Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

tiểu luận kinh tế đầu tư quản lý nhà nước với với ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng KT ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.67 KB, 18 trang )

1. TỔNG QUAN VỀ QLNN ĐỐI VỚI VỐN ODA TRONG XÂY DỰNG KCHTKT
1.1. Khái niệm về QLNN về vốn ODA trong xây dựng KCHTKT.
1.1.1. Khái niệm về vốn ODA
Vốn ODA viết tắt của cụm từ Official Development Assistance là một hình thức
đầu tư nước ngoài gọi là “Hỗ trợ phát triển chính thức”. Vì các khoản đầu tư này thường
là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài.
Về bản chất đó chính là sự hỗ trợ về tài chính của các nước phát triển dành cho các
nước đang phát triển. Theo Nghị định số 87/CP ngày 5-8-1997 của Chính phủ nước ta thì
ODA bao gồm các khoản tiền viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi với phần
không hoàn lại chiếm ít nhất 25% giá trị của khoản vay.
ODA được gọi là “hỗ trợ phát triển chính thức” bởi vì các khoản đầu tư này
thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài, vì
mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở
nước được đầu tư và nó thường là cho Nhà nước vay.
1.1.2. Khái niệm về QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT
QLNN về vốn ODA trong xây dựng KCHTKT là sự tác động có tổ chức, bằng
pháp quyền của nhà nước lên quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT nhằm đạt được các mục tiêu xác định trong điều kiện kinh tế xã hội của quốc
gia và tình hình quốc tế.
Cụ thể hơn, QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT là quá trình nhà
nước lập quy hoạch, kế hoạch, tổ chức, điều hành, kiểm tra việc thu hút và sử dụng ODA
trong lĩnh vực KCHTKT nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra trong điều kiện kinh tế xã hội
trong và ngoài nước.
1.2. Nội dung QLNN đối với KCHTKT tại Việt Nam.
Trên thế giới đã có nhiều nước thành công trong việc sử dụng vốn ODA để hỗ trợ
phát triển kinh tế - xã hội. Trước đây Nhật Bản, Hàn Quốc và gần đây là Thái Lan, Trung
Quốc, In-đô-nê-xia, Philipin,…Một trong những nguyên nhân sử dụng nguồn vốn ODA
có hiệu quả là các nước này xây dựng được một hệ thống quản lý ODA phù hợp theo mô
hình quản lý tập trung đi đôi với phân cấp trách nhiệm trên cơ sở khung thể chế pháp lý
về ODA không ngừng hoàn thiện.
-



1.2.1. Nhiệm vụ QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT.
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch và vận động vốn ODA cho KCHTKT
Ban hành hệ thống pháp luật, chính sách về vốn ODA và KCHTKT
Xây dựng, tổ chức và vận hành bộ máy QLNN về vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT.


-

Bố trí vốn đối ứng cho các chương trình dự án dự án ODA trong xây dựng
KCHTKT và thanh toán nợ nước ngoài
- Thẩm định, phê duyệt các chương trình dự án ODA trong xây dựng KCHTKT
- Đánh giá, giám sát việc thu hút và sử dụng vốn ODA trong KCHTKT
1.2.2. Nội dung QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT
Tương tự như các nước tiếp nhận vốn ODA khác, để nâng cao hiệu quả viện trợ
phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Chính phủ Việt Nam đã không
ngừng hoàn thiện khung pháp lý về quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA). Kể từ khi nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế vào năm 1993 đến nay,
Chính phủ Việt Nam đã ban hành 4 Nghị định về quản lý ODA (Nghị định 20/CP
(15/3/1994), Nghị định 87/CP (5/8/1997), Nghị định 17/2001/NĐ-CP (4/5/2001) và Nghị
định 131/2006/NĐ-CP (09/11/2006). Các nghị định sau được hoàn thiện trên cơ sở thực
tiễn thực hiện nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của quan hệ hợp tác phát
triển.
Cùng với nỗ lực hoàn thiện thể chế, công tác quản lý nhà nước về ODA đã không
ngừng được cải tiến và đạt được nhiều tiến bộ. Nếu như trong giai đoạn đầu của quá trình
tiếp nhận ODA, quản lý nhà nước theo mô hình tập trung nhiều ở cấp trung ương thì nay
theo mô hình phân cấp mạnh mẽ để các Bộ, ngành và địa phương phát huy tính chủ động
và nâng cao trách nhiệm từ khâu xây dựng dự án, thực hiện dự án, khai thác và vận hành
các sản phẩm đầu ra.

Theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP Việt Nam có 4 cấp tham gia vào quá trình quản
lý và thực hiện nguồn vốn ODA (Ban quản lý dự án, Chủ dự án, Cơ quan chủ quản, Cơ
quan quản lý nhà nước về ODA). Các cấp này có chức năng và nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể
- Ban quản lý dự an: Đơn vị giúp việc cho Chủ dự án trong việc quản lý thực hiện
chương trình, dự án ODA.
- Chủ dự án: Là đơn vị được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý, sử dụng nguồn vốn
ODA và nguồn vốn đối ứng để thực hiện chương trình, dự án theo nội dung đã được cấp
có thẩm quyền phê duyệt, và quản lý, sử dụng công trình sau khi chương trình, dự án kết
thúc.
- Cơ quan chủ quản: Là các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan trực thuộc Chính
phủ, các cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức nghề nghiệp, các
cơ quan trực thuộc Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có chương trình, dự án.
- Các cơ quan quản lý nhà nước về ODA: Gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính,
Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ.


Kinh nghiệm của Việt Nam cho thấy dù quản lý nhà nước theo mô hình tập trung
hay phân cấp thì một nguyên tắc "vàng" là Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về
ODA.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ODA theo quy định tại Nghị định
131/2006/NĐ-CP bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, quyết định chiến lược, chính sách, quy hoạch, định hướng thu hút và sử
dụng ODA cho từng thời kỳ; ủy quyền cho Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục
yêu cầu tài trợ ODA và những sửa đổi, bổ sung (nếu có) của Danh mục;
Thứ hai, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng ODA
theo thẩm quyền;
Thứ ba, điều hành vĩ mô công tác quản lý và sử dụng ODA.
Đồng thời giữa các cơ quan quản lý nhà nước về ODA cũng có sự phân công về
chức năng, nhiệm vụ cụ thể trên một cơ chế pháp lý phối hợp tốt và nhịp nhàng theo các

bộ, ban ngành nhất định.
1.3. Tiêu chí đánh giá QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT.
1.3.1. Đánh giá công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch vận động vốn ODA cho
KCHTKT
Tiêu chí đánh giá công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch vận động vốn ODA cho
5wcs
Lập quy hoạch, kế hoạch là một hình thức định hướng thu hút và sử dụng vốn
ODA trong đầu tư cơ sở hạ tầng. Quy hoạch xác định rõ quy mô, giới hạn thu hút và sử
dụng nguồn vốn ODA đầu tư cơ sở hạ tầng trong một khoảng thời gian nhất định của
quốc gia. Quy hoạch cũng là cơ sở, tiền đề để xây dựng kế hoạch, chương trình, dự án
đầu tư cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn ODA. Quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA
trong đầu tư cơ sở hạ tầng dài hạn là 10 năm, trung hạn là 5 năm, ngắn hạn là kế hoạch
từng năm cụ thể trên bình diện cả nước, một vùng hay một ngành như giao thông vận tải,
bưu chính viễn thông…
Cơ sở để xây dựng kế hoạch vốn ODA cho đầu tư cơ sở hạ tầng dựa vào chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng ngành hạ tầng kỹ thuật cụ thể, quy
hoạch sử dụng vốn chung cho cả nước trong dài hạn hay trung hạn; khả năng và cơ hội
viện trợ của các nhà tài trợ trong khoảng thời gian đó.
Tính phù hợp thể hiện ở sự phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội và chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển chung.
Tính khả thi tức là đảm bảo sự cân đối giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động
cân đối các nguồn vốn đầu tư.
Tính hiệu quả của kế hoạch vốn đầu tư được xem xét trước hết ở việc các dự án
phải được xây dựng đúng mục đích, đúng nội dung, đúng địa chỉ. Các dự án đầu tư vốn


phải được lập theo đúng mức độ cần thiết và thứ tự ưu tiên đầu tư của các công trình.
Mức độ cấp thiết của các dự án cảng lớn thì lợi ích mà nó mang lại càng cao.

1.3.2. Đánh giá công tác xây dựng, tổ chức và vận hành bộ máy quản lý;

Tiêu chí đánh giá công tác xây dựng, tổ chức và vận hành bộ máy quản lý gồm
tính hệ thống, hiệu quả, hiệu lực, chuyên môn hóa, cân đối và linh hoạt.
Để quản lý các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn ODA, trước hết Nhà
nước phải xác định được chủ thể quản lý. Chủ thể đại diện cho lợi ích công, thực hiện
chức năng quản lý nhà nước đối với các đối tượng quản lý được xác định trên nguyên tắc
đặt công việc cần quản lý vào đúng nơi có khả năng quản lý tốt nhất. Chủ thể quản lý nhà
nước là các cơ quan, tổ chức và cá nhân đáp ứng được các điều kiện về nguồn lực, phù
hợp về chuyên môn, trình độ, nghiệp vụ, năng lực. Về mặt kỹ thuật , cơ cấu tổ chức của
bộ máy quản phải được thiết kế hợp lý, cơ chế phân công, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả,
nhằm đạt mục tiêu chung của nhà nước. Do tính chất các dự án đầu tư có sử dụng vốn
nước ngoài, theo hình thức ưu đãi có ràng buộc, việc xây dựng bộ máy quản lý các dự án
đầu tư cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn ODA vì thế đòi hỏi những yêu cầu hết sức nghiêm
ngặt. Đối với các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn ODA hình thức tổ chức của
bộ y quản lý dự án được áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế về ODA hoặc thỏa
thuận với nhà đầu tư.
1.3.3. Đánh giá công tác bố trí vốn đối ứng;
Tiêu chí đánh giá công tác bố trí vốn đối ứng gồm tính đầy đủ, kịp thời và chủ
động.
Vốn đối ứng là phần vốn trong nước tham gia vào từng chương trình, dự án ODA
theo cam kết giữa nước tiếp nhận và nhà tài trợ nước ngoài trên cơ sở hiệp định, văn kiện
dự án, quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Vốn đối ứng là yêu cầu do nhà tài trợ
đưa ra nhằm bảo đảm quyền sở hữu và trách nhiệm của nước tiếp nhận trong dự án ODA.
Nhà nước phải cân đối vốn đối ứng trong tổng ngân sách nhà nước; bố trí vốn đối ứng
cho từng ngành, địa phương; điều chỉnh, bổ sung vốn đối ứng. Đối với các dự án đầu tư
cơ sở hạ tầng vốn đối ứng thường được sử dụng để thực hiện công tác di dân, giải phóng
mặt bằng, tái định cư, xây dựng dự án chuẩn bị đầu tư và chi phí thẩm định thiết kế,
duyệt tổng dự toán hoàn tất các thủ tục đầu tư, chi phí liên quan đến quá trình lựa chọn
nhà thầu…
1.3.4. Đánh giá công tác thẩm định, phê duyệt;
Tiêu chí đánh giá công tác thẩm định, phê duyệt gồm tính phù hợp, chính xác và

kịp thời.


Thẩm định dự án đầu tư là việc kiểm tra lại các điều kiện quy định phải đảm bảo
của một dự án đầu tư trước khi quyết định đầu tư. Tất cả các dự án đầu tư sử dụng vốn
ngân sách Nhà nước, vốn ODA hay vốn vay ưu đãi để đầu tư phát triển phải được thẩm
định. Nội dung thẩm định dự án đầu tư tùy theo từng loại dự án, đó là các điều kiện nhằm
đảm bảo sự phù hợp với quy hoạch phát triển ngành, lãnh thổ, các điều kiện tài chính, giá
cả, hiệu quả đầu tư, đảm bảo an toàn về tài nguyên, môi trường, các vấn đề xã hội của dự
án. Sau khi thẩm định dự án đầu tư, nếu dự án đạt được những yêu cầu cơ bản về nội
dung thẩm định và có tính khả thi cao thì cơ quan có thẩm quyền sở ra quyết định phê
duyệt dự án đầu tư.
1.3.5. Đánh giá công tác đánh giá, giám sát các dự án ODA.
Tiêu chí đánh giá công tác đánh gia, giám sát các dự án ODA gồm tính trung thực,
chính xác, khách quan, đầy đủ, kịp thời, khả thi, hợp lý, hiệu lực và hiệu quả.
Kiểm tra, giám sát, đánh giá là một khâu quan trọng trong chu trình quản lý dự án
đầu tư. Kiểm tra, giám sát nhằm tìm ra những mặt ưu điểm, những nhân tố mới, tích cực
để phát huy; đồng thời phát hiện những sai lệch của đối tượng quản lý để uốn nắn kịp
thời. Mặt khác, qua kiểm tra, giám sát có thể phát hiện những điểm bất cập, bất hợp lý
trong cơ chế quản lý, thậm chí ngay cả chủ trương, quyết định đầu tư để kịp thời sửa đổi
cho phù hợp. Kiểm tra, giám sát bao gồm các hoạt động theo dõi thường xuyên, kiểm tra
định kỳ theo kế hoạch hoặc đột xuất trong quá trình thực hiện dự án, trên các lĩnh vực: tài
chính, xây dựng, thuế…
Mức độ chính xác, minh bạch của công tác kiểm tra, đánh giá phản ánh trình độ,
năng lực và phẩm chất của cơ quan QLNN đối với việc quản lý vốn đầu tư. Mức độ chính
xác và minh bạch của công tác kiểm tra, giám sát càng cao chứng tỏ trình độ, năng lực
của cơ quan quản lý càng tốt và ngược lại. Tiêu chí này được đánh giá qua sự phản ánh
đầy đủ, kịp thời, trung thực, khách quan các nội dung giám sát, đánh giá vốn đầu tư.
Công tác kiểm tra, đánh giá chính xác là căn cứ để các cơ quan QLNN phát hiện ra những
vấn đề xảy ra và nguyên nhân để có thể xử lý đúng đắn, góp phần hạn chế các sai phạm.

Tính hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát được phản ánh thông qua việc
đánh giá hệ thống chế tài được thiết kế có cụ thể, đủ mạnh và rõ ràng đối với các trường
hợp vi phạm, đồng thời phải gắn với quyền và trách nhiệm của từng chủ thể liên quan đến
việc sử dụng vốn đầu tư hay không.
2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VỐN ODA
TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM.
2.1. Đối với hệ thống pháp luật liên quan đến vốn ODA trong xây dựng KCHTKT;
Trong hơn 20 năm, Chính phủ đã thể chế hóa việc huy động và sử dụng ODA tại 5
Nghị định. Đây là các văn bản khung pháp lý cao nhất cho hoạt động thu hút và sử dụng


vốn ODA gồm: Nghị định 20/CP (1994), Nghị định 87/CP (1998), Nghị định
17/2002/NĐ-CP (2002), Nghị định 131/2006/NĐCP (2006) và Nghị định 38/2013/NĐCP (2013). Các nghị định dần hoàn thiện tạo khung pháp lý tương đối chặt chẽ và đồng
bộ cho thu hút và sử dụng ODA nói chung, ODA trong xây dựng KCHTKT nói riêng.
Ngoài ra, ODA trong xây dựng KCHTKT cũng chịu sự điều chỉnh của một số văn bản
pháp luật khác như Luật Đấu thầu, luật Đầu tư, luật Xây dựng…
Bình quân khoảng 4 năm một lần, các Nghị định của Chính phủ về quản lý và sử
dụng ODA được đổi mới, Nghị định sau tiến bộ hơn Nghị định trước, nhất là về vai trò
lãnh đạo và chính sách thu hút sử dụng ODA của Chính phủ, phân cấp cho các cơ quan
chủ quản, đồng thời tăng cường công tác theo dõi, giám sát đã dần được đưa vào các quy
định của pháp luật. Bên cạnh đó, Quốc hội đã ban hành mới và sửa đổi bổ sung nhiều lần
văn bản pháp luật có liên quan đến KCHTKT trong các lĩnh vực như xây dựng cơ bản,
đấu thầu, giải phóng mặt bằng... như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Xây dựng, Luật Đầu
tư, Luật Đấu thầu, Luật Quản lý nợ công, Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Đầu tư
công...
Về mặt hạn chế, hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến QLNN về vốn ODA
trong xây dựng KCHTKT còn nhiều bất hợp lý, cụ thể như sau:
Nội dung các văn bản pháp luật còn nhiều điểm bất hợp lý, đặc biệt trong lĩnh vực
đầu tư và xây dựng các công trình KCHTKT như quy định về đền bù thiệt hại hiện nay
chưa thỏa đáng cho người dân, gây chậm trễ cho công tác giải phóng mặt bằng, tái định

cư. Đấu thầu cũng là vấn đề mà chưa đáp ứng được yêu cầu hài hoà thủ tục với các nhà
tài trợ, gây khó khăn cho cả cấp quản lý và cấp thực hiện.
Nội dung của các văn bản pháp luật mới chỉ tập trung nhiều vào việc thu hút và sử
dụng vốn ODA mà chưa đi sâu vào nội dung vận hành dự án, mà đây mới là phần quyết
định tính hiệu quả của việc thu hút và sử dụng vốn ODA.
Mặt khác, mặc dù Nghị định số 38/2013/NĐ-CP đã đề cập đến cơ chế tạo điều
kiện cho khu vực tư nhân tiếp cận nguồn vốn ODA nhưng chưa xây dựng mô hình cũng
như thể chế pháp luật, chính sách khuyến khích và giải pháp hạn chế rủi ro để thu hút vốn
từ thành phần kinh tế tư nhân tham gia.
Ngoài ra, các văn bản pháp luật cũng chưa có cơ chế, chế tài xử lý và chế độ khen
thưởng cụ thể đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các PMU (đơn vị quản lý dự án) dẫn
đến việc thực thi những quy định chưa nghiêm túc.
2.2. Đối với cơ cấu bộ máy QLNN và phân cấp quản lý
Hiện nay có 4 cấp tham gia vào quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA trong xây
dựng KCHTKT, bao gồm Thủ tướng Chính phủ; các bộ tổng hợp gồm Bộ Kế hoạch và
Đầu tư , Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước và Văn phòng Chính phủ;
các Bộ và UBND các địa phương và các chủ dự án. Quản lý nhà nước đối với vốn ODA


còn tính đến vai trò của nhà tài trợ. Năm 2013, thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về ODA
và vốn vay ưu đãi. Vốn ODA do một cơ quan quản lý tập trung, có phân cấp. Ở Trung
ương, Bộ Kế hoạch và đầu tư đảm trách vai trò cơ quan đầu mối. Phối hợp với Bộ Kế
hoạch và đầu tư có các Bộ liên quan. Các Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
ODA ở cấp ngành; trong KCHTKT, việc quản lý thuộc về các bộ như Bộ Giao thông Vận
tải, Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn; các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm quản
lý nhà nước về ODA trên lãnh thổ địa phương. Các cơ quan chủ quản cấp ngành và địa
phương chỉ định cơ quan đầu mối quản lý và điều phối ODA của mình như các Vụ Kế
hoạch – Tài chính của các Bộ và Sở Kế hoạch và đầu tư của các tỉnh và thành phố trực
thuộc Trung ương.

Tuy nhiên trên thực tế, các cơ quan quản lý nhà nước chưa chủ động, phân cấp
quản lý còn nhiều hạn chế. Cơ quan quản lý các cấp chưa thể hiện vai trò làm chủ trong
công tác quy hoạch, kế hoạch và điều phối, chưa đủ năng lực và làm chủ trong việc chuẩn
bị và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án ODA trong xây dựng KCHTKT và bị
động và phụ thuộc vào nhà tài trợ. Tâm lý các ngành các cấp đều muốn có nhiều dự án
được thực hiện trong phạm vi quyền quản lý của mình nên họ thẩm định dự án không
thấu đáo, có khi chấp nhận cả những ràng buộc bất lợi hoặc lựa chọn những dự án không
có hiệu quả cao xét trên tổng thể nền kinh tế.
2.3. Đối với công tác lập quy hoạch, kế hoạch và vận động vốn ODA
Trong vận động ODA, nổi bật nhất là hội nghị thường niên giữa Việt Nam và các
nhà tài trợ CG. Năm 2012, Hội nghị CG được đổi thành Diễn đàn Đối tác Phát triển Việt
Nam thường niên (VPDF) với thành phần tham dự mở rộng hơn và nâng cao trách nhiệm
của bên Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng có các hội nghị điều phối, hội nghị xúc tiến đầu tư
nhằm vận động ODA trong xây dựng KCHTKT.
Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế: thiếu quy hoạch huy động và sử dụng
vốn ODA, không có tầm nhìn dài hạn, thường là theo yêu cầu của các địa phương mà
chưa đặt trong mối quan hệ với khả năng trả nợ dẫn đến phân bổ vốn dàn trải. Quy trình
lập quy hoạch kế hoạch cũng không có quy định rõ ràng về việc tham vấn ý kiến của các
bên có liên quan. Hiện nay, các Bộ, địa phương tự xác định các nhu cầu phát triển của
ngành và địa phương mình, không dựa trên một định hướng phát triển chung của cả quốc
gia, không tính đến khả năng triển khai thực hiện của chủ dự án dẫn đến xây dựng một
danh mục ưu tiên vận động ODA trong xây dựng KCHTKT một cách tuỳ tiện, không gắn
với trách nhiệm và cao gấp nhiều lần so với nhu cầu phát triển mang tính thực tế. Vốn
ODA trong xây dựng KCHTKT vẫn ở tình trạng bị cào bằng, dàn trải, phân tán, mỗi nơi
một ít.


2.4. Đối với công tác bố trí vốn đối ứng cho các dự án ODA trong xây dựng
KCHTKT
Trong giai đoạn đầu, các dự án sử dụng vốn ODA đều do các nhà tài trợ, chuyên

gia nước ngoài thực hiện nhưng sau này việc lập báo cáo đã được phía Việt Nam chủ
động thực hiện, từng bước nâng cao tính minh bạch chính xác. Thời gian đầu, lượng vốn
của các nhà tài trợ chiếm 80-85% trong dự án. Phía chính phủ Việt Nam giữ vai trò điều
phối, quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA. Sau này vốn đối ứng tăng dần lên thể
hiện rõ hơn sự độc lập và tính tự chủ của Việt Nam. Điều này thể hiện qua chính sách
phát triển kinh tế xã hội, đề xuất chương trình dự án, tham gia ngày càng sâu vào quản lý
dự án. Đối với từng dự án, cán bộ Việt Nam có thể vận hành hoàn toàn, các nhà tài trợ
giữ vai trò giám sát.
Việc cân đối vốn đối ứng được thực hiện từ dưới lên và dựa trên nhu cầu thực tế
của các chủ dự án. Tuy nhiên, vốn đối ứng hiện nay ở tình trạng thiếu trầm trọng, đặc biệt
các dự án giao thông vận tải làm các dự án bị đình hoãn, giãn tiến độ. Điều này là do vốn
đối ứng lấy từ các nguồn ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và do người dân
đóng góp. Ngân sách trung ương và địa phương thì phụ thuộc vào nguồn thu và chi theo
kế hoạch nên có bất trắc gì thì rất khó bố trí vốn đối ứng. Với các tỉnh nghèo, việc đóng
góp của người dân gặp khó khăn.
Việc thu xếp vốn đối ứng từ ngân sách luôn rơi vào thế bị động, không đáp ứng đủ
và kịp thời cho các dự án ODA trong xây dựng KCHTKT, đặc biệt là các dự án giao
thông vận tải gây ách tắc, chậm tiến độ dự án. Điều này là do vốn đối ứng lấy từ các
nguồn ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và do người dân đóng góp. Ngân
sách Trung ương và địa phương thì phụ thuộc vào nguồn thu và chi theo kế hoạch nên có
bất trắc gì thì rất khó bố trí vốn đối ứng. Với các tỉnh nghèo, việc đóng góp của người
dân gặp khó khăn.
2.5. Đối với công tác thẩm định, phê duyệt các chương trình dự án ODA
Quy trình thẩm định các dự án ODA trong xây dựng KCHTKT hiện nay được
phân thành hai cấp phê duyệt là Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, địa phương có công
trình dự án KCHTKT. Có thể thấy, trong thời gian dài trước đây, việc điều phối, phân cấp
phê duyệt dự án còn hạn chế do tập trung quá nhiều và Thủ tướng Chính phủ. Thời gian
gần đây, việc phân cấp cho các bộ, địa phương được đẩy mạnh nhưng vẫn còn nhiều tồn
tại. Thời gian chuẩn bị và phê duyệt dự án thường bị kéo dài, chất lượng của một số văn
kiện chương trình, dự án ODA chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn tới tình trạng nội dung dự

án phải bổ sung và điều chỉnh nhiều lần. Bên cạnh đó, vẫn xảy ra tình trạng trình duyệt
“kép” của cả phía Việt Nam và nhà tài trợ dẫn đến mất nhiều thời gian trình, duyệt và ra
quyết định.


2.6. Đối với công tác đánh giá, giám sát việc thu hút và sử dụng ODA.
Công tác theo dõi và đánh giá ODA thời gian gần đây đã được chú trọng và tăng
cường, đặc biệt sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 131/2006 đã quy định thiết lập hệ
thống theo dõi và đánh giá ODA. Hiện nay, công tác giám sát và theo dõi dự án được
triển khai ở mọi cấp từ Trung ương, các bộ, địa phương chủ quản cho đến các Đơn vị
quản lý dự án và bởi chính các nhà tài trợ. Từ nghị định 17/2001/NĐ-CP, mỗi cơ quan
quản lý, thực hiện các chương trình dự án ODA từ Trung ương đến địa phương sẽ phải
thành lập đơn vị chuyên trách về theo dõi và đánh giá dự án. Dự án hỗ trợ kĩ thuật: “Tăng
cường năng lực theo dõi và đánh giá dự án Việt Nam - Australia” do Australia tài trợ đã
hình thành hệ thống thông tin quản lý (MIS) cấp quốc gia. Hệ thống thông tin quản lý ra
đời cùng 1 bộ chỉ số quản lý viện trợ. Đây là những tiêu chí quan trọng nhất mà 1 dự án
ODA phải đạt được, trên cơ sở thời gian thực hiện dự án và kết quả mà đối tượng của dự
án thu được, các đơn vị thực hiện dự án sẽ cũng cấp thông tin cho nhà quản lý trên cơ sở
trả lời về những tiêu chí nói trên, từ đó nhà quản lý sẽ nắm được tiến độ giải ngân cũng
như tác động của dự án ODA tới đối tượng của dự án.
Tuy nhiên trên thực tế các thông tin về tình hình thực hiện dự án thường không
được các cấp thông báo kịp thời, các thông tin thường không đầy đủ. Công tác đánh giá
sau khi dự án kết thúc hiện còn mang tính hình thức và xem nhẹ. Vai trò của thanh tra
giám sát, chưa được chú trọng đúng mức. Trong khi đó, các vụ thất thoát, lãng phí, tham
nhũng liên quan đến lĩnh vực sử dụng ODA trong xây dựng KCHTKT xảy ra, gây chấn
động dư luận như tiêu cực tại Ban quản lý dự án Đại lộ Đông - Tây và Môi trường nước
TP Hồ Chí Minh (PCI); vụ nghi vấn tiêu cực tại dự án Danida (Đan Mạch) năm 2012; vụ
nghi vấn Công ty Tư vấn giao thông Nhật Bản hối lộ quan chức đường sắt Việt Nam để
được nhận thầu dự án sử dụng nguồn vốn ODA của Nhật (JTC) gần đây. Vì những vụ
việc này mà Nhật Bản, Đan Mạch cũng đã từng tuyên bố tạm ngừng cung cấp ODA cho

Việt Nam trong một thời gian. Các cơ quan chức năng bị động trong việc phát hiện những
tiêu cực này, các vụ việc được chỉ phát hiện bởi các nhà tài trợ.
2.7. Những đặc điểm hạn chế khác còn tồn tại.
Quy trình và thủ tục quản lý chương trình và dự án ODA trong xây dựng
KCHTKT còn phức tạp và có sự khác biệt với các nhà tài trợ. Khi triển khai dự án có quá
nhiều thủ tục phải phê duyệt và phải qua rất nhiều cơ quan nên thời gian chờ đợi kéo dài
dẫn đến dự án chậm, làm tăng tổng mức đầu tư và chi phí giải phóng mặt bằng. Những
thủ tục về đấu thầu, đền bù, giải phóng mặt bằng… cũng phức tạp. Mặt khác, các quy
định của Việt Nam cũng chưa hài hòa với quy định của nhà tài trợ trong thẩm định, phê
duyệt như các quy định về đấu thầu, nghiệm thu kỹ thuật và giải ngân…
Những vướng mắc trong giải phóng mặt bằng là vấn đề nan giải tồn tại nhiều năm
và xảy ra phổ biến, dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng. Ngoài việc làm dự án đình trệ,


chậm tiến độ, chậm đưa vào khai thác, giảm hiệu quả đồng vốn, giải phóng mặt bằng
chậm còn ảnh hưởng đến niềm tin của người dân, của các nhà tài trợ, thậm chí nhà thầu
kiện đòi bồi thường do chậm bàn giao mặt bằng như trường hợp cầu Nhật Tân, dự án
tuyến Metro số 1, Bến Thành - Suối Tiên.
Các vấn đề tài chính chưa có được chính sách nhất quán đối với ODA nói chung,
ODA trong xây dựng KCHTKT nói riêng. Các chính sách tài chính trong nước (thuế, cơ
chế cho vay lại, các định mức chi phí về chuyên gia và PMU...) nặng về xử lý theo vụ
việc mà chưa có chính sách nhất quán, được công bố trước làm cơ sở cho việc tính toán
lựa chọn phương án thực hiện dự án.
Ngoài ra, năng lực cán bộ của các cơ quan điều hành, các chủ đầu tư và ban quản lý
dự án còn nhiều hạn chế, nhất là ở các Ban quản lý dự án mới thành lập, gây chậm trễ và
sai sót trong công tác quản lý nhà nước đối với vốn ODA.
3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ TRONG QLNN VỀ VỐN ODA
TRONG XÂY DỰNG KCHTKT.
3.1. Nhận thức sai lệch của bộ máy QLNN trong quản lý ODA;
Viêc ký kết hợp đồng còn có những sơ suất và chưa quan tâm tới hiệu quả vốn

ODA khi sử dụng. Những ràng buộc đi kèm với khoản vay có ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng nguồn vốn và hiệu quả sử dụng vốn. Nhiều dự án bắt buộc phải sử dụng vật
tư, thiết bị hoặc chuyên gia, tư vấn có xuất xứ từ nưốc tài trợ với giá cả cao, thành thử
khoản vay ưu đãi, lãi suất thấp trở thành khoản vay có lãi suất cao, thậm chí còn cao hơn
cả vay thương mại. Và có khi lại không phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Do mong muốn có được nhiều vốn ODA để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng, hoặc do trình độ, năng lực của các cán bộ đàm phán, ký kết của ta còn hạn
chế, nên không ít điều khoản vay vốn ODA được ký kết còn sơ hở, bất lợi. Mặt khác,
trong sử dụng, nhiều khi nhận thức chưa đúng, cho rằng đây là “của trời cho”, là khoản
cứu trợ nên sử dụng một cách tuỳ tiện, không xác định rõ trách nhiệm quản lý nguồn vốn
và trả nợ trong tương lai. Chính do nhận thức sai lệch đó mới có hiện tượng “chạy” dự án
ODA về xây dựng kết cấu hạ tầng.
3.2. Hệ thống pháp luật còn nhiều điểm hạn chế;
Thiếu một môi trường pháp lý minh bạch, cụ thể và có tính đồng bộ cao trong
quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA. Hơn 15 năm kể từ khi ODA được sử dụng tại Việt
Nam, hệ thống các văn bản pháp quy trong quản lý, sử dụng ODA nói chung, ODA trong
xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế nói riêng đã không ngừng được chỉnh lý
nhưng vẫn còn không ít những chồng chéo, bất cập.
Các văn bản có liên quan tới lĩnh vực này có nhiều điểm chưa hài hoà, thậm chí
mâu thuẫn (có những vấn đề phát sinh liên quan đến nhiều bộ, ngành chức năng và mỗi


cơ quan chức năng này lại có những văn bản hướng dẫn thực hiện riêng, dẫn đến việc
nhiều khi các quy định lại không thống nhất với nhau), khiến cho người quản lý bối rối
trong thực thi.
Hệ thống văn bản pháp quá nhiều, song vẫn thiếu, hoặc chưa rõ như quy chế mua
sắm trong khi thực hiện dự án, quy chế sử dụng công sản sau dự án, cơ chế tạo nguồn vốn
đối ứng, quy chế về phương thức trả nợ vốn vay ODA, cơ chế kiểm tra, kiểm soát... Hay
là đã có quy định về phân cấp quản lý, song quyền hạn và trách nhiệm vẫn chưa được
phân định rạch ròi, cụ thể, cho nên khi có sai sót không thể xử lý kịp thời và cũng chưa

có cơ chế thưởng phạt thoả đáng, dẫn đến tình trạng thiếu công khai, minh bạch, trật tự,
kỷ cương.

3.3. Hạn chế trong chuyên môn và năng lực quản lý.
Mô hình quản lý các công trình sử dụng vốn ODA chưa hợp lý. Trên thực tế, đa
phần các cơ quan này vẫn chủ yếu lo làm thế nào để thu hút được vốn ODA với những
điều kiện thuận lợi nhất cho Việt Nam. Còn trọng trách thực hiện, giám sát và thẩm định
hiệu quả dự án, tiến độ thi công phần lớn được phó thác cho chủ đầu tư, mà đại diện là
các ban quản lý dự án.
Ban quản lý dự án thường được thành lập theo quyết định của cơ quan chủ quản
(các bộ hoặc uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) ngay sau khi văn kiện chương trình dự án ODA
được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Cơ quan này có toàn quyền thay mặt chủ dự án thực
hiện các quyền hạn và nhiệm vụ được giao từ khi bắt đầu 11 thực hiện cho đến khi kết
thúc dự án, kể cả việc quyết toán, nghiệm thu, bàn giao đưa dự án vào khai thác, sử dụng.
Trên thực tế, có một tổ công tác liên ngành giám sát các dự án ODA, nhưng cơ
quan này chỉ can thiệp khi có vướng mắc nảy sinh. Bản thân nhà tài trợ cũng phải thuê
kiểm toán quốc tế độc lập để định kỳ kiểm toán các dự án. Họ cũng phải cử tư vấn giám
sát và công việc thẩm định, đánh giá được tiến hành gắt gao trước khi quyết toán từng
hạng mục công trình cũng như khi kết thúc, bàn giao.
Song vì được uỷ quyền rất lớn, hơn ai hết, chỉ các ban quản lý dự án mới là nơi
nắm sát nhất thực tế triển khai công trình và hiệu quả sử dụng đồng vốn. Thế nhưng,
trong thực tế các ban quản lý dự án có quá nhiều quyền hạn, nhưng năng lực chuyên môn
hạn chế, trách nhiệm có giới hạn, phẩm chất đạo đức thấp... đã gây nên những vụ tiêu cực
làm xôn xao dư luận, làm giảm sút nghiêm trọng niềm tin của công chúng và các nhà tài
trợ.
Không chỉ cần xem xét lại khâu quản lý của các ban quản lý dự án, mà trách
nhiệm của các bộ, ngành trong quản lý vốn đầu tư cũng phải tiếp tục được sắp xếp lại,


không để tình trạng ai cũng có trách nhiệm từng khâu từng phần nhưng cuối cùng khi xảy

ra một dự án lãng phí, thất thoát thì lại không biết trách nhiệm thuộc về ai.
Năng lực và đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ trong các ban quản lý dự
án yếu, kém. Năng lực chuyên môn và tư cách đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán
bộ của các cơ quan điều hành và ban quản lý dự án yếu, kém đã ảnh hưởng không nhỏ tới
tiến độ thực hiện cũng như chất lượng của dự án.
Thực tế cho thấy, thất thoát lãng phí trong xây dựng cơ bản nói chung, trong xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế sử dụng vốn ODA nói riêng, có nhiều nguyên nhân, nhưng
nguyên nhân quan trọng là yếu kém về chuyên môn, suy thoái về tư cách đạo đức của đội
ngũ cán bộ trực tiếp quản lý các dự án.

4. GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI VỐN ODA TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ TẠI
VIỆT NAM.
4.1. Nâng cao nhận thức về nguồn vốn ODA nói chung và vốn ODA trong xây
dựng KCHTKT nói riêng;
Để nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA, cần thống nhất và nâng cao nhận
thức về bản chất của ODA. ODA là nguồn vốn vay, vay ưu đãi, dài hạn, lãi suất thấp
nhưng không phải miễn phí. Cụ thể, nguồn vốn ODA có đặc điểm nổi bật là tính ưu đãi
nên khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn này, các cơ quan, tổ chức và chính quyền địa
phương chưa có nhận thức rõ rệt về gánh nặng nợ và rằng buộc đi kèm ( rằng buộc về
hàng hóa dịch vụ, chính sách về tư nhận hóa và cổ phần hóa,...). Do đó, nước tiếp nhận
cần thiết phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này vào phát triển kinh tế - xã hội để đảm
bảo khả năng trả nợ trong tương lai.
Để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, trước hết phải xây dựng nhận thức đúng
đắn về nguồn vốn ODA của lãnh đạo chính quyền, cán bộ và người dân, liên quan đến
hoạt động đầu tư bằng nguồn vốn ODA. Công tác tuyên truyền, phổ biến phải làm rõ
nguồn vốn ODA không phải “cho không” mà cần phải tận dụng, sử dụng đúng mục đích,
mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội.
4.2. Hoàn thiệt khung pháp lý và cải thiện thủ tục QLNN đối với vốn ODA trong
xây dựng KCHTKT;

Chúng ta tiếp tục hoàn thiện hệ thống theo hướng giảm dần những bất cập, đẩy
nhanh tiến độ dự án, đảm bảo phù hợp với tập quán quốc tế và hài hòa thủ tục với các nhà
tài trợ, đồng thời thực hiện mạnh các biện pháp chống tham những nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn ODA:


- Xây dựng nguyên tắc ưu tiên để lựa chọn mục dự án đầu tư sử dụng ODA để tránh
tình trạng đầu tư dàn trải, không hiệu quả và không đúng thời gian quy định và kiên
quyết từ chối các khoản vay nếu thấy không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp do các yếu
tố ràng buộc.
- Đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán, rõ ràng, minh bạch dễ thực hiện của hệ thống văn
bản pháp quy có liên quan đến việc thu hút và sử dụng vốn ODA. Quản lý và điều
phối ODA tập trung xác định mức vay và xác định phương án trả nợ cho từng chương
trình sử dụng vốn ODA
- Cải tiến công tác vận động nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài theo hướng đối thoại trực
tiếp và đi vào thực chất hơn nữa. Tăng cường vận động, ODA ở cấp địa phương,
vùng, nhất là vùng kinh tế trọng điểm nhằm cung cấp cho các nhà tài trợ cách nhìn
tổng hợp hơn và tạo điều kiện để phối hợp tốt hơn các nguồn lực.
- Hoàn thiện chính sách tài chính đối với ODA như triển khai công tác quản lý nợ
nước ngoài; đảm bảo chính sách thuế đối với chương trình, dự án ODA; tăng cường
quản lý Luật ODA theo ngân sách, ....
Dựa trên những hạn chế thực tế nhận thấy liên quan đến QLNN về vốn ODA trong
xây dựng KCHTKT, chúng ta cần sớm tiến hành thực hiện chế tài xử lý và chế độ khen
thưởng đối với các đơn vị nhận dự án có nguồn vốn ODA để đảm bảo việc thực hiện các
dự án đúng tiến độ và đảm bảo quy trình, tránh tình trạng đội vốn lên ban đầu trong một
số dự án trọng điểm tính đến năm nay.
Đồng thời, cần có sự thống nhất trong đầu mối quản lý các dự án nhận vốn ODA
để đảm bảo sự minh bạch trong quy trình thực hiện. Cụ thể, theo luật đầu tư mới sửa đổi,
Bộ tài chính chủ trì xác định thành tố ưu đãi; đánh giá tác động của khoản vay ODA và
vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài đối với các chỉ tiêu an toàn nợ công; xác định

cơ chế tài chính trong nước, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt cùng với
đề xuất chương trình, dự án sử dụng vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài. Bên cạnh
đó, theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, nguồn vốn này được đưa vào cân đối
Ngân sách nhà nước, do đó cần được quản lý như các nguồn vốn khác. Theo luật soạn
thảo, nhằm bảo đảm tính bao quát, tổng thể và sự liên kết với các dự án, chương trình
khác, cần giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì đánh giá sự cần thiết, tính khả thi, hiệu quả,
tác động đến kinh tế - xã hội của chương trình, dự án và tổng hợp, báo cáo Thủ tướng
Chính phủ. Sự phân chia quản lý dự án do 2 cơ quan cùng thực hiện có thể gây ra những
chồng chéo trong quá trình thực thi chương trình, dự án vốn ODA.
4.3. Bố trí kịp thời vốn đối ứng cho các dự án ODA trong xây dựng KCHTKT;
Trước hết, vấn đề xác định nhu cầu vốn đối ứng cần phải được quan tâm từ giai
đoạn xây dựng dự án và đàm phán với từng nhà tài trợ. Để làm được điều này cần xem
xét kỹ, có những tính toán cụ thể, đảm bảo tin cậy trong kế hoạch để sát với khả năng


thực hiện khối lượng công việc, tránh các chênh lệch lớn, trên nguyên tắc phải cân đối
được đủ nguồn vốn đối ứng mới ký kết chương trình, dự án với các nhà tài trợ. Mặt khác,
tăng cường thu hút các nguồn lực của xã hội để bổ sung nguồn vốn đối ứng cho các dự án
ODA như hình thức xây dựng kinh doanh chuyển giao (BOT), xây dựng chuyển giao
(BT) hay đối tác công tư (PPP), qua đó giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Việc bố trí vốn đối ứng cho các dự án ODA đảm bảo các yêu cầu sau:
 Phải có kế hoạch bố trí vốn đối ứng tương ứng với kế hoạch giải ngân của nguồn
vốn ODA trong các chương trình, dự án.
 Phải rõ ràng, chi tiết việc nguồn của vốn đối ứng lấy từ đâu, bao nhiêu là lấy từ
ngân sách trung ương cấp, bao nhiêu là ngân sách tỉnh, bao nhiêu là đóng góp địa
phương, bao nhiêu là đóng góp của người hưởng lợi.
 Phải phù hợp và đảm bảo tiến độ với cam kết của nhà tài trợ nhưng cũng phải phù
hợp với thực tế của tỉnh, tránh tình trạng cứ cam kết nhưng đến khi thực hiện lại
vượt quá khả năng của địa phương.
 Phải tuân thủ cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước hiện hành. Các Ban quản lý

dự án có trách nhiệm sử dụng nguồn vốn đúng mục đích và có hiệu quả.
Việc bố trí vốn đối ứng đầy đủ vừa đảm bảo cho việc triển khai dự án đúng tiến
độ, vừa đảm bảo sự cam kết chặt chẽ của chính quyền địa phương đối với việc tiếp nhận
chương trình, dự án.
4.4. Nâng cao chất lượng trong quá trình chuẩn bị, thẩm định, phê duyệt dự án
ODA cho KCHTKT;
Quá trình chọn lựa và phê duyệt dự án phải được thực hiện theo một trật tự thống
nhất và hiệu quả. Để nâng cao chất lượng trong quá trình chuẩn bị, thẩm định, phê duyệt
dự án ODA cho KCHTKT, cần thực hiện các biện pháp sau:
 Việc phân cấp phải gắn với nâng cao trình độ thẩm định cho bộ địa phương.
 Đơn giản hoá thủ tục hành chính, công khai quy trình, thời hạn trách nhiệm xử lý
các thủ tục liên quan để đẩy nhanh thời gian phê duyệt thẩm định và tiếp tục hài
hòa thủ tục với các nhà tài trợ. Hoàn thiện các văn bản pháp lý, đổi mới trong quy
trình và thủ tục quản lý dự án ODA trên cơ sở kết hợp tham khảo những quy chuẩn
của các nhà tài trợ, nhất là đối với các thủ tục: Đấu thầu mua sắm; đền bù, di dân
và tái định cư; quản lý tài chính của các chương trình, dự án…
 Gắn trách nhiệm của Ban Quản lý dự án với chất lượng và tiến độ của dự án. Để
tạo động lực khuyến khích cũng như gắn trách nhiệm của Ban Quản lý dự án vào
hoạt động của dự án đang triển khai cần phải có chế độ thưởng phạt rõ ràng, cụ thể
là dựa trên cơ sở khối lượng công việc và chất lượng công việc
4.5. Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư ngoài ODA trong xây dựng KCHTKT;


Với những hạn chế về số lượng các dự án ODA và mức độ giải ngân thấp như hiện
nay, việc tìm kiếm các nguồn vốn ngoài ngân sách ODA để phát triển KCHTKT trở thành
vấn đề rất cấp bách. Do đó, thu hút nguồn vốn ngoài ngân sách ODA nhằm đầu tư
KCHTKT và thực hiện mô hình đối tác công - tư (PPP) là một hướng đi đúng đắn để giải
quyết được tình trạng khó khăn về ngân sách và hơn nữa là nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư do có sự tham gia quản lý của các doanh nghiệp, nhà đầu tư tư nhân. Việc áp
dụng mô hình đối tác công - tư (PPP) trong xây dựng KCHTKT hiện nay có những ưu

điểm nổi bật đó là việc huy động tối đa nguồn vốn trong khu vực tư nhân làm giảm gánh
nặng cho QLNN đối với nguồn vốn ODA; tận dụng được năng lực vốn, kỹ thuật và kinh
nghiệm của các nhà đầu tư tham gia vào xây dựng KCHTKT; việc minh bạch, công khai
trong quá trình thực hiện các dự án giúp nâng cao khả năng giám sát đối với hoạt động
xây dựng KCHTKT, hạn chế tình trạng tham nhũng, lãng phí hiện nay.
Để thực hiện được giải pháp này, Nhà nước cần thực hiện các nội dung sau:
Thứ nhất, giao cho các Sở, ngành, chủ đầu tư của các địa phương rà soát, lên danh
mục các dự án đầu tư cần chuyển đổi hình thức đầu tư từ NSNN sang hình thức đối tác
công - tư (PPP) trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các dự án đầu tư xây dựng KCHTKT
có khả năng chuyển đổi sang áp dụng mô hình đối tác công - tư (PPP) theo các hình thức
như BOT, BT… bao gồm: các dự án có thể thu phí hoàn vốn đầu tư, các dự án có thể bán
hoặc nhượng quyền khai thác…
Thứ hai, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện đầu tư theo hình thức PPP
như: Xây dựng khuôn khổ pháp lý, chính sách, quy định cho hình thức PPP trong đầu tư
xây dựng KCHTKT phù hợp với điều kiện của tưng địa phương:
- Chính sách, quy định về lựa chọn và chuẩn bị dự án đầu tư theo hình thức PPP;
- Chính sách, quy định về lựa chọn loại hình hợp đồng phù hợp cho dự án đầu tư
theo hình thức PPP;
- Chính sách, quy định về lựa chọn nhà đầu tư và ký kết hợp đồng dự án theo hình
thức PPP;
- Chính sách, quy định về phân bổ rủi ro giữa nhà nước và tư nhân tham gia thực
hiện dự án theo hình thức PPP;
- Chính sách, quy định về ưu đãi và đảm bảo đầu tư theo hình thức PPP;
- Xây dựng vận hành bộ máy quản lý PPP và phát triển nguồn nhân lực, bao gồm:
các cơ quan QLNN; Các cơ quan nhà nước được ủy quyền (cơ quan phụ trách mối
quan hệ đối tác PPP).





quan quản
nhà nước



C ơ q u an n h à n ư ớ c
được ủy quyền

D oanh

n g h iệ p

dự

án

Hình 1. Sơ đồ bộ máy quản lý nhà nước về PPP
Tổ chức giám sát và đánh giá đầu tư theo hình thức PPP trong xây dựng
KCHTKT, bao gồm: Xây dựng khung giám sát và đánh giá đầu tư theo hình thức PPP
trong đầu tư xây dựng KCHTKT dựa trên kết quả; Nội dung giám sát và đánh giá đầu tư
theo hình thức PPP trong đầu tư xây dựng KCHTKT; Xác định các chủ thể tham gia giám
sát và đánh giá các dự án đầu tư xây dựng KCHTKT thực hiện theo hình thức PPP.

4.6. Đẩy mạnh công tác theo dõi, kiểm tra, giám sát và đánh giá việc thu hút và sử
dụng vốn ODA cho KCHTKT.
Tiếp tục quán triệt và thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng về huy
động, quản lý và sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài gắn với định hướng tái
cơ cấu nền kinh tế, cơ cấu lại đầu tư công.
Thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính theo quy định của Hiến pháp, Luật NSNN và
các văn bản pháp luật liên quan. Huy động vốn vay phải được kế hoạch hóa, gắn kết đồng

bộ với Kế hoạch đầu tư công trung hạn, Kế hoạch vay, trả nợ quốc gia phải đảm bảo khả
năng trả nợ trong giới hạn các chỉ tiêu an toàn về nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài
của quốc gia, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.
Xây dựng chiến lược và kế hoạch trong từng giai đoạn cụ thể về huy động, sử
dụng vốn vay nước ngoài phù hợp với điều kiện vốn ODA, mức độ ưu đãi của các nguồn
vốn các nhà tài trợ để tập trung nguồn lực đầu tư cho những lĩnh vực có tính đột phá, có
sức lan tỏa, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực, góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Các dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài cần tính toán, cân nhắc so
sánh hiệu quả chi phí so với vay trong nước, tránh lệ thuộc vào các nhà đầu tư nước


ngoài; đồng thời phải được đánh giá kỹ về hiệu quả kinh tế - xã hội và tác động đối với
nợ công. Chủ động ngay từ khâu xây dựng kế hoạch, lập phương án đầu tư, giữ vị thế của
Việt Nam trong đàm phán với các nhà tài trợ để đảm bảo chi phí hợp lí, bảo đảm quyền
lợi và lợi ích hợp pháp của bên tiếp nhận vốn.
Đồng thời, giảm tỷ lệ cấp phát, tang cường tỷ lệ cho vay lại để các địa phương nân
cao trách nhiệm quản lý, sử dụng vốn vay. Quản lý chặt chẽ việc bảo lãnh Chính phủ cho
các khoản vay, thực hiện nghiêm các quy định cụ thể các điều kiện, tiêu chí bảo lãnh,
tang cường hơn nữa trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong cấp bảo lãnh. Thúc
đẩy, tạo cơ chế cho các đơn vị tự vay, tự trả. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu,
người quyết định dự án đầu tư sử dụng vốn vay nước ngoài.

KẾT LUẬN
Với chủ trương huy động mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, trong
đó nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa rất quan trọng. Nguồn vốn ODA là nguồn vốn bên
ngoài có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong các dự án xây dựng KCHTKT ở nước ta.
Nguồn vốn này khi được quản lý và sử dụng tốt và kết hợp với các nguồn lực khác ở
trong nước sẽ góp phần làm phát triển kinh tế - xã hội bền vững nói chung. Do đó, vai
trò của QLNN trong các dự án xây dựng KCHTKT là một việc làm tất yếu, không thể

phủ nhận.
Tiểu luận đã hệ thống hóa, làm rõ các vấn đề lý luận về QLNN, đưa ra các tiêu chí
đánh giá QLNN về các dự án ODA trong xây dựng KCHTKT và thực trạng vấn đề
QLNN trong xây dựng KCHTKT ở nước ta. Từ đó đưa ra phương hướng hoàn thiện công
tác QLNN với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT tại nước ta hiện nay, hướng đến sự
đồng bộ trong QLNN đối với nguồn vốn ODA để đạt được nhiều thành tựu hơn nữa trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Ngọc Mỹ, Hoàn thiện quản lý nhà nước về vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) tại Việt Nam;


2. Minh Hậu (2019), Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài
trong tình hình mới, Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư
3. Nghị định 132/2018/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 16/2016/NĐ-CP về quản lý, sử
dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi
4. TS. Trịnh Ngọc Tuấn (2015), Kết quả thu hút và sử dụng vốn ODA giai đoạn
2006-2015: Thực trạng và một vài kiến nghị, đề xuất, Vụ Kinh tế, Văn phòng
Quốc hội, Hà Nội
5. Th.s Vũ Thị Thu Hằng, 2016, “Tóm tắt luận án tiến sĩ về quản lý Nhà Nước đối
với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT ở Việt Nam”
6. Tạp chí kinh tế châu Á- Thái Bình dương tháng 8/2015 (Trang 24-25)
7. Website tham khảo:
- />- />- />


×