Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Luận Văn Sự chỉ đạo kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng Cộng sản Việt Nam (1973 - 1975) (

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.37 KB, 57 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi
đã nhận được sự giúp đỡ của các cơ quan đoàn thể như Thư Viện Quốc Gia
Hà Nội, Thư Viện Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, Học Viện Chính Trị
Quốc Gia Hồ Chí Minh… Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô
đặc biệt là cô giáo T.S Khuất Thị Hoa – người hướng dẫn trực tiếp, đã tận
tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 2 tháng 5 năm 2012
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Hồng

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi đã trình bày trong khóa luận
này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của T.S Khuất
Thị Hoa
Những nội dung này không trùng lặp với kết quả nghiên cứu của các
tác giả khác
Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của cá nhân mình trong
khóa luận này.

Hà Nội, ngày 2 tháng 5 năm 2012
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Hồng

2




MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là yếu tố hàng đầu
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đặc biệt là ở vào những
thời điểm lịch sử bản lề. Từ tháng 01 năm 1973 đến tháng 04 năm 1975, sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt sinh động trong việc cụ thể
hóa đường lối CMDTDCND trong hoàn cảnh mới nhằm kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước , giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Sự lãnh đạo đó đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm lớn đối với nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Trong các nhà trường hiện nay, việc nghiên cứu, biên soạn và giảng
dạy môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là nội dung quan
trọng. Song, việc cụ thể hóa các nội dung, trong đó có phần hệ thống hóa các
bài giảng về chỉ đạo tiến hành chiến tranh, về kết thúc chiến tranh của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước còn hạn chế.
Là sinh viên khoa lịch sử, em đặc biệt khâm phục ý chí của cả dân tộc,
đặc biệt là nghệc thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đồng thời muốn nghiên cứu và hiểu rõ hơn thời điểm lịch sử đặc biệt
quan trọng này, em chọn đề tài trên làm khóa luận tốt nghiệp
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhiều tướng
lĩnh , các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước; các viện nghiên cứu lịch sử; các
nhà khoa học đã để tâm nghiên cứu và tổng kết cuộc kháng chiến, đặc biệt là
sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cuộc kháng chiến, trong đó
có các ấn phẩm tiêu biểu như: Mặt trận ngoại giao thời kỳ kháng chiến chống

Mỹ cứu nước (1965-1975); NXB Sự thật năm 1979 của Nguyễn Duy Trinh;
Đại thăng mùa xuân, NXB QĐND. Năm 1977 Đại tướng Văn Tiến Dũng; Về
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, NXBCTQG, năm 1996 của Đại tướng

3


Văn Tiến Dũng; Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ và công
cuộc đổi mới của dân tộc Việt Nam ngày nay, của Lê Đức Anh; Cuộc tổng
tiến công và nổi dậy đại thắng mùa xuân năm 1975, tạp chí QPTD ( 4) 1995
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tướng Văn Tiến Dũng; Trận quyết
chiến lịch sử xuân 1975, Viện LSQS, Hà nội 1990; Tổng kết cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước – thắng lợi và bài học, NXBCTQG, Hà Nội
1995….Ngoài ra còn có nhiều luận án thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam ở Học viện CTQGHCM cúng nghiên cứu đến cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tuy vậy, chưa có đề tài nào đề cập đến vấn
đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vị nghiên cứu của đề tài.
3.1. Mục đích:
Làm rõ một cách có cơ sở khoa học và hệ thống sự lãnh đạo và
chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn 1973-1975 của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước ; Rút ra những bài học kinh nghiệm
3.2. Nhiệm vụ:
- Xác định rõ sự lãnh đạo của Đảng qua các giai đoạn của cuộc kháng
chiến. Từ đó có cơ sở khoa học cho sự luận giải các chủ trương và sự chỉ đạo
của Đảng trong giai đoạn kết thúc chiến tranh
- Làm rõ tình hình cách mạng miền Nam sau Hiệp định Pari, coi đó là
cơ sở trực tiếp cho chủ trương kết thúc và chỉ đạo thực hiện chủ trương đó
- Trình bày có hệ thống quá trình chỉ đạo kết thúc thắng lợi hoàn toàn
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng, từ đó khẳng định đây là

bước phát triển cao của của nghệ thật lãnh đạo chiến tranh cách mạng của
Đảng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: từ 01/1973 đến 04/1975

4


- Về chủ thể: Đảng Cộng sản Việt Nam – với sự chỉ đạo kết thúc
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận về chiến tranh cách mạng, đường lối chính trị,
đấu tranh giai cấp ..của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng Cộng sản Việt Nam
- Trên cơ sở phương pháp lận chủ chủ nghĩa Mác-Lênin về duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, sử dụng các phương pháp của ngành khoa
học lịch sử: Lịch sử, logic và sự kết hợp giữa 2 phương pháp đó; so sánh,phân
tích, tổng hợp, thống kê….
5. Đóng góp của khóa luận
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đã có
nhiều cuốn sách bài viết, của nhiều tác giả, tập thể tác giả viết về sự
lãnh đạo của Đảng về thắng lợi và nguyên nhân thắng lợi, bài học kinh
nghiệm về quá trình tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975…
Khóa luận góp phần làm rõ những vấn đề cơ bản về sự chỉ đạo
sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định sự toàn
thắng của giai đoạn kết thúc chiến tranh.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận có 2
chương:
Chương 1: Qúa trình chỉ đạo thắng lợi hòn toàn cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước.
Chương 2: Bước phát triển cao về nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh
cách mạng.

5


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
QÚA TRÌNH CHỈ ĐẠO KẾT THÚC THẮNG LỢI HOÀN
TOÀN CUỘC KHÁNG CHẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƢỚC
1.1 ĐÁNH GIÁ ĐÚNG TƢƠNG QUAN LỰC LƢỢNG, PHÁT
ĐỘNG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƢỚC ĐÚNG LÚC.
Nghệ thuật quân sự của người xưa đã tổng kết: Biết người, biết ta,
trăm trận trăm thắng. Nhận thức sâu sắc vấn đề trên, trên cơ sở phân tích
khoa học và toàn diện so sánh lực lượng giữa ta và địch, Hội nghi trung ương
lần thứ 12 (12/1965) đã khẳng định: mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam
hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh của ta và địch vẫn không
thay đổi lớn. Tuy cuộc chiến tranh ngày càng gay go, ác liệt nhưng nhân dân
ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và giành thế chủ động trên chiến trường,
có lực lượng và điều kiện để đánh bại âm mưu ,trước mắt và lâu dài của địch.
Bởi vì, Mỹ vào miền Nam không phải do thế mạnh mà là trong thế yếu, thế bị
động, thế thua, vào để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ ngụy. Quân Mỹ
trực tiếp vào miền Nam còn là “hạ sách” của chủ nghĩa thực dân mới – một
thứ chủ nghĩa của thực dân dấu mặt, trá hình. Đưa quân đội vào miền Nam là
Mỹ đã lột mặt nạ, bản chất xâm lược bị phơi bày. Chỗ yếu cơ bản của chúng
từ trước vẫn là về chính trị, đến lúc này chỗ yếu đó càng bộc lộ sâu sắc hơn
bao giờ hết, hơn nữa quân Mỹ đông, lực lượng mạnh nhưng Mỹ không thể tập
trung tất cả vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Mỹ còn phải lo đối phó với
nhiều nơi trên thế giới. Đó chính là cHỗ yếu mà Mỹ không thể khắc phục

được.
Về phía ta lúc này, không chỉ mạnh về chính trị mà đã mạnh hơn cả về
quân sự. Cách mạng miền Nam đã vượt ra khỏi thời kì “đen tối” và đang ở
vào thời kì cao trào. Chiến tranh cách mạng miền Nam đã qua chặng khởi đầu
và đang diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp.

6


Ta đã có thời gian phát triển cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ
trang mạnh lên nhiều so với trước. Lực lượng chính đã tập hợp được đông đảo
quần chúng tham gia có tổ chức chặt chẽ, với các hình thức và phương pháp
đấu tranh thông minh, linh hoạt. Lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ
quân đều lớn mạnh, đứng vững trên hầu khắp các địa bàn chiến lược, đã hình
thành các “quả đấm” chủ lực mạnh, có khả năng đánh các trận tiêu diệt tương
đối lớn.
Ta cũng đã hình thành thế trận vững chắc trên cả ba vùng chiến lược,
thế trận ấy không chỉ liên hoàn trên chiến trường miền Nam mà còn được nối
liền với hậu phương lớn miền Bắc trong thế trận chung của cả nước.
Cùng với sự phát triển cả về lực lượng và thế trận, cách đánh của ta
lúc này, do đã hiểu quân Mỹ hơn cho nên đã phát triển khá hoàn chỉnh và
luôn được vận dụng một cách sang tạo, linh hoạt trên cơ sở tư tưởng tiến lược
tiến công, kiềm chế địch, buộc địch phải bị động trước cách đánh của ta.
Như vậy, TW Đảng đã xem xét vấn đề so sánh lực lượng địch – ta
theo quan điểm tổng hợp, biện chứng, trên cơ sở phân tích tình hình một cách
toàn diện và trong quá trình vận động, phát triển. Đồng chí Lê Duẩn đã nêu
rất rõ quan điểm này: “Thành bại của một cuộc cách mạng, nói cho cùng là do
so sánh lực lượng quyết định. Trong chiến tranh kẻ nào mạnh thì thắng, kẻ
nào yếu thì thua. Song nói mạnh yếu là nói theo quan điểm cách mạng, quan
điểm phát triển, là căn cứ vào sự đánh giá tổng hợp cả quân sự và chính trị, cả

thế lực và thời cơ…là xem xét tất cả những yếu tố ấy trong quá trình vận
động, trong thời gian và không gian nhất định”.
Đánh giá đúng so sánh lực lượng địch – ta là một điểm nổi bật trong
lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng ta, là tiền đề để tạo ra những bước ngoặt đưa
cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Thành công đó còn là cơ sở quan
trọng nhất đảm bảo cho Đảng ta vạch ra được đường lối và phương pháp cách
mạng đúng đề ra và phát huy một một nền nghệ thuật tiến hành chiến tranh

7


nhân dân thông minh, sáng tạo với hình thức đa dạng, phong phú vượt qua
ngoài cung cách chiến tranh cổ điển, thông thường.
Nhờ dựa trên cơ sở đánh giá đúng so sánh lực lượng 2 bên mà tư
tưởng quyết đánh, quyết thắng Mỹ và lòng tin vào thắng lợi cuối cùng của
toàn Đảng, toàn dân ngày càng được củng cố và nâng cao một cách vững
chắc. Đúng như đồng chí Lê Duẩn đã nói: “Không đánh giá đúng thế yếu của
Mỹ, không đánh giá đúng thế mạnh của ta, thì không bao giờ dám đánh Mỹ”.
Sau này, trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, phương pháp xem xét,
đánh giá kẻ thù và những bài học kinh nghiệm này đã được tiếp tục kế thừa và
vận dụng một cách xuất sắc. Trong không ít khó khăn của cách mạng miền
Nam và tình hình phức tạp của quan hệ quốc tế Đảng vẫn nhận rõ và chỉ đúng
thời cơ cách mạng chiến lược, hạ đúng quyết tâm lịch sử để kết thúc thắng lợi
cuộc chiến tranh.
Nếu như quyết đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ là biểu hiện tập trung
nhất của đường lối độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng, thì biết phát động
chiến tranh chống Mỹ đúng lúc và biết kết thúc đúng cách các giai đoạn của
chiến tranh lại là một biểu hiện sinh động nhất trong nghệ thuật chiến tranh
nhân dân biết đánh và biết thắng từng bước đế quốc Mỹ của Đảng Cộng sản
Việt Nam .

Do đặc điểm của cách mạng miền Nam và tình hình phức tạp của thế
giới, cho nên ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến, Đảng đã xác
định: Qúa trình cách mạng miền Nam phải từ khởi nghĩa từng phần sang tiến
hành chiến tranh cách mạng, đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ
và tay sai, thực hiện các mục tiêu cơ bản là độc lập, hòa bình, dân chủ, tiến tới
thống nhất nước nhà.
Phát động chiến tranh như thế nào? Đánh lâu dài ra sao? Và những
bước phải trải qua là gì? Trả lời được những câu hỏi trên chính là đã cụ thể
hóa được đường lối, phương châm và phương cách mạng của Đảng; là nội

8


dung của vấn đề biết phát động chiến tranh đúng lúc và kết thúc các giai đoạn
của chiến tranh đúng cách.
Hai năm 1957-1959 là thời đoạn “đen tối” nhất của cách mạng miền
Nam. Kẻ thù tưởng như đã ổn định xong tình hình thì với Nghị quyết Trung
ương lần thứ 15 ( khóa II) năm 1959 đã định hướng cơ bản đúng và kịp thời
phát động đông đảo quần chúng đấu tranh dẫn tới cao trào Đồng Khởi toàn
miền Nam.
Với cao trào Đồng Khởi, cách mạng miền Nam đã chuyển từ thế “giữ
gìn lực lượng” sang thế tiến công, theo đó cuộc chiến tranh cách mạng ở miền
Nam đã được phát động đúng lúc và đúng cách. Đúng lúc nhân dân miền
Nam không thể chịu đựng nổi sự thống trị của địch và đúng cách là phong
trào đi từ thấp đến cao, từ những vùng mà cơ sở của địch yếu nhất rồi nhân
rộng ra, vừa tầm, vừa sức với lực lượng ta lúc bấy giờ; vừa kiềm chế được Mỹ
sớm đưa quân trực tiếp vào miền Nam, tránh được những bất lợi cho cách
mạng miền Nam trong buổi khởi đầu. Bè bạn quốc tế luôn cảnh báo cuộc
chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ nổ ra mà ngòi nổ bắt đầu từ Nam Việt Nam. Với
chiến lược trên chúng ta vừa làm yên lòng bạn bè gần xa trên thế giới vừa

đảm bảo lợi ích hòa bình của nhân dân thế giới.
Cao trào Đồng Khởi (1959-1960) đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược
toàn cầu “ lấp chỗ trống” với “chiến tranh đơn phương” của Tổng thống Mỹ
Aixenhao tại miền Nam Việt Nam.
So sánh lực lượng giữa ta và địch có thay đổi khi Mỹ tiến hành chiến
lược “chiến tranh đặc biệt”.Trước yêu cầu mới, Đảng đã kịp thời chỉ đạo
chuyển phương châm đấu tranh và hình thức tiến công địch. Theo đó, Hội
nghị Bộ chính trị tháng 1 năm 1961 đã vạch rõ:
- Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đưa đấu tranh vũ
trang lên song song với đấu tranh chính trị

9


- Tiến công địch bằng cả ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến
lược”;
- Đồng thời chỉ đạo: ở các vùng rừng núi, lấy đấu tranh quân sự làm
chủ yếu; ở các vùng đồng bằng, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị có
thể ngang nhau; ở đô thị, lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu.
Sự chỉ đạo kịp thời, sang suốt trên đây của Đảng đã đưa cách mạng
miền Nam vượt qua những khó khăn, thử thách bởi “chiến tranh đặc biệt” gây
ra. Dù Mỹ tập trung mọi cố gắng để đẩy mạnh “chiến tranh đặc biệt”, cách
mạng miền Nam vẫn luôn ở thế tiến công liên tục, toàn diện trên cả ba vùng
chiến lược. Nếu chiến thắng Ấp Bắc (1/1963) đã mở đầu cho sự phá sản của
chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch và chứng tỏ chúng ta có
khả năng đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt thì chiến thắng Bình Gĩa
(3/1965) đã đánh dấu bước trưởng thành nhảy vọt về khả năng đánh tập trung
của chủ lực cao, chứng tỏ sự thất bại căn bản của chiến lược “chiến tranh đặc
biệt”, với hàng ngàn “ấp chiến lược” bị quần chúng tại chỗ phá vỡ. Đông đảo
quần chúng đã nổi dậy giành quyền làm chủ bằng phương thức đấu tranh “hai

chân, ba mũi, ba vùng”.
Như vậy, Đảng đã chủ trương chuyển cách mạng miền Nam từ các
cuộc khởi nghĩa từng phần phát triển lên thành chiến tranh cách mạng trên
quy mô toàn miền Nam để đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế
quốc Mỹ. Ở miền Bắc, Đảng chủ trương đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ
nghĩa, triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất về kinh tế-xã hội và
kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố
quốc phòng; xây dựng các đơn vị chủ lực cơ động, các đơn vị “tăng cường”
để từng bước đưa vào chiến trường miền Nam; tích cực xây dựng các đơn vị
phòng không không quân sẵn sàng đối phó với âm mưu leo thang phá hoại
miền Bắc của Mỹ.
Dự kiến đúng, chuẩn bị tốt và chuyển hướng kịp thời là nguyên nhân
luôn chủ động giành thắng lợi ngày càng to lớn của cách mạng miền Nam. Vì

10


vậy, khi Mỹ ồ ạt đưa quân thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” và chiến
tranh phá hoại miền Bắc ngày càng ác liệt, ta đã chủ động cả về tư tưởng, tổ
chức, lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân.
Với nhận định sáng suốt: đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ”
sẽ tạo bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
Đảng đã bình tĩnh đánh giá đúng tình hình, tạo nên sự nhất trí cao trong toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân. Cả nước một lòng quyết tâm đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược.
Phân tích tất cả các mặt của 2 bên (ở 2 miền Nam, Bắc và trên thế
giới), các Hội nghi Trung ương lần thứ 11 (3/1965), Hội nghị Trung ương lần
thứ 12 (12/1965) đã rút ra kết luận:
-Quân Mỹ ồ ạt vào miền Nam, tính chất ác liệt của chiến tranh sẽ tăng
lên rất nhiều, nhưng so sánh lực lượng địch-ta trên chiến trường căn bản

không thay đổi lớn. Vì thế, ta vẫn giữ vững và phát huy thế chiến lược tiến
công của chiến tranh cách mạng miền Nam.
-Ta tiếp tục tiến công và phản công, kết hợp đấu tranh quân sự và
chính trị, hưng đấu tranh quân sự ngày càng có tác dụng quyết định trực tiếp.
Cụ thể hóa Nghị quyết của Trung ương, Đảng chủ trương đẩy mạnh
hơn nữa hoạt động đối ngoại nhằm làm rõ hơn nữa chính nghĩa và thiện chí
của ta, góp phần hình thành trên thực tế một mặt trận nhân dân thế giới ủng
hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Quân ủy Trung ương cũng đã xác định
nhiều vấn đề về chỉ đạo đúng đắn, kịp thời trên chiến trường. Phát triển nhanh
lực lượng vũ trang, nhất là bộ đội chủ lực.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng và quân ủy Trung ương, quân và dân ta đã
mở đầu chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ bằng những
thắng lợi vang dội ở cả 2 miền Nam, Bắc, “tìm Mỹ mà đánh”, “tìm ngụy mà
diệt” phát triển sâu rộng trên khắp các chiến trường miền Nam. Đây là những

11


sáng tạo, những phát triển mới của chiến tranh nhân dân ở miền Nam trong
kháng chiến chống Mỹ.
Một mặt đẩy mạnh các hoạt động quân sự ở miền Nam, mặt khác, đế
quốc Mỹ đã tiến hành và ngày càng tăng cường chiến tranh phá hoại bằng
không quân và hải quân đối với miền Bắc, nhằm đánh quỵ miền Bắc xã hội
chủ nghĩa ngăn chặn sự chi viện từ đây cho chiến trường miền Nam.
Để đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, một cuộc chiến
tranh nhân dân chưa từng có trong lịch sử dân tộc và hiếm có trong lịch sử
chiến tranh thế giới đã được phát động. Đó là toàn quân, toàn dân đánh máy
bay và tàu chiến địch bằng mọi cách, mọi phương tiện, vũ khí, toàn dân làm
công tác phòng tránh, toàn dân đảm bảo giao thông vận tải, kết hợp chặt chẽ
giữa chiến đấu và sản xuất, thực hiện chuyển hướng kinh tế sang thời chiến để

phục vụ chiến tranh và quốc phòng, tiếp tục xây dựng kinh tế xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện có chiến tranh, làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn cho
tiền tuyến lớn miền Nam, chi viện cho cách mạng Lào và cách mạng
Campuchia.
Với tinh thần quyết chiến quyết thắng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ hậu phương lớn và “chia lửa” với miền Nam, quân và dân miền
Bắc đã sẵn sang chiến đấu cao và lập công oanh liệt ngay từ những trận đầu.
Hàng trăm máy bay Mỹ bị bắn rơi, nhiều phi công bị bắt, giao thông vận tải
được đảm bảo, sự chi viện của miền Bắc cho các chiến trường vẫn được tăng
cường. Thực tiễn đã chứng minh nhận định đúng đắn của Đảng ta là: quân và
dân ta có thể đánh thắng cả lục quân Mỹ ở miền Nam và cả không quân, hải
quân Mỹ ở miền Bắc. Chiến tranh nhân dân ở ta đã được nâng lên một tầm
cao mới. Thế và lực ngày càng phát triển, cùng những kinh nghiệm được đúc
kết đã tạo đà cho quân dân miền Nam liên tiếp đánh bại hai cuộc phản công
chiến lược ở hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của đế quốc Mỹ.

12


Bị thất bại liên tiếp trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”; bị nhân dân
thế giới lên án, trong nước thì bị khủng hoảng và phân hóa xã hội sâu sắc, đế
quốc Mỹ đã lâm vào thế thua, thế bị động khó khăn chồng chất.
Tuy đã thua to ở các chiến trường, nhưng Chính phủ Hoa Kỳ vẫn chưa
từ bỏ ý đồ xâm lược miền Nam Việt Nam. Cách mạng Việt Nam đã thắng lớn
nhưng căn bản cục diện chiến tranh vẫn chưa chuyển biến có lợi cho ta. Từ
nhận thức đó, Hội nghị Bộ Chính trị vào nửa cuối 1967 và Hội nghị Trung
ương lần thứ 14 (1/1968) đã chỉ rõ: Cuộc kháng chiến của ta lúc này cần phải
và có thể tạo một chuyển biến lớn…để chuyển chiến tranh cách mạng ở miền
Nam sang thời kì mới, thời kì giành thắng lợi quyết định.
Thực hiện chủ trương trên, Đảng đã chỉ đạo quân và dân miền Nam

thực hiện bước chuyển đó bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết
Mậu Thân 1968. Tuy mục đích chiến lược đạt được ở mức chưa cao, nhưng
đây là đòn quyết định đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc
Mỹ, làm lung lay ý chí xâm lược của chúng, buộc chúng phải xuống thang
chiến tranh và đi dần vào chiều hướng kết thúc cuộc chiến. Chính phủ Hoa
Kỳ đã chịu ngồi đàm phán theo điều kiện của ta tại Hội nghị Paris.
Cách kết thúc giai đoạn chống “chiến tranh cục bộ” được thể hiện ở
chỗ: sau thắng lợi liên tiếp trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, ta đã
giáng tiếp cho địch một đòn quyết định bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
đồng loạt vào lúc quân Mỹ đang ở thế “tiến thoái lưỡng nan”, giới cầm quyền
Mỹ đang giao động về chiến lược vào thời điểm rất nhạy cảm ở chính trường
nước Mỹ trong năm bầu cử Tổng thống.
Cũng như các giai đoạn trước, Đảng đã phân tích diễn biến tình hình
và âm mưu của đế quốc Mỹ rất chính xác để từ đó khẳng định: chúng ta đang
đứng trước thời cơ lớn để thừa thắng tiến lên, đẩy mạnh tiến công toàn diện
và liên tục, tiến lên một bước mới cơ bản, đánh bại ý chí xâm lược của đế
quốc Mỹ.

13


Dưới sự chỉ đạo của Đảng, những thắng lợi to lớn trong khôi phục và
củng cố miền Bắc, tăng cường chi viện cho chiến trường miền Nam; trong
việc hình thành và củng cố vững chắc thế liên hoàn của chiến trường Đông
Dương; trong việc liên tục tiến công địch trên bàn Hội nghị Paris và một loạt
thắng lợi về quân sự ở cả chiến trường miền Nam, Lào, Campuchia đã mở ra
khả năng thực tế cho việc làm thất bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh
của Mỹ”.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã chỉ đạo giành thắng lợi quyết định, mở
ra môt thời kì mới “đánh cho Mỹ cút” tiến tới “đánh cho ngụy nhào”, giành

thắng lợi hoàn toàn bằng việc mở cuộc tiến công chiến lược với quy mô lớn,
cường độ cao ở miền Nam từ tháng 3 năm 1972 và kiên quyết đánh bại cuộc
tập kích chiến lược bằng B52 vào Hà Nội và Hải Phòng – một nỗ lực chiến
tranh cao nhất của đế quốc Mỹ vào tháng 12 năm 1972.
Từ cao trào Đồng Khởi chuyển thành chiến tranh cách mạng ở miền
Nam là quá trình vận dụng tư tưởng chiến lược tiến công, quá trình thực hành
chiến lược tiến công toàn diện, liên tục từ nhỏ đến lớn từ thấp đến cao, phát
triển tuần tự xen kẽ với những bước nhảy vọt nhằm đánh bại các chiến lược
chiến tranh của đế quốc Mỹ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những thắng lợi mà quân và dân ta giành
được qua các giai đoạn từ 1954 đến 1973 đã tạo ra những tiền đề rất thuận lợi
và những kinh nghiệm quý báu cho việc chỉ đạo kết thúc thắng lợi hoàn toàn
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
1.2 TÌNH HÌNH MIỀN NAM SAU HIỆP ĐỊNH PARIS
(27/1/1973)
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Paris về “chấm dứt chiến tranh,
lập lại hòa bình ở Việt Nam” được kí kết, và Hiệp định bắt đầu có hiệu lực từ
7 giờ ngày 28 tháng 1 năm 1973.

14


Theo Hiệp định, đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt
Nam, rút hết quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc ra khỏi miền Nam Việt
Nam, tôn trọng các quyền dân tộc cở bản của nhân dân Việt Nam, cam kết tôn
trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, thừa nhận thực tế ở
miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và
ba lực lượng chính trị.
Hiệp định Paris về Việt Nam đánh dấu một bước ngoặt quan trọng
trong cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, mở ra một giai đoạn mới

cho cách mạng miền Nam hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
thực hiện thống nhất nước nhà.
Trong thời gian 60 ngày, kể từ khi kí Hiệp định, toàn bộ quân Mỹ và
quân các nước phụ thuộc phải rút hết. Việc quân Mỹ phải rút hết khỏi miền
Nam là nét nổi bật của tình hình cách mạng miền Nam sau Hiệp định Paris.
Ngụy quân, ngụy quyền mất chỗ dựa trực tiếp, tinh thần bị dao động lớn, sức
chiến đấu bị giảm sút nghiêm trọng. Trong khi đó thực lực cách mạng miền
Nam, cách mạng Việt Nam nói chung đã lớn mạnh, nay lại có them điều kiện
pháp lý (Hiệp định Paris) để đấu tranh chống lại kẻ thù.
“Đánh cho Mỹ cút”, đó là thắng lợi có tính chất quyết định mà cách
mạng Việt Nam đã giành được sau hơn 18 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, tạo tiền đề thuận lợi để “đánh cho ngụy nhào”. Song cũng như sau Hiệp
định Giơnevơ(1954), kẻ thù lại một lần nữa lộ rõ bản chất xâm lược, ngoan cố
ngay sau khi Hiệp định Paris được ký kết.
Tuy phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, nhưng đế quốc Mỹ vẫn
chưa chịu từ bỏ chính sách cơ bản của chúng là thực hiện chủ nghĩa thực dân
mới ở miền Nam, chia cắt lâu dài nước ta.
Thực hiện ý đồ đó, trước khi rút hết quân, Mỹ đã đưa thêm vào miền
Nam gần 700 máy bay, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép và nhiều tàu
chiến các loại. Chúng còn dự kiến tiếp tục đưa thêm số lượng lớn phương tiện

15


chiến tranh cho ngụy quyền Sài gòn, tiếp tục dùng họ làm lực lượng thực hiện
chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh.
Cùng với việc tăng cường vũ khí, Chính phủ Hoa Kỳ còn giúp ngụy
quyền ra sức tăng cường, củng cố quân ngụy và tiếp tục duy trì lực lượng
không quân, hải quân ở các vùng phụ cận Việt Nam để làm “lực lượng răn
đe”, hỗ trợ quân ngụy thực hiện “bình định”, “lấn chiếm” xóa thế da báo và

tái chiếm lãnh thổ.
Mục tiêu của Mỹ - ngụy là lấn chiếm vùng giải phóng bình định vùng
chiếm đóng, tiêu diệt lực lượng và đẩy lực lượng cách mạng sát biên giới, loại
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra khỏi đời sống chính trị ở miền
Nam.
Ngay từ những ngày đầu năm 1973, địch đã ráo riết tăng quân, củng
cố các quân binh chủng, nhằm đảm bảo cho quân ngụy đủ sức thực hiện các
âm mưu, ý đồ của chúng. Đến cuối 1973, tổng số quân chủ lực ngụy đã lên tới
710.000 tên, tăng 60.000 so với thời điểm 27 tháng 1 năm 1973 tên. Hàng
trăm nghìn cuộc hành quân lấn chiếm của địch đã được tiến hành, nhằm bao
vây kinh tế và xóa các căn cứ của ta tại các vùng giáp ranh; bình định, kiểm
soát chặt chẽ hơn các vùng chiếm đóng.
Về phía cách mạng miền Nam: tháng 5 năm 1973, Bộ Chính trị nhận
định xu hướng chống phá Hiệp định của địch đã gây cho ta những tổn thất
nhất định. Nhưng với phương pháp xem xét toàn diện , biện chứng, Bộ chính
trị vẫn khẳng định: Mỹ rút, ngụy mất chỗ dựa quan trọng, tinh thần bị xáo
trộn, chúng còn đánh phá được phong trào cách mạng miền Nam ở một số địa
phương, không phải là do địch mạnh mà là do ta có sai sót trong chỉ đạo và
thực hiện. Những cố gắng và thủ đoạn mới của địch không đủ sức đảm bảo
cho chúng đứng vững lâu dài… So sánh lực lượng trên chiến trường và trên
cả nước, ta vẫn ở thế có lợi, thế chủ động và mạnh hơn bất kỳ thời kỳ nào
trước đó, địch ở thế yếu, thế bị động, khó khăn.

16


Từ nhận định trên đây, chúng ta đã có cơ sở sớm khắc phục những
khuyết điểm trong đối phó với âm mưu và thủ đoạn mới của kẻ thù, Ban chấp
hành Trung ương đã kịp thời ra Nghị quyết lần thứ 21, chỉ đạo cách mạng

miền Nam tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
1.3 PHÁT TRIỂN THỰC LỰC, TẠO THỜI CƠ, NẮM VỮNG
THỜI CƠ CHÍN MUỒI ĐỂ ĐI TỚI GIÀNH THẮNG LỢI HOÀN
TOÀN.
1.3.1 Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21.
Nhận rõ sự chuyển biến về chất của giai đoạn cách mạng mới, từ
tháng 3 năm 1973, cùng với sự chỉ đạo thực tiễn trên chiến trường, Bộ chính
trị đã khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho Hội nghị Trung ương lần 21 để vạch
phương hướng chủ trương hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân,giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Tháng 5 năm 1973, Hội nghị Bộ chính trị đã phân tích, nhận định tình
hình sau Hiệp định Paris và đề ra phương hướng hoạt động cho thời gian tới.
Trên cơ sở báo cáo của HN các bí thư đảng bộ và các đòng chí chủ trì
các chiến trường tháng 6 năm 1973, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 đã được
triệu tập vào tháng 7 năm 1973 và ra Nghị quyết về “Thắng lợi vĩ đại của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền
Nam trong giai đoạn mới”.
Hội nghị đã tổng kết 18 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta, rút ra những kết luận có tính quy luật phát triển thắng lợi của
cuộc kháng chiến. Nghị quyết viết: “Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ
dân tộc dân chủ và ngọn cờ xã hội chủ nghĩa, gắn chặt nhiệm vụ cách mạng ở
2 miền nhằm mục tiêu chung là hoàn thành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ
quốc và tiến lên chủ nghĩa xã hội”… “Bạo lực cách mạng ở miền Nam dựa
trên lực lượng chính trị và lực lượng quân sự thể hiện bằng hình thức đấu

17


tranh quân sự, đấu tranh chính trị kết hợp một cách hết sức chủ động, linh
hoạt, tùy theo từng lúc, từng nơi”

Mặc dù Mỹ đã rút hết quân, nhưng Nghị quyết vẫn chỉ rõ: “Chính sách
cơ bản của đế quốc Mỹ ở Việt Nam vẫn là thực hiện “học thuyết Nich-xơn”,
áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới Mỹ ở miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước
ta”.
Sau khi xem xét cặn kẽ và phân tích sâu sắc tình hình mọi mặt, nhất là
tình hình so sánh lực lượng địch-ta, Hội nghị TW 21 chỉ rõ: “Tình hình có thể
phát triển theo hai khả năng: Hoặc do ta tích cực đấu tranh trên ba mặt trận
chính trị ,quân sự và ngoại giao, buộc địch từng bước phải thực hiện Hiệp
định Pari; hoặc do địch ngoan cố gây chiến , ta phải tiến hành chiến tranh
cách mạng gay go, quyết liệt để giành thắng lợi hoàn toàn”.
Từ những nội dung tổng kết và nhận định trên , Hội nghị đã khẳng
định nhiều vấn đề quan trọng về đường lối chỉ đạo chiến lược. Hội nghị nhấn
mạnh : “Dù phát triển theo khả năng nào, con đường cách mạng miền Nam
vẫn là con đường bạo lực cách mạng, bất kể trong tình huống nào ta cũng phải
nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh
hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”.
Thực tiễn lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là
ở giai đoạn cuối (1973-1975) đã chứng minh tính đúng đắn của con đường
bạo lực cách mạng mà Đảng đã khẳng định.
-Về nhiệm vụ cơ bản của cách mạn miền Nam, Hội nghị chỉ rõ:
“nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là tiếp tục
thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân...”.
-Về kẻ thù của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới: “…Vẫn là
đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tay sai Mỹ. Đế quốc Mỹ vừa là kẻ chủ mưu,
vừa là chỗ dựa của bọn tay sai …Kẻ thù trực tiếp mà cách mạng miền Nam
lúc này phải nhằm đánh đổ là tập đoàn thống trị tay sai Mỹ”.

18



-Trên cơ sở nhận định tình hình, xác định kẻ thù và nhiệm vụ cơ bản,
Nghị quyết cũng đã chỉ rõ nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam:
“Đoàn kết toàn dân đấu tranh trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự,ngoại
giao…thắng địch từng bước và chủ động trong mọi tình huống, đưa cách
mạng miền Nam tiến lên”.
-Trong thế trận của cả nước, miền Bắc luôn luôn có vai trò to lớn và
quyết định trong toàn bộ cuộc kháng chiến. Bởi vậy, hơn bao giờ hết, trong
giai đoạn này vai trò ấy càng được khẳng định: “Nhiệm vụ của miền Bắc đối
với cách mạng miền Nam là phải tranh thủ những điều kiện thuận lợi hiện có,
ra sức chi viện miền Nam, khôi phục và phát triển nền kinh tế quốc dân, làm
cho miền Bắc xã hội chủ nghĩa luôn luôn là chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu
tranh cách mạng nhằm hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa
bình thống nhất Tổ quốc.
Đây là một trong những Nghị quyết có ý nghĩa lịch sử lớn lao trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là Nghị quyết quan trọng trực tiếp chỉ
đạo giai đoạn kết thúc chiến tranh, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Nếu như Nghị quyết Trung ương lần thứ 11 và 12 (1965) xác định quyết tâm
chiến lược quyết đánh và quyết thắng Mỹ và đề ra những vấn đề chiến lược
cơ bản để “đánh cho Mỹ cút”, thì Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 này đã
vạch ra những vấn đề cơ bản để “đánh cho ngụy nhào”.
Sau Nghị quyết Trung ương lần thứ 21, nhìn chung trên toàn chiến
trường miền Nam đến cuối năm 1973, ta đã chặn được phần lớn các hoạt động
“bình định”, “lấn chiếm” của địch, mở rộng vùng giải phóng, thu hẹp vùng
kiểm soát của địch, giành lại được nhiều vùng địch mới lấn chiếm. Ở một số
khu vực, ta đã tiến công địch, mở rộng vùng giải phóng, thu hẹp vùng kiểm
soát của địch. Năm 1973 kết thúc với những chuyển biến tốt đẹp cả về so sánh
lực lượng và thế trận chiến lược có lợi cho ta.
1.3.2 Phát triển thực lực, tạo thời cơ, nắm vững thới cơ chín muồi
để đi tới giành thắng lợi hoàn toàn


19


Mặc dù sau Hiệp định Paris, diễn biến tình hình có nhiều phức tạp,
xong từ những phân tích, nhận định tình hình một cách khách quan, khoa học,
xu thế đi tới của cách mạng miền Nam đã được Đảng chỉ ra một cách sáng
suốt: địch lấn thêm được đất, kiểm soát thêm được dân, nguyên nhân chính
không phải do địch mạnh mà do ta sơ hở và khuyết điểm. Cái mạnh tạm thời
về quân sự không đủ bù đắp cái yếu cơ bản về chính trị, tinh thần và thế đi
xuống của chúng. Về cơ bản, ta ở thế có lợi và mạnh hơn bất kì thời kỳ nào
trước đó, địch ở thế khó khăn, dao động và chiến lược quân sự bị đảo lộn.
Với sự định hướng của Nghị quyết Trung ương 21, vấn đề phát triển
thực lực, tạo thời cơ và thúc đẩy thời cơ chín muồi để đi tới giành thắng lợi
hoàn toàn đã được đặt ra một cách trực tiếp. Chỉ có nắm vững tư tưởng chỉ
đạo trên của Đảng, thế chủ động, thế có lợi của ta mới được phát huy, cách
mạng miền Nam mới nhanh chóng đi tới thắng lợi hoàn toàn.
Đảng ta cho rằng, vấn đề tạo thời cơ và phát triển thực lực cách mạng
có mối quan hệ biện chứng. Muốn tạo được thời cơ, cách mạng phải có thực
lực, thực lực sẽ phát triển vượt bậc khi có thời cơ thuận lợi. Cả thời cơ và thực
lực đều phải được xem xét một cách toàn diện, tổng hợp, phát triển biện
chứng.
Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 đã được Bộ chính trị, Quân ủy
Trung ương cụ thể hóa từng bước, từng mặt và chỉ đạo, tổ chức động viên cả
nước thực hiện với tinh thần kiên quyết, sáng tạo để đưa cách mạng miền
Nam tiến lên với nhịp độ cao hơn nữa, vững chắc hơn nữa.
Quân ủy Trung ương đã đề ra những chủ trương và biện pháp lớn về
mặt quân sự theo phương hướng cơ bản mà Hội nghị lần thứ 21 của Trung
ương và các Nghị quyết của Bộ chính trị đã đề ra. Các cơ quan chiến lược của
Bộ Quốc phòng như Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu
cần… cũng được Quân ủy Trung ương hướng dẫn cụ thể, khẩn trương tổ chức

thực hiện những nhiệm vụ quan trọng như: hình thành kế hoạch tác chiến
chiến lược, kế hoạch tác chiến cho các chiến trường, kế hoạch tổ chức và

20


huấn luyện các binh đoàn chiến lược, ra sức xây dựng và hoàn chỉnh kế hoạch
chuẩn bị hậu cần kĩ thuật, đảm bảo cho tác chiến quy mô lớn.
Với sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, về mặt quân sự, những yêu
cầu của việc chuyển giai đoạn mới đã được đáp ứng.
Về xây dựng lực lượng và chuẩn bị chiến trường, ta đã chuẩn bị khẩn
trương bổ sung quân và tăng thêm nhiều đơn vị bộ binh, đơn vị binh chủng kỹ
thuật, từ hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn hàng chục vạn cán bộ chiến sĩ.
Đáp ứng yêu cầu kết thúc kháng chiến thắng lợi. Việc thành lập các quân
đoàn chủ lực là hết sức cần thiết. Ngày 24 tháng 10 năm 1973, Quân đoàn
1được thành lập gồm các sư đoàn bộ binh và một số đơn vị binh chủng hợp
thành đang đứng chân trên các tỉnh phía Bắc mở đầu cho các quân đoàn chiến
lược khác.
Cùng với các hoạt động quân sự, dưới sự chỉ đạo của Trung ương
Đảng và Đảng bộ các cấp, phong trào đấu tranh của quần chúng trong vùng
địch kiểm soát đã phát triển mạnh mẽ trong sự phối hợp chặt chẽ với các hoạt
động quân sự. Ở các vùng giáp ranh, quần chúng tập chung đấu tranh đòi địch
thi hành Hiệp định, vận động binh sĩ địch về với nhân dân, về với cách mạng.
Ở các đô thị, khẩu hiệu đấu tranh của quần chúng nhằm chủ yếu đòi địch thi
hành Hiệp định, tôn trọng quyền tự dân chủ của các tầng lớp nhân dân, đòi
Thiệu từ chức. Ở các giải phóng phong trào nhân dân ủng hộ cách mạng càng
mạnh mẽ hơn bằng các hoạt động cụ thể như động viên con em gia nhập các
lực lượng vũ trang, sản xuất tự túc, đóng góp xây dựng lực lượng. Phong trào
đấu tranh của nhân dân miền Nam đã cùng với các hoạt động quân sự ngày
càng đẩy địch vào thế bị động, lung túng. Thực lực cách mạng ngày càng

được củng cố và phát triển.
Trước những chuyển biến tích cực trên đây, yêu cầu cho các cuộc
đánh lớn càng đặt ra trực tiếp. Ngày 17 tháng 5 năm 1974 thành lập quân
đoàn 2, ngày 20 tháng 7 năm 1974 thành lập tiếp Quân đoàn 4 và ở mặt trận

21


Tây Nguyên lúc này cũng đang hội đủ những điều kiện cho việc thành lập
Quân đoàn 3.
Từ giữa năm 1974, quân ngụy hầu như không còn tiến hành được
cuộc hành quân lấn chiếm nào nữa, chỉ còn đủ sức tổ chức các cuộc hành
quân ngăn chặn, giải tỏa mang tính chất phòng ngự ở những vùng bị ta uy
hiếp mạnh. Việc đôn quân bắt lính không còn đủ bù cho số thương vong và
đào rãn ngũ. Phương tiện chiến tranh và lực lượng chi viện của địch cũng
giảm sút đáng kể. So với năm 1972, lực lượng máy bay chiến thuật giảm gần
80%, không còn máy bay B52 chi viện. Quân ngụy vừa sa sút tinh thần, vừa
lung túng về phương thức tác chiến.
Về phía ta, thế và lực trên các chiến trường phát triển ngày càng
mạnh. Sự ra đời của các quân đoàn và các binh đoàn tương đương đứng chân
trên các địa bàn quan trọng đã tạo sự chuyển biến lớn về so sánh lực lượng.
Hơn nữa, mạng đường chiến lược ở cả 2 tuyến Đông và Tây Trường Sơn đều
đã được nối thông từ miền Bắc vào đến Lộc Ninh, tuyến đường ống xăng dầu
đã vươn qua Tây Nguyên vào tận miền Đông Nam Bộ. Trên miền Bắc, sau
gần 2 năm chiến đấu gian khổ đến cuối năm 1974 nhiều mặt về kinh tế đã đạt
mức năm 1965. Một số lượng lớn quân của các binh chủng và hàng chục vạn
tấn hàng quân sự đã được vận chuyển từ Bắc vào các chiến trường miền Nam.
Những chuyển biến lớn trên đây là kết quả của quá trình khẩn trương
chuẩn bị thực lực của ta. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, quân và dân ta vừa tích
cực chuẩn bị lực lượng, vừa tạo và nắm thời cơ để đẩy mạnh quá trình tiến tới

những bước chuyển lớn hơn.
Rõ ràng, việc Đảng nhận định, đánh giá tình hình và đề ra những chủ
trương chỉ đạo trên là rất sáng suốt; việc tổ chức thực hiện tạo thế, tạo lực, tạo
thời cơ cũng rất khoa học và có hiệu quả.
Từ nửa cuối năm 1974, trước sự phản công và tấn công của quân dân
cách mạng miền Nam, quân ngụy phải lui từng bước về giữ các đô thị, các
đường giao thông và các vùng có ý nghĩa chiến lược. Do bị Quốc hội Mỹ cắt
22


giảm viện trợ bổ sung, lại gặp khó khăn nghiêm trọng về kinh tế, bế tắc về
chiến lược quân sự, Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu đã phải chủ
trương “đánh theo kiểu con nhà nghèo” – điều mà một đội quân tay sai, quen
phụ thuộc không thể làm được.
Tháng 8 năm 1974 địch phải bỏ chi khu quận lỵ Thượng Đức (Quảng
Nam) khi bị ta tiến công. Ở trận này, địch đã phải sử dụng đến sư đoàn lính
dù thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược để phản công lấy lại nhưng không
thành.
Thất bại ở Thượng Đức là một biểu hiện mới quan trọng, nó chứng tỏ
khả năng của quân chủ lực cơ động ngụy đã thua kém chủ lực ta.
Như vậy, sau một năm có Nghị quyết Trung ương 21, tình hình chiến
trường miền Nam đã có những bước phát triển thật lớn. Chiến tranh đã bước
vào giai đoạn kết thúc với những dấu hiệu rõ rệt: so sánh lực lượng đã thay
đổi, ta mạnh lên, địch yếu đi; ta chủ động, vững vàng, địch bị động, lung túng.
Từ thực tiễn trên, Đảng ta dự tính khả năng và phương án kết thúc chiến
tranh, giành thắng lợi hoàn toàn.
Trong thời gian này, tình hình nước Mỹ, tình hình thế giới diễn ra
phức tạp, có ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình đi tới thắng lợi cuối cùng, đòi
hỏi phải kịp thời nắm bắt, khai thác những thuận lợi, ngăn chặn, đối phó với
những bất lợi.

Ở nước Mỹ, cùng với những thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh ở
Việt Nam, vụ bê bối Oa-tơ-ghết đẩy Mỹ đến một tình trạng chính trị-xã hội
xấu chưa từng có. Nước Mỹ đang trong tình trạng “tự lo cho mình còn khó”.
Đây là những dấu hiệu thuận lợi mà ta cần triệt để khai thác.
Tình hình quốc tế cũng diễn ra rất phức tạp, cả Liên Xô và Trung
Quốc đều cắt giảm viện trợ quân sự cho ta. Nguy hiểm hơn, giới cầm quyền
Bắc Kinh vừa có những “thỏa thuận ngầm” với Mỹ, vừa trực tiếp tiến công

23


chiếm quần đảo Hoàng Sa (19/01/1974) từ lâu vốn là lãnh thổ của Việt Nam
và lúc này do ngụy quyền Sài Gòn kiểm soát…
Chính trong bối cảnh phức tạp đó, Đảng ta vẫn sáng suốt khẳng định:
“thời cơ nghìn năm có một đã đến để giải phóng miền Nam, khi Mỹ thất bại
phải rút ra, khó mà quay trở lại, còn các thế lực xâm lược khác muốn vào “lấp
chỗ trống” nhưng chưa sẵn sàng”.
Ngày 21 tháng 7 năm 1974, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã gợi ý
Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam về một kế hoạch giải
phóng miền Nam trong 2 năm (1975-1976). Khi phân tích bối cảnh quốc tế và
tình hình trong nước, đồng chí cho rằng: cần nắm lấy thời cơ này thực hiện
nhiệm vụ lịch sử trọng đại của dân tộc, nếu để chậm thì tình hình sẽ diễn biến
vô cùng phức tạp.
Sau 2 tháng chuẩn bị, tháng 10 năm 1974 Bộ Chính trị đã họp. Với 10
ngày nghe báo cáo và thảo luận, Bộ Chính trị đã đi đến những quyết định rất
quan trọng, có ý nghĩa mở đầu cho việc hạ quyết tâm chiến lược, kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước:
-Về chuẩn bị chiến lược: bằng hoạt động tích cực trên tất cả các mặt
cả hậu phương và chiến trường, ta đã tạo ra những yếu tố chiến lược quan
trọng để tiến lên giành thắng lợi cối cùng.

-Về thời cơ chiến lược: đã xuất hiện ngày càng rõ những yếu tố mới
của tình thế mới; chế độ ngụy quyền Sài Gòn ngày càng suy yếu; Mỹ ngày
càng gặp nhiều khó khăn ở cả trong nước và thế giới; không những khó có
khả năng quay lại miền Nam mà khả năng viện trợ cho quân ngụy cũng ngày
càng giảm bớt.
-Cân nhắc thận trọng về khả năng Mỹ quay trở lại trong trường hợp ta
đánh lớn, thắng lớn, đặt ngụy quyền Sài Gòn trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn,
Bộ Chính trị đã đi đến kết luận: “Mỹ đã rút ra khỏi miền Nam thì khó có khả

24


năng nhảy vào trở lại, và dù có can thiệp đến thế nào đi nữa thì Mỹ cũng
không thể cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ tay sai Sài Gòn”.
- Xem xét toàn diện và phân tích sâu sát các mặt, Bộ chính trị đã nhất
trí phê chuẩn phương án của Bộ Tổng tham mưu, chọn Tây Nguyên là hướng
chiến trường chủ yếu trong hoạt động tiến công lớn của ta năm 1975.
Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10 năm 1974 đã khởi đầu xác định quyết
tâm chiến lược và chỉ rõ ý nghĩa lịch sử của nó. Đây là một điều hết sức trọng
đại. Vì đã gần 30 năm, từ khi giành được chính quyền (1945), nhân dân Việt
Nam đã liên tục phải tiến hành chiến tranh cách mạng, trải qua mấy thời kì
chống đế quốc xâm lược, nay cuộc chiến đấu đã đi đến bước ngoặt lịch sử.
Song để đi tới chính thức hạ quyết tâm chiến lược, Đảng thấy cần phải
tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình hơn nữa, nắm chắc diễn biến chiến
trường và chuẩn bị mọi mặt hoàn thiện hơn nữa.
Sau mấy tháng tiếp tục chuẩn bị theo phương hướng đã định, Bộ
Chính trị triệu tập Hội nghị mở rộng (từ 18 tháng 12 năm 1974 đến tháng 1
năm 1975) gồm hầu hết các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà
nước, Quân đội và các chiến trường chính ở miền Nam, để đi đến những
quyết định cuối cùng.

Tình hình chiến trường lúc này đang phát triển rất nhanh và được báo
cáo kịp thời về Hội nghị hàng ngày. Đặc biệt, chiến thắng mới nhất ở Phước
Long càng giúp Bộ Chính trị có thêm cơ sở vững chắc để quyết tâm thực hiện
mục tiêu giành thắng lợi cuối cùng.
Phước Long là một tỉnh cách Sài Gòn hơn 100km về phía Đông Bắc.
Chiến dịch mở màn từ 13 tháng 12 năm 1974 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975 ta
kết thúc thắng lợi, giải phóng toàn tỉnh Phước Long.
“Hiện tượng Phước Long” nói lên nhiều điều:

25


×