Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bài TIỂU LUẬN môn nhà nước và pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.3 KB, 10 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
*

HỌ VÀ TÊN: CHU XUÂN HIỆU
Ngày, tháng, năm sinh: 08/01/1982
Lớp: Luật K19 Lai Châu
Ngành: Luật

Đề tài số: 8
Đặc điểm hình phạt trong hệ thống pháp luật phong kiến
Việt Nam

TIỂU LUẬN MÔN:
LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Lai Châu, 9/2019


LỜI NÓI ĐẦU
Hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam được thể hiện rõ nét
qua nhiều thời kỳ. Mỗi thời kỳ lại có những đặc điểm về hình phạt khác
nhau, đượcthể hiện từ thời Ngô - Đinh - Tiền Lê cho đến thời kỳ nhà
Nguyễn. Những hình phạt phong kiến đều được sử cũ ghi lại rất cụ thể. Điển
hình, như ở thời Lê sơ thì các hình phạt được quy định rõ trong bộ Quốc
triều hình luật (QTHL) - dân gian quen gọi là bộ luật Hồng Đức, bộ luật tiêu
biểu cho pháp luật phong kiến ViệtNam. Ngoài ra còn có bộ Hoàng Việt luật
lệ (HVLL) của nhà Nguyễn cũng đều quy định rõ nét những hình phạt dã
man tàn bạo và thể hịên được tính phổ biến của hình phạt trong pháp luật
phong kiến. Sau đây là những phân tích của em về đề tài: “Đặc điểm của
hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam”. Trongquá trình làm bài còn


nhiều thiếu sót, em mong các thầy cô giáo góp ý và sửa chữa giúp em, để bài
làm được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


PHẦN NỘI DUNG
Đặc điểm về các hình phạt trong pháp luật phong kiến được thể hiện
qua bốn phương diện sau:
1. Hình phạt dã man tàn bạo. Hình phạt dã man tàn bạo được thể hiện
ngay từ thời kì Ngô - Đinh - Tiền lê cho đến thời nhà Lê, thì những hình phạt
này được thể hiện rõ nét hơn trong bộ Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức),
đến thời Nguyễn thì các hình phạtđược sử cũ ghi lại trong Hoàng việt luật lệ
(Luật Gia Long). Các hình phạt trong các bộ luật này đều mang tính hà khắc,
nhiều hình phạt mang tính dã man, tàn bạo như thích chữ, chém bêu đầu, lăng
trì. Điển hình đó là hệ thống hình phạt ngũ hình và các hình phạt khác ngoài
ngũ hình nhưng hình phạt thuộc về ngũ hình giữ vai trò chủ đạo. Các hình
phạt thuộc về ngũ hình bao gồm:
Thư nhất là xuy (phạt roi) là hình phạt đánh bằng roi mây nhỏ vào
mông người bị trừng phạt làm cho họ thấy xấu hổ, nhục nhã để tự sửa lỗi lầm
của mình. Hình phạt này là nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt. Chúng được
chia làm năm bậc từ 10 đến 50 roi. Trong QTHL xuy có thể là hình phạt được
áp dụng độc lập (ví dụ điều 573, điều 640...), cũng có thể là hình phạt áp dụng
kèm theo phạt tiền, biếm (ví dụ điều 295, điều 374...). Cả QTHL và HVLL thì
xuy đều được áp dụng cho cả nam và nữ, tuy nhiên QTHL thì thường áp dụng
cho nữ giới.
Thứ hai là Trượng (Đánh bằng gậy) là hình phạt nghiêm khắc hơn hình
phạt bằng roi. Trong HVLL thì quy định 2 roi thì bằng 1 trượng, ai phạm tội
nặng hơn 50 roi thì người ta bỏ roi mà xử bằng trượng. Cả QTHL và HVLL
đều quy định phạt bằng trượng có 5 bậc từ 60 đến 100, mỗi bậc là 10 trượng.
Trong QTHL hình phạt này chỉ áp dụng đối với nam giới phạm tội (ví dụ như

ở điều 570, 640...), nhưng cũng có thể là hình phạt áp dụng kèm theo các tội
lưu, tội đồ và tội biếm. Còn HVLL thì nữ giới phạm tội vẫn bị đánh bằng


trượng (tuy phạm viáp dụng có hạn chế) cụ thể điều 19 quyển 2 còn dự liệu
đánh trượng đối với nữ phạm nhân, nếu là tội thông gian thì bắt lột áo, tội
khác thì cho mặc áo mỏng. Tuy nhiên nữ phạm nhân thì được miễn thích chữ.
Nếu đàn bà phạm tội đồ hay tội lưu thì đánh hẳn 100 trượng, còn dư tội thì
cho chuộc. Điều này cho thấy việc quy định rõ đối tượng bị áp dụng trượng
thể hiện rõ tính nhân đạo ưu việt hơn hẳn của QTHL so với HVLL.
Thứ ba là Đồ (khổ sai). Đối với QTHL thì Đồ là hình phạt được quy
định áp dụng kèm theo xuy, trượng, hoặc thích chữ, đeo xiềng. Đồ có ba bậc:
Bậc thứ nhất là dịch đinh và dịch phụ (cả nam và nữ đều phải làm việc nặng
nhọc), nam phạm tội phạt 80 trượng, nữ phạm tội phạt 50 roi. Bậc thứ hai là
tượng phường binh (lính quét dọn chuồng voi) và suy thất tuỳ (đàn bà làm
đầy tớ trong nhà nấu cơm ), nam phạm tội thì bị đánh 80 trượng, thích vào
cổ hai chữ; nữ phạm tội bị đánh 50 roi, thích vào cổ hai chữ và đều phải làm
những công việc trên. Bậc thứ ba là chủng điền binh (làm lính đồn điền) và
thung thất tỳ (Đàn bà làm đầy tớ giã gạo), nam phạm tội bị đánh thêm 80
trượng, thích vào cổ 4 chữ, đeo xiềng; nữ phạm tội bị đánh 50 roi, khắc vào
cổ 4 chữ và đều phải làm những công việc trên. Còn đối với HVLL thì Đồ
(làm việc nặng nhọc) là hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội hơi
nặng. Người phạm tội bị gửi về quản thúc tại trấn nơi họ ở, đồng thời người
bị áp dụng hình phạt này phải làm những công việc nặng nhọc với thời hạn
từ 1 năm đến 3 năm. Đồ được chia làm 5 bậc, mỗi bậc là 10 trượng và đồ là
nửa năm. Đồng thời, tuỳ theo thời hạn bị áp dụng là ngắn hay dài mà mỗi
bậc lại áp dụng thêm một phụ hình với mức phạt 60 trượng đến 100trượng.
Việc áp dụng hình phạt này được coi là một sự tiến bộ hơn hẳn so với hình
phạt khổ sai (5 bậc). Các phạm nhân không bị giam giữ tại trạm giam saukhi
làm việc, do đó tránh được họ cảnh lao tù và giúp họ có điều kiện để hoàn

lương vì họ vẫn được tiếp xúc với xã hội. Thứ tư là lưu (đi đầy) là hình phạt
đày đi nơi xa. Loại hình phạt này đứnghàng thứ tư trong thang hình phạt cổ.


Trong QTHL thì lưu được quy định ápdụng kèm theo xuy, trượng, thích chữ
hoặc đeo xiềng. Lưu có ba bậc là Châu gần, Châu ngoài, Châu xa, tuỳ theo
tội mà tăng giảm. Như ở bậc Châu xa thì đánh 100 trượng, thích vào mặt 10
chữ, bắt đeo xiềng 3 vòng, đày đi làm việc Cao Bằng. Còn trong HVLL hình
phạt lưu được chép đúng như luật nhà thanh và chia làm ba bậc, phạm nhân
phải đày đi nơi xa 2000 dặm, 2500 dặm, hoặc 3000 dặm là những khoảng
cách giữa nơi sinh sống và nơi phạm tội phải chấp hành hình phạt. Ví dụ như
nếu tỉnh của phạm nhân cư trú là Quảng Nam mà bị phạt lưu 2000 dặm thì
nơi mà người phạm tội phải đi đầy là Biên Hoà. Các phạm nhân được tự do
làm việc tuy nhiên người dân xưa thường khiếp sợ hình phạt này vì đối với
họ phải sống xa quê là một cực hình và nhiều trường hợp người đi đày
không trở về quê hương được nữa. Thứ năm là Tử (tội chết) là hình phạt
được quy định áp dụng độc lập và được chia làm 3 bậc tuỳ theo mức nặng
nhẹ là: Bậc thứ nhất là thắt cổ (giảo), chém (trảm); bậc thứ hai là Chém bêu
đầu (trảm kiều); bậc thứ ba là Lăng trì (róc thịt cho chết dần). Như vậy, theo
Quốc triều hình luật thì chỉ có tử là hình phạt có khả năng được áp dụng độc
lập. Còn theo HVLL thì tử là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống ngũ
hình. Hình phạt tử hình có hai bậc là giảo (thắt cổ) và trảm (chém đầu).
Những phạm nhân bị xử tội giảo hay tội trảm mà hành hình ngay thì gọi là
giảo quyết và trảm quyết. Điều đặc biệt ở HVLL là không quy định hình
thức xử tử bằng lăng trì, điều này phù hợp với phần giải thích trong bộ luật
“Chết lăng trì là một hình phạt ghê khiếp nhất trong các hình phạt .ngày nay
vĩnh viễn bỏ nhục hình ấy, vĩnh viễn bỏ, chỉ còn giữ lại hình phạt ghê khiếp
ngoài hết thảy mọi ghê khiếp này là bằng cách chém kẻ bất trung, bất hiếu
thôi”. Tuy nhiên tại một số điều luật quy định về tội phạm trong HVLL lại
quy định hình phạt tử hình bằng hình thức lăng trì (Điều 223, 253, 254 .).

Việc quy định hình phạt bằng hình thức lăng trì là một sự mâu thuẫn với
phần giải thích của bộ luật và điều này tạo ra sự hạn chế nghiêm trọng trong
lịch sử lập pháp hình sự của thời nhà Nguyễn. So với QTHL thì HVLL quy


định hình phạt tử hình nghiêm khắc hơn nhiều, nếu QTHL không quy định
chế định “tộc tru” (giết cả họ) thì trong HVLL đã chính thức quy định chế
định này tại điều 223 (Mưu đại nghịch). Những hình phạt dã man, tàn bạo
không chỉ lấy đi tính mạng của người phạm tội mà còn hạ thấp danh dự,
nhân phẩm của họ. Có những tội phạm bị gông cùm, dải đi khắp thành để
dân chúng ném, chửi. Những hình phạt trên còn đánh vào tâm lý của người
dân. Tính dã man tàn bạo còn thể hiện dấu ấn của hình phạt suốt đời như là
thích chữ .Các hình phạt ngoài ngũ hình bao gồm biếm tước, phạt tiền, thích
chữ, đeo xiềng và tịch thu tài sản trong đó biếm tước và 4 Đề tài: Đặc điểm
của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam. phạt tiền được quy định
vừa có thể áp dụng độc lập, vừa có thể áp dụng kèm theo hình phạt khác.
2. Hình phạt trong pháp lụât phong kiến được áp dụng phổ biến. Hình
phạt là chế tài phổ biến đối với các hành vi vi phạm dù trong lĩnh vực hình sự
hay dân sự, hành chính, hôn nhân gia đình, luân thường đạo lý .Quan niệm đó
làm cho hình phạt trong lụât hình phong kiến nói chung có tính phổ biến.
Trong dân sự, thời Lê Trịnh quy định nếu là hợp đồng bán đất thì người bán
không được đòi chuộc lại (chiếu 6/1135 và chiếu 3/1292), người nào cố tình
đòi chuộc phạt 80 trượng. Trong QTHL thời Lê quy định tại chương điền sản
(từ điều 342 đến điều 400), ví dụ như điều 397: Hướng dẫn cách chia hương
hảo một trường hợp cụ thể, hay tại điều 356 quy định: “Những người tá điền
cày nhờ ruộng ở nhà người khác mà trở mặt thì phạt 60 trượng, biếm 2 tư .”
Trong hôn nhân và gia đình: Cả QTHL và HVLL đều quy định tội bất hiếu là
một trong 10 trọng tội và được xếp vào nhóm tội thập ác. Ví dụ như điều 475,
QTHL quy định: “Lăng mạ ông bà cha mẹ thì xử tội lưu châu ngoài, đánh thì
xử tội lưu đi châu xa, đánh bị thương thì xử tội giảo, vì lầm lỡ mà làm chết

người thì xử tội lưu châu ngoài, bị thương thì xử tội đồ, làm chủng điền binh”.
Các quan hệ khác như: Vợ - chồng, vợ cả và vợ lẽ, anh chị em .nếu làm trái
điều quy định thì càng bị xử lý bằng hình phạt. Trong hình sự, tại điều 428,


QTHL quy định về tội ăn cướp rồi lại hiếp dâm “Ăn cướp mà lại hiếp dâm thì
sử tội chém bêu đầu, ăn trộm mà lại hiếp dâm thì xử tội chém ."; điều 235,
HVLL quy định về tội cướp giật mạnh “Phàm cướp giật mạnh nhưng không
lấy được tiền thì phạt 100 trượng, lưu 300 dặm”. Nhìn chung, tính phong kiến
còn thể hiện ở chỗ pháp luật phong kiến có xu hướng mở rộng diện trách
nhiệm hình sự. Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, pháp luật 5 Đề tài: Đặc điểm
của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam. phong kiến quy định: Từ
7 tuổi trử lên đã phải chịu trách nhiệm hình sự không hoàn toàn, người từ đủ
16 đến 90 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự hoàn toàn.
3. Hình phạt pháp luật phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng của pháp
luật phong kiến Trung Quốc. Trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, hai bộ
cổ luật là QTHL và HVLL đã chấp nhận năm hình phạt của nhà đường (Ngũ
hình), và quy định các loại hình phạt này trong hệ thống hình phạt của mình.
Những hình phạt này có nguồn gốc từ Trung Hoa và có sự thay đổi qua các
giai đoạn lịch sử khác nhau. Do Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng
giềng, chính vì vậy sẽ sớm xuất hiện sự giao thoa văn hoá, về mặt tư tưởng
như Nho giáo ., đường lối cai trị khá giống nhau. Ví dụ như Ngũ hình của
Trung Quốc rất hài hoà nếu đặt vào Đại Việt và có sự thay đổi sáng tạo dựa
trên điều kiện địa lý và có sự khác biệt so với pháp luật phong kiến Trung
Quốc và phù hợp với phong tục Đại Việt. Ví dụ như hình phạt Trượng trong
QTHL chỉ áp dụng đối với nam giới, điều này càng cho thấy sự nhân đạo hơn
của pháp luật phong kiến Việt Nam và phù hợp với phong tục tôn trọng phụ
nữ ở nước ta. Trong thời kỳ thượng cổ, người Trung Hoa quy định hình phạt
chỉ áp dụng riêng cho dân tộc sống chung quanh quốc gia mình, đó là 5 loại
hình phạt rất hà khắc. Nhưng đến thế kỷ XXVI trước công nguyên, hoàng đế

Trung hoa đã thay đổi 5 hình phạt hà khắc trên bằng 5 hình phạt là Mặc (thích
chữ vào mặt), Tỵ (cát mũi), Phi (Chặt ngón chân), Cung (thiến), Đại nghịch
(tội chết). Sau này khi nghiên cứu các bộ luật cổ Việt Nam như QTHL và


HVLL đều thấy rõ rằng chịu ảnh hưởng sâu sắc của luật nhà Đường, nhà
Thanh về kỹ thuật lập pháp nói chung cũng như quy định chế độ ngũ hình nói
riêng. Tuy pháp luật phong kiến Việt Nam có ảnh hưởng nhiều của pháp luật
phong kiến Trung Quốc, nhưng có phần nào nhẹ nhàng hơn và sáng tạo hơn.
Điều dễ thấy là trong HVLL các cực hình trong luật nhà Thanh như: tru di
tam tộc, lăng trì, yêm .hoàn toàn bị loại bỏ. Nhìn chung, các nhà làm luật khi
xây dựng HVLL đã chấp nhận hệ thống ngũ hình của Trung hoa. Nhiều quy
định của bộ luật này chép nguyên văn luật của nhà Thanh và điều này có thể
giải thích được vì chủ nghĩa Nhân trị và Pháp trị của Trung hoa thời kì đó có
ảnh hưởng lớn đối với nền cổ luật Đông phương trong đó có Việt Nam và
HVLL cũng không nằm ngoài sự chi phối, ảnh hưởng đó.
4. Điểm khác biệt của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
Nhà làm luật phong kiến có quan niệm khá cứng nhắc và chi tiết về hình phạt.
Luật hình ngày nay thường quy định cho mỗi loại tội phạm mức hình phạt nhẹ
nhất tới mức hình phạt nặng nhất để thẩm phán có quyền lựa chọn mức hình
phạt thích ứng với từng tội cụ thể trong giới hạn luật định. Nhưng nhà làm
luật phong kiến thời xưa quy định tỉ mỉ từng hình phạt cụ thể cho từng hành
vi và hậu quả phạm tội cụ thể. Tuy nhiên những nhà làm luật phong kiến
thường đi vào quy định chi tiết mà không nêu ra những khái niệm pháp lí và
những nguyên tắc pháp lí, ví dụ như tội trộm cắp không nêu khái niệm về tội
trộm cắp nói chung mà đi vào quy định cụ thể ngay . Phần chế tài trong các
quy phạm pháp luật của QTHL được quy định dưới dạng chế tài cố định, có
thể nói đây là sự khác biệt của QTHL với các quy phạm pháp luật hiện hành
cả ở các nước phương đông và phương tây. Nếu các quy định của pháp luật
hình sự cũng như các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật của các nước

hiện nay trên thế giới quy định loại chế tài không cố định thì có thể nói rằng
QTHL, các chế tài được quy định một cách rõ ràng. Việc quy định này đảm
bảo tính chính xác trong việc áp dụng pháp luật. Ví dụ ở điều 466 của QTHL


làm một minh chứng điển hình. Tuy nhiên, phần chế tài trong các quy phạm
pháp luật dù trong lĩnh vực hình sự, hành chính, dân sự .đều phổ biến chế tài
hình sự. Chính vì vậy các nhà làm luật phong kiến, về cơ bản chưa có khái
niệm phân chia pháp luật thành các ngành luật như thời cạn hiện đại.


PHẦN KẾT LUẬN
Trên đây là những khái quát cơ bản về đặc điểm của hình phạt trong
pháp luật phong kiến Việt Nam. Qua đó, nhận thấy rằng trong hoạt động xây
dựng pháp luật của chúng ta hiện nay cần phải kế thừa có chọn lọc những giá
trị quý báu đó để nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật.



×