Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.29 MB, 105 trang )


Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TưPHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT Qưốc TÊ VÀ
PHÁP LUẬT QUỐC GIA - MỘT s ố VÂN ĐỂ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TlỄN
Chuyên ngành : LÝ LUẬN NHÀ N ước VÀ PHÁP LUẬT
M ã số

: 50501

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học : TS. v ũ ĐỨC LONG
VỤ HỢP TÁC QUỐC TẾ- BỘ TƯ PHÁP

TNii' VỈỆM ,1
TíròiGtiAỈ;
HÀ NỘI - 2001

Hitói

ẾấEẰ



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỂ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT QUỐC TÊ

6

1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của pháp luật quốc tế

6

1.2. Vai trò của pháp luật quốc tế

23

CHƯƠNG 2 : MỘT s ố VÂN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ M ố i QUAN HỆ GIỮA PHÁP
LUẬT QUỐC TÊ VÀ PHÁP LUẬT QUỐC GIA

29
ì

2.1. Sự tồn tại tất yếu của mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia

29

2.2. Mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia


36

CHƯƠNG 3: THựC TlỄN g i ả i q u y ế t m ố i q u a n h ệ g i ữ a p h á p l u ậ t
QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT QUỐC GIA Ở MỘT s ố NƯỚC
VÀ Ở VIỆT NAM

5^ ,

3.1. Kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật qu.ốc tế và
pháp luật quốc gia ở một số nước.

54

3.2. Thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia ở Việt Nam

67

3.3. Một số kiến nghị về việc giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật
quốc tế và pháp luật quốc gia ở Việt Nam

89

KẾT LUẬN

98

TÀI LIỆU THAM KHẢO


100


MỎ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỂ TÀI

Trong khoa học pháp lý quốc tế, một trong những vấn đề lý luận quan
trọng luôn được đề cập tới là mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay ở nước ta cũng như ở nhiều nước
trên thế giới, các cồng trình nghiên cứu về mối quan hệ này còn quá ít. Đôi
khi, người ta chỉ đánh giá sự tác động qua lại giữa pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia thuần túy dưới góc độ chính trị mà chưa khai thác sâu khía cạnh
pháp lý của vấn đề. Chính vì vậy, quá trình thực hiện các cam kết quốc tế phát
sinh từ pháp luật quốc tế nói chung và từ điều ước quốc tế nói riêng gặp rất
nhiều vướng mắc. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới việc duy trì và phát triển
quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia cũng như giữa các chủ thể khác
của pháp luật quốc tế. Trong nhiều trường họp, do không thực hiện các cam
kết quốc tế hoặc thực hiện sai nội dung cam kết đã làm giảm sút lòng tin giữa
các quốc gia, làm cho quan hệ giữa các bên trở nên căng thẳng, và từ đó, tranh
chấp bất đồng dễ dàng nảy sinh. Các tranh chấp lớn, nhỏ từ trước đến nay đều
bắt nguồn từ việc một hay một nhóm các quốc gia vì lý do nào đó đã không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng các cam kết quốc tế của mình.
Trong điều kiên hiện nay, khi giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, sự
tùy thuộc vào nhau giữa các quốc gia ngày càng nhiều thì việc xác định đúng
đắn mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, từ đó tìm ra một
cơ chế phù hợp để thực hiện các cam kết quốc tế trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia ngày càng có ý nghĩa quan trọng.
Đối với Việt Nam, sau 15 năm thực hiên đường lối đổi mới do Đảng
Cộng sản Việt Nam


đề xướngvà lãnh đạo, chúng ta đã đạtđược những thành

tựu đáng khâm phục không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực
quan hệ đối ngoại.Việt nam trở thành thành viên đầy đủ của Hiệp hội các
nurớc Đông Nam Á

( ASEAN), bình thường hóa quan hệvới Mỹ, thiết lập


quan hệ chính thức vói Liên minh Châu Âu ( Eư ), tham gia Diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương ( APEC )... là những sự kiện đánh dấu bước
ngoặt trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên thế giới. Những thành
tựu đó vừa thể hiện quá trình Việt Nam từng bước hội nhập vào đời sống của
cộng đồng quốc tế vừa khẳng định vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc

Trong quá trình hội nhập của Việt Nam, việc nắm vững các quy định
của pháp luật quốc tế cũng như giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật Việt
Nam và pháp luật quốc tế là rất cần thiết. Điều đó sẽ góp phần xây dựng cơ sở
khoa học để tiếp tục hoàn thiện pháp luật Việt Nam, thực hiện thắng lợi chính
sách mở cửa theo phương châm Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước
của Nhà nước ta, góp phần bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Việt Nam khi tham
gia quan hệ quốc tế.
Để chứng minh, lý giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong
mối quan hệ tác động qua lại giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, tác
giả chọn đề tài " M ối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm đề tài luận án thạc sĩ, chuyên ngành
Lý luận nhà nước và pháp luật.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN c ứ u ĐỂ TÀI

Do tầm quan trọng của việc nghiên cứu và giải quyết mối quan hệ giữa
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, ở Việt Nam đã có một số công trình

nghiên cứu về vấn đề này như: Đề tài khoa học " Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với nước ngoài" do Bộ tư pháp
thực hiện trong các năm 1990-1991; đề tàilđìQịi học " Mối quan hệ giữa điều
ước quốc tế của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và pháp luật Việt
Nam" ( mã số 95-98-113/DT ) do Tiến sĩ Hà Hùng Cường làm chủ nhiệm năm
1998;... Ngoài ra giáo trình luật quốc tế của một số cơ sở đào tạo luật như Đại
học luật Hà Nội, Đại học luật thành phô Hồ Chí Minh... và một số bài viết


trong các tạp chí cũng bàn về các khía cạnh khác nhau của mối quan hệ giữa
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, các đề tài, bài viết này chủ
yếu chỉ đề cập đến mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia
chứ chưa phân tích một cách có hệ thống, toàn diện mối quan hệ tác động qua
lại giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, trong đó có mối quan hệ giữa
tập quán quốc tế và pháp luật quốc gia.
Như vậy, cho đến nay các công trình đã được công bố chưa bàn sâu về
mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, cũng như chưa
nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện vấn đề này.
3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM v ụ CỦA LUẬN VÃN

Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận, luận văn nghiên cứu làm
sáng tỏ tính tất yếu khách quan của mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật
quốc tế và pháp luật quốc gia, sự tác động qua lại giữa hai hệ thống pháp luật
cũng như quá trình thực hiện các cam kết quốc tế trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về thực tiễn giải quyết mối quan hệ
giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia ở một số nước trong đó có Việt
Nam và đề xuất kiến nghị trong việc giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ chính sau đây:

- Phân tích nội dung pháp lý và các đặc trưng cơ bản của pháp luật
quốc tế, từ đó xác định rõ vai trò của pháp luật quốc tế với tư cách là một hệ
thống pháp luật độc lập với hệ thống pháp luật quốc gia.
- Phân tích sự tồn tại tất yếu cũng như nội dung của mối quan hệ giữa
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
- Nhận xét, đánh giá về thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật
quốc tế và pháp luật quốc gia ở một số nước và ở Việt Nam.
- Đề xuất kiến nghị trong việc giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam, đặc biệt là vấn đề thực hiện các cam kết quốc


tế phát sinh từ pháp luật quốc tế nói chung và từ các điều ước quốc tế mà Việt
Nam ký kết hoặc tham gia nói riêng.
4. PHẠM VI NGHIÊN c ứ u CỦA LUẬN VĂN

Mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là một vấn đề
rộng lớn, phức tạp cả về lý luận lẫn thực tiễn không chỉ đối với Việt Nam mà
cả đối với nhiều nước trên thế giói. Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, tác
giả chỉ đề cập đến một số vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn giải quyết mối
quan hệ này ở một số nước trong đó có Việt Nam nhằm góp phần làm sáng tỏ
mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia nói chung cũng như
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam nói riêng.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u

Luận văn vận dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ thể như phân
tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, kết hợp lý luận với thực tiễn ...
6. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VĂN

- Luận văn phân tích một cách tổng thể, toàn diện các khía cạnh pháp lý

của một số vấn đề lý luận cơ bản về mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia, cũng như kinh nghiệm của một số nước trong việc giải
quyết mối quan hệ này.
- Trên cơ sở các nguyên lý lý luận, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và kinh nghiệm của một số nước, luận văn đưa ra
những kiến nghị hợp lý, khoa học và có tính khả thi nhằm giải quyết tốt mối
quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, đặc biệt là vấn đề thực
hiện các cam kết quốc tế phát sinh từ pháp luật quốc tế nói chung và từ các
điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia nói riêng, từ đó đảm bảo
thực thi nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế của Việt Nam và đấu tranh cho sự
dân chủ, tiến bộ của pháp luật quốc tế trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.


7. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VẢN

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho công tác nghiên cứu giảng dạy các bộ môn luật và cung cấp cơ sở lý
luận cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy định về mối quan hệ giữa
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia trong các văn bản quy phạm pháp luật
của Việt Nam.
8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Khái quát về hệ thống pháp luật quốc tế.
- Chương 2: Một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật quốc
tế và pháp luật quốc gia.
- Chương 3: Thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế
và pháp luật quốc gia ở một số nước và ở Việt Nam.
Trong quá trình viết luận văn, mặc dù tác giả đã có rất nhiều cố gắng,

song bản luận văn này khó tránh khỏi những điểm hạn chế, thiếu sót. Rất
mong có sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và đổng nghiệp để luận văn được
hoàn thiện hơn.


Chương 1
KHÁI QUÁT VỂ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIEM

Qưốc TÊ

cơ bản c ủ a ph áp luật q u ố c tế

1.1.1. Khái niệm pháp luật quốc tế
Lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng,
cùng với sự xuất hiện các quốc gia độc lập, quan hệ giữa các quốc gia cũng
dần được hình thành trong quá trình thiết lập biên giới, quá trình ký kết điều
ước quốc tế để liên minh, liên kết chống ngoại xâm hoặc để cùng giải quyết
hậu quả chiến tranh... Các quan hệ trên khi hình thành đòi hỏi phải được điều
chỉnh về mặt pháp lý quốc tế. Do đó, ngay từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ đã xuất
hiện những nguyên tắc, quy phạm điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia. Đó
chính là những nguyên tắc, quy phạm đầu tiên của pháp luật quốc tế. Tuy
nhiên, trong thời kỳ này, các nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc tế còn rất
thô sơ và chưa được thừa nhận rộng rãi. Chúng chỉ được áp dụng để điều chỉnh
quan hệ giữa các quốc gia trong cùng một khu vực mà chủ yếu là giữa các
quốc gia chiếm hữu nô lệ có tiềm lực mạnh.
Sang thời kỳ phong kiến, cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến,
quan hệ giữa các quốc gia phong kiến ngày càng được mở rộng trên nhiểu lĩnh
vực như thương mại, khai thác và sử dụng biển, thiết lập và duy trì quan hệ
ngoại giao, quan hệ lãnh sự... Do đó, bên cạnh các nguyên tắc, quy phạm đã

hình thành trong giai đoạn trước, nhiều nguyên tắc, quy phạm mới của pháp
luật quốc tế được hình thành trong giai đoạn này như: nguyên tắc, quy phạm
của luật ngoại giao lãnh sự, luật biển...
Thời kỳ tư bản chủ nghĩa là thời kỳ đánh dấu sự phát triển vượt bậc của
pháp luật quốc tế. Nhiều nguyên tắc và quy phạm tiến bộ của pháp luật quốc
tế đã xuất hiện và được thừa nhận rộng rãi như nguyên tắc bình đẳng về chủ
quyển giữa các quốc gia, nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của


quốc gia khác... Tuy vậy, pháp luật quốc tế thời kỳ này vẫn chỉ thể hiện ý chí
của giai cấp tư sản thống trị trên trường quốc tế và là công cụ để giai cấp tư
sản bảo vệ lợi ích của chính mình trong quan hệ quốc tế. Do đó, những nội
dung tiến bộ của pháp luật quốc tế chỉ mang tính hình thức.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, Nhà nước Xã hội Chủ
nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời và tiếp theo đó là sự hình thành của hệ thống
các nước xã hội chủ nghĩa... đã làm thay đổi cơ bản tương quan lực lượng giữa
các quốc gia trên trường quốc tế. Pháp luật quốc tế thòi kỳ này có sự biến đổi
về chất với những nội dung dân chủ, tiến bộ. Hàng loạt nguyên tắc phản động
của pháp luật quốc tế thời kỳ trước như nguyên tắc quyền chiến tranh, chế độ
thuộc địa, bảo hộ... đã bị xoá bỏ và thay thế vào đó là những nguyên tắc tiến
bộ hơn như nguyên tắc không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan
hệ quốc tế, nguyên tắc hoà bình giải quyết các tranh chấp quốc tế, nguyên tắc
dân tộc tự quyết... ở thời kỳ này, trong hệ thống pháp luật quốc tế xuất hiện
một số ngành luật mới như: Luật hàng không dân dụng quốc tế, Luật nhần đạo
quốc tế, Luật môi trường quốc tế, Luật kinh tế quốc tế...
Như vậy, trải qua các giai đoạn phát triển của quan hệ quốc tế, khi lĩnh
vực hợp tác dần được mở rộng, số lượng quốc gia và chủ thể khác của pháp
luật quốc tế tham gia vào quá trình hợp tác gia tăng thì pháp luật quốc tế ngày
càng được hoàn thiện và có một'vai trò đặc biệt quan trọng trong đòi sống sinh
hoạt quốc tế.

„Trong giai đoạn hình thành sơ khai ban đầu, pháp luật quốc tế chỉ đơn
giản được coi là tổng thể các nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh quan hệ giữa
các quốc gia. Ngày nay, khi chủ thể tham gia vào quan hệ do pháp luật quốc
tế điều chỉnh không chỉ có quốc gia mà có cả dân tộc đang đấu tranh giành
quyền dân tộc tự quyết và tổ chức quốc tế liên chính phủ, thì quan niệm nêu
trên không còn phù hợp.
Từ điển pháp luật quốc tế của Liên Xô xuất bản năm 1982 đưa ra định
nghĩa về pháp luật quốc tế như sau:


" Pháp luật quốc tế là hệ thống các quỵ phạm và nguyên tắc điều ước và
tập quán điều chỉnh các quan hệ quốc tế, thể hiện ý chí thỏa thuận của các
quốc gia, phù họp với sự tác động có tính quy luật của sự phát triển xã hội
trong từng thời kỳ nhất định" [35,91]
Theo một số học giả Việt Nam, pháp luật quốc tế được hiểu là " tổng
thể những nguyên tắc và quy phạm pháp lý, do các quốc gia và chủ thể khác
thỏa thuận xây dựng nên nhằm điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa họ với nhau
trong từng lĩnh vực nhất định của đời sống quốc t ế " [10,6]
Mặc dù đã phần nào khái quát được một số nội dung cơ bản của pháp
luật quốc tế và đưa ra những dấu hiệu nhằm phân biệt hệ thống pháp luật quốc
tế với các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc gia, nhưng các quan niệm
nêu trên còn nhiều điểm chưa thống nhất và nhất là chưa phản ánh đầy đủ bản
chất cũng như các đặc điểm cơ bản của hệ thống pháp luật quốc tế.
Theo khoa học pháp lý quốc tế hiện đại, pháp luật quốc tế có thể được
định nghĩa một cách đầy đủ như sau:
"

Pháp luật quốc tế là hệ thông những nguyên tắc, quy phạm pháp luật

được các quốc gia và các chủ thể khác tham gia quan hệ quốc tế xây dựng nên

trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, thông qua đấu tranh và thương lượng,
nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt ị chủ yếu là quan hệ chính t r ị ) giữa
cấc chủ thể của pháp luật quốc tế với nhau ị trước tiên và chủ yếu là giữa các
quốc gia) và trong những trường hợp cần thiết, được bảo đảm thực hiện bằng
những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do chính các chủ thể của
pháp luật quốc tế thi hành, và bằng sức đấu tranh của nhân dân và dư luận
tiến bộ trên thế giới. " [ 1 1 , 6 ]
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của pháp luật quốc tế
1.1.2.1. Về đối tượng điều chỉnh

Khác với các ngành luật thuộc hệ ,thống pháp luật quốc gia chủ

yếu

điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong nội bộ quốc gia,pháp luậtquốc


tế có nhiệm vụ điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong sinh hoạt
quốc tế giữa các chủ thể của pháp luật quốc tế như quốc gia, tổ chức quốc tế
liên chính phủ, dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết và một số
chủ thể đặc biệt khác.
Tính chất của các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp
luật quốc tế khác với tính chất của các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều
chỉnh của các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc gia. Sự khác biệt này
thể hiện ở chỗ, pháp luật quốc tế điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể có vị trí
hoàn toàn bình đẳng với nhau. Sự bình đẳng này không phải do một chủ thể
đặc biệt nào mang lại ( chẳng hạn sự bình đẳng giữa các bên khi tham gia một
số quan hệ pháp luật trong nước như quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp
luật kinh tế là do nhà nước quy định ) mà hoàn toàn do chính thuộc tính chính
trị - pháp lý vốn có của chủ thể đem lại. Đó chính là thuộc tính chủ quyền.

Chính tính chất bình đẳng trong quan hệ được thiết lập giữa các chủ thể của
pháp luật quốc tế đã chi phối những đặc điểm khác của pháp luật quốc tế như
đặc điểm về trình tự xây dựng quy phạm, đặc điểm về biện pháp bảo đảm thi
hành...
1.1.2.2. Về chủ thể
Chủ thể cơ bản và chủ yếu của pháp luật quốc tế chính là các quốc gia.
Quốc gia là chủ thể cơ bản và chủ yếu của pháp luật quốc tế bởi lẽ quan hệ do
pháp luật quốc tế điều chỉnh trước tiên và chủ yếu là quan hệ phát sinh giữa
các quốc gia. Hơn nữa, trải qua quá trình hình thành và phát triển của pháp
luật quốc tế, quốc gia luôn khẳng định được vai trò của mình là chủ thể của
pháp luật quốc tế. Điều này hoàn toàn khác so với các chủ thể khác của pháp
luật quốc tế. Các chủ thể khác thường chỉ được thừa nhận tư cách chủ thể của
pháp luật quốc tế trong một giai đoạn nhất định tùy thuộc vào tính chất và
phạm vi các quan hệ xã hội được pháp luật quốc tế điều chỉnh trong giai đoạn
đó. Ngoài ra, một yếu tố khác quyết định địa vị pháp lý khồng thể thay thế của
quốc gia với tư cách chủ thể cơ bản và chủ yếu của pháp luật quốc tế đó là


quốc gia là chủ thể duy nhất hội đủ các điều kiện về dân cư, lãnh thổ và chủ
quyền. Các yếu tố đó tạo cho quốc gia có quyền năng đầy đủ nhất khi tham
gia quan hệ quốc tế.
Ngoài quốc gia, các tổ chức quốc tế liên chính phủ cũng được coi là chủ
thể của pháp luật quốc tế nhưng chỉ là chủ thể có tính chất phái sinh. Các tổ
chức quốc tế liên chính phủ do các quốc gia thỏa thuận thành lập. Do đó, sự
tồn tại và phát triển của các tổ chức quốc tế này cũng như quyền và nghĩa vụ
của chúng hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự thỏa thuận ý chí của các quốc gia thành
viên.
Một chủ thể khác của pháp luật quốc tế mà chúng ta không thể không
đề cập đến đó là các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết.
Trong pháp luật quốc tế, các dân tộc này được coi là một chủ thể đang trong

giai đoạn quá độ tiến tới hình thành một quốc gia độc lập.
Ngoài ba loại chủ thể kể trên, pháp luật quốc tế còn thừa nhận tư cách
chủ thể đặc biệt của một số thực thể như Toà thánh Vaticăng và một số vùng
lãnh thổ.
1.1.23. v ề trình tự xây dựng quy phạm

Cũng như các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc gia, pháp luật
quốc tế bao gồm hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật. Nhưng nếu
trong trật tự pháp luật quốc gia, Quốc Hội hay Nghị Viện là cơ quan lập pháp
cao nhất có quyền ban hành các quy phạm có tính chất bắt buộc đối với mọi
thành viên, mọi tổ chức trong xã hội thì ở trật tự pháp luật quốc tế, không diễn
ra một quy trình như vậy. Các quốc gia có thể khác nhau về sức mạnh chính
trị, kinh tế, quân sự, về kích thước lãnh thổ, dân số, về tài nguyên... nhưng đều
là những chủ thể độc lập và có chủ quyền. Khi tham gia quan hệ quốc tế, các
quốc gia ở vị trí hoàn toàn bình đẳng về mặt pháp lý, đều có quyền và nghĩa
vụ như nhau. Chính vì vậy, không có bất kỳ một quốc gia, một cơ quan lập
pháp nào đứng trên quốc gia khác để đặt ra pháp luật bắt quốc gia phải thực


hiện. Quy phạm pháp luật quốc tế được hình thành hoàn toàn dựa trên sự thỏa
thuận giữa các quốc gia cũng như giữa các chủ thể khác của pháp luật quốc tế.
Sự thỏa thuận giữa các chủ thể để xây dựng nên quy phạm pháp luật
quốc tế có thể bằng hai phương pháp, hoặc là thỏa thuận rõ ràng, minh bạch
thông qua việc ký kết điều ước quốc tế, hoặc là thỏa thuận ngầm định thông
qua việc các chủ thể cùng thừa nhận những tập quán nhất định hình thành
trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế là những quy phạm có tính chất bắt buộc.
Cho dù phương thức hình thành quy phạm pháp luật quốc tế có đa dạng, khác
nhau như thế nào đi chăng nữa thì nguyên tắc chung xuyên suốt quá trình xây
dựng quy phạm pháp luật quốc tế vẫn là sự thoả thuận tự nguyện của các quốc
gia cũng như của các chủ thể khác của pháp luật quốc tế.

1.1.2.4. Vê biện pháp bảo đảm thi hành

Do tính chất của các quan hệ do pháp luật quốc tế điều chỉnh ( quan hệ
giữa các chủ thể có vị trí hoàn toàn bình đẳng với nhau ) nên trong pháp luật
quốc tế không có bộ máy cưỡng chế thi hành. Các chủ thể của pháp luật quốc
tế tham gia vào quá trình xây dựng nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc tế
cho nên chính các chủ thể phải có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiên chúng.
Trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật quốc tế thì việc áp dụng những biện
pháp cưỡng chế sẽ do chính các chủ thể thực hiện dưới hình thức cưỡng chế
riêng lẻ hoặc tập thể.
Theo pháp luật quốc tế, mỗi chủ thể có quyền áp dụng một số biện pháp
cưỡng chế nhất định như trừng phạt về kinh tế, cắt đứt quan hệ ngoại giao,
phong tỏa các cảng biển... đối với chủ thể đã có hành vi xâm phạm đến các
quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Pháp luật quốc tế cũng quy định cho tổ chức
quốc tế như Liên Hợp Quốc có quyền áp dụng một số biện pháp cưỡng chế
cần thiết đối với quốc gia vi phạm hoà bình và an ninh quốc tế.
Ví dụ: Theo Điều 42 Hiến chương Liên Hợp Quốc, Hội đồng Bảo an
Liên Hợp Quốc có quyền thi hành những biện pháp cưỡng chế, kể cả việc


dùng lực lượng vũ trang, để ngăn ngừa, thủ tiêu mối đe dọa hòa bình, những
hành vi xâm lược hoặc những sự vi phạm hòa bình khác.
Ngoài các biện pháp cưỡng chế do chính chủ thể của pháp luật quốc tế
thực hiện, còn có nhân tố quan trọng khác ngày càng phát huy tác dụng như là
một trong những biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật quốc tế, đó là dư luận
tiến bộ trên thế giới và sức đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình.
1.1.2.5. Vê nguồn

Nguồn của pháp luật quốc tế ]à hình thức biểu hiện sự tổn tại của quy
phạm pháp luật quốc tế do các quốc gia và các chủ thể khác của pháp luật

quốc tế thỏa thuận xây dựng nên. [11,6]
Nguồn của pháp luật quốc tế bao gồm điều ước quốc tế và tập quán
quốc t ế .
*

Điều ước quốc tế

Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế do các chủ thể của pháp
luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm
ấn định, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong
quan hệ quốc tế.
Điều ước quốc tế là nguồn cơ bản của pháp luật quốc tế. Tuy nhiên
không phải mọi điều ước quốc tế đều được coi là nguồn của pháp luật quốc tế.
Muốn trở thành nguồn của pháp luật quốc tế điều ước phải thoả mãn các điều
kiện sau:
- Điều ước quốc tế được ký kết đúng thẩm quyền và thủ tục theo quy
định của pháp luật các bên ký kết.
- Điều ước quốc tế được xây dựng trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng.
- Điều ước quốc tế phải có nội dung phù hợp với các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật quốc tế.


*

Tâp c/uán guốc tế

So với điều ước quốc tế, tập quán quốc tế ra đòi sớm hơn. Đó là những
quy tắc xử sự lúc đầu do một hay một số chủ thể của pháp luật quốc tế đưa ra
và áp dụng nhiều lần trong quan hệ với nhau. Sau đó, do quá trình áp dụng lâu
dài và được nhiều chủ thể cùng thừa nhận là những quy phạm có giá trị bắt

buộc nên những quy tắc xử sự đó trở thành tập quán quốc tế.
Trên phương diện lý luận, với tư cách là nguồn của pháp luật quốc tế,
điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều có giá trị pháp lý như nhau. Việc áp
dụng loại nguồn nào hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các chủ thể
của pháp luật quốc tế. Nhưng trong thực tiễn, khi xảy ra trường hợp đối với
một quan hệ xã hội cụ thể có cả điều ước quốc tế và tập quán quốc tế cùng
tham gia điều chỉnh thì các chủ thể thường ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế.
Điều ước quốc tế có giá trị ưu tiên áp dụng bởi lẽ, so với tập quán quốc tế,
điều ước quốc tế có rất nhiều ưu điểm như thời gian hình thằnh nhanh, nội
dung của điểu ước thể hiện



ràng, cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên, và

phạm vi áp dụng của điều ước quốc tế cũng rộng hơn so với tập quán quốc tế.
Ngoài hai loại nguồn kể trên, trong hệ thống pháp luật quốc tế còn có
các nguồn bổ trợ như phán quyết của tòa án quốc tế, học thuyết của các luật
gia nổi tiếng về pháp luật quốc tế, nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính
phủ... Các nguồn bổ trợ này có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình hình
thành cũng như trong quá trình áp dụng điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
1.1.2.6. Về câu trúc

Pháp luật quốc tế không chỉ đơn thuần được cấu thành từ các nguyên
tắc, quy phạm đơn lẻ, ren rạc mà là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm có mối
liên hệ nội tại, thống nhất vởi nhau và được phân thành các chế định luật và
ngành luật. Cấu trúc của hệ thống pháp luật quốc tế gồm các thành tố cơ bản
là quy phạm pháp luật quốc tế, nguyên tắc pháp luật quốc tế, chế định pháp
luật quốc tế và ngành pháp luật quốc tế.



*

Quy pharn pháp luât guốc tế

Quy phạm pháp luật quốc tế là thành tố nhỏ nhất trong hệ thống cấu
trúc của pháp luật quốc tế. Quy phạm pháp luật quốc tế được hiểu là quy tắc
xử sự do quốc gia và các chủ thể khác của pháp luật quốc tế thỏa thuận xây
dựng nên trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng.
Quy phạm pháp luật quốc tế vừa mang tính khái quát, vừa mang tính cụ
thể. Quy phạm pháp luật quốc tế có tính khái quát vì nó là quy tắc xử sự
chung dùng để áp dụng trên một diện rộng và trong một thời gian dài. Đổng
thời, các quy phạm này cũng phải cụ thể vì nó là chuẩn mực để điều chỉnh các
quan hệ xã hội cụ thể phát sinh trong sinh hoạt quốc tế giữa các chủ thể của
pháp luật quốc tế.
Với ý nghĩa là quy tắc xử sự có giá trị pháp lý bắt buộc, quy phạm pháp
luật quốc tế là căn cứ để các chủ thể của pháp luật quốc tế điều chỉnh hành vi
của mình. Hơn thế nữa, quy phạm pháp luật quốc tế còn là cơ sở để truy cứu
trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng vái sự phát triển của quan hệ quốc tế
trên quy mô toàn cầu, các quy phạm do chủ thể của pháp luật quốc tế thỏa
thuận xây dựng nên ngày càng phong phú, đa dạng và chúng được phân chia
thành nhiều loại khác nhau.
-

Căn cứ vào cách thức hình thành và hình thức biểu hiện của quy

phạm, cố thể chia quy phạm pháp luật quốc tế thành quy phạm điều ước và
quy phạm tập quán.
Quy phạm điều ước là những quy phạm được ghi nhận trong điều ước

quốc tế do quốc gia và các chủ thể khác của pháp luật quốc tế thỏa thuận xây
dựng nên trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, thông qua đấu tranh và thương
lượng nhằm ấn định, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các chủ
thể trong quan hệ quốc tế .


Quy phạm tập quán là những quy tắc xử sự chung hình thành trong thực
tiễn sinh hoạt quốc tế được các chủ thể của pháp luật quốc tế thừa nhận là quy
phạm có giá trị pháp lý bắt buộc.
Ví dụ: Quy phạm xác định một đường biên giới dựa vào đường ranh
giới sẵn có ( Nguyên tắc Uti Possidetis ).
Ngày nay, với ưu thế về thời gian hình thành, phạm vi tác động và mức
độ biểu hiện ý chí của các chủ thể, quy phạm điều ước chiếm ưu thế ngày
càng tăng so với quy phạm tập quán trong hệ thống quy phạm pháp luật quốc
tế. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là trong tương lai quy phạm tập quán sẽ
không được sử dụng để điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể của pháp luật
quốc tế. Bởi lẽ, tuy số lượng quy phạm điều ước ngày càng nhiều nhưng vẫn
không thể điều chỉnh hết mọi quan hệ phát sinh trong thực tiễn sinh hoạt quốc
tế, đặc biệt là quan hệ giữa các chủ thể không tham gia quan hệ điều ước.
Trong những trường hợp như vậy, quy phạm tập quán sẽ được áp dụng để điều
chỉnh các quan hệ đó.
-

Căn cứ vào hiệu lực của quy phạm, có thể chia quy phạm pháp luật

quốc tế thành quy phạm mệnh lệnh và quy phạm tùy nghi.
Theo Điếu 53 Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969, quy
phạm mệnh lệnh ( quy phạm Jus cogens ) được hiểu là quy phạm được toàn
thể cộng đồng các quốc gia chấp thuận và công nhận, là quy phạm không cho
phép có bất kỳ sự vi phạm nào.

Với cách hiểu như trên, chúng ta có thể thấy quy phạm mệnh lệnh là
loại quy phạm có hiệu lực pháp lý rất cao. Nó là thước đo tính hợp pháp của
tất cả các quy phạm khác của pháp luật quốc tế. Các quy phạm pháp luật quốc
tế nếu có nội dung trái với quy phạm mệnh lệnh thì bị coi là vô hiệu và bị huỷ
bỏ. Không những thế, chủ thể của pháp luật quốc tế nếu có hành vi vi phạm
quy phạm mệnh lệnh thì sẽ phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế. Một
quy phạm mệnh lệnh chỉ có thể được sửa đổi bằng một quy phạm mệnh lệnh
có sau của pháp luật quốc tế có cùng một tính chất.


Quy phạm mệnh lệnh là loại quy phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong
quá trình hình thành và phát triển của pháp luật quốc tế. Bởi lẽ, quy phạm
pháp luật quốc tế do chính chủ thể của pháp luật quốc tế thỏa thuận xây dựng
nên, và cùng với sự gia tăng lĩnh vực hợp tác giữa các chủ thể thì số lượng quy
phạm pháp luật quốc tế cũng ngày càng nhiều. Các quy phạm này khi hình
thành có thể mâu thuẫn với nhau hoặc xâm phạm đến lợi ích của các chủ thể.
Chính vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật quốc
tế cũng như bảo vệ lợi ích của từng chủ thể trong lợi ích chung của cộng đồng,
sự tồn tại các quy phạm mênh lệnh trong hệ thống pháp luật quốc tế là rất cần
thiết.
Tuy nhiên, về phương diện lý luận cũng như trên thực tế rất khó xác
định chính xác quy phạm nào là quy phạm mệnh lệnh của pháp luật quốc tế.
Dấu hiệu " được toàn thể cộng đồng các quốc gia chấp thuận và công nhận"
của quy phạm mệnh lệnh đã được Điều 53 Công ước Viên về Luật điều ước
quốc tế năm 1969 đưa ra là một dấu hiệu chung và rất trừu tượng. Mặc dù vậy,
hầu hết các học giả đều nhất trí rằng các quy phạm mệnh lệnh trong pháp luật
quốc tế bao gồm các nguyên tắc và quy phạm ngăn cấm chiếm hữu nô lệ, diệt
chủng, cướp biển, những hành động thù địch hoặc sử dụng vũ lực một cách
trái phép... [43,219]
Ví dụ: Điều 2 khoản 4 Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định:" Tất cả

các quốc gia trong quan hệ quốc tế không được đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng
vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc
gia nào hoặc nhằm những mục đích khác không phù hợp với mục đích của
Liên Hợp Quốc."
Trong số các quy phạm mệnh lệnh của pháp luật quốc tế có một loại
quy phạm được coi là cơ sở nền tảng cho toàn bộ hệ thống pháp luật quốc tế.
Đó ỉà các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế như: nguyên tắc bình đẳng
chủ quyền giữa các quốc gia, nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ


của quốc gia khác, nguyên tắc tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế (Pacta
sunt servanda)...
Khác với quy phạm mệnh lệnh, quy phạm tùy nghi của pháp luật quốc
tế là quy phạm cho phép các chủ thể liên quan có quyền thỏa thuận đưa ra quy
tắc xử sự khác với quy tắc xử sự mà quy phạm đã đề cập đến.
Ví dụ: Theo Công ước luật biển năm 1982, ở thềm lục địa quốc gia có
độc quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, các quốc gia có thể
thoả thuận về việc cho phép quốc gia khác vào khoan thăm đò tại thềm lục địa
của mình.
Đa số các quy phạm pháp luật quốc tế là quy phạm tùy nghi. Bởi lẽ
nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các chủ thể là một trong những nguyên
tắc chi phối quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật quốc tế. Điều này đã
tạo điều kiện cho quốc gia cũng như các chủ thể khác của pháp luật quốc tế tự
do lựa chọn quy tắc xử sự phù hợp để điều chỉnh quan hệ mà các chủ thể
tham gia và thúc đẩy hợp tác quốc tế trên quy mô toàn cầu.
-

Căn cứ vào phạm vi tác động của quy phạm, có thể chia quy phạm

pháp luật quốc tế thành quy phạm đa phương ph ổ cập, quy phạm đa phương

khu vực và quy phạm song phương.
Quy phạm đa phương phổ cập là quy phạm có giá trị bắt buộc với hầu
hết các quốc gia trên thế giới. Quy phạm này thường được ghi nhận trong các
điều ước quốc tế đa phương phổ cập ( điểu ước có sự tham gia đông đảo của
hầu hết các quốc gia trên thế giới) hoặc tồn tại dưới dạng các quy phạm tập
quán .
Quy phạm đa phương khu vực là quy phạm chỉ có giá trị bắt buộc đối
với một số quốc gia nhất định là thành viên của điều ước quốc tế cụ thể.
Thông thường đó là các điều ước quốc tế được ký kết giữa các quốc gia trong
cùng khu vực địa lý hoặc cùng xu hướng chính trị hoặc cùng chung lợi ích.

r


Quy phạm song phương là những quy phạm chỉ có giá trị bắt buộc đối
với hai quốc gia hoặc hai chủ thể của pháp luật quốc tế cùng tham gia một
quan hệ điều ước quốc tế song phương.
Quy phạm đa phương khu vực và quy phạm song phương có một ý
nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia có những
vấn đề đặc thù mà quy phạm đa phương phổ cập không thể trực tiếp điều
chỉnh.
Về mặt lý luận, mọi quy phạm pháp luật quốc tế đều do chủ thể của
pháp luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên chứ không phải do một cơ quan có
thẩm quyền nào đó ban hành. Chính vì vậy, các quy phạm pháp luật quốc tế
có giá trị pháp lý ngang nhau cho dù mục đích và chủ thể xây dựng nên quy
phạm đó hoàn toàn khác nhau. Nói cách khác, trong hệ thống pháp luật quốc
tế, về nguyên tắc, các quy phạm điều ước có giá trị pháp lý ngang nhau.
Tương tự, giá trị pháp lý của quy phạm điều ước cũng không cao hơn quy
phạm tập quán. Điều này hoàn toàn khác với hệ thống pháp luật quốc gia.
Trong hệ thống pháp luật quốc gia, tùy thuộc vào cơ quan ban hành mà các

quy phạm pháp luật quốc gia có giá trị pháp lý khác nhau, trong đó, quy phạm
Hiến pháp là quy phạm có giá trị pháp lý cao nhất.
Mặc dù các quy phạm pháp luật quốc tế có giá trị pháp lý ngang nhau
nhưng trong pháp luật quốc tế không hạn chế ý chí của các chủ thể trong việc
thỏa thuận ưu tiên áp dụng một số quy phạm nhất định để điều chỉnh quan hệ
cụ thể phát sinh giữa các chủ thể đó.
Theo Điều 103 Hiến chương Liên Hợp Quốc, trong trường hợp những
nghĩa vụ của quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc được quy định trong Hiến
chương mâu thuẫn với những nghĩa vụ của quốc gia này theo quy định của bất
kỳ một thỏa thuận quốc tế nào khác thì những nghĩa vụ theo Hiến chương
Liên Hợp Quốc sẽ được ưu tiên thi hành. Với quy định này, các quốc gia
thành viên Liên Hợp Quốc đã thừa nhận giá trị ưu tiên áp dụng của quy phạm
được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp Quốc so với các quy phạm pháp
luật quốc tế khác.


Tại Điều 30 Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969, các
quốc gia cũng đã thỏa thuận đưa ra một số nguyên tắc để giải quyết sự mâu
thuẫn, xung đột giữa các điều ước quốc tế trong trường hợp có hai hay nhiều
điều ước quốc tế cùng điều chỉnh một lĩnh vực. Cụ thể là:
- Nguyên tắc ưu tiên điều ước quốc tế được ký kết gần nhất của quốc
gia ( Nguyên tắc Lex posterior derogat priori). Nguyên tắc này được áp dụng
khi tất cả các bên tham gia điều ước quốc tế có trước cũng là các bên tham gia
điều ước quốc tế có sau. Trong trường hợp này, quy phạm của điều ước quốc
tế có sau sẽ được ưu tiên áp dụng. Quy phạm của điều ước quốc tế có trước chỉ
được áp dụng nếu nó phù hợp với điều ước quốc tế có sau ( Điều 30 khoản 3).
- Trong trường hợp không phải tất cả các bên tham gia điều ước quốc tế
có trước cũng là các bên tham gia điều ước quốc tế có sau thì nguyên tắc ưu
tiên điều ước quốc tế được ký kết gần nhất sẽ áp dụng trong quan hệ giữa các
quốc gia tham gia cả hai điều ước quốc tế. Còn trong quan hệ giữa quốc gia

tham gia cả hai điều ước quốc tế với quốc gia chỉ tham gia một trong hai điều
ước quốc tế thì điều ước quốc tế mà cả hai quốc gia tham gia sẽ điều chỉnh
quan hệ giữa họ với nhau ( Điều 30 khoản 4).
Ngoài các quy định cụ thể nêu trên, trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế
còn xuất hiện một số thông lệ về việc ưu tiên áp dụng quy phạm nào đó của
pháp luật quốc tế. Chẳng hạn, ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế trong trường
hợp có cả điều ước quốc tế và tập quán quốc tế cùng điều chỉnh một quan hệ
cụ thể, hay giành quyền ưu tiên áp dụng cho điều ước quốc tế chuyên môn so
với điều ước quốc tế chung...
Như vậy, trong hệ thống pháp luật quốc tế, mặc dù không có sự phân
chia thứ bậc giữa các quy phạm pháp luật quốc tế nhưng để điều chỉnh quan
hệ xã hội cụ thể phát sinh trong sinh hoạt quốc tế, chủ thể của pháp luật quốc
tế có thể thỏa thuận ưu tiên áp dụng quy phạm pháp luật quốc tế nào đó.
Chính điều này sẽ góp phần giải quyết mâu thuẫn, xung đột giữa các quy


phạm pháp luật quốc tế và thúc đẩy quá trình giao lưu hợp tác giữa các chủ thể
của pháp luật quốc tế.
*

Nguyên tắc pháp luât quốc tế

Bên cạnh các quy phạm, pháp luật quốc tế còn được cấu thành bởi hệ
thống các nguyên tắc bao gồm: nguyên tắc cơ bản, nguyên tắc chuyên ngành,
nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia ở phạm vi khu vực và nguyên tắc
trong quan hệ song phương.
Nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế chính là những tư tưởng pháp
lý mang tính chỉ đạo, bao trùm và có giá trị bắt buộc chung đối với các chủ
thể khi tham gia quan hệ pháp luật quốc tế. [ 11,29]
Nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc

điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia cũng như giữa các chủ thể khác của
pháp luật quốc tế ở phạm vi toàn cầu. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
quốc tế bao gồm:
- Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia.
- Nguyên tắc không dùng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ
quốc tế.
- Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế.
- Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác.
- Nguyên tắc tự nguyện thực hiện các cam kết quốc t ế .
- Nguyên tắc dân tộc tự quyết.
- Nguyên tắc các quốc gia có trách nhiệm họp tác vói nhau.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản bao trùm toàn bộ hệ thống pháp luật quốc
tế, mỗi một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế lại có nguyên tắc
riêng thể hiện đặc thù của ngành luật đó. Những nguyên tắc này được gọi là
nguyên tắc chuyên ngành. Ví dụ: nguyên tắc tự do biển cả của Luật biển quốc
tế, nguyên tắc tự do bay trên không phận quốc tế của Luật hàng không dân
dụng quốc tế.


Trong quan hệ song phương hoặc quan hệ giữa các quốc gia ở cùng một
khu vực địa lý cũng có nguyên tắc riêng điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia
này và chỉ có giá trị bắt buộc đối với họ. Ví dụ: Nguyên tắc trong quan hệ
giữa các nước là thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á.
Tuy nhiên, dù là nguyên tắc chuyên ngành, nguyên tắc trong quan hệ
song phương hay nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia cùng khu vực thì
một yêu cầu đặt ra là chúng đều phải được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật quốc tế.
Trong hệ thống pháp luật quốc tế, việc phân biệt giữa nguyên tắc và quy
phạm chỉ mang tính ước lệ. Hầu hết các nguyên tắc của pháp luật quốc tế được
ghi nhận dưới dạng quy phạm. Ví dụ: Nguyên tắc không dùng vũ lực và đe

dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế được ghi nhận tại Điều 2 Hiến chương
Liên Hợp Quốc.
Lý luận và thực tiễn cũng đã chứng minh rằng, các nguyên tắc của pháp
luật quốc tế chính là các quy phạm mang tính nguyên tắc. Các quy phạm này
khác với các quy phạm thông thưòng của pháp luật quốc tế ở chỗ chúng chỉ đề
cập đến những vấn đề chung mà không trực tiếp điều chỉnh quan hệ cụ thể
phát sinh giữa các chủ thể của pháp luật quốc tế. Chính vì vậy, trong pháp luật
quốc tế không tồn tại sự phân chia ranh giới tuyệt đối giữa nguyên tắc và quy
phạm.
*

Chế đinh pháp luât guốc tế

Chế định pháp luật quốc tế là nhổm những nguyên tắc, quv pham pháp
luật quốc tế điều chỉnh mốt nhổm các quan hộ xã hỏi cùng loai phát sinh trong
sinh hoạt quốc tế và có mối liên hệ mật thiết vởi nhau. Ví dụ: Chế định công
nhận, chế định kế thừa, chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế...
Chế định pháp luật quốc tế mang tính chất nhóm, mỗi chế định có đặc
điểm riêng nhưng chúng đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong một chỉnh
thể thống nhất của hệ thống pháp luật quốc tế nói chung và của một ngành
pháp luật quốc tế nói riêng.


*

Ngành pháp luât quốc tế

Hệ thống pháp luật quốc tế được cấu tạo nên bởi các ngành luật có mối
liên hệ gắn bó mật thiết với nhau. Ngành pháp luật quốc tế bao gồm hệ thống
nguyên tắc, quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại phát

sinh trong một lĩnh vực nhất định của đời sống quốc tế.
Việc xác định tính chất, nội dung và phạm vi mỗi ngành luật chủ yếu
dựa vào đối tượng điều chỉnh của ngành luật ấy. Tuy nhiên trên thực tế, việc
phân chia các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế ở các nước không
hoàn toàn giống nhau. Bởi lẽ, việc phân chia này không chỉ dựa vào yếu tố
khách quan là các quan hệ thực tế phát sinh trong sinh hoạt quốc tế mà còn
tùy thuộc vào ý chí chủ quan của mỗi quốc gia. Nói cách khác, tùy thuộc vào
mức độ tham gia quan hệ quốc tế và nhu cầu lợi ích của chính quốc gia mà
quốc gia sẽ thừa nhận hay không thừa nhận sự tồn tại của một ngành luật nào
đó trong hệ thống pháp luật quốc tế, đặc biệt là những ngành luật điều chỉnh
vấn đề nhạy cảm trong sinh hoạt quốc tế chẳng hạn như ván đề nhân quyền,
môi trường hay tôn giáo. Đối với những vấn đề này, một số quốc gia coi là
công việc nội bộ của quốc gia, nhưng một số khác lại coi là vấn đề mang tính
toàn cầu và phải được sự điều chỉnh bằng quy phạm pháp luật quốc tế.
Mặc dù có quan điểm khác nhau về các ngành luật trong hệ thống pháp
luật quốc tế, nhưng nhìn chung các quốc gia đều thừa nhận hệ thống pháp luật
quốc tế bao gồm những ngành luật chủ yếu như: Luật điều ước quốc tế, Luật
biển quốc tế, Luật hàng không dân dụng quốc tế, Luật vũ trụ quốc tế, Luật
ngoại giao lãnh sự, Luật nhân đạo quốc tế, Luật môi trường quốc tế, Luật kinh
tế quốc tế, ...
Tóm lại, khác với pháp luật quốc gia - kết quả của hoạt động lập pháp
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền - pháp luật quốc tế là kết quả của sự
thỏa hiệp lợi ích giữa các chủ thể trong quá trình cùng tồn tại, hợp tác và đấu
tranh với nhau. Không những thế, các đặc điểm về đối tượng điều chỉnh, chủ


×