Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN kinh nghiệm chỉ đạo giáo dục vệ sinh môi trường tại trường TH nguyên bình b

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.37 MB, 18 trang )

MỤC LỤC
STT

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

ĐỀ MỤC

Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lí luận của sáng kiến
Thực trạng
Giải pháp
Hiệu quả
Kết luận – kiến nghị
Kết luận


Kiến nghị

TRANG

1
1
1
2
2
2
2
3
4
15
16
16
16

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn SKKN:
Môi trường là vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại và của mỗi con
người. Bảo vệ môi trường và giáo dục học sinh bảo vệ môi trường đã được
Đảng, Nhà nước ta quan tâm. Hiện nay môi trường đã đang bị huỷ hoại nghiêm
trọng, gây nên sự mất cân bằng sinh thái, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên ảnh
hưởng tới chất lượng cuộc sống. Một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên


tình trạng trên là do tiến trình công nghiệp hoá, sự yếu kém về khoa học xử lý
chất thải, sự thiếu ý thức, thiếu hiểu biết của con người.
Nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường đã được xác định chủ yếu là do

các hoạt động của con người như: Chặt phá rừng, sản xuất công, nông nghiệp,
giao thông vận tải, sinh hoạt, dân số tăng nhanh, do các phong tục tập quán của
người dân như: đốt nương làm rẫy, canh tác, việc săn bắt động vật hoang dã, tình
trạng khai thác tài nguyên khoáng sản bừa bãi… đã ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường sống trên Trái Đất gây mất cân bằng sinh thái, tài nguyên thiên nhiên
ngày một cạn kiệt, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng đe doạ chất
lượng cuộc sống, sức khoẻ của con người; khí hậu toàn cầu đang thay đổi, hạn
hán, lũ lụt, lỗ thủng tầng ôzôn, làm tan băng, ... ảnh hưởng đến sự phát triển kinh
tế của xã hội.
Giáo dục bảo vệ môi trường là một vấn đề cấp bách có tính toàn cầu, vấn
đề có tính khoa học, tính xã hội sâu sắc. Giáo dục bảo vệ môi trường rất cần
thiết cho các em học sinh - những chủ nhân tương lai của đất nước. Ở lứa tuổi
các em tiểu học - lứa tuổi bắt đầu làm quen và bắt chước nên giáo dục môi
trường cần phải tích hợp trong các môn học và tổ chức các hoạt động hình thành
kĩ năng sống phù hợp với độ tuổi. Làm thế nào để hình thành cho các em ý thức
bảo vệ môi trường và thói quen sống vì một môi trường xanh - sạch - đẹp.
Là cán bộ quản lí, tôi thấy việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho các
em học sinh là rất cần thiết. Vậy phải giáo dục như thế nào mới có hệ thống và
hiệu quả cao. Tôi đã chọn và nghiên cứu và đưa ra sáng kiến kinh nghiệm này
cùng đồng nghiệp tham khảo: “Một số kinh nghiệm chỉ đạo giáo dục vệ sinh
môi trường ở Trường Tiểu học Nguyên Bình B”
2. Mục đích nghiên cứu:
Giáo dục môi trường không những chỉ cho hôm nay và cho cả ngày mai.
Nhằm xây dựng một trường học ‘‘xanh - sạch - đẹp’’ và xã hội trong lành. Giáo
dục bảo vệ môi trường nhằm giúp cho giáo viên có kiến thức về môi trường,
giáo viên là tấm gương cho trẻ, luôn có ý thức hướng dẫn và nhắc nhở trẻ từ
kiên trì thực hiện những việc làm hàng ngày có ý nghĩa bảo vệ môi trường và
giáo dục trẻ biết yêu quý và gần gũi với môi trường. Mỗi giáo viên là một tuyên
truyền viên về giáo dục học sinh bảo vệ môi trường trong nhà trường và cả cộng
đồng . Từ đó hình thành cho trẻ kĩ năng thói quen tốt biết sắp xếp đồ dùng, đồ

chơi trong lớp học và ngoài trời gọn gàng ngăn nắp, biết bỏ rác đúng nơi quy
định, biết chăm sóc cây xanh và chăm sóc các con vật nuôi. Hình thành cho trẻ
có thái độ thiện cảm, bảo vệ môi trường. Đồng thời có phản ứng đối phó với các
hành vi xấu như: vứt rác bừa bãi nơi công cộng , dẫm đạp cây xanh ...
Tuyên truyền các bậc cha mẹ học sinh và cộng đồng có kiến thức cơ bản về
giáo dục bảo vệ môi trường và tích cực tham gia các hoạt động làm “xanh - sạch
- đẹp” môi trường và làm gương cho trẻ, cùng giáo dục trẻ có ý thức bảo vệ môi
trường .
3. Đối tượng nghiên cứu:

1


Tất cả các cán bộ, giáo viên, nhân viên, phụ huynh, học sinh trường tiểu học
Nguyên Bình B.
4.Phương pháp nghiên cứu:
- Trao đổi với các bộ phận môi trường.
- Phương pháp tham quan, điều tra, khảo sát.
- Nghiên cứu tài liệu, công văn chỉ thị của các cấp.
- Rút kinh nghiệm.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Giáo dục môi trường nhằm giúp cộng đồng hiểu được bản chất phức tạp
của hệ thống môi trường thiên nhiên cũng như môi trường nhân tạo. Từ đó giúp
con người có những hành vi đối xử “ thân thiện” hơn đối với môi trường. Mục
tiêu giáo dục môi trường nhằm trang bị cho cộng đồng những kĩ năng hành động
bảo vệ môi trường một cách có hiệu quả.
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo, quan hệ mật
thiết với nhau, bao quanh con người có ảnh hưởng tới đời sống, sự tồn tại, phát
triển của con người, sinh vật và thiên nhiên.

Môi trường và bảo vệ môi trường đã và đang là một vấn đề được cả thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng đặc biệt quan tâm. Chất lượng môi trường
có ý nghĩa to lớn trong sự phát triển bền vững đối với đời sống con người. Môi
trường là một khái niệm quen thuộc và tồn tại xung quanh chúng ta. Có nhiều
quan niệm về môi trường nhưng chúng ta có thể hiểu: Môi trường tự nhiên; Môi
trường nhân tạo; Môi trường kinh tế - xã hội.
Ba môi trường này tác động lẫn nhau và tác động trực tiếp tới con nguời.
Môi trường sống của con người là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Con người chịu tác động từ môi trường và ngược lại con người tác động trở lại
môi trường.
Môi trường bao gồm thành phần không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng,
lòng đất, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật, các hệ sinh thái, các khu dân cư, khu
sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các
hình thái vật chất khác.
Chỉ đạo giáo dục môi trường để bảo vệ môi trường là những hành động giữ
cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, bảo đảm cân bằng
sinh thái, ngăn chặn khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây
ra, khai thác sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, hàng ngày, hàng
giờ con người vẫn tiếp tục khai thác và sử dụng một số lượng khổng lồ những
nguồn tài nguyên thiên nhiên như than đá, dầu mỏ, các loài sinh vật... Ở một số
nơi, sự khai thác quá mức đã khiến cho nguồn tài nguyên này bị lâm vào tình
trạng suy kiệt một cách trầm trọng.
Thực tế đã cho thấy, thiệt hại về môi truờng là những thiệt hại có tính
nghiêm trọng, thiệt hại môi trường làm phát sinh những thiệt hại tiềm ẩn trong
đó có thể dẫn tới thiệt hại cho tính mạng, sức khởe và tài sản của con người.
2


2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

2.1.Thực trạng môi trường ở Việt Nam, Thanh Hóa và huyệnTĩnh Gia.
Hiện nay ở nước ta bình quân mỗi ngày các khu, cụm, điểm công nghiệp
thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải rắn, lỏng, khí và chất độc hại khác. Có nơi
hoạt động của các nhà máy trong khu công nghiệp đã phá vỡ hệ thống thủy lợi
tạo ra những cánh đồng hạn hán, ngập úng và ô nhiễm nguồn nước tưới, nguồn
nước sạch.
Ở Thanh Hóa có bốn khu công nghiệp, ..., 80% dân sống bằng nông nghiệp
nên mức độ ô nhiễm môi trường tăng lên do hoạt động sản xuất công nghiệp và
hoạt động của các nhà máy, nông dân dùng thuốc trừ sâu.
Tại huyện Tĩnh Gia hiện nay chưa có bãi rác chứa tập trung, lượng rác thải
của khu công nghiệp và dân cư nhiều, ý thức thu gom rác và xử lí rác thải của
một số người dân còn hạn chế nên ảnh hưởng đến nguồn nước sinh hoạt và ô
nhiễm môi trường.
2.2. Thực trạng việc giáo dục vệ sinh môi trường hiện nay :
Trong các trường Tiểu học nói chung và trường Tiểu học Nguyên Bình B
nói riêng đã có nhiều cố gắng đáng kể trong công tác giáo dục vệ sinh môi
trường cho học sinh như giáo dục thông qua việc tích hợp vào các môn học,
trong các buổi hoạt động ngoại khóa song hiệu quả đem lại chưa cao. Nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến vấn đề này là:
*.Về phía giáo viên.
Một số trường học giáo viên chỉ giáo dục vệ sinh môi trường chưa giáo dục
học sinh có ý thức tự giác giữ gìn vệ sinh nơi công cộng. Giáo viên thường chú
trọng đến nội dung kiến thức trọng tâm của tiết dạy, giáo dục môi trường thường
bị sao nhãng bởi các lý do: Phần liên hệ được coi là phần phụ; Giáo viên ít có
kiến thức thực tế do ngại tìm tòi, nghiên cứu nên học sinh chưa ý thức được sự
nghiêm trọng của ô nhiễm môi trường.
Theo cấu trúc chương trình sách giáo khoa các môn học được lồng ghép
tích hợp nội dung bảo vệ môi trường ở nhiều bài thường được đưa vào mục liên
hệ ở cuối của bài nên giáo viên chú tâm vào những nội dung chính của bài, còn
thời gian mới liên hệ hoặc bỏ qua phần liên hệ thực tế cho các em.

Thông thường giáo viên chỉ thiết kế nội dung bài học theo sách giáo khoa,
ít có kiến thức thực tế nên học sinh không được cung cấp những kiến thức thực
tế, kiến thức không được mở rộng dẫn tới việc giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho các em chưa đạt được hiệu quả cao. Từ những lí do đó ý thức bảo vệ
môi trường của học sinh chưa được nâng cao.
* Về phía học sinh.
Việc nắm bắt kiến thức, nhìn nhận vấn đề còn mông lung, chưa hiểu rõ ý
nghĩa của việc vệ sinh bảo vệ môi trường.
Học sinh ít được tiếp xúc với thực tế nên chưa ý thức được mức độ nghiêm
trọng của ô nhiễm môi trường, còn thờ ơ trước sự ô nhiễm môi trường.
Chưa tự giác trong việc giữ gìn vệ sinh nơi công cộng, nơi học tập và sinh
sống, bản thân một số học sinh là tác nhân trực tiếp gây ô nhiễm môi trường.
3


Minh chứng cho điều này là hiện nay các em vẫn còn xả rác bừa bãi, bẻ cây, bẻ
cành và thờ ơ trước những hành động gây ô nhiễm môi trường ...
Hiện nay đa số học sinh chưa có kỹ năng thực hành trong các hoạt động
bảo vệ môi trường, chưa biết vận dụng lí thuyết vào thực tiễn. Vì vậy ý thức bảo
vệ môi trường của học sinh là chưa cao. Ví dụ khi hỏi các em: Để giữ gìn
trường lớp sạch đẹp em phải làm gì ? Câu trả lời của các em là : Thường xuyên
quét dọn, không vứt rác bừa bãi, không vẽ bậy lên tường…nhưng trên thực tế,
các em vẫn không thực hiện được nội dung các em đã trả lời, vẫn tiện tay ăn quà
xong vứt rác vào bồn hoa hoặc sân trường, nhiều em xé giấy ném ra sân trường,
quét vệ sinh hất rác sang lớp khác, vẫn còn nhiều em vẽ bậy lên tường....
* Kết quả khảo sát về ý thức bảo vệ môi trường của học sinh trường Tiểu
học Nguyên Bình B năm học 2015 - 2016 như sau:
Ý thức bảo vệ môi trường của học sinh
Tổng
Ý thức tốt

Có ý thức
Chưa có ý thức
Năm số
học
học
SL
%
SL
%
SL
%
sinh
2015- 186
25
13,0 %
74
39,7%
87
47,3%
2016

3. Những giải pháp chỉ đạo giáo dục vệ sinh môi trường ở trường Tiểu
học Nguyên Bình B:
3.1.Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của giáo viên, phụ
huynh, học sinh:
Những năm học trước, đại bộ phận giáo viên và học sinh nhận thức chưa tốt
về công tác vệ sinh môi trường. Giáo viên chỉ dành nhiều thời gian cho các nội
dung học môn chính còn việc giáo dục môi trường là phần phụ nên có phần sao
nhãng công tác giáo dục vệ sinh môi trường, học sinh chủ yếu đến trường học
văn hóa còn công tác vệ sinh môi trường đã có người lớn lo, nhà trường đã thuê

người dọn vệ sinh hàng ngày nên ý thức tự giác trong công tác giữ gìn vệ sinh
môi trường ở học sinh chưa cao. Để nâng cao nhận thức của mỗi cán bộ, giáo
viên và học sinh, tôi đã triển khai đầy đủ các văn bản, chỉ thị của Bộ giáo dục và
đào tạo, của các ban ngành về công tác vệ sinh môi trường qua buổi họp hội
đồng, buổi sinh hoạt chuyên môn và gửi văn bản qua gmail đến từng cá nhân.
Thông qua các văn bản, nhà trường đã triển khai và xây dựng kế hoạch thực
hiện, triển khai đến tất cả cán bộ giáo viên để mọi người thấy rõ tầm quan trọng
của công tác vệ sinh môi trường. Đồng chí giáo viên Tổng phụ trách Đội phối
hợp với giáo viên chủ nhiệm tuyên truyền thông qua các buổi chào cờ, các buổi
sinh hoạt Đội thiếu niên, Sao nhi đồng, qua các tiết sinh hoạt lớp, buổi ngoại
khóa,…tổ chức cho các em xem băng hình và tổ chức buổi truyền thông cho tất
cả cán bộ, giáo viên, phụ huynh học sinh về thực trạng môi trường hiện nay qua
họp phụ huynh 3 lần/ năm, ngoài ra, nhà trường còn tuyên truyền thông qua hệ
thống khẩu hiệu như: “Cùng đồng hành vì môi trường xanh - sạch - đẹp - an

4


toàn”; “Trường lớp khang trang - xanh - sạch - đẹp”;“Hãy giữ gìn vệ sinh
trường lớp sạch đẹp”; “ Sân trường em không có rác”
Qua tuyên truyền giáo viên và học sinh biết được những việc mình nên làm,
những việc không nên làm để có một môi trường “ xanh - sạch - đẹp”
Tuyên truyền là một trong những biện pháp mang lại hiệu quả cao tác động
đến ý thức bảo vệ môi trường. Vì vậy từ năm học 2016- 2017 nhận thức của cán
bộ, giáo viên và học sinh đã nâng lên rõ rệt. 100% giáo viên đã thực hiện
nghiêm túc việc bảo vệ môi trường và giáo dục học sinh ý thức bảo vệ môi
trường qua các bài học và các hoạt động khác, học sinh nhìn chung đã có ý thức
tốt về công tác giữ vệ sinh bảo vệ môi trường.

3.2. Chỉ đạo giáo dục môi trường trong các môn học:

Việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong một số tiết học là bắt buộc.
Qua việc dự giờ thăm lớp và khảo sát chất lượng học sinh về những nội dung
liên quan đến môi trường cho thấy: Nếu giáo viên chỉ dạy những kiến thức đơn
thuần mà chưa chú ý đến việc lồng ghép giáo dục môi trường cho học sinh
thông qua từng tiết dạy thì họ bỏ qua một cơ hội giáo dục môi trường bền vững
cho học sinh. Ngoài việc chuyển tải những kiến thức, giáo viên phải biết cách
lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục môi trường qua từng bài giảng (từng
mảng kiến thức) cho học sinh thì sẽ thu được hiệu quả to lớn trong việc giáo dục
môi trường cho các em. Muốn có sức thuyết phục học sinh trong tiết dạy người
giáo viên phải nắm được trong chương trình dạy có những bài nào, chương nào,
phần nào có thể lồng ghép được kiến thức bảo vệ môi trường. Là người quản lí
chuyên môn tôi đã tìm hiểu và đưa nội dung này cho giáo viên vào trong các
buổi sinh hoạt chuyên môn và hướng dẫn giáo viên thực hiện qua giờ dạy thực
nghiệm.

5


Hình ảnh giờ học Giáo dục Kĩ năng sống về Bảo vệ môi trường
Tôi đã tổ chức tập huấn các chuyên đề bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng
cho giáo viên về giáo dục môi trường. Năm học 2016-2017 được sự hỗ trợ của
Hội phụ huynh nhà trường mở lớp tập huấn rèn luyện kĩ năng sống và triển khai
các hoạt động ngoại khóa trong đó có tổ chức sự kiện bảo vệ môi trường để
nâng cao khả năng tích hợp, lồng ghép giáo dục môi trường trong các giờ học
chính khóa. Việc làm này đã giúp cho giáo viên thấy rõ trong các tiết học có nội
dung giáo dục môi trường thì kiến thức bảo vệ môi trường và kiến thức của bài
học gắn bó chặt chẽ với nhau. Căn cứ vào nội dung bài học để đưa vào một cách
hợp lý. Trong chương trình Tiểu học nội dung giáo dục môi trường có ba dạng:
*Dạng bài học tích hợp nội dung giáo dục môi trường ở mức độ toàn phần: Đối
với dạng bài học này, mục tiêu của bài học không chỉ trang bị cho học sinh kiến

thức về môi trường mà còn hình thành những hành vi bảo vệ môi trường và thái
độ tích cực đối với môi trường. Vì vậy khi dạy giáo viên cần ưu tiên lựa chọn
các hình thức tổ chức và phương pháp dạy học đề cao sự tiếp xúc
6


trực tiếp với môi trường xung quanh như tổ chức cho học sinh học tập thông qua
các hoạt động điều tra, thí nghiệm, thực hành, đóng vai…
( Ví dụ bài: Đất và rừng- Địa lý- Lớp 5)

Xem hình ảnh minh họa về nạn chặt phá rừng ở VN
(Hình ảnh minh họa cho bài: Đất và rừng – Địa lý – Lớp
5)

Xem hình ảnh minh họa về trồng rừng bảo vệ môi trường
(Hình ảnh minh họa cho bài: Đất và rừng – Địa lý – Lớp 5)
Những bài học tích hợp toàn phần là điều kiện tốt nhất để thông qua nội
dung bài học để phát huy học sinh trong công tác bảo vệ môi trường.

7


*Dạng bài học tích hợp nội dung giáo dục môi trường ở mức độ bộ phận:
Đối với bài này, mục tiêu bài học thường liệt kê mục tiêu giáo dục bảo vệ
môi trường cụ thể. Việc thực hiện mục tiêu bài học nhiều khi là tiền đề để thực
hiện mục tiêu giáo dục môi trường. Vì vậy khi chuẩn bị bài dạy, giáo viên cần
tiến hành nghiên cứu kỹ nội dung bài học, xác định nội dung giáo dục môi
trường tích hợp vào nội dung bài học là gì, thông qua hoạt động dạy học nào,
cần chuẩn bị thêm tư liệu gì, đồ dùng dạy học gì để giáo dục môi trường đạt
hiệu quả

Khi tổ chức dạy học, giáo viên tiến hành các hoạt động dạy học đảm bảo
đúng yêu cầu môn học đồng thời lưu ý học sinh hiểu, cảm nhận đầy đủ và sâu
sắc phần nội dung bài học có liên quan đến giáo dục môi trường một cách nhẹ
nhàng, phù hợp và đạt mục tiêu bài học.
* Dạng bài tích hợp nội dung giáo dục môi trường ở mức độ liên hệ:
Với dạng bài này, các kiến thức giáo dục môi trường không được nêu rõ
trong sách giáo khoa nhưng dựa vào kiến thức bài học, giáo viên có thể bổ sung
các kiến thức giáo dục môi trường cho phù hợp. Vì vậy, khi chuẩn bị bài dạy,
giáo viên cần có ý thức tích hợp, đưa ra những vấn đề gợi mở, liên hệ nhằm giáo
dục học sinh hiểu biết về môi trường, có kỹ năng sống và học tập trong môi
trường phát triển bền vững.
Khi tổ chức dạy học, giáo viên tiến hành các hoạt động đảm bảo đúng yêu
cầu môn học đồng thời lưu ý liên hệ bổ sung kiến thức giáo dục môi trường một
cách tự nhiên, phù hợp với trình độ nhận thức, khả năng hành động của học sinh
và đúng mức tránh lan man, sa đà, gượng ép, ảnh hưởng đến việc thực hiện mục
tiêu của bài học.
Ví dụ: Khi dạy bài: Chùa thời Lý- Lịch sử lớp 4 sau khi cho học sinh quan
sát hình ảnh một số ngôi chùa thời Lý (như chùa Dâu, chùa Một Cột, chùa
Láng…) giáo viên có thể mô tả vẻ đẹp một vài chùa thời Lý tiêu biểu và liên hệ
ý thức bảo vệ di sản văn hóa của cha ông.

Chùa Một Cột ( Hà Nội)
(Hình ảnh minh họa cho bài: Chùa thời Lý – Lịch sử – Lớp 4)

8


Chùa Láng ( Hà Nội)
(Hình ảnh minh họa cho bài: Chùa thời Lý – Lịch sử – Lớp 4)
3.3. Chỉ đạo giáo dục môi trường đi đôi với việc giáo dục kĩ năng sống

cho học sinh:
Muốn hiệu quả giáo dục môi trường bền vững thì phải giáo dục cho học
sinh những hành vi, những thói quen tốt, những kĩ năng sống liên quan đến công
tác vệ sinh bảo vệ môi trường, mỗi giáo viên phải rèn luyện cho học sinh những
thói quen tốt như không vứt rác trong phòng học, không vứt rác ra sân trường,
không ném rác trên đường đi, khi nhìn thấy người khác vứt rác không đúng chỗ
nên nhắc nhở lịch sự để giữ gìn trường lớp luôn sạch đẹp, có ý thức tự giác thấy
rác thì nhặt bỏ vào đúng nơi quy định. Thường xuyên tổ chức dọn vệ sinh lớp
học và lao động vệ sinh trường lớp, rèn luyện cho học sinh biết cách làm vệ sinh
vừa đảm bảo sạch sẽ vừa đảm bảo an toàn cho sức khỏe. Ví dụ khi hướng dẫn
học sinh quét lớp cần tắt quạt để lớp được sạch và đỡ bụi, khi lau cửa kính, lau
bảng hoặc lau bàn ghế phải dùng khăn ướt vắt cho ráo rồi mới lau, sau đó dùng
khăn khô lau lại, trong quá trình làm công tác vệ sinh, nhắc nhở học sinh phải
đeo khẩu trang để đảm bảo an toàn cho sức khỏe.
Để học sinh có ý thức, thói quen giữ gìn vệ sinh bảo vệ môi trường, trước
hết giáo viên phải là người gương mẫu thực hiện tốt công tác giữ vệ sinh môi
trường ngay trong lớp học, phải cùng tham gia khi tổ chức các hoạt động vệ sinh
môi trường, tạo sự hòa đồng, thân thiện với học sinh.
3.4. Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh học sinh, đoàn thể ngoài
xã hội trong công tác rèn kỹ năng giáo dục môi trường:
Gia đình là nơi để các em học tập và thực hành vệ sinh môi trường ở ngoài
nhà trường. Bố mẹ, anh chị hướng dẫn các em thu gom rác thải, phân loại rác
thải, những vật liệu gia đình hỏng có thể để làm đồ dùng học tập; những rác thải
làm phân bón và còn lại rác thải không phân hủy được sẽ mang bỏ nơi quy định
để đưa đi xử lý.
9


Chăm sóc cây xanh, vệ sinh nhà cửa, phòng học, sân trường, …
Đoàn thanh niên tổ chức cho các em vệ sinh đường làng ngõ xóm không

rác,…
Giáo dục môi trường trong cuộc sống hằng ngày biết tiết kiệm năng
lượng, tiết kiệm điện, tiết kiệm nước và giấy,...;
Thứ hai hàng tuần các em báo cáo việc làm tốt của mình của bạn trong công
tác giữ gìn vệ sinh môi trường.
3.5.Tổ chức các phong trào thi đua:
Trong năm học tổ chức phát động nhiều phong trào thi đua cụ thể:
* Phong trào trường em không có rác:
Sân trường có thể nói là bộ mặt của nhà trường, sân trường sạch hay bẩn nó
phản ánh một phần nội dung giáo dục môi trường của trường đó đạt hiệu quả hay
chưa.
Nội dung này tôi giao cho giáo viên chủ nhiệm và Đội thiếu niên trực tiếp
thực hiện. Phân công cụ thể từng Chi đội, sao Nhi đồng phụ trách vệ sinh chuyên
các khu vực trong suốt cả năm học. Hằng ngày, đội cờ đỏ có nhiệm vụ kiểm tra
và nhắc nhở các lớp (chi đôi, sao) làm vệ sinh đúng thời gian, đúng khu vực quy
định, nếu ngày nào sân trường bẩn đội cờ đỏ sẽ trừ điểm thi đua.

Hình ảnh học sinh nhặt rác trong bồn hoa trước giờ vào học
Tham mưu cho hiệu trưởng mua các thùng đựng rác, bố trí hợp lí vị trí để
các thùng rác trên các phòng học, hành lang và sân trường, các thùng đựng rác
dán các khẩu hiệu như: “Hãy bỏ rác đúng nơi quy định”, “ Hãy bảo vệ môi
trường”…
Qua việc thực hiện phong trào, đã mang lại hiệu quả thiết thực, các em bỏ
rác đúng quy định, sân trường luôn được giữ gìn sạch đẹp.
* Phong trào lớp em gọn gàng, sạch đẹp.

10


Tôi cùng với cán bộ giáo viên trong nhà trường đã xây dựng các tiêu chí

về trang trí lớp học thân thiện, giáo viên chủ nhiệm các lớp hướng dẫn, tổ chức
cho học sinh trang trí. Ngoài việc lớp học luôn đảm bảo sạch sẽ, bàn ghế được
sắp xếp thẳng hàng, phát động học sinh sưu tầm các loại cây cảnh đễ trồng, dễ
sống và phát triển được trong môi trường thiếu ánh nắng trong thời gian dài,
chậu cây xanh hoặc hoa lâu tàn, nở nhiều mùa trong năm để trong khuôn viên
của lớp; giáo viên hướng dẫn học sinh lựa chọn, sắp xếp, bố trí cây xanh một
cách phù hợp tạo sự đẹp mắt, hài hòa trong phòng học, những loại cây chịu nước
dùng lon bia hoặc chai nước rửa chén cắt thành lọ trang trí cho đẹp, mỗi phòng
học trang trí khoảng 8 đến 10 lọ cây để gắn lên tường. Giáo viên phân công các
tổ chăm sóc, bổ sung thêm cây xanh để duy trì tốt tiêu chí lớp học xanh - sạch đẹp.

Hình ảnh không gian trong lớp học.

11


Trong phòng học có các nội quy với nội dung như: “Không vẽ bậy, vẩy
mực lên bàn ghế, tủ, tường, và các đồ dùng có trong phòng; Sắp đặt gọn gàng,
ngăn nắp sách vở và các đồ dùng học tập; Thực hiện vệ sinh lớp học đảm bảo
sạch sẽ; Không tự ý di chuyển đồ dùng trong phòng học; Tích cực tham gia
trang trí lớp học, trường học, theo hướng thân thiện”.
Trong nội quy ghi rõ học sinh nào thực hiện tốt những nội dung này sẽ
được biểu dương, khen thưởng, học sinh vi phạm nội qui tuỳ theo lỗi nặng nhẹ
sẽ bị nhắc nhở hoặc phê bình.

Hình ảnh một góc môi trường trong lớp học.
*Phong trào “ Giữ gìn nhà vệ sinh sạch sẽ”
Nhà vệ sinh trường học là một vấn đề nổi cộm trong công tác vệ sinh môi
trường. Vì vậy, tôi đã chú ý kiểm tra đôn đốc và chỉ đạo thực hiện tốt nội dung
này.

Việc làm đầu tiên là xây dựng nội quy cụ thể như đi đúng nơi vệ sinh
dành cho nam, nữ. Đại tiện, tiểu tiện đúng nơi, đi xong múc nước hoặc xả nước
sạch sẽ rửa tay bằng xà phòng, sử dụng giấy vệ sinh phải bỏ vào sọt đựng. Bảng
nội quy dán ngay trước các khu vệ sinh của học sinh.
Chỉ đạo giáo viên tăng cường giáo dục ý thức chấp hành nội quy sử dụng
công trình vệ sinh, tạo thành thói quen có văn hóa khi đi vệ sinh.
Kiểm tra, nhắc nhở thường xuyên việc quét dọn nhà vệ sinh của người phục
vụ, đảm bảo không để nhà vệ sinh bị dơ bẩn. Ít nhất một ngày phải thực hiện ba
12


lượt vệ sinh là: sau giờ ra chơi buổi sáng, sau giờ ra chơi buổi chiều và khi học
sinh tan học.

Hình ảnh học sinh làm vệ sinh khu vực nhà vệ sinh
3.6.Tổ chức lao động thường xuyên:
Ngay từ đầu năm học tôi đã thành lập Ban chỉ đạo công tác lao động và vệ
sinh học đường phân công nhiệm vụ cho từng thành viên trong ban chỉ đạo cụ
thể:
Khảo sát tình hình thực tế cơ sở vật chất, các khu vực lớp học, khuôn viên,
phân công công việc cụ thể cho từng lớp phụ trách vệ sinh như: Khối lớp 1 khu
vực các bồn hoa; Khối lớp 2 khu vực các ô cỏ trong khuôn viên trường; Khối
lớp 3 khu vực xung quanh nhà hiệu bộ và xung quanh các dãy phòng học; Khối
lớp 4 trang trí, vệ sinh khu hiệu bộ và các phòng chức năng; Khối lớp 5 khu
Giáo dục thể chất.

Hình ảnh học sinh làm vệ sinh chuyên
13



Tổ chức cho các lớp đăng ký thi đua trong đó có tiêu chí thực hiện tốt nền
nếp vệ sinh chuyên, công tác lao động và vệ sinh môi trường, khuyến khích
cộng điểm thêm cho các cá nhân, tập thể thực hiện tốt.
Ngoài các phong trào trên, nhà trường cũng thường xuyên tổ chức cho học
sinh một số hoạt động thi tìm hiểu về môi trường như: thi vẽ tranh về môi
trường, thi thiết kế sản phẩm từ những đồ vật phế thải làm sạch môi trường, Tổ
chức một số trò chơi dưới cờ với chủ đề môi trường như tổ chức “ Bỏ rác vào
thùng...”, thông qua trò chơi, hội thi cung cấp cho học sinh những hình ảnh,
những tư liệu về tình trạng ô nhiễm môi trường, cập nhật tin tức về môi trường
để thông tin đến cán bộ, giáo viên và học sinh.
3.7. Làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá và khen thưởng.
Công tác lao động vệ sinh môi trường được đưa vào tiêu chí đánh giá thi đua
được cán bộ giáo viên và học sinh hưởng ứng tích cực. Vì vậy năm học 20162017 nhà trường cũng đã đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá theo thang điểm
quy định. Hàng ngày, có giáo viên trực, đội cờ đỏ theo dõi, tổng hợp, cuối tuần
báo cáo trước hội nghị giao ban, xếp thứ tự cho từng lớp, không xếp (A, B,
C....). Hàng tháng tổng hợp theo điểm, lớp xếp ở vị trí số 1 sẽ được tuyên dương
khen thưởng, ngoài ra mỗi lớp được bình chọn 1 cá nhân xuất sắc nhất trong các
phong trào giữ vệ sinh môi trường để biểu dương, Phần thưởng là một giấy khen
và vở có logo của nhà trường, có tác dụng thật lớn trong việc thúc đẩy phong
trào. Kết quả xếp loại của từng tháng cũng là căn cứ để xếp loại cho cả năm học.
4. Hiệu quả
Giáo dục vệ sinh bảo vệ môi trường là những hành động giữ cho môi
trường trong lành, sạch đẹp. Trong năm học qua công tác lao động, vệ sinh môi
trường của nhà trường luôn được thực hiện tốt, đội ngũ giáo viên nắm bắt khá
đầy đủ nội dung giáo dục môi trường, vận dụng các phương pháp thích hợp để
hình thành cho học sinh thái độ và hành động bảo vệ môi trường.
Về phía học sinh, thông qua các biện pháp giáo dục các em đã có ý thức
trong việc giữ gìn về sinh bảo vệ môi trường, biết giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh
lớp học, đi vệ sinh đúng quy định… góp phần làm cho khuôn viên trường, lớp
luôn sạch, đẹp, thoáng mát. Kết quả khảo sát như sau về ý thức vệ sinh bảo vệ

môi trường của học sinh Trường Tiểu học Nguyên Bình B ở thời điểm tháng 3
năm 2017 như sau:
Ý thức bảo vệ môi trường của học sinh
Năm Tổng số
Ý thức tốt
Có ý thức
Chưa có ý thức
học
học
SL
%
SL
%
SL
%
sinh
2016- 164
115
70,1%
49
29,9%
0
0
2017

14


Hình ảnh sân trường: Xanh – sạch – đẹp
15



III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Muốn làm tốt công tác giáo dục vệ sinh môi trường trong trường học
người quản lí phải có kiến thức, nhiệt tình, sáng tạo luôn tìm biện pháp sát với
thực tế đơn vị.
Xây dựng kế hoạch, phân công hợp lí nhiệm vụ cho từng bộ phận phụ
trách, theo dõi, thường xuyên kiểm tra đôn đốc thực hiện kế hoạch đã đề ra;
Tuyên truyền tạo sự đồng thuận cao và sự phối hợp chặt chẽ của tất cả các
thành viên trong nhà trường;
Luôn tự học tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, bổ sung kiến thức về môi
trường.
Giáo dục môi trường trong các trường học cần phát triển hơn nữa xứng
đáng với tầm cao của chiến lược của đất nước ta là đào tạo con người phát triển
toàn diện, học sinh các trường tiểu học còn nhỏ, ý thức tự giác của các em chưa
cao, nhận thức còn hạn chế nên để nâng cao ý thức bảo vệ môi trường phải đi từ
những việc làm cụ thể từ biết thu gom rác bỏ vào nơi quy định, biết chăm sóc
bảo vệ cây xanh… Các em làm thường xuyên, các em sẽ ý thức về bảo vệ môi
trường và biết tham gia bảo vệ môi trường.
2. Kiến nghị
Cán bộ quản lí, giáo viên
Cán bộ quản lý nhà trường thường xuyên quan tâm, kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các nội dung về giáo dục môi trường.
Các thầy cô khuyến khích học sinh giám sát các việc bảo vệ môi trường
của nhau. Chỉ bằng những hành động nhỏ như nhắc nhở , tuyên dương kịp thời
cũng góp phần hình thành ý thức môi trường cho học sinh;
Ủy ban nhân dân xã
Vận động tuyên truyền các ban ngành, đoàn thể và nhân dân có ý thức bảo
vệ môi trường, không chặt phá rừng bừa bãi và có kế hoạch xây dựng nơi đổ rác

thải cho đảm bảo vệ sinh môi trường cho nhân dân nhất là các chất thải vô cơ
khó tiêu.
Phòng Giáo dục
Tăng cường kiểm tra đánh giá các trường học thường xuyên về công tác
bảo vệ môi trường; Coi công tác vệ sinh môi trường là một trong các điều kiện
để đánh giá xếp loại thi đua của các nhà trường trong năm học.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong công tác giáo dục học sinh về
bảo vệ môi trường. Với thời gian, kiến thức có hạn nên sáng kiến còn hạn chế
tôi rất mong được sự góp ý của đồng nghiệp và góp ý của Hội đồng khoa học
các cấp để sáng kiến kinh nghiệm này có hiệu quả hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 14 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

16


mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Người viết

Mai Thị Thúy

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Sách giáo khoa Lịch sử lớp 4- NXBGD
2.Sách giáo khoa Địa lí lớp 4, lớp 5- NXBGD
3.Số liệu của năm học 2015-2016

4.Số liệu của năm học 2016-2017
5.Những hình ảnh Hoạt động ngoại khóa của Trường Tiểu học Nguyên Bình B.

17



×