Tải bản đầy đủ (.pdf) (219 trang)

THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI KHU VỰC TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 219 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN VƯƠNG

THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG,
THỊ TRẤN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
KHU VỰC TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

HÀ NỘI - 2020


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN VƯƠNG

THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG,
THỊ TRẤN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
KHU VỰC TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 92 29 008

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS,TS ĐỖ THỊ THẠCH

HÀ NỘI - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và đã được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Văn Vương


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN

7

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án

7

1.2. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án và
những nội dung nghiên cứu của luận án

22


Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LỆNH
DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG

29

2.1. Dân chủ cơ sở, thực hiện pháp lệnh dân chủ và xây dựng nông thôn mới

29

2.2. Chủ thể, nội dung, hình thức và vai trò thực hiện pháp lệnh dân chủ trong
xây dựng nông thôn mới

40

2.3. Các yếu tố tác động đến hiệu quả thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây
dựng nông thôn mới khu vực Tây Nguyên

60

Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở XÃ,
PHƯỜNG, THỊ TRẤN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI KHU VỰC
TÂY NGUYÊN VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY

73

3.1. Thành tựu và hạn chế thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây dựng nông
thôn mới khu vực Tây Nguyên hiện nay

73


3.2. Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế việc thực hiện pháp lệnh dân chủ trong
xây dựng nông thôn mới khu vực Tây Nguyên và vấn đề đặt ra hiện nay

105

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI KHU VỰC TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

128

4.1. Quan điểm tăng cường hiệu quả thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây dựng
nông thôn mới khu vực Tây Nguyên

128

4.2. Những giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện pháp lệnh dân chủ trong
xây dựng nông thôn mới khu vực Tây Nguyên

134

KẾT LUẬN

159

NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN

161


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

162

PHỤ LỤC

172


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DTTS

Dân tộc thiểu số

HĐND

Hội đồng nhân dân

HTCT

Hệ thống chính trị

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

NTM


Nông thôn mới

QCDC

Quy chế dân chủ

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1: Cán bộ, công chức và người dân đánh giá hiệu quả chính quyền
tổ chức thực hiện công khai nội dung trong xây dựng nông
thôn mới

79

Biểu đồ 3.2: Cán bộ, công chức và người dân đánh giá hiệu quả chính quyền
tổ chức cho nhân dân “bàn” trong xây dựng nông thôn mới

92

Biểu đồ 3.3: Cán bộ, công chức và người dân đánh giá hiệu quả chính quyền
tổ chức cho nhân dân giám sát các hoạt động xây dựng nông

thôn mới

102


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo đảm quyền làm
chủ của nhân dân trên thực tế trong các lĩnh vực đời sống xã hội là bản chất của chế
độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Theo đó, các quyền
dân chủ của nhân dân phải được thể chế hóa bằng pháp luật và hiện thực hóa trong
thực tế, nhất là ở cấp cơ sở. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và
việc triển khai hệ thống pháp luật của Nhà nước, các quyền dân chủ của nhân dân
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được triển khai thực hiện trong thực
tế, góp phần phát huy dân chủ, khơi dậy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc trong xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, việc thực hành dân chủ còn mang
tính hình thức, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm, hiện tượng quan liêu,
mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho người dân vẫn
chưa được khắc phục, một số quyền dân chủ của nhân dân chưa được cụ thể hoá và
thể chế hoá thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống... Từ thực tế đó Đảng và Nhà
nước đã ban hành Quy chế dân chủ (QCDC) cơ sở (1998), Pháp lệnh Thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn (2007), nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện các
quyền dân chủ của nhân dân ở địa bàn cơ sở, tạo động lực phát huy quyền làm chủ
của nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước, nhất là ở khu
vực nông thôn.
Thực hiện mục tiêu đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành
nhiều chủ trương, chính sách quan trọng để phát triển nông nghiệp, nông dân, nông
thôn... trong đó, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 về “nông

nghiệp, nông dân, nông thôn” và Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới (NTM) là một bước đột phá rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Quan điểm cốt lõi của Đảng và Nhà nước trong xây dựng NTM là phải tạo nên
phong trào quần chúng rộng lớn, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, sự
tham gia tích cực, chủ động của mỗi người dân, mỗi cộng đồng dân cư, huy động
mọi nguồn lực trong nhân dân, dựa vào dân để xây dựng NTM. Do vậy, triển khai


2
thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong xây dựng NTM, thực hiện
các quyền “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” vừa là mục tiêu vừa là động
lực, là giải pháp quan trọng quyết định sự thành công trong xây dựng NTM.
Tây Nguyên là một trong những khu vực đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển đất nước. Được sự quan tâm, đầu tư của Đảng và Nhà nước, cùng với sự nỗ lực
vượt qua những khó khăn, thách thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân
các dân tộc Tây Nguyên, trong những năm đổi mới Tây Nguyên đã đạt được những
thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng
- an ninh... Việc triển khai pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong xây dựng
NTM khu vực Tây Nguyên đạt nhiều kết quả tích cực, đã cụ thể hóa, triển khai thực
hiện các quyền dân chủ “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong xây dựng
NTM; đã huy động nguồn lực, sức mạnh, vai trò chủ thể của nhân dân tham gia triển
khai thực hiện các tiêu chí trong xây dựng NTM; kịp thời đấu tranh ngăn chặn các
biểu hiện quan liêu, mất dân chủ, dân chủ hình thức, các biểu hiện tiêu cực tham ô,
tham nhũng, vi phạm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân trong xây dựng
NTM...
Bên cạnh đó, việc thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong
xây dựng NTM vẫn còn bộc lộ một số hạn chế: Các quyền dân chủ “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong xây dựng NTM chưa được triển khai thực hiện
nghiêm túc, hiệu quả thấp; vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng NTM chưa
được phát huy; một bộ phận cán bộ, công chức quan liêu, mất dân chủ, lạm dụng

chức quyền tham ô, tham nhũng; các vấn đề tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong xây
dựng NTM có chiều hướng gia tăng; một số địa phương đã xuất hiện những điểm
nóng chính trị, gây bức xúc trong nhân dân, làm giảm niềm tin của nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Do vậy, thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong xây dựng
NTM góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng - an ninh ở khu vực Tây Nguyên. Xuất phát từ thực trạng nêu trên, tác giả lựa
chọn đề tài: “Thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong xây dựng
nông thôn mới khu vực Tây Nguyên hiện nay” để nghiên cứu làm luận án tiến sĩ
chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.


3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn thực hiện pháp
lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong xây dựng NTM khu vực Tây Nguyên hiện
nay, luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp tăng cường hiệu quả triển khai thực
hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong xây dựng NTM mới khu vực Tây
Nguyên giai đoạn 2020 -2025.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
- Làm rõ một số vấn đề lý luận và các yếu tố tác động đến triển khai thực hiện
pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong xây dựng NTM ở khu vực Tây
Nguyên hiện nay
- Phân tích thực trạng triển khai thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị
trấn trong xây dựng NTM khu vực Tây Nguyên và vấn đề đặt ra hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện pháp
lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong xây dựng NTM khu vực Tây Nguyên giai
đoạn 2020-2025.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng
Luận án nghiên cứu việc thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn
trong xây dựng NTM khu vực Tây Nguyên hiện nay. Để tránh trùng lặp cụm từ
“thực hiện” trong quá trình triển khai các nội dung luận án, nghiên cứu sinh sử dụng
cụm từ: “Thực hiện pháp lệnh dân chủ” thay cho cụm từ “Thực hiện Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây
dựng NTM khu vực Tây Nguyên theo những nội dung sau:
Thứ nhất, về thực hiện pháp lệnh dân chủ bao gồm: (i) Những nội dung công
khai để nhân dân biết (được quy định tại Chương II của Pháp lệnh dân chủ); (ii)
Những nội dung, nhân dân bàn, quyết định (được quy định ở Chương III của Pháp


4
lệnh dân chủ); (iii) Nhân dân tham gia giám sát (được quy định tại chương V của
Pháp lệnh dân chủ).
Thứ hai, về xây dựng NTM bao gồm: Nhóm tiêu chí quy hoạch; nhóm tiêu
chí hạ tầng kinh tế - xã hội (giao thông, thủy lợi, cơ sở vật chất văn hóa); nhóm tiêu
chí văn hóa, xã hội, môi trường (giáo dục, văn hóa, môi trường); nhóm tiêu chí hệ
thống chính trị (hệ thống tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh, an ninh trật tự xã hội).
- Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp lệnh
dân chủ trong xây dựng NTM ở 3 tỉnh có tính đại diện cho khu vực Tây Nguyên là
Gia Lai, Lâm Đồng, Đắk Nông, chỉ nghiên cứu ở cấp xã. Lâm Đồng là một trong
những tỉnh đạt kết quả cao nhất trong triển khai xây dựng NTM so với các tỉnh khác
ở khu vực Tây Nguyên; tỉnh Gia Lai, Đắk Nông đạt kết quả thấp hơn, nhất là tỉnh
Đắk Nông việc xây dựng NTM còn nhiều khó khăn, thách thức do các điều kiện
khách quan, chủ quan chi phối. Qua đó có thể thấy được những thuận lợi, khó khăn,
nguyên nhân và nêu căn cứ đề xuất các giải pháp khi triển khai thực hiện Pháp lệnh

dân chủ trong xây dựng NTM khu vực Tây Nguyên.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp lệnh dân chủ trong
xây dựng NTM khu vực Tây Nguyên từ năm 2010 đến nay, tính từ khi Thủ tướng
Chính Phủ ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 04/6/2010, Phê duyệt
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước Việt Nam về thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây NTM.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
chú trọng các phương pháp cụ thể: Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp,
thống kê, mô tả, điều tra xã hội học. Trong đó, phương pháp điều tra xã hội học
được thực hiện:
- Về hình thức và đối tượng khảo sát: Tiến hành với cơ cấu mẫu phiếu theo
địa bàn và đối tượng điều tra gồm 600 mẫu phiếu khảo sát. Trong đó, 300 phiếu khảo


5
sát dành cho cán bộ, công chức; 300 phiếu khảo sát dành cho người dân, tiến hành
khảo sát ở 3 tỉnh: Gia Lai, Lâm Đồng, Đắk Nông. Phỏng vấn sâu 6 Chủ tịch, Phó chủ
tịch xã của tỉnh Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Nông
Địa bàn và thời gian khảo sát:
- Tỉnh Lâm Đồng khảo sát từ ngày 10/8/2018 đến ngày 14/8/2018
- Tỉnh Gia Lai khảo sát từ ngày 25/8/2018 đến ngày 29/8/2018
- Tỉnh Đắk Nông khảo sát từ ngày 6/9/2018 đến ngày 10/9/2018
Sau khi thu thập thông tin từ các đối tượng được khảo sát, tác giả đã tổng hợp,
phân tích, đánh giá xử lý các số liệu và kết quả được trình bày ở phần phụ lục của
luận án.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Xây dựng khung lý thuyết của luận án, trong đó góp phần làm rõ các khái
niệm công cụ gồm: Khái niệm dân chủ, dân chủ cơ sở; quan niệm nông thôn, NTM;
quan niệm về thực hiện pháp lệnh dân chủ; thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây
dựng NTM. Đặc biệt khung lý thuyết nghiên cứu đã phân tích làm rõ chủ thể, nội
dung, hình thức và vai trò thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây dựng nông thôn
mới; chỉ rõ các yếu tố tác động đến thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây dựng
nông thôn mới khu vực Tây Nguyên.
- Luận án phân tích, đánh giá, làm rõ những thành tựu đạt được, những hạn
chế khi triển khai thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây dựng NTM khu vực Tây
Nguyên hiện nay, từ đó chỉ ra 4 vấn đề bất cập, cần xây dựng giải pháp để giải quyết:
1) Mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao về thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây
dựng nông thôn mới với hạn chế trong nhận thức của một bộ phận các chủ thể trên
địa bàn Tây Nguyên về nhiệm vụ này; 2) Mâu thuẫn giữa yêu cầu cao về tổ chức
thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây dựng nông thôn mới, với hạn chế về vai trò
của hệ thống chính trị trong thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây dựng NTM khu
vực Tây Nguyên; 3) Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy nhanh tiến độ, bền vững về hiệu
quả thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây dựng NTM với những “rào cản” về điều
kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội của khu vực Tây Nguyên; 4) Bất cập giữa yêu
cầu bắt buộc phải thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây dựng NTM với hạn chế về
nguồn kinh phí đầu tư cho nhiệm vụ này.


6
- Luận án xây dựng 4 nhóm giải pháp giải quyết 4 bất cập đặt ra nhằm nâng
cao hiệu quả triển khai thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây dựng NTM khu vực
Tây Nguyên hiện nay gồm: 1) Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức
cho các chủ thể về vai trò, nội dung, phương pháp và hình thức thực hiện pháp lệnh
dân chủ trong xây dựng NTM khu vực Tây Nguyên hiện nay; 2) Phát huy vai trò của
hệ thống chính trị tăng cường hiệu quả thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây dựng

NTM khu vực Tây Nguyên hiện nay; 3) Tập trung phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
củng cố quốc phòng, an ninh, góp phần tăng cường hiệu quả thực hiện pháp lệnh dân
chủ trong xây dựng NTM khu vực Tây Nguyên hiện nay; 4) Huy động các nguồn
vốn, đảm bảo cho quá trình thực hiện có hiệu quả pháp lệnh dân chủ trong xây dựng
NTM khu vực Tây Nguyên hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả của luận án góp phần cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn giúp các cấp
ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ chức chính trị xã - hội, các cơ
quan và tổ chức có liên quan ở khu vực Tây Nguyên trong xây dựng chính sách, giải
pháp thực hiện pháp lệnh dân chủ trong xây dựng NTM hiện nay.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các cá nhân, tổ chức quan tâm
nghiên cứu, tuyên truyền, giảng dạy các nội dung liên quan đến chủ đề của luận án.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
được kết cấu thành 4 chương, 9 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Chương 2: Một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã,
phường, thị trấn trong xây dựng nông thôn mới và các yếu tố tác động
Chương 3: Thực trạng thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn
trong xây dựng nông thôn mới khu vực Tây Nguyên và vấn đề đặt ra hiện nay
Chương 4: Quan điểm và những giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện
pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong xây dựng nông thôn mới khu vực Tây
Nguyên hiện nay.


7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN


1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về dân chủ cơ sở, thực hiện pháp lệnh
dân chủ cơ sở
Dân chủ cơ sở, thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở là chủ đề được các nhà
nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm, số lượng các công trình nghiên cứu về
các chủ đề này lớn và trong điều kiện của luận án, tác giả đề cập một số công trình
tiêu biểu.
Dương Xuân Ngọc: Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn [73], bài viết đã phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và yêu cầu cấp
thiết cho sự ra đời và triển khai thực hiện QCDC cơ sở; thực hiện QCDC cơ sở hiện
nay còn nhiều tồn tại, hạn chế. Việc phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và yêu
cầu cấp thiết cho sự ra đời QCDC cơ sở, là yếu tố quan trọng để xây dựng một số
giải pháp chủ yếu, tổ chức thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp
phần xây dựng, kiện toàn HTCT, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ
năng lực và phẩm chất đạo đức cách mạng.
Nguyễn Cúc: Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay.
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn [26], công trình nghiên cứu đã phân tích, đánh giá
làm sáng tỏ một số vấn đề chủ yếu về lý luận và thực tiễn sau quá trình triển khai
thực hiện thực hiện QCDC ở cơ sở trong bối cảnh nước ta hiện nay. Trên cơ sở đánh
giá thực trạng những thành tựu đạt được, những tồn tại, hạn chế, tác giả đã nêu lên
một số phương hướng cơ bản và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục thực
hiện QCDC ở cơ sở.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Quá trình thực hiện Quy chế dân chủ cơ
sở ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay [70], của tác giả Nguyễn Thị Ngân,
trên cơ sở những vấn đề lý luận về dân chủ, dân chủ ở cơ sở. Đề tài đã đi sâu vào
nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng việc triển khai thực hiện QCDC cơ sở ở
một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay, từ đó tác giả đã đề xuất những giải pháp



8
góp phần quan trọng hoàn thiện, đẩy mạnh việc thực hiện QCDC ở khu vực đồng
bằng sông Hồng.
Cuốn sách: Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi mới
của Hoàng Chí Bảo đã phân tích, đánh giá ý thức dân chủ của người Việt Nam từ
lịch sử đến hiện đại; quan niệm về dân chủ XHCN và QCDC ở cơ sở [18]. Tác giả
cũng nêu rõ mối quan hệ giữa thể chế chính thống và phi chính thống trong củng cố,
xây dựng HTCT ở cơ sở nông thôn hiện nay; tác động của QCDC trong việc thực
hiện xóa đói giảm nghèo ở nông thôn qua góc nhìn phân tích, đánh giá chính sách;
mối quan hệ giữa tâm lý làng xã và việc thực hiện dân chủ ở cơ sở và yêu cầu tăng
cường văn hóa pháp luật ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
Bài viết: Ý nghĩa của Quy chế dân chủ cơ sở với phát triển kinh tế - xã hội
[92], của tác giả Đỗ Thị Thạch đã làm rõ những tác động tích cực của QCDC cơ sở
đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là ở các vùng nông thôn qua 8
năm thực hiện. Trong đó tác giả nhấn mạnh đến vai trò chủ thể quyền lực của dân
được phát huy, sự đổi mới trong hoạt động của các tổ chức trong HTCT cấp cơ sở
ngày càng rõ nét hơn…
Đỗ Thị Thạch: Dân chủ ở cơ sở và một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu,
Tạp chí Quản lý nhà nước [94], nội dung bài viết tập trung làm rõ vai trò của QCDC
ở cơ sở trong 15 năm thực hiện, thể hiện trong hiệu quả kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội ở nông thôn. Đồng thời chỉ rõ một số vấn đề cần tiếp tục làm sáng tỏ, trong đó
cần phải phát huy vai trò các tổ chức trong HTCT, đội ngũ cán bộ cơ sở, mối quan hệ
giữa các bộ phận trong HTCT cơ sở.
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện
nay của Nguyễn Tiến Thành [98], kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy quá trình
hoàn thiện cơ chế pháp lý và thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam đã được Đảng và
Nhà nước quan tâm, chỉ đạo. Việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở ở Việt Nam đã thu
được kết quả bước đầu nhưng vẫn còn một số hạn chế do cơ chế pháp lý thực hiện
chưa sát với thực tiễn, nhiều điều khoản bị chồng chéo…Việc hoàn thiện cơ chế
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đòi hỏi: (1) tăng cường sự lãnh đạo và vai trò kiểm

soát quyền lực của Đảng và Nhà nước; (2) tạo điều kiện tối đa để nhân dân tham gia
đóng góp ý kiến hoàn thiện cơ chế; (3) khắc phục hạn chế, gia tăng hiệu quả kiểm
soát quyền lực nội bộ giữa các cơ quan nhà nước; (4) bảo đảm cho Hiến pháp thực
sự có vị trí, vai trò tối thượng, được tôn trọng, bảo vệ và thực thi; (5) tạo ra sự phối


9
kết hợp đồng bộ và hiệu quả giữa các cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước trong
điều kiện chính trị, kinh tế, lịch sử, văn hóa, xã hội cụ thể của nước ta.
Bài viết: Một số giải pháp phát huy dân chủ ở cơ sở [91] của Lưu Ngọc Tố
Tâm đã phân tích trong những năm qua, hướng về cơ sở, việc phát huy vai trò của
người dân và cơ chế bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý xã hội
đã đạt những bước tiến quan trọng. Tuy vậy, việc bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở
vẫn còn những tồn tại, hạn chế: Nhận thức về dân chủ ở một bộ phận cán bộ, người
dân còn hạn chế; dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc; dân
chủ trong cơ quan hành chính Nhà nước chưa được thực hiện đầy đủ. Từ đó, tác giả
đề xuất một số kiến nghị và giải pháp: (1) cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo
dục, nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết của cán bộ, đảng viên và nhân dân về dân
chủ; (2) đích cuối cùng của thực hiện dân chủ cơ sở là góp phần vào sự phát triển
kinh tế - xã hội, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân; (3) tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện những cơ chế bảo đảm dân chủ trong đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng. Đảng phải là tấm gương về dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
mình. (4) nâng cao chất lượng việc thực hành dân chủ trong các tổ chức, cơ quan,
đơn vị, phát huy năng lực chủ cho đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó chú trọng
phát huy vai trò, trách nhiệm của những người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị.
Ban Dân vận Trung ương, Ban chỉ đạo Trung ương: Báo cáo Tổng kết việc
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở năm 2017 [15], nội dung của báo
cáo đa đánh giá việc thực hiện QCDC ở cơ sở thời gian qua đã phát huy vai trò, tiềm
năng, sức sáng tạo của nhân dân, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia
các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước; dân chủ trong sinh hoạt Đảng,

trong quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước các cấp được phát huy. Các quyền
dân chủ được phát huy trong xã hội, trong sinh hoạt cộng đồng dân cư được, đã góp
phần thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững quốc
phòng, an ninh; xây dựng hệ THCT ở cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh. Bên
cạnh đó, báo cáo tổng kết đã nêu lên những hạn chế bất cập trong thực hiện QCDC ở
cơ sở như: Thực hiện niêm yết, công khai các nội dung để dân biết theo quy định của
Pháp lệnh thực hiện dân chủ còn hình thức, một số lĩnh vực niêm yết còn chung
chung; thực hiện dân chủ trong công khai chưa, kịp thời, đầy đủ, người dân chưa tiếp
cận được nhiều thông tin.


10
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn, xây dựng
nông thôn mới
Vấn đề Nông nghiệp, nông dân, nông thôn, xây dựng NTM luôn là nội dung
nghiên cứu có sức hấp dẫn, thu hút nhiều nhà nghiên cứu khoa học, các cơ quan, tổ
chức có liên quan. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học của các tập thể, cá
nhân nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn, xây dựng NTM như:
Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
là cuốn sách do Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn biên soạn [16], đã làm rõ quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; kinh nghiệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn của một số nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, qua đó rút ra
một số bài học cho Việt Nam; phân tích một số vấn đề đang đặt ra trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, nêu bài học kinh nghiệm từ
một số điểm sáng như: giữ vững, phát huy truyền thống đoàn kết nội bộ, thực hiện
tốt QCDC, thường xuyên chăm lo xây dựng và củng cố HTCT cơ sở vững mạnh,
xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa cấp ủy và chính quyền địa phương... Qua đó các
tác giả cũng đề ra một số phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Trần Ngọc Ngoạn (chủ biên): Phát triển nông thôn bền vững: Những vấn đề
lý luận và kinh nghiệm thế giới của [72], nhóm tác giả đã hệ thống hóa những vấn đề
lý luận và thực tiễn cơ bản về phát triển nông bền thôn vững, phân tích mục tiêu và
nội dung phát triển nông thôn bền vững. Cuốn sách đã đưa ra một số kinh nghiệm
trong phát triển nông thôn bền vững của các nước, bao gồm: hoàn thiện các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ; hoàn thiện quy hoạch tổng thể và quy
hoạch chi tiết cho từng địa phương; quan tâm nâng cao chất lượng nguồn lao động ở
vùng nông thôn; nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; nâng cao ý thức của
người nông thôn trong bảo vệ môi trường.
Công trình: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam Việt Nam - Hôm nay
và mai sau của tác giả Đặng Kim Sơn [89]. Với nông nghiệp Việt Nam, tác giả bước
đầu tổng kết về tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quá trình triển khai tổ
chức sản xuất với nhiều loại hình khác nhau cũng như mức độ đầu tư và dịch vụ
công trong nông nghiệp. Với nông dân Việt Nam, tác giả khảo sát về lao động việc
làm, về vấn đề đất đai liên quan đến hoạt động sản xuất, về việc sử dụng vật tư sản


11
xuất nông nghiệp và tiếp cận nguồn vốn với những khó khăn mà người nông dân gặp
phải. Với nông thôn Việt Nam, tác giả phân tích những yếu tố của kinh tế nông thôn
và xã hội nông thôn đồng thời chỉ ra mối quan hệ giữa nông thôn với đô thị và công
nghiệp trong quá trình phát triển của nó.
Nguyễn Thị Tố Quyên (chủ biên): Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong
mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 - 2020 [87], cuốn sách đi sâu phân
tích thực trạng một số điểm trọng tâm nổi bật nhất là những vấn đề tồn tại chủ yếu và
nguyên nhân, những cơ hội và thách thức mới đặt ra đối với nông nghiệp, nông dân,
nông thôn trong mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại. Từ đó, đưa ra những đề xuất
về góc độ chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong mô hình tăng
trưởng kinh tế hiện đại giai đoạn 2011 - 2020.
Công trình: Xây dựng nông thôn mới - những vấn đề lý luận và thực tiễn do

Vũ Văn Phúc (chủ biên) [80], công trình là hệ thống các bài viết của các nhà nghiên
cứu khoa học, các nhà lãnh đạo các cơ quan trung ương, các cấp, các ngành, các địa
phương về Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM, đã tập trung phân
tích, đánh giá luận giải nhiều vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về xây
dựng NTM và thực tiễn quá trình triển khai thực hiện xây dựng NTM ở Nước ta.
Các tác giả Đỗ Thị Thạch - Nguyễn Văn Quyết: Kết quả thực hiện nghị quyết
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và những vấn đề đặt ra trong xây dựng nông
thôn mới [95], trong bài viết các tác giả đã chỉ ra, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương 7 khóa X, kinh tế nông nghiệp từng bước được xây dựng theo hướng
hiện đại; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư, phát triển; đời sống vật chất và
tinh thần của cư dân nông thôn được cải thiện và nâng lên rõ nét; đầu tư cho nông
nghiệp, nông thôn tăng, xuất hiện ngày càng nhiều hình thức tổ chức sản xuất, dịch
vụ có hiệu quả, HTCT nông thôn được hoàn thiện, củng cố thêm một bước. Bên
cạnh đó, còn một số vấn đề đặt ra như: một số cán bộ và người dân nông thôn chưa
nhận thức đúng về mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng NTM; việc huy động các nguồn lực
cho phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa đạt yêu cầu; HTCT nông thôn bộc lộ
một số yếu kém, bất cập. Từ đó, nêu lên các giải pháp chủ yếu là: Nâng cao sự thống
nhất về nhận thức trong toàn hệ HTCT về mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng NTM; đa
dạng hóa các nguồn đầu tư cho nông thôn; đổi mới, kiện toàn HTCT nông thôn đáp
ứng yêu cầu xây dựng NTM.


12
Bài viết: Xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay [21] của Nguyễn Cảnh
và Phạm Xuân Sơn đã phân tích, làm rõ rõ ba vấn đề: Một là, nông thôn Việt Nam
trước những yêu cầu đổi mới; hai là, hình dung ngay từ đầu về những tiêu chí của
mô hình nông thôn; ba là, về những nhân tố chính của mô hình NTM như: Chính trị,
kinh tế, văn hóa, môi trường, con người …Những nội dung trên trong cấu trúc mô
hình NTM có mối quan hệ, liên hệ chặt chẽ với nhau Trong đó, Nhà nước đóng vai
trò chỉ đạo, tổ chức điều xây dựng, thực thi cơ chế chính sách xây dựng NTM, tạo cơ

chế, hành lang pháp lý, hỗ trợ kỹ thuật, vốn, nguồn lực, tạo điều kiện, động viên
nhân dân chủ động, tích cực, tự nguyện tham gia xây dựng NTM.
Đoàn Phạm Hà Trang: Xây dựng nông thôn mới: Vấn đề quy hoạch và huy
động các nguồn tài chính [102], bài viết đã khẳng định, quy hoạch xây dựng NTM
phải được quy hoạch một cách tổng thể từ trên xuống, thực hiện quy hoạch mỗi làng,
xã phải nằm trong quy hoạch chỉnh thể chung của toàn quốc, trong mối liên hệ với
chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường, sinh thái, khí hậu, thổ nhưỡng, quốc
phòng…Từ kiến trúc, cấu trúc dân cư, cấu trúc hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, hạ tầng xã
hội, vừa phải đa dạng, bền vững trong xu thế phát triển chung của đất nước. Muốn
thực hiện xây dựng NTM đạt kết quả thì việc huy động nguồn vốn là yếu tố quan
trọng, nguồn vốn sẽ được huy động bằng nhiều cách như: Các nguồn vốn được tài
trợ, vốn đóng góp từ nhân dân, vốn từ các doanh nghiệp, nguồn vốn Nhà nước,
nguồn vốn vay từ các ngân hàng…Bên cạnh đó, Chính phủ cần xây dựng cơ chế
chính sách hỗ trợ, khuyến khích để thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước bỏ
vốn đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trực tiếp giải quyết các
khâu chế biến sản phẩm nông nghiệp, giải quyết việc làm cho nông dân trong quá
trình xây dựng NTM.
Hội thảo: Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 và tầm nhìn đến
năm 2030, ngày 16/9/2010 do Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn phối hợp với
Quỹ Quốc tế phát triển nông nghiệp tổ chức [20]. Trong hội thảo, nhiều chuyên gia
nghiên cứu trong và ngoài nước đã có cùng quan điểm thống nhất vùng nông thôn
Việt Nam có rất nhiều những đặc thù riêng. Vì vậy, xây dựng NTM mang đậm bản
sắc văn hóa và phát triển bền vững là vấn đề cần thiết và phải tập trung chủ yếu vào
5 nội dung cơ bản: Quan tâm xây dựng đời sống văn hóa phong phú, lành mạnh ở
nông thôn, bảo vệ, phát triển nâng cao chất lượng môi trường nông thôn; chú trọng
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn; xây dựng và


13
phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; hỗ trợ phát triển sản xuất và xây dựng

các hình thức sản xuất có hiệu quả trong nông thôn. Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”, khẳng định rõ vai
trò của đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở trong phổ biến chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nâng cao trình độ năng lực ý thức, trách
nhiệm khi triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở là yếu tố quan trọng để thực hiện có
kết quả chương trình này.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu về dân chủ cơ sở, thực hiện pháp lệnh dân
chủ cơ sở trong xây dựng nông thôn mới
Bài viết: Thực hiện Quy chế dân chủ trong xây dựng nông thôn mới [47] của
tác giả Thu Hà đã phân tích vai trò của việc thực hiện QCDC ở cơ sở trong xây
dựng NTM, trong đó nhấn mạnh vai trò của HTCT cơ sở và vai trò của nhân dân
khi triển khai thực hiện QCDC gắn với xây dựng NTM, từ đó tác giả phân tích
những kết quả đạt được khi thực hiện QCDC trong xây dựng NTM xã Mông Hoá
(Kỳ Sơn), Hòa Bình.
Hoàng Nga: Thực hiện Quy chế dân chủ trong xây dựng nông thôn mới ở Lập
Thạch [69], từ thực tiễn những khó khăn trong xây dựng NTM ở huyện miền núi Lập
Thạch, tác giả khẳng định để mỗi người dân tự giác, tích cực đóng góp xây dựng các
tiêu chí NTM, một trong những chủ trương của huyện đó là thực hiện tốt QCDC ở cơ
sở nhằm phát huy vai trò chủ động, tích cực của người dân. Trong bài viết tác giả
nhấn mạnh vai trò của Ban chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở trong xây dựng NTM
làm tốt công tác tham mưu, tuyên truyền đường lối, chủ trương chính sách, các văn
bản của trung ương, của tỉnh, của huyện về thực hiện QCDC ở sở trong xây dựng
NTM. Nhờ đó huyện Lập Thạch đã đạt kết quả cao trong xây dựng NTM.
Bài viết: Hoa Lư thực hiện Quy chế dân chủ trong xây dựng nông thôn mới
[34], của tác giả Đào Duy đã khẳng định vai trò các cấp ủy đảng, chính quyền,
MTTQ và tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn huyện Hoa Lư luôn nhận thức việc
thực hiện tốt QCDC ở cơ sở chính là một trong những yếu tố quan trọng góp phần
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm sự thành công của chương trình xây dựng NTM.
Tác giả Đào Xuân Phương: Vấn đề dân chủ trên lĩnh vực chính trị trong công
cuộc xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam [81], bài viết đã đánh giá việc thực hiện

dân chủ trên lĩnh vực chính trị ở các vùng nông thôn hiện nay còn rất nhiều bất cập.
Trên cơ sở đó muốn phát dân chủ trên lĩnh vực chính trị trong xây dựng NTM ở


14
nước ta, cần xây dựng mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa Nhà nước với nhân dân,
trong đó, chú trọng thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân ở địa bàn cơ
sở, tiếp thu, lắng nghe, tôn trọng các ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của
nhân dân. Để phát huy dân chủ Nhà nước cần xây dựng cơ chế và các biện pháp
ngăn ngừa, kiểm soát, ngăn chặn và đẩy lùi tham ô, tham nhũng, tệ quan liêu, thiếu
trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm các quyền dân chủ của công dân; bên cạnh đó,
phê phán những biểu hiện mất dân chủ, dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan.
Bài viết: Thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn - động lực cho
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh [50] của Thúy Hằng đã
đánh giá vị trí, vai trò của việc thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh tại tỉnh Hòa
Bình, một tỉnh có đa tộc người sinh sống.
Ngọ Văn Nhân: Vai trò của việc thực hiện dân chủ ở cấp xã đối với xây dựng
nông thôn mới ở nước ta hiện nay của [76], bài viết đã đánh giá việc thực trạng thực
hiện dân chủ ở cấp xã trong xây dựng NTM. Bên cạnh đó, khẳng định vai trò của
thực hiện dân chủ cấp xã phục vụ cho xây dựng NTM nhằm phát huy quyền làm chủ
của nhân dân nông thôn, thu hút nhân dân tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát các
hoạt động có liên quan đến xây dựng NTM; góp phần xây dựng, phát triển nông
nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân nông thôn một cách bền vững.
Thứ tư, các công trình nghiên cứu về dân chủ cơ sở, thực hiện pháp lệnh dân
chủ trong xây dựng nông thôn mới ở Tây Nguyên
Phạm Hảo và Trương Minh Dục (đồng chủ biên): Một số vấn đề về xây dựng
hệ thống chính trị ở Tây Nguyên [49]. Trên cơ sở nghiên cứu hoạt động của hệ
HTCT ở Tây Nguyên (nhất là cấp xã vùng đồng bào DTTS, nghiên cứu những nhân

tố ảnh hưởng đến quá trình tổ chức và hoạt động của HTCT; nhóm tác giả đã nêu lên
một số phương hướng và xây dựng một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng và kiện toàn HTCT đáp ứng nhu cầu phát triển của khu vực Tây Nguyên trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bài viết: Thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn trên địa
bàn các tỉnh Tây Nguyên hiện nay của Đỗ Văn Dương đã đề cập đến việc thực hiện
Pháp lệnh dân chủ trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên [35]. Bài viết đánh giá những
mặt tích cực và hạn chế, đề xuất một số giải pháp để tiếp tục thực hiện Pháp lệnh ở


15
Tây Nguyên: Một là, chính quyền cấp xã phải nhận thức được đầy đủ trách nhiệm
của mình trong thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở, thực sự coi trọng các quyền, tự
do dân chủ của nhân dân. Hai là, đối với những việc nhân dân bàn và quyết định trực
tiếp, thì Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn cần phối hợp với Uỷ ban MTTQ chỉ
đạo tổ chức đưa ra cho nhân dân bàn bạc, sau đó sẽ tổ chức thực hiện. Ba là, với
những nội dung dân cần công khai cho nhân dân biết ở địa bàn cơ sở thì chính quyền
cấp cơ sở phải phối hợp với Uỷ ban MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội xã,
phường, phối hợp với các trưởng thôn, buôn, tổ dân phố thực hiện công khai thông
tin bằng các văn bản và được công khai, niêm yết tại trụ sở UBND, nhà văn hóa
cộng đồng, các trung tâm dân cư. Bốn là, với những nội dung nhân dân thảo luận,
bàn bạc, tham gia ý kiến thì UBND cấp cơ sở dự thảo các nội dung văn bản, chủ
trương, kế hoạch, phương án, tổ chức cho nhân dân tham gia đóng góp ý kiến. Năm
là, cần tổ chức thực hiện cho nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát, nhất là giám sát
chính quyền, và đội ngũ cán bộ, công chức trong thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.
Đỗ Văn Dương với bài viết: Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện dân
chủ cơ sở cấp xã ở Tây Nguyên đăng trên Tạp chí điện tử Lý luận chính trị [36], đã
khẳng định, việc thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở xã, phường, thị trấn khu vực Tây
Nguyên trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Bên cạnh

những kết quả đó, do trình độ dân trí còn thấp, đời sống kinh tế của đồng bào còn
gặp nhiều khó khăn; trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức còn một số tồn
tại, hạn chế nhất định… Ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng thực
hành dân chủ cơ sở cấp xã ở Tây Nguyên.
Bài viết: Quá trình triển khai thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở các tỉnh
Tây Nguyên [96] của Nguyễn Xuân Thanh đã đưa ra số liệu minh chứng việc thực
hiện pháp luật về dân chủ cơ sở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây
Nguyên, thu được những kết quả bước đầu, vẫn còn những mặt hạn chế, yếu kém đối
với vùng Tây Nguyên, đó là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng chưa ổn định; tỷ
lệ hộ đói nghèo nói chung giảm, nhưng số hộ đói nghèo trong đồng bào DTTS còn
cao; trình độ dân trí thấp so với mặt bằng chung của cả nước. Bên cạnh đó, về tình
hình an ninh chính trị xuất hiện những nhân tố bất ổn định, các thế lực thù địch, phản
động thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, kích động chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc, chống phá Đảng, Nhà nước ta. Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công


16
chức cấp xã từng bước được nâng lên, tuy nhiên kỹ năng, năng lực tổ chức, quản lý,
điều hành, tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng nhân dân còn hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nguyễn Kim Quang, Hồ Trắc Long: Ứng dụng khoa học công nghệ vào thực
tiễn xây dựng nông thôn mới ở Tây Nguyên, đã đưa tin về Chương trình khoa
học và công nghệ phục vụ xây dựng NTM ở vùng Tây Nguyên [85]. Trong giai
đoạn 2016 - 2020, Chương trình khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng NTM ở
vùng Tây Nguyên sẽ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, nghiên cứu đề xuất bổ
sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách trong xây dựng NTM. Định hướng trong
thời gian tới, chương trình này đề xuất 3 nhóm giải pháp gồm: Giải pháp phối hợp
tổ chức thực hiện giữa các đơn vị triển khai dự án với địa phương; giải pháp phối
hợp triển khai chương trình này với các chương trình khoa học và công nghệ cấp
Nhà nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; giải pháp thu hút nguồn vốn để xây

dựng NTM với các đặc thù riêng trong xây dựng NTM và tái cơ cấu ngành nông
nghiệp vùng Tây Nguyên.
Bài viết: Thiếu nguồn lực xây dựng nông thôn mới ở Đắk Lắk của Phạm Thị
Hoa đã bàn về tình hình xây dựng NTM ở Đắk Lắk [51]. Từ khi Chương trình mục
tiêu quốc gia về xây dựng NTM được triển khai thực hiện, bộ mặt nông thôn và đời
sống kinh tế của người dân, đặc biệt là vùng đồng bào DTTS ở khu vực Tây Nguyên
đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, tại nhiều địa phương khác ở Tây
Nguyên, việc hoàn thành 19 tiêu chí NTM vẫn đang là hành trình khá gian nan và vất
vả. Nhìn chung, các tỉnh Tây Nguyên hiện nay đang thiếu nguồn lực, gặp nhiều trở
ngại lớn: địa hình khó khăn, cơ sở hạ tầng lạc hậu, dân trí thấp… Nên Tây Nguyên sẽ
mất một thời gian dài khó khăn nữa mới có thể hoàn thành được các tiêu chí xây
dựng NTM.
Tác giả Nguyễn Ngọc Nhâm với bài viết: Vai trò của việc thực hiện dân chủ
ở cấp xã đối với xây dựng nông thôn mới ở Gia Lai hiện nay [75], đã phân tích lý
giải, từ những đặc thù riêng của tỉnh Gia Lai, việc tổ chức, triển khai thực hiện
QCDC ở xã, phường, thị trấn đã tạo nên sự chuyển biến tích cực trên nhiều lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội, nhất là phong trào thi đua đẩy mạnh tiến độ xây
dựng NTM, đã huy động được nguồn lực to lớn trong nhân dân phục vụ cho xây
dựng NTM, cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực
hiện QCDC ở xã, phường, thị trấn vẫn còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém như:


17
Một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội
chưa phát huy được vai trò trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện
QCDC ở cơ sở; chưa gắn nội dung thực hiện QCDC cơ sở với việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Công tác giám sát, kiểm tra,
đôn đốc chưa được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo…
1.1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về dân chủ cơ sở

Vấn đề dân chủ, thực hiện dân chủ cơ sở được các học giả nước ngoài quan
tâm nghiên cứu, cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này
trên mọi khía cạnh từ xã hội học, văn học, luật học… Một số công trình tiêu biểu
như sau:
Virginia Beramandi, Andrew Elis và các tác giả khác đã đưa ra quan điểm của
bản thân về vấn đề dân chủ qua cuốn sách: Dân chủ trực tiếp: Sổ tay IDEA Quốc tế”
[110]. Công trình này được dịch và xuất bản bằng tiếng Việt bởi chính Viện chính
sách công và Pháp luật trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
với sự cho phép của IDEA Quốc tế, sự hỗ trợ của Đại sứ quán Na Uy tại Hà Nội và
sự cộng tác của Bộ môn Luật Hiến pháp - Hành chính thuộc Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Nội dung công trình đã đưa ra các kiến nghị, một số bài học về
thực tiễn vận dụng dân chủ trực tiếp ở tất cả các vùng trên thế giới; công trình đánh
giá ở 06 quốc gia điểm hình như: Thụy Sĩ, Hungary, Hoa Kỳ (bang Oregan),
Venezuela, và Uruguay với các hoạt động trưng cầu dân ý, sáng kiến của công dân,
sáng kiến chương trình nghị sự và bãi miễn.
Robert Alan, Dalh là tác giả của cuốn sách: Democracy and its Critics (Dân
chủ và sự phê phán) [123]. Trong đó, tác giả đã xác định quyền lực mà Nhà nước có
được là xuất phát từ quyền lực gốc của nhân dân, để thực hiện một nền dân chủ đòi
hỏi phải được cụ thể hóa và đảm bảo thực thi bằng pháp luật, phải có sự chế ước lẫn
nhau giữa các chủ thể trong xã hội. Muốn đạt tới một nền dân chủ lý tưởng phải đảm
bảo 5 tiêu chí sau: Một là, mọi công dân phải có cơ hội đầy đủ và bình đẳng để thể
hiện nguyện vọng của mình và đặt câu hỏi trong các chương trình công cộng, thể
hiện các lý do cho một kết quả tốt đẹp hơn; Hai là, các công dân phải được bình
đẳng, công bằng trong bầu cử ở giai đoạn quyết định; Ba là, các công dân phải được
hưởng những cơ hội phong phú và bình đẳng cho những phát hiện và lựa chọn tốt
nhất phục vụ cho lợi ích của họ; Bốn là, kiểm soát các chương trình nghị sự, các


18
công dân phải có cơ hội quyết định những vấn đề chính trị thực sự toàn diện; Năm là,

mọi công dân đều phải có cổ phần hợp pháp trong quá trình chính trị và tính bình
đẳng phải được mở rộng đến tất cả các công dân.
Tác giả Harold Hongju Koh với bài viết: The right to Democracy, Towards a
community of democracy (Quyền dân chủ, Hướng tới một cộng đồng dân chủ) [117],
đã phân tích, lý giải tới nhiều tiêu chuẩn của dân chủ, và khẳng định dân chủ bao
trùm lên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Mục tiêu của vấn
đề xây dựng dân chủ không chỉ thể hiện cách hành xử trong chính trị, mà còn làm
cho dân chủ trở thành yếu tố định hướng hành vi của con người.
Blackwell đã đưa ra kết quả nghiên cứu của bản thân về vấn đề dân chủ ở
Tây Âu qua bài viết: Democratic Western Europ (dân chủ Tây Âu) [114]. Theo tác
giả nét nổi bật của nền dân chủ Tây Âu thời kỳ trung cổ là phương thức “dân chủ
trung gian điều giải”. Việc thành lập chính quyền tại đa số các nước Tây Âu không
do cử tri trực tiếp chỉ định qua cuộc bầu cử, như “dân chủ đa số” của khuân mẫu
Westminter (First past the post), mà là do Thủ tướng được Tổng Thống chỉ định
tham khảo ý kiến, sắp xếp đường lối và chương trình chính trị cũng như nhân sự
trong Nội các tương lai với sự đồng thuận của các chính đảng, tạo ra sự tín nhiệm
của các chính đảng đa số trong Quốc Hội, và được chính Tổng Thống “chuẩn y”
bằng cách bổ nhiệm.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn, xây dựng
nông thôn mới
Vấn đề nông nghiệp, nông thôn cũng được nhiều nhà khoa học quốc tế quan
tâm nghiên cứu với các góc độ tiếp cận khác nhau, trong đó đáng chú ý là công trình
của các nhà xã hội học Benedic J. Tria Kervliet, Jame scott với cuốn sách: Một số
vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở các nước và Việt Nam [19], đã nghiên
cứu bản chất, tâm lý, trình độ lao động sản xuất của nông dân trong quan hệ làng xã,
văn hóa, tập quán, lối sống qua thực tế Việt Nam và các nước khác trên thế giới.
Dự án MISPA với vấn đề: Lý luận và thực tiễn xây dựng nông thôn mới xã
hội chủ nghĩa, đã tập trung nghiên cứu nội dung xây dựng nông thôn XHCN ở Trung
Quốc ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau [103]. Công trình đã tổng hợp nhiều ý
kiến của các học giả trong nước như: Hệ thống lý các quan điểm, lý luận về xây

dựng NTM xã hội chủ nghĩa; hệ thống các chỉ tiêu đánh giá quá trình xây dựng
NTM xã hội chủ nghĩa: Tiêu chuẩn, mục tiêu, chỉ tiêu đánh giá quá trình xây dựng


19
NTM xã hội chủ nghĩa và lựa chọn các chỉ tiêu cho từng khu vực; lý thuyết, phương
pháp, nguyên tắc và sự đảm bảo thực hiện các kế hoạch xây dựng NTM; cơ chế trao
vốn, thể chế quản lý, các chỉ tiêu đánh giá hiệu ích kinh tế, cơ chế giám sát đảm bảo
sự nghiệp xây dựng NTM…
Công trình nghiên cứu: Chính sách nông nghiệp trong các nước phát triển
của FransElltis [45], đã phân tích những vấn đề cốt lõi trong chính sách nông nghiệp
ở các nước đang phát triển, qua việc nghiên cứu lý thuyết, đánh giá thực trạng ở
nhiều quốc gia Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh Công trình đã quan tâm nghiên
cứu những nội dung chính sách phát triển vùng, chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra
cho sản xuất nông nghiệp, chính sách thương mại nông sản, những vấn đề nảy sinh
trong quá trình đô thị hóa. Điều đặc biệt nội dung của công trình này đã nghiên cứu
nền nông nghiệp của các nước đang phát triển trong quá trình chuyển sang sản xuất
hàng hóa gắn liền với phát triển thương mại nông sản trên thế giới; đồng thời, nêu
lên mô hình thành công, mô hình thất bại trong việc giải quyết vấn đề nông dân và
phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Tác giả Sachika Hirokawa với bài viết: Promoting Sustainable Agriculture
Development and Farmer Empowerment in Northeast Thailand (Thúc đẩy phát triển
nông nghiệp bền vững và trao quyền nông dân ở Đông Bắc Thái Lan) [124], đã
khẳng định đất nước Thái Lan đã và đang tổ chức, triển khai, thực hiện có hiệu quả
về chiến lược quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển bền vững nông nghiệp. Việc áp dụng những tiến bộ của khoa học,
kỹ thuật vào sản xuất ở Thái Lan đã đạt được kết quả quan trọng như: Nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm tốt, tăng nguồn thu nhập cho nông dân, giải quyết được
việc làm, góp phần xóa đói, giảm nghèo và bảo vệ môi trường hiệu quả.
Nhóm tác giả Bosshaq, Afzalinia, Moradi với: Measuring indicators and

determining factor affecting sustainable agricultural development in rural areas - A
case study of Ravansar, Iran (Đo lường các chỉ số và yếu tố quyết định ảnh hưởng
đến phát triển nông nghiệp bền vững ở khu vực nông thôn - Nghiên cứu trường hợp
của Ravansar, Iran) [115]. Bài viết phân tích sự phát triển nông nghiệp bền vững của
Ravansar tạo điều kiện cho nước này tăng năng suất trong nông nghiệp với sản lượng
lúa 10 triệu tấn/năm. Đạt được kết quả nêu trên, chính phủ Ravansar đã chú trọng
phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất; thực hiện trợ cấp chuyển giao công


×