Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường tiểu học yên hùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.4 KB, 21 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam là đào tạo con
người phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH. Hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Từ mục tiêu lớn của hệ thống giáo dục Việt Nam
nói chung và giáo dục Tiểu học nói riêng đã và đang được toàn xã hội quan tâm.
Vậy để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ đáp ứng nguồn nhân
lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu hội nhập
Quốc tế và nhu cầu phát triển của người học. Giáo dục phổ thông đã và đang
được đổi mới mạnh mẽ theo tinh thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4
tháng 11 năm 2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo. Bởi vậy, giáo dục kỹ năng sống đang là vấn đề được
quan tâm của Bộ giáo dục và đào tạo và được đưa vào nhà trường. Nhà trường là
nơi diễn ra cuộc sống thực của trẻ, chúng ta có thể khẳng định: kỹ năng sống là
sản phẩm bắt buộc phải có của giáo dục nhà trường, nó không phải là môn học
mới đưa vào nhà trường. Nó bao trùm toàn bộ các môn học và hoạt động giáo
dục. Giáo dục kỹ năng sống bằng việc làm cụ thể, thông qua giải quyết những
tình huống thực, chứ không được nhồi nhét, áp đặt, giáo điều mà cần dạy cho
học sinh học cách sống thực và hành động ngay trong cuộc sống thực tại nhà
trường để làm cho các em có đủ năng lực sống bình thường, biết làm chủ bản
thân và sống tự tin, ổn định trong xã hội hiện đại. Đây là lý do tôi đưa ra sáng
kiến “ Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh trường Tiểu học Yên Hùng” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống thông qua công tác chỉ đạo
giáo viên nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng
phù hợp. Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành
mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ,
các tình huống và hoạt động hàng ngày.


Tạo điều kiện thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của
mình và phát triển hài hòa thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Giáo viên và biểu hiện kĩ năng sống của học sinh Tiểu học.
- Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh Tiểu học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1


- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Tìm hiểu Chiến lược phát triển giáo
dục; Nghị quyết; Thông tư,…Dựa vào các tài liệu giáo dục kĩ năng sống; Hướng
dẫn hoạt động GDNGLL; Sách giáo khoa, sách giáo viên cấp Tiểu học của Bộ
giáo dục và Đào tạo phát hành.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát sư phạm;
Phương pháp dùng lời; Phương pháp đàm thoại; Phương pháp thống kê…

2


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Giáo dục tiểu học là vấn đề chính trị xã hội quan tâm, có giá trị cơ bản,
lâu dài, có tính quyết định đối với cuộc đời cá nhân mỗi người.
Học sinh bước vào trường tiểu học, các em bắt đầu một cuộc sống mới
chưa hề có trong 6 năm trước đó. Trẻ phải sống và học tập theo phương thức
mới, cho nên trẻ 6 tuổi đến trường từ chỗ học bắt chước các thao tác tay chân
sang chỗ học cách tư duy hay nói cách khác "Học sinh tiểu học lần đầu tiên học
cách học và hình thức kỹ năng làm việc trí óc".
Học cách học (học phương pháp học) để làm công cụ tự học, đồng thời

với cách học là hình thành kỹ năng tư duy, kỹ năng nhận biết, hiểu, hành động
đúng và đánh giá có phê phán sự vật, hiện tượng. Lúc này, các thao tác tay chân
được hình thành trước khi đến trường được dùng như phương tiện để hình thành
các thao tác trí óc. Vậy yếu tố cấu thành nội dung và phương pháp nào để
chuyển tải nó ra sản phẩm tương ứng ở trẻ em. Nhiều nhà giáo hiện nay còn
đang băn khoăn, tranh luận: Muốn xây dựng chương trình nhằm hình thành năng
lực của học sinh thì phải làm thế nào? làm thế nào để có một chương trình giáo
dục vừa học được các năng lực cơ bản như tư duy, phân tích, tổng hợp, ra quyết
định và hành động vừa có các kỹ năng cụ thể như nghe, nói, đọc, viết, múa hát,
giao tiếp, ứng xử ... tức là các kỹ năng sống. Chúng ta cần phải quan tâm tới cả
nội dung học và phương pháp học. Nội dung phải có hệ thống và hiện đại thì
mới tạo ra được tư duy loogic hiện đại. Phải cho người học nắm được bản chất
của vấn đề thông qua các thao tác trí óc như so sánh, phân tích, tổng hợp, mô
hình hóa, khái quát hóa, cụ thể hóa bằng việc làm của người học thì mới có kỹ
năng chắc chắn.
Vậy, xây dựng kỹ năng sống sẽ giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức (cái
chúng ta biết) và thái độ, giá trị (cái cần làm và cách cần làm nó) thành hành
động thực tế theo xu hướng tích cực, tốt đẹp.
Để đạt được mục tiêu đề ra, nền giáo dục phải chủ động tổ chức quá trình
giáo dục, chọn nội dung giáo dục phù hợp thể hiện được những thành tựu vật
chất hiện đại nhất của nhân loại, biết phân giải bản thân, quá trình đó bằng
nghiệp vụ sư phạm chuyển vào trong người học, có tổ chức, có kế hoạch, từng
bước thực hiện quá trình sao cho người học đạt được những sản phẩm chắc
chắn. Có thể nói: Nhà trường là nơi trẻ em đang sống và phát triển. Ở trường, trẻ
em trưởng thành về cơ thể và phát triển nhân cách. Là cuộc đời thật, trẻ phải
được học sao cho có kỹ năng sống chứ không phải chỉ có lý thuyết suông.
Vậy nội dung học tập của trẻ trong nhà trường chính là những nội dung
trong đời sống hiện thực với những thành tựu vật chất và tinh thần, với những
quan hệ kinh tế - xã hội của xã hội đương thời. Vậy là về bản chất nhà trường là
nơi diễn ra cuộc sống thực của trẻ em và bằng cách tổ chức những hoạt động

3


trên những nội dung thực ấy mà tổ chức quá trình phát triển tâm lý, trưởng thành
về cơ thể của trẻ. Chất lượng giáo dục được quyết định bằng sức mạnh vật chất
của việc học. Việc học có thực hiện được hay không là do phương pháp giáo dục
của nhà trường. Nhà trường hiện đại huấn luyện cho học sinh tiểu học kỹ năng
làm việc trí óc trên cơ sở các thao tác tay chân đã có và lý thuyết hiện đại của
môn học. Để có kỹ năng sống, các em cần có kỹ năng tư duy tốt như phân tích,
so sánh, tổng hợp, phán đoán, đưa ra những kết luận đúng đắn.
2.2. Thực trạng về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường Tiểu
học Yên Hùng
* Thuận lợi: Bô Giao duc và Đao tao đa phat đông phong trao “Xây dưng
trương hoc thân thiên, hoc sinh tich cưc” vơi nhưng kê hoach nhât quan tư trung
ương đên đia phương.
Nhân dân Yên Hùng có truyền thống hiếu học; nhiều học sinh nghèo
nhưng đã khắc phục khó khăn vươn lên trong học tập.
Các tài liệu giáo dục kỹ năng sống đầy đủ kịp thời; truyền thông rửa tay
bằng xà phòng; P/S bảo vệ nụ cười Việt Nam được học sinh hưởng ứng cao.
* Khó khăn: Trong dạy học phần lớn giáo viên chưa chú ý nhiều đến yếu
tố giáo dục kĩ năng sống thực hành và tổ chức các hoạt động học tập cho học
sinh theo phương pháp mới còn có những hạn chế và lúng túng. Hiện tượng dạy
chay, nói bo, lý thuyết suông và hàn lâm còn diễn ra.
Học sinh ở vùng nông thôn là con em nông dân thuần nông, điều kiện và
ý thức rèn các kỹ năng sống còn gặp nhiều khó khăn. Chẳng hạn trong thực tế
cuộc sống, ta thấy một số phụ huynh thừa biết hút thuốc lá có hại cho sức khỏe,
có thể dẫn đến ung thư vòm họng, ung thư phổi,... nhưng họ vẫn hút. Có một số
phụ huynh nghiện rượu, cờ bạc thì nói gì đến việc rèn kỹ năng sống cho con em
mình. Đa số phụ huynh còn thiếu hiểu biết về các biện pháp phòng chống các
bệnh lây qua đường tiêu hóa và hô hấp hoặc do ý thức hành vi vệ sinh còn yếu

kém trong đó đặc biệt là hành vi rửa tay sạch để phòng chống dịch bệnh. Hầu
hết người dân chưa biết cách sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh, không thực hiện rửa
tay trước khi ăn và sau khi đi đại tiện, tiểu tiện, chưa biết quy trình rửa tay bằng
xà phòng, không tẩy giun theo định kỳ; thậm chí có nhiều em không biết giao
tiếp theo những quy tắc tối thiểu nhất ở trong gia đình cũng như ngoài xã hội,
trong nói năng ấp a ấp úng, lúng túng và thiếu tự tin, ngại giao tiếp. Thực tế trên
chính là rào cản đối với giáo viên cũng như nhà trường trong việc phối hợp rèn
kỹ năng sống cho học sinh.
Mặt khác, ở lứa tuổi học sinh nói chung, học sinh tiểu học nói riêng là lứa
tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm
tòi khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm
sống, dễ bị lôi kéo, kích động. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế
thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của
4


những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn
của môi trường tự nhiên và xã hội không thuận lợi. Nếu không được giáo dục kỹ
năng sống, thiếu kỹ năng sống các em sẽ lúng túng và dễ bị lôi kéo vào các hành
vi tiêu cực, bạo lực. Sống ích kỷ, thực dụng, ăn chơi sa đà... dễ bị phát triển sai
lệch về nhân cách. Trong thực tế có nhiều học sinh rất ngu ngơ khi phải xử lý
những tình huống của cuộc sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, không có bản
lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng kiến, sống thụ động và dễ nản chí trước một
số tình huống cụ thể xẩy ra. Nguyên nhân do đâu? chúng ta phải khằng định
rằng trước hết do giáo dục. Chính vì thế, để góp phần vào việc giáo dục kỹ năng
sống, giúp học sinh có hành vi tốt và có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình,
cộng đồng. Giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của
cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, để
các em luôn sống tích cực chủ động, an toàn, hài hòa và lành mạnh. Với vai trò
của Phó Hiệu trưởng ở tiểu học trong giáo dục kỹ năng sống tại nhà trường, bản

thân luôn trăn trở, suy nghĩ để tìm ra các biện pháp trong việc rèn kỹ năng sống
cho học sinh có kết quả.
2.3. Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh trường Tiểu học Yên Hùng
2.3.1. Làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho giáo
viên, học sinh và phụ huynh tạo sự đồng thuận trong giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh
Công tác tuyên truyền tại cộng đồng và trong nhà trường là vô cùng quan
trọng để nâng cao kiến thức và hỗ trợ người dân thay đổi thói quen tập quán
không có lợi cho cuộc sống. Cung cấp tài liệu giảng dạy và tổ chức tập huấn cho
cán bộ, giáo viên, nhân viên để làm tốt việc rèn luyện kỹ năng sống sao cho học
sinh biết cách truyền đạt các kiến thức và cách ứng xử linh hoạt, tích cực nhất.
Chẳng hạn như một số kỹ năng sống cần được vận dụng trong quá trình giảng
dạy và đưa ra các tình huống cũng như khả năng cần có những hành vi thích
nghi, tích cực cho phép chúng ta xử trí và ứng xử hiệu quả trước những đòi hỏi
thách thức của cuộc sống hằng ngày. Đồng thời, phân tích để học sinh hiểu biết:
Bản thân các kỹ năng sống không có tính hành vi, chúng là khả năng ứng xử
theo những cách nhất định trong một môi trường cụ thể phù hợp với các giới hạn
về kinh tế, xã hội và văn hóa con người ta đang sống.
Ví dụ: Để học sinh biết cách giữ gìn cho đôi bàn tay luôn sạch thông qua
việc rửa tay bằng xà phòng có vai trò rất lớn trong việc phòng chống lây nhiễm
bệnh tật, cần phải tuyên truyền để học sinh biết rằng trên 1cm2 da của người bình
thường chứa tới 40.000 vi khuẩn theo các nhà khoa học kết luận. Đặc biệt số
lượng này còn nhiều hơn trên da bàn tay vốn là nơi thường xuyên tiếp xúc với
đủ mọi vật trong cuộc sống hằng ngày. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) chỉ
một động tác rửa tay sạch có thể giảm 47% nguy cơ mắc bệnh tiêu chảy. Ngoài
ra, việc rửa tay với xà phòng đúng cách có thể làm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn
5



đường hô hấp nguy hiểm như SARS, cúm A (H5N1) và bệnh tay chân miệng.
Hiện nay, ở một số nơi trên đất nước ta cùng với tình trạng thiếu nước sạch và
điều kiện vệ sinh yếu kém, việc không rửa tay bằng xà phòng vào các thời điểm
quan trọng như trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh đã góp phần làm gia tăng các
bệnh tiêu chảy, tả, lỵ, giun sán. Thông qua tuyên truyền giúp học sinh thấy được
tác dụng của việc rửa tay sạch sẽ nâng cao sức khỏe cho mọi người. Đây chính
là giáo dục kỹ năng sống cho các em để có cuộc sống tốt đẹp lên. Trong thời
gian qua vấn đề tuyên truyền giáo dục được chúng tôi quan tâm, tích cực thực
hiện bằng nhiều kênh thông tin như trên hệ thống tuyền thanh, tuyên truyền
miệng, tổ chức cổ động nói chuyện dưới cờ... Xây dựng mô hình điển hình
người tốt, việc tốt nhân ra diện rộng. Nêu gương người tốt, việc tốt trong nhà
trường và cộng đồng.
2.3.2. Giáo dục kỹ năng sống qua các môn học chính khóa có kết quả
Để khắc phục tình trạng dạy học mang tính hàn lâm sách vở học sinh chỉ
biết học và làm bài trong sách giáo khoa mà không được vận dụng thực hành
trải nghiệm trong cuộc sống chúng tôi đã thực hiện:
Trước hết chuẩn bị tâm lý, phân công chuyên môn, sắp xếp chương trình,
thời khóa biểu một cách hợp lý giữa các môn học ở các khối lớp, phân chia khối
lớp, có kế hoạch dạy đảm bảo kiến thức, kỹ năng. Đồng thời phân công giáo
viên hỗ trợ, cán bộ hướng dẫn nhân viên phục vụ sao cho khoa học, vừa đảm
bảo thời gian học trên lớp, vừa đảm bảo nội dung giáo dục kỹ năng sống theo kế
hoạch. Mở chuyên đề, hội thảo khoa học và tổ chức dạy thể nghiệm các bài dạy
có nội dung tích hợp giáo dục kỹ năng sống.
Ví dụ: Như môn Đạo đức, là một môn học được dạy từ lớp 1 đến lớp 5 ở
trường tiểu học nhằm giáo dục học sinh bước đầu biết cách sống và ứng xử phù
hợp với các chuẩn mực xã hội. Dạy học môn Đạo đức kết hợp hài hòa giữa việc
trang bị kiến thức với bồi dưỡng tình cảm, niềm tin và hình thành kỹ năng hành
vi cho học sinh, đồng thời tạo cơ hội để các em được thực hành, trải nghiệm
nhiều kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Sau đây là một thiết kế bài
dạy Đạo Đức lớp 5: Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, mà đơn vị chúng tôi đã dạy

thể nghiệm trong chuyên đề hội thảo về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
* Mục tiêu bài học:
Sau khi học xong bài này học sinh có khả năng kể được một vài tài
nguyên thiên nhiên ở nước ta và ở địa phương. Biết vì sao cần phải bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên. Biết giữ gìn, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên phù hợp với khả
năng.
* Các kỹ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài đó là:
- Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin về tình hình tài nguyên ở nước ta.
- Kỹ năng tư duy phê phán (biết phê phán đánh giá những hành vi phá
hoại tài nguyên thiên nhiên).
6


- Kỹ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng của mình về bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên.
* Sử dụng các phương pháp dạy học.
- Phương pháp thảo luận nhóm, xử lý tình huống.
- Phương pháp tư duy động não.
* Đồ dùng và phương tiện dạy học.
Vật thật, các tranh, ảnh, băng hình, bài báo, bản tin về tình hình khai thác,
sử dụng tài nguyên thiên nhiên, về các hoạt động bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
ở nước ta và trên thế giới.
Tiết 1: Vào bài: Khám phá,
- Giáo viên cho học sinh xem một số tranh ảnh có liên quan đến đất đai,
sông suối, kênh đào, biển, than đá, thác nước, đập chắn nước, nhà máy công
trình kiến trúc...
- Hỏi học sinh: Trong các tranh, ảnh vừa được quan sát, theo các em
những gì là tài nguyên thiên nhiên? những gì không phải là tài nguyên thiên
nhiên? (học sinh trả lời, mỗi em nêu một ý kiến ngắn gọn). Giáo viên ghi tóm tắt
lên bảng (các ý kiến trùng lặp chỉ ghi một lần).

Hỏi: Theo các em thế nào là tài nguyên thiên nhiên? (học sinh trả lời, nhận xét,
trao đổi chung cả lớp).
Giáo viên kết luận và giới thiệu bài tài nguyên thiên nhiên là tất cả những
gì có trong tự nhiên và có ích cho cuộc sống của con người như: Nước ngầm,
đất trồng, thác nước, gió, biển, than đá, quặng a pa tít, dầu khí, rừng núi. Vậy
chúng ta cần phải đối xử như thế nào đối với tài nguyên thiên nhiên? Bài học
hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu.
Giáo viên ghi mục bài: Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
Hoạt động 1: Tìm hiểu về sự cần thiết phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Giáo viên đặt câu hỏi để học sinh động não: Theo các em, vì sao cần phải
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ? Học sinh nêu các ý kiến, lý do ngắn gọn, giáo
viên ghi nhanh lên bảng: Cần phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên vì tài nguyên
thiên nhiên rất cần thiết cho cuộc sống của con người. Nguồn tài nguyên thiên
nhiên không phải là vô hạn, nếu không biết bảo vệ sẽ bị cạn kiệt.
Hoạt động 2: Tìm hiểu về những việc cần làm để bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên.
* Tổ chức hoạt động nhóm, chia học sinh ra thành các nhóm thảo luận và
yêu cầu mỗi nhóm tìm ra 3 việc cần làm để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và ghi
mỗi việc cần làm vào bảng nhóm.
7


- Gắn các bảng nhóm lên bảng, hướng dẫn cả lớp loại bỏ các ý kiến trùng
lặp, phân loại và cùng nhau thảo luận sâu về từng biện pháp.
* Kết luận: Để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cần phải thực hiện đồng bộ
nhiều biện pháp như:
- Tuyên truyền, vận động mọi người trong cầu cộng đồng bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên.
- Khai thác tài nguyên một cách hợp lý có kế hoạch.
- Sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.

- Tái chế, tái sử dụng các phế thải, phế liệu.
- Không làm ô nhiễm nguồn nước, sông, suối, biển, không chặt phá đốt
rừng bừa bãi.
- Ban hành luật pháp về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Ngăn chặn, xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm.
* Giáo viên nêu câu hỏi thảo luận chung cả lớp.
- Ai là người có trách nhiệm thực hiện các biện pháp bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên này?
- Các con có thể làm những việc làm cụ thể nào để góp phần bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên? (học sinh có thể nêu những việc làm cụ thể khác nhau về
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên).
Giáo viên kết luận: Mọi người đều có trách nhiệm tham gia bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên. Học sinh chúng ta cần phải tham gia bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên bằng những việc làm phù hợp với khả năng như: Sử dụng tiết kiệm điện,
nước, sách vở, đồ dùng, không vứt rác, đổ nước thải xuống các nguồn nước sinh
hoạt, sông, suối, biển, không chặt phá, đốt rừng bừa bãi, tuyên truyền vận động
gia đình, bạn bè, làng xóm thực hiện bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, tích cực
tham gia các hoạt động bảo vệ tài nguyên thiên nhiên do nhà trường địa phương
tổ chức, báo cho nhà chức trách khi phát hiện những hành vi khai thác trái phép
tài nguyên thiên nhiên. Tích cực phòng chống cháy rừng, nghiêm cấm việc đưa
lửa vào rừng.
Hướng dẫn gợi ý học sinh nêu nội dung bài học: Bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên là bảo vệ cuộc sống con người hôm nay và mai sau.
- Gọi 2 - 3 học sinh đọc lại bài học.
* Phần Thực hành:
Hoạt động 3: Xử lý tình huống.
* Tổ chức thảo luận nhóm đôi, mỗi cặp xử lý một trong các tình huống
sau.
8



- Tình huống 1: Em thấy bạn của mình thường có thói quen thay vở mới
trong khi vở cũ còn rất nhiều giấy trắng.
Em sẽ: Khuyên bạn không nên thay vở mới khi vở cũ còn nhiều giấy
trắng vì như vậy sẽ gây lãng phí giấy, tồn tiền của cha mẹ.
- Tình huống 2: Em thấy có người vứt xác súc vật chết xuống sông.
Em sẽ: Ngăn lại và nói với người đó rằng: không được vứt xác súc vật
chết xuống sông vì nếu làm thế sẽ gây ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt và ô
nhiễm môi trường.
- Tình huống 3: Em thấy người trong gia đình thường xuyên không tắt đèn
, không tắt ti vi khi ra khỏi nhà.
Em sẽ: Nhắc nhở người đó nhớ tắt đèn, ti vi khi ra khỏi phòng để tiết kiệm điện.

- Tình huống 4: Em thấy bạn mình rửa tay xong quên không khóa vòi
nước.
Em sẽ: Nhắc bạn nhớ khóa vòi nước sau khi rửa tay để tiết kiệm nước.
Học sinh nêu, trả lời, cả lớp cùng thảo luận chung về các ứng xử phù hợp
trong mỗi tình huống.
Giáo viên kết luận: Cần phải nhắc nhở mọi người sử dụng tiết kiệm điện
nước, đồ dùng và không làm ô nhiễm nguồn nước để góp phần bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên.
Dặn dò: Trong học tập và sinh hoạt các em phải biết bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên bằng những việc làm cụ thể, thiết thực như tuyên truyền thực hiện sử
dụng tiết kiệm năng lượng trong cộng đồng, phòng chống cháy rừng, biết gom
và xử lý rác đúng quy định, sử dụng tài nguyên thiên nhiên ở địa phương, thân
thiện với môi trường. Dọn sạch rác ở các tuyến đường nơi em ở.
(Hoạt động này giúp học sinh được rèn luyện kỹ năng hợp tác, kỹ năng
đảm nhận trách nhiệm).
Qua ví dụ minh hoạt chúng ta thấy nội dung giáo dục kỹ năng sống của
bài dạy thể hiện giáo dục bảo vệ môi trường sinh thái và giáo dục vì phát triển

bền vững đang là vấn đề không chỉ của nước ta và cả nhân loại trên toàn thế
giới. Hướng vào các nội dung này trong từng bài học cũng chính là mở ra cơ hội
cho học sinh được tiếp thu những tri thức và các giá trị, cách ứng xử, lối sống
phù hợp nhằm đảm bảo tương lai bền vững, giáo dục con người có khả năng làm
chủ, có ý thức coi mình là một công dân sinh thái một cấu thành của tự nhiên,
hiểu được vai trò của mình với môi trường tự nhiên và xã hội, hình thành cho
mình khả năng quyết định và hành động liên quan đến chất lượng cuộc sống,
hình thành một lối sống hài hòa, thân thiện với thiên nhiên và con người, vì một
xã hội bền vững về kinh tế, môi trường, xã hội.
9


Đây là một vấn đề đặt ra cho Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học cần nắm
bắt, cập nhật các nội dung mới của cuộc sống hiện đại để bổ sung kịp thời cho
giáo viên trong quá trình giảng dạy nhằm góp phần tích cực trong giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh. Trong quá trình chỉ đạo và hợp tác với cộng sự của
mình, bản thân trực tiếp trao đổi với giáo viên chủ nhiệm các lớp về kế hoạch tổ
chức học tập, thực hiện nhiệm vụ cụ thể, phương pháp dạy thực tế bằng các hoạt
động thiết thực như "Rửa tay bằng xà phòng" với thông điệp: "Hãy trao yêu
thương đừng trao vi khuẩn" . Sau đây là một tiết dạy thể hiện giáo dục kỹ năng
sống tốt qua việc giữ gìn đôi bàn tay luôn sạch sẽ qua việc rửa tay sạch bằng xà
phòng góp phần thực hiện tích cực trong việc phòng chống lây nhiễm bệnh tật
và nâng cao sức khỏe cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói
riêng.
* Mục tiêu tiết dạy: Rửa tay bằng xà phòng (Lớp 3)
- Học sinh nắm được vai trò của đôi bàn tay, biết được tác hại của đôi bàn
tay bẩn đối với sức khỏe của cá nhân và cộng đồng.
- Biết giữ gìn bàn tay của mình sạch sẽ và biết hướng dẫn người khác
cách rửa tay bằng xà phòng.
- Luôn gương mẫu thực hiện rửa tay sạch, thường xuyên nhắc nhở mọi

người trong gia đình và bạn bè thực hiện rửa tay sạch bằng xà phòng.
* Đồ dùng dạy học.
- Bộ tranh rời "Các bước rửa tay"; Phiếu bài tập rửa tay sạch; Giấy A0,
băng dính,…
- Bộ đồ thực hành rửa tay gồm: Thùng có vòi, xô hoặc chậu đựng nước
sạch và gáo múc nước; Xà phòng, chậu sạch; Khăn mặt sạch; Dụng cụ
cắt móng tay (kéo hoặc bấm móng tay)
* Hoạt động dạy và học.
Hoạt động 1: Trò chơi khởi động (10').
- Bước 1: Ổn định lớp, giới thiệu nội dung giờ học (cả lớp sẽ vừa học vừa
chơi dưới sự hướng dẫn của giáo viên).
- Bước 2: Trò chơi: "Đội nào nhanh hơn".
Giáo viên chia lớp thành 2 hoặc 3 nhóm. Phát cho mỗi nhóm một bộ tờ
tranh "Các bước rửa tay" và yêu cầu các nhóm thảo luận trong 1 phút đê sắp xếp
thứ tự các bước rửa tay. Sau đó mỗi nhóm cử ra một đội có số thành viên bằng
số tranh được phát và hai bạn tham gia ban giám khảo. Mỗi bạn trong đội được
phân công cầm một tờ tranh "Các bước rửa tay". Khi nghe hiệu lệnh của giáo
viên thì các bạn của mỗi đội lần lượt chạy nhanh lên bảng và dán tranh theo thứ
tự các bước rửa tay (từ bước 1 đến bước 6). Những bạn còn lại của các nhóm
cùng hát bài "Đôi bàn tay" cho đến khi các đội dán xong thì dừng lại.
10


Bước 3: Các thành viên trong Ban giám khảo nhận xét kết quả của mỗi
đội, đội nào dán đúng nhất và nhanh nhất là đội thắng cuộc.
Bước 4: Giáo viên nhận xét kết quả đánh giá của Ban giám khảo, biểu
dương các đội làm đúng và giải thích ý nghĩa của trò chơi.
 Trò chơi này vừa giúp các em hứng thú vào giờ học mới vừa giúp các
em phát hiện thứ tự các bước rửa tay.
Hoạt động 2: Luyện tập (15 ')

Bước 1: Giáo viên phát cho mỗi học sinh một phiếu bài tập "Rửa tay
sạch". Yêu cầu học sinh điền các từ sau vào các chỗ trống của từng câu trong
phiếu bài tập: Xà phòng, ăn, cầm đồ ăn, rửa mặt, đại tiện, tiểu tiện, bẩn, con vật.
Bước 2: Giáo viên mời một vài học sinh đọc kết quả bài tập. Sau mỗi câu
trả lời của học sinh, giáo viên nhận xét và cho đáp án đúng để từng em tự chữa
bài tập của mình.
Bước 3: Sau khi chữa xong bài tập, giáo viên mời một vài em đọc lại và kết
luận.
Hằng ngày phải rửa tay sạch sẽ bằng xà phòng để phòng tránh các bệnh
lây qua bàn tay bẩn như bệnh tiêu chảy, giun sán, đau mắt,... làm ảnh hưởng đến
sức khỏe của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng. Mỗi người phải rửa tay sạch
trước khi rửa mặt, trước khi ăn hoặc cầm vào đồ ăn; sau khi đi đại tiện, đi tiểu
tiện; sau khi chơi bẩn hoặc chơi với các con vật.
Thiết kế phiếu bài tập "Rửa tay sạch" (có phiếu kèm theo) (Xà phòng; ăn
cầm đồ ăn; rửa mặt; đi đại diện, đi tiểu tiện, bẩn, con vật).
Hoạt động 3: Thực hành (15') .
Bước 1: Giáo viên treo bộ tranh (các bước rửa tay) lên bảng và hướng dẫn
cách rửa tay để cả lớp cùng quan sát. Sau đó mời một vài học sinh lên thực hành
rửa tay theo đúng các bước như giáo viên đã giới thiệu.
Bước 2: Giáo viên chia lớp thành hai nhóm. Phân cho mỗi nhóm một bộ
đồ thực hành rửa tay. Từng thành viên của nhóm lần lượt thực hành rửa tay, các
bạn trong nhóm quan sát và góp ý cho bạn nếu làm chưa đúng.
Bước 3: Giáo viên nhận xét kết quả thực hành của học sinh và kết luận.
Mỗi khi bàn tay cầm nắm, đụng chạm vào một vật có dính bẩn, các vi
khuẩn, nấm, trứng giun sán sẽ theo bàn tay mà vào miệng và vào cơ thể, gây cho
mình bị bệnh. Đề phòng bệnh, cần phải rửa tay bằng xà phòng hằng ngày và
hướng dẫn cho nhiều người cùng thực hiện.
Qua dự giờ và chỉ đạo giáo viên thể hiện tiết dạy như đã nêu trên, chúng
tôi thảo luận đóng góp ý kiến, xây dựng tiết dạy về mặt kỹ thuật, kỹ năng sư
phạm không nặng về đánh giá và nhận xét giờ dạy mà coi trọng việc giáo dục kỹ

11


năng sống cho học sinh từ chuyển dịch kiến thức và thái độ, giá trị thành hành
động thực tế theo xu hướng tích cực và xây dựng. Giáo dục kỹ năng sống được
vận dụng trong giáo dục vệ sinh ở trường học sẽ giải quyết được nhu cầu của
học sinh, giúp các em nhận thức được những điều có lợi cho sức khỏe cá nhân
và cộng đồng. Đồng thời giúp các em học sinh biết phê phán những thói quen
xấu có hại cho sức khỏe... biết giải quyết ra quyết định đúng và xác định rõ mục
tiêu trong việc thực hiện các hành vi có lợi cho sức khỏe. Trong nội dung giáo
dục hành vi rửa tay bằng xà phòng có thể vận dụng các kỹ năng sống như:
a) Kỹ năng giao tiếp bao gồm: Khả năng giao tiếp chung, lắng nghe,
thuyết phục, đồng cảm, cử chỉ điệu bộ phù hợp.
b) Kỹ năng ra quyết định gồm: Suy nghĩ có phê phán, giải quyết, ứng xử
và ra quyết định.
c) Kỹ năng xác định giá trị như những chuẩn mực về văn hóa, xã hội, thái
độ, các mối quan hệ.
d) Kỹ năng kiên quyết như kỹ năng từ chối: nói "không" thế nào? (kỹ
năng ứng xử).
Song song với việc giáo dục kỹ năng sống về cách bảo vệ môi trường
sống như bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ cơ thể mình không qua các môn
Đạo đức, Khoa học, còn giáo dục cách ứng xử với người thân trong gia đình
bằng tình cảm chân thành sâu nặng thể hiện rõ trong môn Tiếng việt, đậm nét
nhân văn và tính ưu việt có sức thuyết phục như bài Tập đọc : Thương ông (Lớp
2).
Giáo viên cần thiết kế và thực hiện bài dạy song song với rèn các kỹ năng
đọc hiểu xác định nội dung bài học còn cần phải chú ý giáo dục kỹ năng sống
cho các em là cách ứng xử với ông bà nhằm bồi dưỡng tình cảm kính trọng, yêu
quý, lễ phép và biết giúp đỡ ông bà , người thân.
* Chuẩn bị của giáo viên: Bài hát, bài thơ, truyện đọc nói về tình cảm ông

bà với cháu.
* Các việc làm cụ thể:
Chẳng hạn như tìm hiểu về tình cảm ông bà và cháu.
Bước 1: Hát, đọc thơ về ông bà.
Giáo viên: Em hãy hát một bài hát hoặc đọc một bài thơ về tình cảm ông
bà và cháu (học sinh hát hoặc đọc thơ).
Chẳng hạn như bài: Cháu yêu bà.
"Bà ơi bà cháu yêu bà lắm,
Tóc bà trắng, màu trắng như mây

12


Cháu yêu bà cháu nắm bàn tay
Khi cháu vâng lời cháu biết bà vui".
Hỏi: Trong bài hát nói đến ai? (cháu và bà). Tình cảm giữa họ như thế
nào? (Bài hát nói về tình cảm yêu quý, kính trọng của cháu đối với bà).
Giới thiệu bài: Thương ông.
Giáo viên đọc mẫu toàn bài với giọng đọc diễn cảm, trìu mến và xúc động
(tạo sức truyền cảm).
Gọi học sinh đọc nối tiếp toàn bài một lượt.
Hỏi: Bạn nhỏ trong bài đã thể hiện tình cảm của mình đối ông như thế
nào?
Đáp: Bạn nhỏ rất thương ông vì chân ông bị đau. Bạn đã giúp đỡ ông
bước lên thềm nhà.
Bước 3: Liên hệ bản thân.
Giáo viên: Ở nhà, em thể hiện tình cảm của mình với ông bà như thế nào?
(em chào hỏi ông bà trước và sau khi đi học về) em nhổ tóc sâu cho ông bà,
hoặc đọc báo cho ông, bà nghe...
- Giáo viên đưa ra một số tình huống cụ thể yêu cầu học sinh đưa ra cách

ứng xử của mình, cả lớp nghe và phát biểu nhận xét thống nhất ý kiến.
Ví dụ: Tình huống 1: Em đang chơi trò chơi điện tử mà em rất thích. Ông
bảo em không chơi nữa, xuống giúp ông đọc báo. Em trả lời ông như thế nào?
Cho học sinh nêu câu trả lời, các học sinh khác nhận xét.
Kết luận: Em trả lời: Vâng ạ, cháu xuống ngay đây ạ! đồng thời dừng chơi
và nhanh nhẹn xuống giúp ông đọc báo một cách vui vẻ. Giáo viên nhắc: Khi trả
lời ông cần tỏ ra lễ phép, không được nói trống không, luôn nói "ạ" ở cuối câu.
Kết luận chung: Em cần lễ phép, kính trọng ông bà, cha mẹ và người lớn.
Nghe lời và giúp đỡ ông bà những việc làm vừa sức của mình.
Qua các hoạt động giáo dục ở các môn học chính khóa, hằng ngày qua
mỗi tiết dạy chúng ta đang dần dần hình thành cho các em cách sống đẹp, sống
lành mạnh với các hành vi ứng xử phù hợp với nền văn minh xã hội, các hành
vi, cách sống như gọn gàng ngăn nắp, nói lời hay, làm việc tốt, biết chăm sóc
ông bà bố mẹ, biết hợp tác, giúp đỡ, chia sẻ với bạn, cũng cần được thiết kế
thành các tình huống giả định và giải pháp giải quyết tình huống để các em trài
nghiệm thì kỹ năng sống được hình thành bền vững.
2.3.3. Giáo dục kỹ năng sống qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp

13


Giáo dục kỹ năng sống ngoài giờ lên lớp là một cơ hội để bổ sung các
hoạt động nhằm giáo dục kỹ năng sống. Tuy nhiên hiện nay chưa có chương
trình cụ thể cho hoạt động này ở cấp tiểu học, nên chúng ta có thể chủ động đưa
nội dung và phương pháp giáo dục kỹ năng sống vào hoạt động này.
Giáo dục ngoài giờ lên lớp là một trong những hoạt động quan trọng ở
nhà trường phổ thông. Nó được quy định trong chương trình chính khóa của các
trường tiểu học và còn là một trong những tiêu chí đạt trường chuẩn quốc gia.
Hoạt động này có ý nghĩa hỗ trợ cho giáo dục nội khóa góp phần phát triển và
hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo của học sinh.

Nội dung của hoạt động ngoài giờ lên lớp rất phong phú và đa dạng thể hiện qua
các hoạt động xã hội, văn nghệ, TDTT, tham quan, lao động, viết , vẽ về thế giới
xung quanh ta... Nhờ vậy mà kiến thức tiếp tục được ở trên lớp có cơ hội được
bổ sung , áp dụng, mở rộng thêm trên thực tế, đồng thời có tác dụng nâng cao
hứng thú học tập nội khóa cho các em hơn nữa GDNGLL là yêu cầu bắt buộc
cho mọi đối tượng học sinh. Mỗi em cần phải tham gia tối thiểu 4 tiết/tháng như
quy định của Bộ giáo dục & đào tạo. Giáo dục ngoài giờ lên lớp có nội dung
linh hoạt (tự chọn với học sinh với nhà trường và với cả địa phương). Đối với
đơn vị chúng tôi học sinh ở vùng nông thôn (thuần nông) nên khi chọn lựa nội
dung để đưa vào kế hoạch chỉ đạo thực hiện hoạt động này đảm bảo tính vừa sức
và phù hợp với cơ sở vật chất, đặc điểm văn hóa của địa phương.
Sau đây là một số nội dung giáo dục ngoài giờ lên lớp để rèn kỹ năng
sống tại trường tiểu học chúng tôi thực hiện.
Với đặc điểm của học sinh tiểu học, với tổng số học sinh toàn trường có
365 em (từ khối 1 đến khối 5), khả năng nhận thức, giới tính, sức khỏe và điều
kiện kinh tế ở địa bàn không mấy thuận lợi nên chúng tôi chọn hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp khá phù hợp và dễ làm, gây hứng thú thực sự cho học
sinh. Các em hoạt động rất sôi nổi, hồn nhiên và hiệu quả.
a) Giáo dục kỹ năng sống qua các hoạt động văn nghệ, vui chơi theo
nhóm
- Múa hát dân ca; Hát đồng ca; Hát đơn ca
- Múa hát sân trường
- Trò chơi dân gian ( bịt mắt bắt dê, kéo co,…)
- Nhảy Erobic
- Đóng kịch.
b) Giáo dục kỹ năng nghệ thuật qua các việc
làm - Nặn tạo hình.
- Gấp các con vật.
- Làm bút bê bằng giẻ vụn.
14



- Vẽ, tô màu, tranh trang trí.
- Làm bưu thiếp.
c) Giáo dục kỹ năng nghệ thuật bằng ngôn ngữ
- Đọc truyện và vừa kể chuyện vừa miêu tả bằng hành động.
- Cách giao tiếp và giới thiệu về bản thân mình trong các hoạt động giao
lưu văn hóa văn nghệ, làm báo tường, báo ảnh,…
- Xem phim và tập kể lại.
- Thi Kể chuyện sáng tạo.
d) Giáo dục kỹ năng tự phục vụ
- Sắp xếp sách vở, đồ dùng sinh hoạt của bản thân gọn gàng ngăn nắp.
- Dọn dẹp nhà cửa.
- Gấp quần áo.
- Ứng phó với mệt nhọc.
- Vệ sinh thân thể, biết cách rửa tay bằng xà phòng và nhắc nhở những
người xung quanh luôn có ý thức rửa tay bằng xà phòng đúng lúc, đúng cách.
- Có kỹ năng và ý thức tham gia giao thông đúng luật.
e) Giáo dục kỹ năng tham gia hoạt động
chung - Tham quan học tập.
- Thăm và giúp đỡ gia đình thương binh liệt sĩ.
- Tổ vui đón Tết trung thu ( Trích quỹ lớp 5000đ/em)
h) Giáo dục kỹ năng bảo vệ môi trường
- Xây dựng trường xanh, sạch, đẹp, an toàn, thân thiện.
- Xây dựng lối sống tiết kiệm, chia sẻ, tương thân tương ái trong học tập,
vui chơi và sinh hoạt hằng ngày.
- Gìn giữ và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, chăm sóc cây cối…
* Tổ chức thực hiện:
- Đối với bản thân luôn chăm lo, hướng dẫn chỉ đạo các giáo viên của
mình một cách cụ thể nhằm tạo động cơ, điều kiện để họ tích cực làm việc và

làm việc có hiệu quả, đồng thời giữ vai trò kết nối thành lập các mối liên hệ với
các cá nhân và tổ chức bên ngoài nhà trường để ủng hộ nhà trường hoàn thành
sứ mệnh của mình như lập kế hoạch hoạt động, giám sát, điều chỉnh bổ sung kế
hoạch và đánh giá việc thực hiện kế hoạch bằng hiệu quả thực hiện của các
thành viên trong nhà trường cũng như các kỹ năng sống được thể hiện qua trải
nghiệm thực tế của học sinh.
15


Tăng cường mối liên kết với chính quyền địa phương và tổ chức hoạt
động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh để đề nghị sự hỗ trợ về mọi mặt cũng
như bảo vệ an toàn cho học sinh, cụ thể: Trong chủ điểm tháng 12 "Học tập tấm
gương anh bộ đội Cụ Hồ" trường đã liên hệ với Hội cựu chiến binh xã đến nói
chuyện với CBGV và học sinh toàn trường trong tiết chào cờ đầu tuần; đồng
thời tổ chức cho học sinh quét don vệ sinh khu tưởng niệm nghĩa trang của xã;
hoặc tổ chức hưởng ứng Tết trồng cây tại trường… Ngoài ra chúng tôi đã phối
hợp khá nhịp nhàng trong việc phối kết hợp, vận động cha mẹ học sinh tham
gia, hỗ trợ hoạt động giáo dục kỹ năng sống.
Hằng năm, khi tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh,
nhà trường đã có kế hoạch giới thiệu chương trình giáo dục kỹ năng sống đến
cha mẹ học sinh của lớp, trường trong buổi họp phụ huynh đầu năm để phụ
huynh học sinh nắm rõ cùng hợp tác và đồng hành với nhà trường trong giáo
dục kỹ năng sống cho các em. Được trao đổi, bàn bạc và thống nhất phương án
tổ chức thực hiện thì ban đại diện hội cha mẹ học sinh có trách nhiệm phân công
phụ huynh cùng tham gia. Bởi vì trong giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu
học không chỉ có thể tổ chức dạy học bó hẹp trong 4 bức tường của lớp học mà
chúng tôi đã mạnh dạn trong việc tổ chức các hoạt động thực tiễn, để các em
lắng nghe được quan sát, biết tư duy và đặt câu hỏi, phân công nhiệm vụ trong
lớp, nhóm, trực tiếp bón phân, nhỏ cỏ, tưới nước,…Việc làm đó đã giúp các em
tìm hiểu về sự sinh trưởng của cây, lợi ích tác dụng của cây sẽ làm cho đầu óc

các em thư thái, thân thiện với môi trường và thiên nhiên đồng thời giáo dục các
em quý trọng sức lao động và sự kính trọng lòng biết ơn người lao động từ đó
các em dần được trưởng thành lên trong cảm xúc, nhận thức, hành vi, việc làm
và kỹ năng giao tiếp có hiệu quả nhằm tạo niềm tin và mạnh dạn trong học sinh
thông qua các hoạt động trải nghiệm, khám phá với "Người thật, việc thật, cảm
xúc thật".
Tóm lại, qua thực tế đã và đang làm ở đơn vị chúng tôi, giáo dục kỹ năng
sống phải giúp học sinh nâng cao năng lực để tự lựa chọn giải pháp cho các vấn
đề xẩy ra xung quanh các em. Vì thế, giáo dục kỹ năng sống phải từ cuộc sống,
ngay trong cuộc sống. Nội dung giáo dục kỹ năng sống phải từ chính nhu cầu và
kinh nghiệm của học sinh. Các em được thực hành, trải nghiệm và rất cần cơ hội
thâm nhập thực tế. Qua thực tế trải nghiệm nhiều lần có sai, có đúng các em sẽ
tự rút ra những bài học, kinh nghiệm cho mình, từ đó các em có thể ứng phó với
những tình huống thực trong cuộc sống một cách tự chủ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
Qua hai năm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh ở trường tiểu học
chúng tôi bước đầu đã có kết quả rõ nét: Từ hai năm về trước học sinh trường tôi
vẫn còn có nhiều học sinh nói, viết, diễn đạt, giao tiếp còn lúng túng, thiếu tự
tin. Các em thường nhút nhát, sợ sệt, không tự tin vào bản thân mình. Hiện nay,
qua quá trình dày công trong việc giáo dục và rèn kỹ năng sống của mỗi nhà
16


giáo và nhà trường nên hàng tuần, hàng tháng các em đã có sự tiến bộ vượt bậc
trong nói, đọc, viết cũng như giao tiếp, nhiều em rất tự tin, các em mạnh dạn
hơn, nói năng lễ phép, cử chỉ thân thiện. Các mâu thuẫn, căng thẳng trong học
tập, lao động và vui chơi ít xẩy ra hơn. Khi có xích mích nhỏ giữa một vài bạn
trong lớp thì các em đã biết kiểm soát cảm xúc, phân tích, thương lượng, cảm
thông và giải quyết nhẹ nhàng, không ai bị làm tổn thương, không có sự bất bình
xẩy ra, lớp đoàn kết, thân thiện. Bên cạnh đó, các em luôn có ý thức sắp xếp và

thực hiện các hoạt động học tập cũng như hoạt động ngoài giờ lên lớp ở trường
và ở nhà. Thực hiện các nếp sống văn minh, lịch sự tích cực tham gia vào các
hoạt động xã hội tham gia các phong trào bảo vệ môi trường ở địa phương để
cảnh quan nơi chúng ta sinh sống luôn xanh, sạch, đẹp và thân thiện.
Dưới đây là một vài Thống kê về chất lượng giáo dục toàn diện đã đạt
được tại Trường Tiểu học Yên Hùng .
* Về chất lượng giáo dục :
Tổng số
Chất lượng các
Chất lượng các môn Giáo dục
Ghi chú
học sinh Năng lực và Phẩm
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
chất

365 em

Số
lượng

Tỷ lệ

Số
lượng

365 em

100 %


360 em

Tỷ lệ

Số
lượng

98,5 % 6 em

Tỷ lệ
1,5 %

* Về chất lượng giáo dục kỹ năng sống của học sinh :
Trong 2 năm gần đây : - Không có học sinh bị tai nạn giao thông.
- Không có học sinh bị tai nạn điện giật.
- Không có học sinh bị tai nạn đuối nước.
- Không có học sinh tự kỷ.
- Không có học sinh bị bệnh tay, chân, miệng.
- Không có học sinh bị bệnh cúm A (H5N1). *
Các chỉ số về giáo dục kỹ năng sống cụ thể của đơn vị đã đạt được :
Số học sinh biết chăm sóc
Số học sinh biết giao tiếp và cách ứng xử
sức khoẻ ban đầu
Tổng Biết rửa
Biết tự
Biết tự Không bị
Quan tâm
Chào hỏi Trình bày giúp đỡ
Tự đánh
tắm rửa

chải tóc,
tai nạn
số tay sạch
xưng hô
ý kiến
bạn bè,
bằng

răng
vệ
sinh

mặc
quần
thương
HS
đúng cách bản thân
người
phòng
nhân
áo sạch sẽ
tích
thân
SL TL
365 359

98

SL


TL

365 100

SL

TL

363 99

SL

TL

365 100

SL TL

SL

TL

365 100 365 100

SL

TL

358 98


SL

TL

362 99

17


Số HS thích đến

Tổng số HS

Số HS biết chia sẻ trường và tích cực
giúp đỡ bố mẹ,
hoạt động vui
gia đình
chơi
Số
lượng

365 em

365 em

Tỷ lệ

Số HS yêu thích và
chăm sóc cảnh quan
nhà trường bồn hoa,


cây cảnh, lớp học
thân thiện

Số
lượng

Tỷ lệ

Số
lượng

Tỷ lệ

100 % 365 em

100%

365 em

100%

Những kết quả trên đây là những thành tố giúp các em phát triển nhân
cách tốt đẹp và toàn diện. Nó góp phần tích cực trong phong trào "Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực" của ngành giáo dục nói chung và của
trường tiểu học chúng tôi nói riêng.

18



3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận
Để nâng cao chất lượng giáo dục nhằm giúp các em học tốt các môn học
cũng như biết ứng xử chủ động trước các tình huống thực tế xẩy ra đồng thời để
các em được học và "học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học để cùng
chung sống" thì ngay từ đầu năm học nhà trường cần quan tâm, chỉ đạo thực
hiện giáo dục kỹ năng sống một cách đồng bộ, thiết thực và hiệu quả. Để làm
được điều này mỗi nhà trường cần làm tốt công tác tuyên truyền gắn với thực
tiễn, mỗi nhà giáo phải xác định được sự cần thiết và tầm quan trọng trong việc
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong tình hình mới. Nhằm giúp giáo viên
có nhận thức đầy đủ về bản chất, mục tiêu, nguyên tắc giáo dục kỹ năng sống,
nội dung của các kỹ năng sống và việc lựa chọn các kỹ năng sống cần giáo dục
cho học sinh. Đồng thời tổ chức thực hành, vận dụng các phương pháp, kỹ thuật
liên quan đến việc tổ chức dạy kỹ năng sống trên lớp và tổ chức các hoạt động
giáo dục kỹ năng sống từ đó để giáo viên truyền tải đến học sinh những kiến
thức, kỹ năng cần thiết như: Tự nhận thức, xác định gia trị, kiểm soát cảm xúc,
ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, thể hiện sự tự tin, giao tiếp đúng
quy cách, lắng nghe tích cực, thể hiện sự thông cảm, thương lượng, giải quyết
mâu thuẫn, biết hợp tác có tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, kỹ năng ra quyết
định, tự giải quyết vấn đề, kiên định, đảm nhận trách nhiệm, đặt mục tiêu, kỹ
năng xử lý thông tin. Trong việc hình thành kỹ năng sống cần chú ý đến yếu tố
cảm xúc, tâm lý chi phối đến các kỹ năng. Mỗi lời nói, câu văn, đoạn văn hay
giải quyết một tình huống diễn ra trong học tập, trong cuộc sống hằng ngày đối
với các em là một thành công, một sự khẳng định về giá trị của bản thân. Việc
lĩnh hội kiến thức và vận dụng kỹ năng sống vào thực tiễn của các em là cả một
quá trình và thường xuyên, không chỉ dừng lại ở một bài học, môn học trên lớp
mà nó sẽ được vận dụng trong suốt cuộc đời của mỗi con người nói chung, mỗi
học sinh nói riêng. Bởi vậy, thời gian ở trường, ở lớp mỗi nhà giáo cần tạo tâm
lý cởi mở, thân thiện, gần gũi với tinh thần thoải mái cho các em. Kịp thời động
viên, khen ngợi khi các em có những hành vi, cử chỉ, thái độ, kỹ năng tốt thể

hiện văn minh, lịch sự.
Với đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học thường hiếu động, thiếu
kiên định, không tự tin nên việc thực hiện các kỹ năng sống gặp những khó khăn
nhất định đòi hỏi các nhà giáo cần có tính kiên trì, chịu khó, dày công "rèn dũa",
luôn ôn tồn dạy bảo các em, gần gũi yêu thương và đồng cảm, tôn trọng các em. Sự
nhiệt tâm, thân thiện, chu đáo của giáo viên là một trong những yếu tố đảm bảo sự
thành công của việc "giáo dục kỹ năng sống" cho học sinh.
Giáo dục kỹ năng sống là hình thành và phát triển khả năng làm chủ bản
thân, khả năng ứng xử phù hợp với người khác trong xã hội đồng thời có khả
năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Quá trình đó được
thể hiện ở hoạt động chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc của các nhà giáo và
19


trọng tâm là hoạt động của học sinh để các em có khả năng làm chủ được bản
thân, ứng phó tích cực các tình huống trong cuộc sống, ứng xử với những người
xung quanh.
3.2. Kiến nghị
Trong quá trình chỉ đạo, thực hiện giáo dục kỹ năng sống các nhà giáo
phải gương mẫu, thân thiện, yêu thương, gần gũi với các em để kịp thời nắm bắt
tâm lý, hoàn cảnh của mỗi em học sinh. Đồng thời có sự kết hợp tay ba: Gia
đình - Nhà trường và Xã hội.
Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp thường xuyên liên tục trong mỗi
buổi học trên sân trường, vườn trường hoặc tổ chức tham quan học tập.
Trong quá trình thực hiện mỗi nhà giáo, nhà trường phải linh hoạt, phối
hợp hài hòa các biện pháp và hình thức tổ chức dạy học, giáo dục luôn tạo cho
các em sự hứng thú, niềm tin trong quá trình học tập, tiếp thu kiến thức và vận
dụng rèn kỹ năng sống có hiệu quả.
Trên đây là một số biện pháp thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh tiểu học mà đơn vị chúng tôi đã làm trong thời gian qua phần nào đã góp

sức tích cực vào việc thực hiện tốt cuộc vận động "Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực". Chắc hẳn vẫn còn nhiều khiếm khuyết mong được
nhận sự góp ý bổ sung của các cấp quản lý và đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
……………………………………………
……………………………………………
……………………………………………
……………………………………………
……………………………………………
……………………………………………

Yên Định, ngày 4 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Kiều Văn Úy

20


Phụ lục
1. Chiến lược phát triển Giáo dục giai đoạn 2011 – 2020
2. Nghị quyết số 29-NQ/TW
3. Thông tư 30
4. Sách Đạo đức lớp 5
5. Tập đọc lớp 2
6. Thực hành Giáo dục kĩ năng sống lớp 3
7. Tài liệu giáo dục NGLL từ lớp 1 đến lớp 5


21



×