Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN các hoạt động bổ trợ và rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 25 trang )

MỤC LỤC
TT

Nội dung

Trang

1

1. MỞ ĐẦU

1

2

1.1 Lí do chọn đề tài

1

3

1.2. Mục đích nghiên cứu

1

4

1.2. Đối tượng nghiên cứu

2


5

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

6

1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm

2

7

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3

8

2.1. Cơ sở lý luận

3

9

2.2. Thực trạng về kỹ năng giao tiếp của học sinh lớp 3

4


10

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

5

11

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường

15

12

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHI

17

13

3.1. Kết luận

17

14

3.2. Kiến nghị

18



1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chi Minh lúc sinh thời luôn quan tâm, dành tình cảm đặc
biệt và nhắc nhở mọi người chăm lo cho thế hệ tương lai, Bác nói “Trẻ em là
hạnh phúc của mọi gia đình, là người chủ tương lai của dân tộc, là người kế tục
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Nhà nước, xã hội, gia đình và mọi công
dân phải có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục để các em phát triển
toàn diện cả Đức - Trí - Thể - Mỹ.[1]
Song thực tế hiện nay đạo đức của trẻ em đang bị xuống cấp nghiêm
trọng; những lễ giáo, lễ nghi, hành vi ứng xử, lối sống tốt đẹp đang bị mai một,
những hành vi, đạo đức, lối sống lệch chuẩn ngày càng gia tăng, diễn biến phức
tạp, làm đau lòng, nhức nhối gia đình và xã hội như: trẻ em không vâng lời,
không kính trọng lễ phép với cha mẹ, thầy cô giáo và người lớn, không biết kính
trên nhường dưới; sống vô cảm, ích kỉ; ăn chơi, đòi hưởng thụ, lười biếng lao
động; nói tục, chửi bậy, đánh nhau, ý thức tổ chức kỉ luật kém.
Nguyên nhân của tình trạng trên một phần thuộc về gia đình, vì 2/3 thời
gian trẻ em ở gia đình, gia đình phải quản lý giáo dục. Gia đình là trường học
đầu tiên và cha mẹ là thầy giáo đầu tiên của con cái. Song nhiều gia đình, ông
bà, cha mẹ không làm tấm gương tốt cho con trẻ, không quan tâm giáo dục,
hướng dẫn những hành vi đạo đức, thói quen tốt, thiếu kiến thức kỹ năng nuôi
dạy con. Nhiều gia đình nuông chiều con cháu quá mức hoặc mải mê kiếm tiền
mà sao nhãng với con cái. Cha mẹ bất hoà, đánh chửi nhau, ly hôn dẫn đến sự
thiếu hụt về tinh thần, tình cảm của con trẻ,…
Về phía nhà trường đôi khi chưa quan tâm hết đến việc dạy người, dạy
những hành vi đạo đức, kỹ năng ứng xử, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống tốt
đẹp. Nội dung giáo dục đạo đức nặng về lý luận, không cụ thể, thiếu tính thuyết
phục. Một số thầy cô chưa thực sự là tấm gương để các em noi theo, công tác
quản lý học sinh trong trường, trong giờ học chưa nghiêm túc, chưa có biện

pháp giáo dục học sinh cá biệt,… Quá trình toàn cầu hoá mang đến cho học sinh
nhiều cơ hội phát triển song cũng không ít thách thức trong việc giáo dục đạo
đức, lối sống: lối sống hiện đại, ăn chơi, phim ảnh, văn hoá phẩm đồi truỵ, trò
chơi game có nội dung xấu, kích động bạo lực, công tác quản lý, hướng dẫn của
gia đình, nhà trường, xã hội về những vấn đề trên còn nhiều hạn chế, bất cập. Sự
phối hợp giữa các môi trường giáo dục còn nhiều lúng túng, kém hiệu quả.
Chính vì thế, tôi luôn có suy nghĩ làm thế nào để giúp học sinh có kĩ năng
giao tiếp tốt. Từ đó, tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Các hoạt động bổ
trợ rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 3 trong nhà trường”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm giúp các em học sinh lớp 3 có kĩ năng giao tiếp, ứng xử tốt.

1


1.3. Đối tượng nghiên cứu:
“Các hoạt động bổ trợ rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 3 trong nhà
trường”
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo
- Điều tra, quan sát, thu thập thông tin
- Kiểm tra và đánh giá
- Thống kê chất lượng, đối chiếu kết quả
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Thứ nhất, thay đổi đối tượng nghiên cứu từ học sinh lớp 1 sang học sinh
lớp 3
Thứ hai, các hoạt động ngoại hóa trước đây như Chương trình giao lưu
với Sở Điện lực về vấn đề " Chúng em chung tay tiết kiệm điện" hoặc Chương
trình truyền thông “Vì một Việt Nam khỏe mạnh” do Hội Liên hiệp Phụ nữ
huyện Cẩm Thủy phối hợp với Công ty TNHH Quốc tế Unilever Việt Nam Quỹ Unilever Việt Nam và Nhãn hàng Lifebuoy tổ chức, tham gia giờ học tích

cực, chuyến tham quan về nguồn không được đưa vào SKKN.
Thứ ba, một số hình ảnh minh họa trước đây không còn phù hợp đã được
thay thế bằng những hình ảnh mới phù hợp hơn.
Thứ tư, các biện pháp nhằm giải quyết vấn đề sát thực và chi tiết hơn,
có sức thuyết phục và lan tỏa nhiều hơn.
Thứ năm, kết quả vận dụng: Học sinh ngại giao tiếp, trầm lặng, nhút nhát
giảm đi rất nhiều, học sinh bạo dạn trong giao tiếp, biết nói năng lễ phép tăng
lên đáng kể so với đề tài trước.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận
Trong lịch sử phát triển của dân tộc, của nhà nước Việt Nam, vấn đề về
giao tiếp đã được coi trọng, nó được coi là nền tảng, là một trong những tiêu
chuẩn, thước đo đánh giá nhân cách, đạo đức của con người, là biểu hiện của nét
đẹp văn hoá. Người Việt xưa ảnh hưởng nhiều văn hóa Trung Quốc qua tác động
bởi sự đô hộ gần một nghìn năm của phương Bắc, tác động của Khổng giáo, họ
có những biểu hiện giao tiếp hoàn toàn khác với cách giao tiếp của người Việt
Nam hiện đại. Trong hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội, con người luôn có
nhu cầu giao tiếp với nhau và những hoạt động giao tiếp được mỗi người quan
tâm, nó được lưu truyền, gìn giữ, dạy và học,... giữa mọi người với nhau trong
xã hội.
Từ trước đến nay, người Việt luôn hướng giao tiếp trong xã hội theo chủ
nghĩa duy tình và nó được nâng lên thành một kiểu văn hoá giao tiếp của người
Việt nhằm đảm bảo sự đoàn kết, nhất trí trong cuộc sống. Không những thế, vấn
đề giao tiếp còn là sự đúc kết kinh nghiệm trong cuộc sống và đấu tranh cho sự
sinh tồn của mình. Cho nên, người xưa thường lưu truyền dạy nhau qua các thế
hệ “học ăn học nói, học gói, học mở”, “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà

nói cho vừa lòng nhau”... Đó là những kinh nhiệm quý báu đã được người xưa
đúc kết, lưu truyền trong xã hội và nó chính là cách giao tiếp, cách giao tiếp ấy
cũng phải học, phải dạy. Ca dao, tục ngữ của Việt Nam cũng thể hiện và đề cập
nhiều đến vấn đề giao tiếp giữa con người với con người trong xã hội, trong
cuộc sống, trong công việc và trong tình cảm lứa đôi. Do thể chế xã hội, ngôn
ngữ giao tiếp của con người bị trói buộc trong khuôn khổ của lễ giáo phong kiến
với những luật tục khắt khe nên hoạt động giao tiếp bị hạn chế. Ví dụ: Trong
tình yêu nam nữ, trai gái không thể tự do đến với nhau được bởi quan niệm
"nam nữ thụ thụ bất thân", "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy ". Họ không thể vượt
qua giới hạn của hành vi giao tiếp cho phép, buộc phải thể hiện qua những lời
bóng gió xa xôi, những câu ca dao, tục ngữ,...đây chính là cách thức giao tiếp
của tình yêu, được coi là nét đẹp văn hoá giao tiếp thời đại, là nền tảng để giáo
dục, giúp con người hình thành nhân cách, sống có chuẩn mực đạo đức. Nhiều
nét đẹp văn hóa, giao tiếp của người Việt trong suốt hàng nghìn năm, đến nay
vẫn được giữ gìn và có giá trị trong cuộc sống.
Nếu ngày xưa, thời phong kiến, giao tiếp bó hẹp trong phạm vi làng xóm,
thôn bản, thì ngày nay giao tiếp đã không còn bó hẹp trong khuôn khổ đó nữa.
Nó đã vượt qua khỏi luỹ tre làng, đến mọi miền đất nước và vượt qua biên giới,
đến với cộng đồng kiều bào Việt Nam sống ở nước ngoài,..Vấn đề giao tiếp ở
nước ta là những kỹ năng cơ bản để con người sống, chiến đấu, sản xuất, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, một số giao tiếp
cũ đã bị phá vỡ cùng tập tục hà khắc, bởi nhiều nội dung mới trong giao tiếp
được hình thành trên nền của xã hội mới. Và ngày nay, trong nền kinh tế thị

3


trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự cạnh tranh, những thành tựu khoa
học và thông tin bùng nổ thì vấn đề giao tiếp trong xã hội được coi là điều kiện
tất yếu để khẳng định sự thành công trong cuộc sống hay nói cách khác, đó là sự

“cạnh tranh” để phát triển, là điều kiện tất yếu mở rộng mối quan hệ, khẳng định
được thành công trong các lĩnh vực hoạt động của con người.
"Ở nước ta, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề giao
tiếp dưới góc độ tâm lý học. Bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước, có nhiều
bài viết và công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học Việt Nam như Phạm
Minh Hạc, Trần Trọng Thuỷ, Ngô Công Hoàn, Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn
Văn Lê,... được công bố, in ấn, xuất bản và áp dụng trong giáo dục, trong cuộc
sống. Nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên dưới góc độ Tâm
lý học, tác giả Hoàng Anh đã đề xuất quy trình rèn luyện kỹ năng sư phạm cho
sinh viên các trường Sư phạm. Như vậy, kỹ năng giao tiếp ở đây được khai thác
dưới góc độ nghề dạy học. Năm 1995, tác giả Lưu Thu Thủy, đã nghiên cứu quy
trình giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa với bạn cùng lứa tuổi cho học sinh
lớp 3 trường tiểu học. Tác giả đã nghiên cứu hành vi giao tiếp có văn hóa của
học sinh dưới hai góc độ: Các nét tính cách bộc lộ qua giao tiếp và các kỹ năng
giao tiếp của học sinh; thiết kế quy trình giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa
cho học sinh lớp 3 trong phạm vi trường học. Tuy nhiên, những hành vi giao tiếp
bên ngoài trường học của học sinh chưa được quan tâm, nghiên cứu. Đây là
khoảng trống bởi hành vi của người học không chỉ được thể hiện ở trong nhà
trường mà nó còn được thể hiện ở gia đình và ngoài xã hội. Cùng chủ đề nghiên
cứu về giao tiếp ở lứa tuổi trẻ em, năm 2003 , tác giả Hoàng Thị Phương nghiên
cứu một số biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5 đến 6 tuổi,
giao tiếp được khai thác dưới góc độ hành vi văn hóa sơ đẳng nhưng là cơ bản,
phổ biến, đặc trưng cho lứa tuổi mẫu giáo lớn. Đó là những kỹ năng mang tính
nền tảng làm cơ sở để giáo dục và phát triển sau này cho trẻ thơ ở tuổi học tiểu
học. Do đó, nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp 1 là một yêu cầu
khách quan và cần thiết. Vấn đề giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp 3
vẫn còn là “khoảng trống” ít được quan tâm nghiên cứu và từ đó khẳng định tính
cấp thiết trong việc triển khai nghiên cứu của đề tài." [1]
2.2. Thực trạng về kỹ năng giao tiếp của học sinh lớp 3
Tôi đã được nhà trường phân công giảng dạy lớp 3C, tổng số học sinh là

32 em, một số em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, chưa có sự quan tâm chu
đáo, chặt chẽ của cha mẹ nên các em ở đây có một thực tế đáng quan tâm là khả
năng giao tiếp còn hạn chế. Hơn nữa, một số em ít có điều kiện tiếp xúc nơi
đông người nên còn nhút nhát, ngại giao tiếp, ít phát biểu chưa tự tin trong luyện
nói, một số em nói năng cộc lốc, không biết diễn đạt hết ý của mình. Nhiều em
chưa biết giới thiệu về bản thân, về gia đình, về trường lớp học và bạn bè thầy
cô giáo, chưa biết chào hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi công cộng,
chưa biết nói lời cảm ơn, xin lỗi.

4


Từ thực trạng nên trên, tôi đã suy nghĩ và xác định cho bản thân mình cần
phải có giải pháp rèn học sinh có kĩ năng giao tiếp. Do đó từ đầu năm tôi đã tiến
hành khảo sát kỹ năng giao tiếp của học sinh lớp 3C như sau:
Thời

Học sinh ngại giao

điểm

Tổng số
học sinh

Tháng
9/2018

lớp 3C

tiếp, trầm lặng,

nhút nhát

SL
32 em

15 em

TL

Học sinh bạo dạn Học sinh bạo dạn
trong giao tiếp
nhưng nói trống
không
SL

47,2 % 11 em

TL

trong giao tiếp,
biết nói năng lễ
phép
SL

34 % 6 em

TL
18,8 %

Ý thức được vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp và thực

trạng của lớp, tôi đã đưa ra một số biệp pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Tạo dấu ấn cho học sinh ngay từ đầu năm học
Ngay từ đầu năm học nhà trường đã ổn định lớp học, tổ chức Lễ khai
giảng đúng lịch và trang trọng tạo dấu ấn đẹp đẽ cho học sinh toàn trường. Ngay
từ tháng đầu tiên dạy học tôi đã tìm hiểu kĩ thông tin về gia đình, tình hình chất
lượng và các mặt hoạt động khác của từng học sinh trong lớp. Từ đó, tôi lập kế
hoạch chủ nhiệm, hình thành ban cán sự lớp, biên chế tổ học tập, đôi bạn học tập
theo tình hình chất lượng lớp, tạo điều kiện cho các em được học tập lẫn nhau.

Các em học sinh trong ngày khai giảng năm học mới

5


2.3.2. Phân loại khả năng ứng xử của học sinh lớp 3
Sau khi khảo sát chất lượng đầu năm và qua một tháng giảng dạy tôi đã
bắt đầu theo dõi và phân loại học sinh theo các nhóm sau:
1. Nhóm học sinh ngại giao tiếp, trầm lặng, nhút nhát
2. Nhóm học sinh bạo dạn trong giao tiếp nhưng nói trống không
3. Nhóm học sinh bạo dạn trong giao tiếp, biết nói năng lễ phép
Sau khi phân tích đặc điểm cũng như giao tiếp của từng học sinh trong
lớp, tôi tiến hành xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân bố đều khắp 3 đối
tượng học sinh nêu trên trong các tổ, các nhóm.
Ưu điểm của biệp pháp này: Các em tương trợ lẫn nhau trong quá trình
học tập là một việc làm hết sức bổ ích như câu tục ngữ “Học thầy không tày học
bạn”

Học sinh tích cực xây dựng bài trong các giờ học


Trong quá trình học tập đua thầy, đua bạn đã giúp các em mạnh dạn, năng
động hơn rất nhiều. Sự giúp đỡ động viên của các bạn trong nhóm, trong tổ sẽ
giúp các em tự tin hơn trước.
2.3.3. Rèn kĩ năng giao tiếp thông qua việc đổi mới phương pháp dạy
học và vận dụng tốt Thông tư 30, Thông tư 22 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Đổi mới phương pháp dạy học là dạy và học theo hướng tích cực chủ
động, sáng tạo trong đó học sinh phải tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự
chiếm lĩnh kiến thức mới theo sự tổ chức và hướng dẫn hợp lý của giáo viên
trong môi trường giáo dục thích hợp nhằm thực hiện các mục tiêu giáo dục của
bậc học, của môn học, của bài học.
6


Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng tạo
của học sinh gắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử dụng thiết bị dạy
học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, tôi luôn tạo cho các em tính
chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu
không khí cởi mở thân thiện của lớp của trường. Trong giờ học, tôi còn tạo cơ
hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm bạn, trước tập thể, nhất là
các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy kĩ năng
ứng xử lễ phép cho các em.
Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương
pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong
dạy học. Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy học mới cho các trường
phổ thông từng bước được tăng cường. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự
làm của giáo viên luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy. Đa phương
tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học
trong dạy học hiện đại. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương
tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các
phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (E-Learning), mạng trường học kết

nối.
Một trong những việc đã làm để góp phần nâng cao hiệu quả dạy học của
lớp tôi phụ trách là: tôi đã vận động phụ huynh đóng góp mua sắm một chiếc
tivi 55 inh nhằm phục vụ công tác dạy và học tại lớp.

Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học

Từ khi có chiếc tivi kết nối mạng internet, không những phục vụ rất tốt
cho việc tìm kiếm thông tin và lấy dẫn chứng minh họa cụ thể trong các tiết dạy
7


mà còn phục vụ rất hiệu quả cho các hoạt động bề nổi của lớp như giúp các em
tham gia tập luyện văn nghệ một cách nhanh nhất. Ngoài ra tôi còn tổ chức phát
quà trong ngày lễ Noen cho các em theo đạo Thiên chúa nhằm khích lệ, động
viện các em đi học đầy đủ, đều dặn nhất là vào dịp lễ này. Hơn thế nữa Ban đại
diện cha mẹ học sinh trong lớp cũng đã phối kết hợp với cô giáo chủ nhiệm tổ
chức các bữa tiệc sinh nhật đơn giản tại lớp cho các em, nhằm thể hiện sự quan
tâm, tạo hứng khởi cho các em khi đến lớp.

Cứ mỗi dịp được đón nhận những lời yêu thương chúc mừng từ các bạn
trong lớp lại làm cho mỗi học trò buổi tiệc sinh nhật lại cảm thấy nao nao, thân
thương đến khó tả, cho dù các em nhận được chủ yếu là những món quà tinh
thần.

8


Một trong những nội dung của việc đổi mới phương pháp là đưa các hình
thức dạy học mới vào trong từng bài học. Vì thế, để rèn cho học sinh ứng xử lễ

phép tùy từng bài học tôi đã lựa chọn hình thức dạy học phù hợp.
Trong quá trình dạy học bản thân đã lồng ghép giảng dạy tài liệu " Bác
Hồ và những bài học về đạo đức, lối sống dành cho học sinh lớp 3" theo hướng
tích hợp trong môn Đạo đức, các nội dung giáo dục kĩ năng sống, an toàn giao
thông, an ninh quốc phòng cũng được lồng ghép vào các môn học có liên quan
và các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các buổi sinh hoạt lớp, hoạt động Đội. Điểm
đặc sắc, độc đáo là các nội dung này đều hướng đến mục tiêu giáo dục đạo đức
lối sống, phát triển năng lực và phẩm chất học sinh thông qua việc tổ chức các
hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm với các hình thức đa dạng như thảo luận, trò
chơi, vẽ tranh, hoạt động nhóm, diễn kịch,…[1]
Hằng ngày, tôi thường đến lớp trước 15 phút trò chuyện với các em, hỏi
thăm về gia đình tâm tư tình cảm, sở thích của từng em, vui chơi đầu giờ học
cùng các em. Qua đó tôi đã nắm bắt được từng đối tượng học sinh trong lớp từ
đó đề ra biện pháp giáo dục phù hợp với các em. Tạo không khí lớp học nhẹ
nhàng, thân thiện, gần gũi giữa cô với trò, giữa trò với trò. Trong quá trình gảng
dạy tôi luôn lồng nghép các hoạt động ngoại khóa vào trong chương trình nhằm
tạo sự vui tươi, phấn khởi, truyền cảm hứng cho các em được tam gia học mà
vui - vui mà học.

Tổ chức vui Trung thu cho các em tại lớp học
Qua các giờ học tôi luôn chú ý nhắc nhở các em thực hành hành vi đã học.
VD: Trong các giờ học, học sinh chưa có cử chỉ thể hiện đúng hành vi đạo đức như:
Đưa sách vở cho cô đưa bằng một tay không biết nói lời ''thưa'', ''gửi''. Giáo

9


viên sửa lại hành vi đúng cho các em thể hiện lễ phép với thầy cô giáo và người
trên: Em đưa lại bằng hai tay và nói: "Thưa cô em nộp bài ạ." Các em được
tham gia học nhóm, đóng vai, báo cáo kết quả thảo luận trong các giờ Tự nhiên

xã hội Thể dục, Tiếng Việt để thực hành hành vi đạo đức đã học.
Áp dụng Thông tư 30 và thông tư 22 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, theo
tinh thần của thông tư học sinh tiểu học sẽ được đánh giá về các môn học và
hoạt động giáo dục. Do đã được tập huấn kỹ càng nên tôi đã nắm vững các khâu
nhận xét, đánh giá cũng như khen thưởng học sinh của lớp. Hằng ngày trong các
bài tập ở từng môn học, tôi đều có thể đánh giá được mức độ tiếp thu, các kỹ
năng cũng như năng lực của từng học sinh. Dựa trên cơ sở mức độ đánh giá, bản
thân sẽ có kế hoạch bồi dưỡng giúp học sinh tiến bộ hơn. Những lời nhận xét
hàng ngày, ngoài việc chỉ ra những hạn chế của từng học sinh, bản thân cũng đã
động viên để khuyến khích các em phấn khởi hơn trong học tập.
Ngoài kiến thức trong trường, các em còn cần được trau dồi tư cách đạo
đức, giáo dục kĩ năng sống. Vì thế, theo tôi nếu học sinh tiểu học có thể bớt học
kiến thức đi một chút cũng không phải là vấn đề quá nghiêm trọng. Các em có
thêm cơ hội tập trung sự chú ý vào việc phát triển kĩ năng sống là hợp lý. Việc
đánh giá thường xuyên bằng nhận xét sẽ là động lực giúp học sinh học tốt hơn vì
động cơ bên ngoài gây hứng thú học tập là những lời khen, những tràng pháo
tay khích lệ,… Động cơ bên trong gây hứng thú học tập là những nội dung học
tập mà học sinh hiểu được, có ích với đời sống, hấp dẫn làm cho các em tò mò
tìm hiểu, say mê sáng tạo, giúp các em hình thành và phát triển năng lực, phẩm
chất [2].
Thông qua đổi mới phương pháp dạy học tôi thấy ràng kết quả học tập
của các em không những được nâng cao một cách rõ rệt mà độ nhạy bén và sự
linh hoạt của các em cũng được nâng lên. Sau khi áp dụng Thông tư 30, Thông
tư 22 của Bộ Giáo dục và Đào tạo một cách triệt để tôi thấy học sinh không còn
bị áp lực bởi điểm số như trước kia. Thay vào đó các em càng hứng thú khi được
thầy cô và các bạn nhận xét về năng lực, phẩm chất các em đạt được.
2.3.4. Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 3 thông qua các hoạt
động ngoại khóa, văn nghệ, thể dục thể thao, giao lưu, về nguồn và qua các
cuộc thi
Với học sinh tiểu học, những hoạt động ngoại khóa như giữ gìn vệ sinh

trường lớp, thực hiện giờ ăn bán trú, những dịp quyên góp ủng hộ bạn nghèo,
chăm sóc công trình măng non, thăm hỏi gia đình thương binh, gia đình liệt sĩ
trên địa bàn, hoạt động viếng nghĩa trang liệt sĩ, an toàn giao thông,… đã giúp
các em trưởng thành, năng động hơn. Từ những trải nghiệm cuộc sống, các em
sẽ có cái nhìn nhân văn, biết sẻ chia với gia đình, cộng đồng nhiều hơn.

10


Các em học sinh khối lớp 3 tham gia văn nghệ chào mừng Lễ khai giảng năm học mới

Học sinh tham gia mít tinh phòng chống ma túy

11


Mâm ngũ quả của lớp 3C trong dịp Tết Trung thu

Hình ảnh học sinh lớp 3C tham gia ủng hộ bạn nghèo trong dịp Tết Nguyên Đán

12


Qua việc làm này học sinh biết chia sẻ, đồng cảm với các bạn có hoàn
cảnh khó khăn; có ý thức thể hiện tinh thần tương thân tương ái; động viên các
bạn nghèo vươn lên trong học tập
Tăng cường tổ chức nhiều loại hình hoạt động và giao lưu cho học sinh,
giúp cho học sinh mở rộng các mối quan hệ ứng xử, có cơ hội trải nghiệm trong
nhiều tình huống khác nhau, tạo ra môi trường giáo dục thân thiện. Thông qua
các hoạt động giúp học sinh có cơ hội chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, có kỹ

năng bày tỏ thái độ, quan điểm và hành động của cá nhân trong mối quan hệ
thầy - trò, trò - trò và quan hệ với những người xung quanh.
Xây dựng các chuẩn mực giao tiếp nhằm định hướng cho hoạt động rèn
luyện kỹ năng giao tiếp của học sinh, tạo dựng văn hóa giao tiếp, thông qua đó
phát triển kỹ năng, hành vi giao tiếp cho học sinh.
Tăng cường tổ chức các hoạt động trong giờ học và ngoài giờ học cho học
sinh nhằm tạo ra các mối quan hệ tương tác giữa giáo viên với học sinh, học
sinh với học sinh và học sinh với môi trường xung quanh, làm cho quan hệ của
các em được mở rộng, nội dung, đối tượng giao tiếp được mở rộng, thông qua
đó mà phát trỉển kỹ năng và năng lực giao tiếp cho học sinh. Thông qua các loại
hình hoạt động học tập, vui chơi, sinh hoạt tập thể, tham quan dã ngoại, làm
quen với cộng đồng, hoạt động từ thiện của học sinh, tạo môi trường giao tiếp
thân thiện giữa con người với môi trường, giữa con người với con người.

Niềm vui của cô và trò lớp 3C mỗi khi đến trường
13


Giáo dục học sinh về truyền thống "Tôn sư trọng đạo", biết hướng về cội
nguồn, biết nhớ ơn công lao dạy dỗ của các thầy cô giáo. Đó là đạo lý tốt đẹp
ngàn đời nay ông cha ta đã để lại.

Các em học sinh lớp 3C chúc mừng các cô giáo nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam
Xây dựng các quy tắc ứng xử trong lớp học và trong từng giờ học theo
chuẩn mực đạo đức, nội quy hoạt động của nhà trường: nhằm định hướng cho
hoạt động trải nghiệm của học sinh đúng chuẩn mực:
Quy tắc ứng xử quan hệ giữa giáo viên với học sinh
Quy tắc ứng xử quan hệ giữa học sinh với học sinh
Quy tắc ứng xử quan hệ giữa học sinh với xung quanh
Quy tắc ứng xử trong quan hệ giữa học sinh với học tập; rèn luyện; hoạt

động thể thao,...Tính nghiêm túc, tính trung thực, tính tự chủ trong hoàn thành
các nhiệm vụ học tập có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình tập luyện,
rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho học sinh.[3]
Tăng cường hoạt động giao tiếp cho học sinh, mở rộng phạm vi giao tiếp,
đối tượng giao tiếp, nội dung giao tiếp như: Tổ chức hoạt động từ thiện giúp đỡ
người già không nơi nương tựa, trẻ mồ côi, tổ chức chăm sóc di tích lịch sử,
tham gia các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ
lớn, tổ chức các cuộc thi, tọa đàm, nghe nói chuyện cho học sinh tham gia.
Thông qua các hoạt động trên học sinh tự tin, mạnh dạn hơn trước đám
đông; có kĩ năng giao tiếp tốt hơn, ứng xử phù hợp với hành vi đạo đức; biết yêu
thương, quan tâm đến người khác, các em được trải nghiệm thực tế và thể hiện
bản thân; biết hợp tác và chia sẻ với mọi người.
14


2.3.5. Giữ mối quan hệ chặt chẽ với phụ huynh học sinh
Chúng ta đều biết rằng: Trong mọi thời đại, mọi xã hội vấn đề giáo dục
đạo đức cho con người là hết sức quan trọng. Cha ông đã dạy “Tiên học lễ, hậu
học văn”, lời dạy của Bác Hồ lúc sinh thời “Có tài mà không có đức là người vô
dụng”. Để con trẻ có đạo đức, nhân cách tốt tôi thiết nghĩ: mỗi gia đình, ông bà,
cha mẹ phải ý thức đầy đủ, nghiêm túc trách nhiệm của mình, con hư trách
nhiệm trước hết thuộc về gia đình, không nên đổ lỗi cho nhà trường, xã hội. Mọi
người trong gia đình: ông bà, cha mẹ, người lớn phải thực sự gương mẫu về đạo
đức, lối sống, hành vi ứng xử, đạo đức gia phong. Hướng dẫn, dạy dỗ con trẻ
những hành vi, thói quen tốt. Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu tâm lý,
nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của con cái, gần gũi, giúp đỡ, động viên, chia
sẻ khi các em gặp khó khăn và là người bạn tốt khi cần thiết. Thường xuyên
phối hợp với nhà trường trong việc quản lý thời gian, tình hình học tập, diễn
biến tư tưởng, quan hệ bạn bè để có phương pháp giáo dục kịp thời.
Từ khi tạo được mối quan hệ chặt chẽ giữa bản thân với các gia đình học

sinh tôi đã luôn nhận được sự đồng tình ủng hộ cao về vật chất cũng như tinh
thần của phụ huynh đối với con em của mình, ngay từ đầu năm các em đã được
cha mẹ mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập; tham gia đóng góp và hỗ trợ
đầy đủ các khoản thu góp; hơn thế nữa phụ huynh còn hô hào mua sắm thêm
một chiếc tivi làm thiết bị dạy học cho lớp, phụ huynh cũng thường xuyên trao
đổi việc học tập và rèn luyện của con em mình, thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở
các cháu tham gia học tập tích cực, đi học đều đặn, đúng giờ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Từ thực tiễn quá trình giảng dạy bản thân tôi đã đạt được những kết quả
đáng kể như sau:
2.4.1. Trước khi áp dụng đề tài
Thời
điểm

Tổng số
học sinh
lớp 3C

Tháng
9/2018

Học sinh ngại giao

Học sinh bạo dạn

Học sinh bạo dạn

tiếp, trầm lặng, nhút
nhát


trong giao tiếp
nhưng nói trống
không

trong giao tiếp, biết
nói năng lễ phép

SL

32 em

15 em

TL

SL

47,2 % 11 em

TL

34 %

SL

6 em

TL


18,8 %

15


2.4.2. Sau khi áp dụng đề tài
Thời
điểm
Tháng
5/2019

Tổng số
học sinh
lớp 3C

Học sinh ngại giao

Học sinh bạo dạn

Học sinh bạo dạn

tiếp, trầm lặng, nhút
nhát

trong giao tiếp
nhưng nói trống
không

trong giao tiếp, biết
nói năng lễ phép


SL

32em

3 em

TL

9,4 %

SL

10 em

TL

31 %

SL

19 em

TL

59,6 %

Sau thời gian áp dụng các biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp
3 thì cách xưng hô, lời nói, cử chỉ của các em từng bước thay đổi, các em đã bạo
dạn trong giao tiếp, biết nói năng lễ phép hơn, tự tin hơn, mạnh dạn nói chuyện

trao đổi với cô giáo và các bạn, biết nhắc nhở bạn khi bạn chưa thực hiện đúng
hành vi đã học. Các em yêu thích môn học, thích chơi sắm vai, nói năng to rõ
ràng, giờ học nhẹ nhàng, sôi nổi.
Tổ chức lớp học có nề nếp, các em đoàn kết chan hoà, vui vẻ, cở mở trong
giao tiếp. Các em đã có ý thức tự vệ sinh cá nhân sạch sẽ, gọn gàng, biết giữ gìn
đồ dùng sách vở, sắp xếp sách vở gọn gàng, ngăn nắp. Biết yêu quý mọi người gia
đình, đoàn kết giúp đỡ bạn bè. Nói năng lễ phép, biết cảm ơn khi được giúp đỡ,
biết xin lỗi khi làm phiền lòng người khác. Thực hiện tốt an toàn giao thông, biết
chào, khi gặp mặt, tạm biệt khi chia tay. Có ý thức chăm sóc, bảo vệ hoa, cây xung
quanh trường và nơi công cộng. Các em bạo dạn tự tin trong giao tiếp, nói năng lễ
phép với thầy cô và người lớn tuổi, các em rất thích được tham gia đóng vai trong
các giờ học, các em diễn đạt rõ ràng, trôi chảy dễ hiểu.

16


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHI
3.1. Kết luận
Trong công cuộc đổi mới hiện nay của đất nước ta khi yếu tố con người
được coi trọng về tiềm năng trí tuệ cùng với sức mạnh tinh thần. Nhân cách của
con người càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội.
Thực tế hiện nay ngành giáo dục đào tạo đã được nhà nước quan tâm đưa lên
quốc sách hàng đầu thi việc dạy chữ nói chung và việc rèn kĩ năng sống nói
riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng. Một nhà hiền triết đã nói “khoa học mà
không có hành vi đạo đức thì chỉ là sự tàn rụi của linh hồn” mà hành vi đạo đức
đó chính là kĩ năng sống của học sinh vì vậy việc thực hiện giáo dục hành vi
năng ứng xử lễ phép cho học sinh lớp 3 là cần thiết biết bao. Cần khẳng định
việc học sinh thích nghi nhanh hay chậm, hình thành những kĩ năng sống diễn ra
lâu hay mau phụ thuộc rất nhiều vào mức độ đúng đắn trong các chuẩn của
người giáo viên đối với học sinh.

Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh là giúp cho các em hiểu và sử dụng
được tiếng Việt, một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của mỗi người Việt
Nam chúng ta. Ngoài ra, việc dạy đóng vai các tình huống trong quá trình học
tập cũng có vai trò rất quan trọng trong việc rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh.
Để rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh, trước hết người giáo viên phải có
tấm lòng yêu thương học sinh vô hạn, có sự độ lượng, bao dung, đồng thời phải
giỏi về tâm lý lứa tuổi, có nhiều biện pháp giáo dục tinh tế, am hiểu và biết cách
tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Giáo viên phải là người biết cách
xây dựng điều hành một tập thể tự quản, phải biết ứng xử giải quyết đúng các
mối quan hệ giữa các em học sinh với nhau, giữa học sinh với giáo viên, giữa
giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm; giữa giáo viên chủ nhiệm với Đội
thiếu niên, với cha mẹ học sinh,... Người giáo viên còn cần biết động viên, biết
vận động, thuyết phục. Giáo viên còn là cầu nối quan trọng để kết nối các môi
trường giáo dục: nhà trường - gia đình và xã hội. Phương châm giáo dục của bản
thân tôi là “lạt mềm buộc chặt”, giáo viên chủ nhiệm phải thực sự là người thân
thiện - nhất là đối với những học sinh chưa ngoan, xem các em như chính con
em mình, yêu thương, nhẹ nhàng gần gũi, động viên, chia sẻ với các em mọi vui
buồn trong cuộc sống,... từ đó sẽ giáo dục về đạo đức, tư tưởng, lối sống, ý thức
rèn luyện mọi mặt cho các em. Giáo viên cần tích cực tìm tòi, nghiên cứu sách
vở, học hỏi đồng nghiệp, phải linh hoạt, khéo léo vận dụng các phương pháp dạy
học phù hợp với từng bài, từng phần. Tích cực tham gia nghiên cứu, mạnh dạn
trình bày và áp dụng các đề tài khoa học, các sáng kiến kinh nghiệm, các ý kiến
đề xuất mà mình cảm thấy có hiệu quả, có tính khả thi về đổi mới phương pháp
dạy học nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn cũng như để lôi
cuốn, tạo hứng thú và đưa các em trở về với niềm đam mê thích thú khi học tập
bộ môn. Luôn giữ mối quan hệ gần gũi, thân thiết và tốt đẹp với phụ huynh và

17



học sinh, khuyến khích các em nói ra những gì mình nghĩ để tất cả các giờ dạy
học đều thoải mái, vui tươi và sôi nổi hơn...
Qua việc các em tự diễn đạt, trao đổi những cảm nghĩ, xúc cảm, tình cảm
của mình trước một sự kiện, việc làm nào đó. Làm được như thế chúng ta đã góp
phần nho nhỏ thực hiện thành công trong việc thực hiện đổi mới chương trình
giáo dục phổ thông hiện nay.
3.2. Kiến nghị
Nhà trường cần tăng cường hơn nữa việc giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh, thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục nhân cách cho học
sinh, nội dung cần cụ thể, dễ hiểu, phù hợp với từng đối tượng, phương pháp
giáo dục đa dạng, hấp dẫn, nêu gương tốt, phê phán hành vi xấu. Tăng cường
giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử, kỹ năng sống, giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật cho trẻ em đồng thời tăng cường quản lý, loại bỏ văn hoá phẩm, đồ
chơi, game,… có nội dung xấu, kích động bạo lực không để xâm nhập, tác động
đến trẻ em. Mỗi thầy cô giáo phải thực sự là tấm gương để các em học tập.
Công tác giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống cũng như ý thức chấp
hành pháp luật cho trẻ em rất cần sự lãnh chỉ đạo, chung tay góp sức phối hợp
hành động đồng bộ của các cấp uỷ đảng, chính quyền trong huyện, toàn thể xã
hội. Cần xây dựng môi trường xã hội trong sáng, lành mạnh, cần đầu tư xây
dựng cơ sở vui chơi, giải trí, tổ chức, hướng dẫn trẻ em vui chơi giải trí lành
mạnh, nên tổ chức nhiều hoạt động cho các em tham gia trong dịp hè.
Qua việc nghiên cứu đề tài này do năng lực có hạn, mặc dù bản thân tôi đã
rất cố gắng nhưng đề tài sáng kiến kinh nghiệm không tránh khỏi những thiếu
sót, tôi rất mong sự giúp đỡ, góp ý, bổ sung của Ban giám hiệu nhà trường, các
cấp quản lý giáo dục, bạn bè đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện và tôi có
được những kinh nghiệm bổ ích áp dụng cho những năm học sau.
Tôi xin chân thành cám ơn!
XÁC NHẬN
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VI
HIỆU TRƯỞNG


Nguyễn Thị Chung

Thị Trấn, ngày 15 tháng 3 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác
NGƯỜI VIẾT

Trần Thị Liên

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mạng internet
2. Tài liệu "Bác Hồ và những bài học về đạo đức, lối sống dành cho học
sinh lớp 3"
3. Thông tư 30, Thông tư 22 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
4. Các tài liệu về rèn kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học

19


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trần Thị Liên
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị Trấn Cẩm Thủy, huyện Cẩm

Thủy, tỉnh Thanh Hóa

TT

Tên đề tài SKKN

Kết
quả
Cấp đánh giá xếp loại đánh
giá
(Ngành GD cấp huyện/tỉnh;
xếp
Tỉnh...)
loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

(A, B,
hoặc
C)
1.

2.

3.

4.


5.

Khai thác và phát triển một Phòng Giáo dục và
số bài tập về phép chia hết Đào tạo huyện Cẩm
Thủy
Một số biện pháp giúp học Phòng Giáo dục và
sinh lớp 2 học tốt môn Tập Đào tạo huyện Cẩm
Thủy
làm văn
Rèn kĩ năng giải Toán có
Phòng Giáo dục và
lời văn cho học sinh lớp 1 Đào tạo huyện Cẩm
Thủy
Một số biện pháp rèn kĩ
Phòng Giáo dục và
năng sống cho học sinh lớp Đào tạo huyện Cẩm
Thủy
1 thông qua môn Đạo đức
Các hoạt động bổ trợ rèn kĩ Sở giáo dục tỉnh
năng giao tiếp cho học sinh Thanh Hóa

B

2009 - 2010

C

2011 – 2012

B


2012 – 2013

A

2013 – 2014

B

2014 – 2015

B

2015 – 2016

lớp 1 trong nhà trường
6

Các hoạt động bổ trợ rèn kĩ Ủy ban nhân dân Tỉnh
năng giao tiếp cho học sinh Thanh Hóa
lớp 1 trong nhà trường

20


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………...
21


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
22


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………...
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………….………………

23



SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẨM THỦY

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

CÁC HOẠT ĐỘNG BỔ TRỢ RÈN KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO
HỌC SINH LỚP 3 TRONG NHÀ TRƯỜNG

Người thực hiện: Trần Thị Liên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị Trấn

SKKN thuộc lĩnh vực: Khác

THANH HÓA NĂM 2019
24


×