chức tài chính quốc tế; Bộ Tài chính chịu trách
nhiệm các hình thức vay khác tại Luật Quản lý nợ công 2017, Chính phủ đã có sự
đổi mới mạnh mẽ trong công tác quản lý nợ công, khắc phục những bất cập tồn tại
trong thời gian trước đây.
3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ công
Xây dựng môi trường tài chính hiệu quả
- Công khai, minh bạch về tài chính
Đây là một nguyên tắc căn bản hàng đầu và phổ biến trên thế giới trong quản trị
công nói chung, quản trị tài khóa và đặc biệt là trong quản trị nợ công. Theo hướng
dẫn quản lý nợ công của IMF (2003) cũng như Cẩm nang minh bạch tài khóa
(2007), cần đặc biệt nhấn mạnh một số yêu cầu cơ bản như sau:
Thứ nhất, xác định rõ vai trò và trách nhiệm tài khóa của các cơ quan của Chính
phủ. Đây là yêu cầu thiết yếu để đảm bảo trách nhiệm giải trình trong việc hoạch
định và thực thi chính sách tài khóa.
Thứ hai, khu vực chính phủ phải được tách bạch rõ ràng ra khỏi phần còn lại của
khu vực công và phần còn lại của nền kinh tế; chính sách và vai trò quản lý của khu
vực công phải rõ ràng và được công bố công khai.
20


Thứ ba, về quản lý nợ, pháp luật quản lý nợ nên giao trách nhiệm rõ ràng cho
một cá nhân, thường là Bộ trưởng Tài chính trong việc: Lựa chọn các công cụ cần
thiết cho việc vay nợ; xây dựng chiến lược quản lý nợ; xác định giới hạn nợ (nếu

luật không quy định rõ) - thường là dựa vào chiến lược nợ bền vững; thiết lập và
kiểm soát cơ quan/tổ chức có trách nhiệm quản lý nợ (thuộc quyền hoặc nằm ngoài)
và thiết lập quy chế quản lý nợ.
Thứ tư, luật phải quy định cụ thể tất cả các khoản chính phủ bảo lãnh. Luật cũng
phải xác định rõ vai trò của Ngân hàng Trung ương sao cho việc phát hành quỹ
chứng khoán không bị lẫn với các biện pháp nghiệp vụ thuộc chính sách tiền tệ. Tất
cả các khoản vay phải được ghi có tại một tài khoản ngân hàng dưới sự kiểm tra của
Bộ Tài chính, và nghĩa vụ nợ và các điều khoản vay nợ phải được công bố đầy đủ
cho công chúng. Minh bạch tài khóa đòi hỏi cơ quan lập pháp phải xác định rõ các
yêu cầu trong báo cáo hàng năm về dư nợ và dòng chu chuyển nợ, kể cả số liệu về
bảo lãnh nợ của chính phủ trình cơ quan lập pháp và công khai cho công chúng.
Ngoài ra, cần đảm bảo rằng thông tin về nợ công phải bao quát cả quá khứ, hiện
tại và dự tính cho tương lai. Điều này hết sức cần thiết vì thông tin công khai về nợ
còn nhằm tăng cường khả năng can thiệp và phòng ngừa tình huống xấu xảy ra.
- Cải cách hành chính
Việc cải cách hành chính nhà nước cần được thực hiện trên tất cả các nội dung:
Thể chế; tổ chức bộ máy; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức,... Trong đó, cần tăng cường cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động
của cơ quan nhà nước, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính
trong giải quyết khiếu nại của nhân dân; thực hiện tốt việc tiếp nhận ý kiến, phản
hồi của người dân. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính cần phải được đơn giản hóa và
thông tin đầy đủ trên cổng thông tin điện tử của bộ, địa phương để tạo thuận lợi tối
đa cho người dân, cơ quan, tổ chức nhằm tiết kiệm chi phí, đồng thời nâng cao trách
nhiệm của cán bộ, công chức trong cải cách thủ tục hành chính. Đặc biệt, cần chú
trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó có yếu tố hết sức
quan trọng là cải cách chế độ, chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để
cán bộ, công chức làm việc, nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng
dịch vụ sự nghiệp công.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán và hoạt động ngân hàng, cụ thể:
+ Về hoạt động kiểm toán: Tiến hành kiểm toán độc lập các hoạt động quản lý nợ

hàng năm.
+ Về hoạt động ngân hàng: Đặc biệt tập trung vào nâng cao chất lượng cán bộ tín
dụng. Cần phải hướng dẫn tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn
21


nghiệp vụ, chú trọng nghiệp vụ marketing, kỹ năng bán hàng, thương thảo hợp
đồng và văn hoá kinh doanh. Đồng thời phải thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ tín
dụng và kiên quyết loại bỏ, thuyên chuyển sang bộ phận khác những cán bộ yếu về
tư cách đạo đức, thiếu trung thực, những cán bộ tín dụng thiếu kiến thức chuyên
môn nghiệp vụ.
Thay đổi cơ cấu nợ công
Việt Nam thực sự thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng tăng tỷ trọng nợ trong
nước nhiều hơn nữa. Để thay đổi cơ cấu nợ công, Chính phủ Việt Nam nên phát
hành trái phiếu chính phủ ghi bằng nội tệ nhiều hơn. Để nâng cao chất lượng các
đợt đấu thầu mua trái phiếu chính phủ, chính phủ nên đưa ra một mức lãi suất phù
hợp hơn với lãi suất thị trường và yêu cầu của nhà đầu tư.
Kiểm soát nợ công ở mức an toàn
Để kiểm soát nợ công ở mức an toàn, cần phải xác định được đâu là mức an toàn
(ví dụ: cần phải xác định các tỷ lệ nợ công/GDP và nợ nước ngoài/GDP). Tuy
nhiên, bên cạnh đó, cần chú ý phân tích bản chất của nợ công. Đó là: nợ chính phủ
là vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế,
hay lượng dự trữ quốc gia... Thực tế xảy ra trên thế giới cho thấy những nước rơi
vào khủng hoảng tài chính đều có tỷ lệ nợ trên GDP khá thấp. Ví dụ: Argentina năm
2001, tỷ lệ đó chỉ ở mức 45%; Ukraine (2007) chỉ 13%; Thái Lan (1996) chỉ có
15%; Venezuela (1981) chỉ có 15%; Rumania (2007) chỉ có 20%...
Nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công
Xác định rõ mục đích, chủ trương đầu tư, tập trung vào các chương trình, dự án
trọng điểm và thực sự có hiệu quả; giảm dần sự tham gia từ NSNN vào các dự án,
xã hội hóa các nguồn lực ngoài nhà nước; phấn đấu giảm mạnh chỉ số ICOR của

khu vực nhà nước; đẩy mạnh cơ chế cho vay lại, giảm dần tỷ lệ cấp phát, tăng
cường chia sẻ rủi ro cho các cơ quan cho vay lại.
Xây dựng tiêu chí cụ thể về huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay nợ công gắn với
nguyên tắc về trách nhiệm hoàn trả nợ, tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí, tham
nhũng.

22


KẾT LUẬN

Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu đang có những ảnh hưởng sâu sắc đến
các nước khu vực Châu Âu và toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng nợ công cũng đang
làm thức tỉnh toàn thế giới về nhu cầ duy trì tính ổn định kinh tế vĩ mô và tăng
cường thắt chặt hoạt động tài khóa để giảm bớt nợ công không thật cần thiết cho
nhu cầu tăng trưởng bền vững.
Từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu, đặc biệt là nguy cơ vỡ nợ ở Hy Lạp một
lần nữa cho chúng ta thấy kinh tế Việt Nam vẫn đang tiềm ẩn những rủi ro, khi tăng
trưởng dựa quá nhiều vào dòng vốn đầu tư từ bên ngoài. Tình trạng của Việt Nam cũng
giống Hy Lạp ở một số yếu tố như: tham hụt tài khoản vãng lai kéo dài, yếu kém trong
quản lý chi tiêu công... Chỉ có tái cấu trúc nền kinh tế và cải thiện chất lượng tăng
trưởng mới giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm sắp
tới. Cùng với đó, một bài học lớn phải được rút ra trong suốt quá trình quản lý, ngăn
chặn bùng nổ nợ công, cho đến giải quyết hậu quả trong trưởng hợp vỡ nợ… là bài học
“Tự lực cánh sinh”, tự mình làm, tự mình chịu, khi ấy sẽ biết quý và thận trọng từng
đồng tiền trong chi tiêu. Với bức tranh nợ công nêu trên, có thể khẳng định mỗi nước
dù ở mức độ nào cũng liên quan đến nợ công và nợ công vẫn thực sự cần thiết cho mọi
nền kinh tế, cho mọi quốc gia. Điều quan trọng cần bàn đó là quy mô nền kinh tế như
thế nào thì có khả năng hấp thụ nguồn tín dụng tương ứng. Hiện tại thế giới chưa có
công thức chuẩn xác cho mọi trường hợp nợ công và như vật nơ công vẫn là câu

chuyện dài, vì lẽ đó mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng cần nhận thức và
xử lý các vấn đề phát sinh từ nợ công cho phù hợp.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
1. Lê Viết Tùng (2018) “Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học cho Việt
Nam”
2. Vân Du (2018) “ Nợ công Việt Nam đang trong tình trạng nào” ,

3. Minh Anh (2018), “Nợ chính phủ bảo lãnh giảm mạnh”,

4. Vương Đình Huệ (2010), “Nợ công và quản lý nợ công ở Việt Nam” ,

5. Thân Hoàng Dung (2011), “Toàn cành khủng hoảng nợ công Châu Âu”
6. Lê Thị Minh Ngọc (2014), “Nợ công Châu Âu: Báo động từ những con số”
7. Đinh Công Tuấn (2017), “Cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu (2009-2014)
và những những vấn đề về nợ công ở Việt Nam hiện nay
8. Lê Thị Minh Ngọc (2016), “Triển vọng nợ công châu Âu và một số gợi ý
cho Việt Nam”
9. Luật quản lý nợ công Việt Nam 2017
10. Bộ Tài Chính (2016). “Bản tin nợ công số 4”
11. Bộ Tài Chính (2017). “BẢn tin nợ công số 5”
12. Tổng Cục Thống kê, www.gso.gvo.vn
Tài liệu nước ngoài
13. World Bank (2017) Reporter NO. 111771-VN
14. “Vietnam: National debt”,
15. Steinbock, D. (2012). "The Eurozone Debt Crisis: Prospects for Europe, China,

and the United States."American Foreign Policy Interests 34(1):34-42.
16.Anand, M., G. L. Gupta, et al. (2012). The euro zone crisis Its dimensions
and implications.
17.Parrott, W. (2012). The European Debt Crisis. SA Technical. London,
ACCA.
18.G. M. Wali Ullah, Samiul Parvez Ahmed (2014). “A review of European
sovereign debt crisis: Causes and consequences”
19.VEPR Policy Discussion Note PD-03. “Characteristics of Vietnamese public
debt”
20.Dao Ha & Vo Hoang Oanh (2017). “ External Debt and Economic growth in
Vietnam: A nonlinear relationship”
24


21. Cameron A, Pham T, Atherton J (2018) Vietnam Today – first report of the
Vietnam’s Future Digital Economy Project. CSIRO, Brisbane.

25



×