Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của thẩm phán trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.7 MB, 101 trang )

%

BỘ GIÁO ĐỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
* ^54$*

BÙI THỊ HUYỀN

VU.

LUẬN VÃN THẠC s ĩ LUẬT
8

s

HÀ NỘI - 2001



eọc
«


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI



BÙI THỊ HUYỀN

VỂ NHIỆM VỤ, QUYỂN HẠN, TRÁCH NHIỆM
CỦA THẨM PHÁN TRONG T ố TỤNG DÂN s ự

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tô tụng dân sự
Ma số: 50507

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC








Người hướng dẫn khoa học
TS: ĐINH NGỌC HIỆN

TRL:r>HÀ NỘI NĂM 2001

v:ẫ^~ì


: ĩ “n \ ĩ


£ ỉĩ i c ả m


ổ n 'tm C€VM đ c a n

luđn năn đttóc

/ỉiàn/t ríĩi íìt/ yìiíịt

đ ẽ n ỉù ê l ũnA của các &ĨÚLU, đăc ể iê / là

y/u ĩ^

ìtưỚMý d ẫ n QDinÁ jV ỹ{ie ^ iê n - & iến

(£ .u đ t - ểPỉtó

n iên lu ổẻn ỹ 'Viên jV ỹA iên cứa

cìúnA y£oc-

n iên y^ànA c/ú n /i 2 u êc ỹ ia . M ìn cÁđn tÁànÁ cảm
€ĩn ứhầAý nà các £TỈÚMý

Á/ưa ^ ao Jwc> cúc

đềrtỹĩ n
&m rm n đocvn đ đ ỵ lầ cên<ý t/iìnẮ lao đởn ỹ hũau
ítoc đôc lậ ý i của cú nJứbn tôi, Áivởytỹ m &ư ếao cẬiéỷi
íưìăc bử díỊM ỹ hAtìny điMĩty các côntý i/ùnrt /ì/m a ịtoc có
tuổổe của cúc n ỉià Áyỉwu


àỉư íc./.

ẵSùl &Ẵi 3 ũ tyên


BẢNG QUI ƯỚC VIẾT TẮT

BLDS:

Bộ luật Dãn sự

BLHS:

Bộ luật Hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CHXHCN:

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

HĐND:


Hội đổng nhân dân

HTND:

Hội thẩm nhân dân

SL:

Sắc lệnh

TAND:

Toà án nhân dân

TANDTC:

Toà án nhân dân Tối cao

TTDS:

TỐ tụng dân sự

TTGQCVADS:

Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

TTGQCVAKT:

Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế


TTGQCTCLĐ:

Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động

THADS:

Thi hành án dân sự

ƯBND:

u ỷ ban nhân dân

UBTVQH:

u ỷ ban thường vụ Quốc hội

ƯBTPTANDTC:

Ưỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC:


Viện kiểm sát nhân dân Tối cao

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

Chương 1 VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THAM

phá n tro n g

Tố

TỤNG DÂN S ự

1.1.

Vị trí, vai trò của Toà án và Thẩm phán trong bộ
máy nhà nước CHXHCN Việt Nam.

1.2.

Quá trình lịch sử của việc xác định yị trí, vai trò
của Thẩm phán trong TTDS.

1.3.


Một số qui định của pháp luật TTDS nước ngoài về
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán
trong TTDS.

Chương 2 c ơ SỞ LÝ LUẬN VÀ THựC TIỄN c ủ a v i ệ c x á c
ĐỊNH CỤ THỂ NHIỆM v ụ , QUYỀN h ạ n , t r á c h
NHIỆM CỦA THẨM PHAN TRONG T ố TỤNG
DÂN S ự
2.1.

Đường lối đổi mói của Đảng về cải cách hành
chính, cải cách tư pháp - Cơ sở lý luận của việc xác
định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
Thẩm phán trong TTDS.

2.2.

Cơ sở pháp lý của việc xác định cụ thể nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong
TTDS.


2

2*3*

Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các chức
danh tư pháp - Cơ sở so sánh để xác định cụ thể
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán

trong TTDS.

36

2.4.

Cơ sở thực tiễn của việc xác định cụ thể nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong
TTDS.

42

2*5.

ý nghĩa của việc xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS.

Chương 3 XÁC ĐỊNH cụ THỂ NHIỆM vụ, QUYỄN h ạ n ,
TRÁCH NHIỆM CỦA THAM
TỤNG DÂN s ự

54

p h á n t r o n g tô

3.1.

Về những nhiệm vụ của Thẩm phán trong TTDS.

54


3.2.

Về những quyền hạn của Thẩm phán trong TTDS.

65

3.3.

Về các trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS.

83

24

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về việc xác
định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
Thẩm phán trong TTDS.

88

PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

93
95


3
PHẨN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Thẩm phán là người được Chủ tịch nước bổ nhiệm theo qui định của pháp
luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình,
lao động, kinh tế và giải quyết những việc khác theo qui định của pháp luật thuộc
thẩm quyền của Toà án.
Thực tiễn hoạt động TTDS tại các Toà án cho thấy, khi được phân công giải
quyết một vụ việc dân sự cụ thể thì toàn bộ các công việc như thu thập tài liệu,
chứng cứ, lập hồ sơ vụ việc, hoà giải, ra các quyết định tố tụng cần thiết... đều do
Thẩm phán đảm nhiệm. Nhưng phần lớn các hoạt động TTDS mà Thẩm phán
thực hiện lại được pháp luật xác định dưới hình thức hoạt động của Toà án, nên
trong hoạt động TTDS của Toà án nói chung và của Thẩm phán nói riêng bộc lộ
nhiều điểm hạn chế, mâu thuẫn, tạo thành cơ chế quan liêu trong hoạt động xét
xử; tính chủ động, sáng tạo, độc lập của Thẩm phán bị hạn chế. Từ thực trạng đó
mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhiều khi không được bảo vệ kịp
thời, hoạt động tố tụng kéo dài gây phí tổn cho Nhà nước và cho đương sự về chi
phí kinh tế và nguồn lực con người.
Đại hội VIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ “cải cách tổ chức, hoạt động
của các cơ quan tư pháp”. Tinh thần đổi mới đó tiếp tục được Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX khẳng định và mở rộng: “cải cách tổ chức, nâng cao
chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách
nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam
giữ, truy tố, xét xử, thi hành án...” [32, tr 133].
Khi nói đến vấn đề cải cách tổ chức, hoạt động của Toà án trong lĩnh vực
TTDS phải nói đến vấn đề đổi mới chính hoạt động của Thẩm phán, nghĩa là cần
xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong lĩnh vực


4
TTDS, cũng như xác định các điều kiện cần thiết để Thẩm phán có thể hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.

Việc làm rõ “NHIỆM vụ, QUYỂN HẠN, TRÁCH NHIỆM CỦA THAM phán
TRONG TỐ TỤNG DÂN sự” là yêu cầu cấp thiết đáp ứng được đòi hỏi đối với luận

văn thạc sỹ khoa học Luật và phần nào đó giải quyết được vấn đề còn trống vắng
trong khoa học luật nói chung và khoa học Luật TTDS nói riêng.
2.Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
* Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động TTDS, từ đó
làm rõ sự cần thiết phải xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
Thẩm phán trong TTDS.
- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định cụ thể nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán, từ đó có những kiến nghị và đề xuất về
việc xây dựng những qui định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của
Thẩm phán trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
tế, lao động và những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Trên cơ sở mục đích của việc nghiên cứu đề tài, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu đề tài được xác định là:
- Tập trung nghiên cứu những qui định của pháp luật TTDS Việt Nam về vị
trí, vai trò và đặc biệt là các qui định có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của Thẩm phán trong TTDS qua các thời kỳ.
- Nghiên cứu một số qui định của pháp luật TTDS của một số nước
như: Pháp, Nga, Trung Quốc, Đài Loan, Thái lan, Thụy Điển, Đan Mạch... về
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS nhằm so sánh
và tham khảo.

- Nghiên cứu thực tiễn hoạt động TTDS của Toà án nhằm làm rõ sự cần


5

thiết phải xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trong quá trình xây dựng Bộ luật TTDS, thời gian qua đã có nhiều công
trình nghiên cứu giải quyết cơ sở lý luận, thực tiễn cho từng vấn đề trong TTDS.
Liên quan đến việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán
trong TTDS đã có một số tác giả đề cập đến ở những khía cạnh khác nhau trên
các tạp chí khoa học pháp lý. Đặc biệt, trong đề tài khoa học cấp Bộ “Một số vấn
đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật TTDS”, Mã số 95-98046/ĐT của TANDTC đã có bài viết “Xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán, vấn đề thực tiễn và yêu cầu trong việc xây dựng qui trình và thủ tục TTDS”
của Tiến sỹ Đinh Ngọc Hiện. Ngoài ra, cho đến nay chưa có một công trình khoa
học nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về vấn đề nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học.
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
- Phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành được sử dụng như
phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và phương
pháp xã hội học như lấy số liệu, khảo sát, phỏng vấn, sử dụng các kết quả
thống kê... để hoàn thành luận văn.
5. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu.
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống để đưa ra những đề xuất
về việc xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán
trong TTDS. Cụ thể:
Thứ nhất: Xác định cụ thể những nhiệm vụ của Thẩm phán trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh tế, lao động của Toà án.


6
Thứ hai: Luận giải rõ phạm vi, mức độ quyền hạn cần thiết của Thẩm phán

khi thực hiện nhiệm vụ của mình trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động.
Thứ ba: Xác định rõ trách nhiệm của Thẩm phán về việc thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình trong quá trình TTDS.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu giảng dạy ở bậc
đại học và là tư liệu tốt để các nhà khoa học tham khảo trong nghiên cứu khoa học
TTDS và giúp ích cho việc xây dựng Bộ luật TTDS về vấn đề xác định cụ thể nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS ở Việt Nam.
6. Bố cục của luận án.
Luận án gồm: Phần mở đầu, 3 chương và phần kết luận.
Chương 1: Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong TTDS.
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định cụ thể nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS.
Chương 3: Xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm
phán trong TTDS.


7

Chương 1
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THAM

1.1.

phán tro n g

T ố TỤNG DÂN s ự

Vị trí, vai trò của Toà án và Thẩm phán trong bộ máy Nhà nước


CHXHCN Việt nam.
Bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc: “Tất
cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”[5, tr 137], “Quyền lực nhà nước là
thống nhất có sự phân công, phối hợp giữa cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[31, tr 129].
Để đảm bảo quyền lực nhà nước thì việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp đều có vị trí, vai trò quan trọng. Việc tổ chức thực hiện đầy
đủ và đồng bộ ba quyền trên sẽ đảm bảo phát huy sức mạnh của quyền lực nhà
nước. Quyền tư pháp được thực hiện bởi hệ thống các cơ quan điều tra, viện kiểm
sát, toà án, thi hành án, các cơ quan này đều có nhiệưi vụ chung là bảo vệ chế độ
XHCN, bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ
tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của công dân. Trong số các cơ
quan tư pháp, Toà án là cơ quan có vị trí, vai trò quan trọng nhất - Nơi mà kết quả
các hoạt động tư pháp khác như điều tra, truy tố, xét xử..., được kiểm tra, xem
xét, đánh giá công khai, khách quan mang tính quyền lực nhà nước. Vì vậy, Toà
án là nơi thể hiện tập trung chất lượng hoạt động và uy tín của các cơ quan tư
pháp và hơn thế nữa đó chính là nơi thể hiện tập trung nhất quyền lực tư pháp của
Quốc gia, ở đó mỗi phán quyết của Toà án biểu hiện được tính công minh của
pháp luật và nền công lý của Nhà nước đó.
Trong hoạt động xét xử của Toà án, Thẩm phán là nhân vật trung tâm.
Thẩm phán là người được nhân danh Nhà nước làm nhiệm vụ xét xử. Thông qua
hoạt động xét xử, Thẩm phán có nhiệm vụ xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật để buộc người thực hiện hành vi vi


8
phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm trước pháp luật do hành vi của mình gây
ra... đồng thời thông qua việc xét xử các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh tế, lao động; bản án do Thẩm phán tuyên đã lập lại trật tự của các quan hệ
pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động theo đúng qui định của

pháp luật, từ đó góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Trong lĩnh vực TTDS, vị trí và vai trò của Thẩm phán càng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Bởi khác với tố tụng hình sự, hoạt động chứng minh một
người có thực hiện hành vi phạm tội hay không? tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi đó tới đâu? được thực hiện bởi hoạt động của các Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Còn trong TTDS toàn bộ các hoạt động từ
khi thụ lý, thu thập chứng cứ, lập hồ sơ, hoà giải, xét xử... đều được thực hiện
thông qua hành vi của Thẩm phán.
Ngay từ khi giành được chính quyền, Nhà nước ta luôn chú trọng tới qui
định của pháp luật về vị trí, vai trò của Thẩm phán, đặc biệt trong lĩnh vực TTDS.
1.2.

Quá trình lịch sử của việc xác định VỊ trí, vai trò của Thẩm

phán trong TTDS.
Vị trí, vai trò của Thẩm phán ngày càng được khẳng định và hoàn thiện
gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của TAND, gắn liền với lịch sử phát
triển của bộ máy nhà nước và vái lịch sử cách mạng của dân tộc. ỏ mỗi thời kỳ,
trong các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án cũng như trong
các văn bản pháp luật tố tụng khác, vị trí, vai trò của Thẩm phán luôn được xác
định thông qua nhiệm vụ, quyền hạn của họ.
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959.
Ngay sau khi giành được chính quyền, để xây dựng và củng cố chính
quyền cũng như để đáp ứng đòi hỏi mới của đời sống dân sự, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức Toà án và các ngạch
Thẩm phán, sắc lệnh số 13/SL đã đặt cơ sở đại cương đầu tiên cho việc tổ chức


9
nền tư pháp nói chung và pháp luật TTDS của nước ta nói riêng.

Theo Sắc lệnh này, các Toà án được tổ chức theo địa giới hành chính, gồm:
Toà sơ cấp, Toà đệ nhị cấp, Toà thượng thẩm; ngoài ra Ban tư pháp xã, phường
cũng nằm trong hệ thống các cơ quan xét xử cho đến ngày 14/7/1960. Có hai
ngạch Thẩm phán: ngạch sơ cấp và ngạch đệ nhị cấp. Thẩm phán sơ cấp làm việc
ở Toà sơ cấp, Thẩm phán đệ nhị cấp làm việc ở các Toà đệ nhị cấp và Toà thượng
thẩm. Vị trí, vai trò của Thẩm phán ở mỗi cấp Toà án được xác định khác nhau
thông qua nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của họ. Đó là:
+ Đối với Toà sơ cấp “Tại phiên toà, Thẩm phán xét xử một mình”, hay
“Toà sơ cấp có thể ngày nào cũng xử kiện, dù là chủ nhật hay ngày lễ cũng được.
Lại có thể nếu cần đến, mở phiên toà ngoài trụ sở của Toà án, ở các nơi xa cách
Toà” (Điều 10-SL 13). Các quy định này được ban hành khi mà về mặt tổ chức
Toà án sơ cấp (ở mỗi quận, phủ, huyện, châu thòi kỳ đó có một toà sơ cấp) chỉ có
một Thẩm phán, một lục sự hay nhiều Thư ký giúp việc (Điều 9-SL 13).
+ Đối với Toà đệ nhị cấp (được tổ chức ở mỗi tỉnh và các thành phố Hà
Nội, Hải Phòng, Sài Gòn - Chợ Lớn), “ v ề dân sự và thương sự, Chánh án xử một
mình” (Điều 17-SL 13).
+ Đối với Toà thượng thẩm (ở mỗi kỳ có 2 toà) làm nhiệm vụ

Phúc lại

các án tiểu hình và đại hình” (Điều 38-SL 13). “Khi xử các việc hình, về các vấn
đề liên quan đến... việc hộ và thương mại ông Chánh án và hai Hội thẩm quyết
nghị lấy, các Phụ thẩm nhân dân không tham dự” (Điều 43- SI 13).
+ Ban tư pháp xã ở mỗi xã làm nhiệm vụ hoà giải tất cả các việc về dân sự
và thương sự (Điều 3-SL 13).
Như vậy, việc giải quyết các việc dân sự và thương sự chủ yếu được thực hiện
bởi Ban tư pháp xã, Toà sơ cấp và Toà đệ nhị cấp. Những việc dân sự, thương sự
được xác định thuộc thẩm quyền của Toà án chính là thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
Thẩm phán. Đó là nhiệm vụ, quyền hạn xét xử hay xử án. Bởi vì cũng chính tại Điều



10
47 và 50-SL 13 khẳng định: “ Các vị Thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý.
Các cơ quan khác không được can thiệp vào hoạt động tư pháp”. “Mỗi Thẩm phán
xử án quyết định theo pháp luật và lương tâm của mình. Không quyền lực nào được
can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án”. Các qui định này cho thấy,
hoạt động xét xử của Thẩm phán có vị trí vô cùng quan trọng. Đó chính là vai trò
nhân danh Nhà nước thực hiện quyền tư pháp, cho nên trong tờ trình gửi Chủ tịch
nước, ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh đã chỉ rõ:
Thà không có Thẩm phán còn hơn có người mà vô tài, vô hạnh. Khi lập
một hạng người có quyền xét xử và làm tội người khác bản bộ thấy rõ
trách nhiệm đối với nội trị và cả đối với ngoại giao nữa. Bản bộ không
quên rằng người ngoại quốc, khi tới một nước, trước khi hoạt động về
kinh tế hay làm một việc gì, vẫn tự hỏi luật lệ và Thẩm phán ở nước ấy có
đủ minh bạch và công bằng để đảm bảo cho họ không?... Toà án và Thẩm
phán là động cơ của nền tư pháp [50, tr 64].
Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của Thẩm phán nên chính trong
SL 13 đã có qui định cụ thể về tiêu chuẩn của Thẩm phán cũng như trách nhiệm
của Thẩm phán trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Đó là Thẩm
phán Toà đệ nhị cấp do Chủ tịch nước bổ nhiệm, Thẩm phán sơ cấp do Bộ trưởng
Bộ Tư pháp bổ nhiệm với những tiêu chuẩn cụ thể. Và khi được bổ nhiệm “Các
Thẩm phán không thể lấy cớ gì, ngoài trường hợp cáo tỵ và hồi tỵ mà từ chối
không xét xử một việc nào” (Điều 80); “Các Thẩm phán phải làm đầy đủ bổn
phận, dự đều các phiên toà, xét xử thật nhanh chóng và công minh. Thanh liêm là
một đức tính thiêng liêng của các Thẩm phán Việt Nam ngày nay” (Điều 83);
“Trong đời tư cũng như đời công, các Thẩm phán phải cư xử đúng mực và biết tự
trọng để giữ thanh danh và phẩm cách một vị quan toà” (Điều 84); “Các Thẩm
phán phải tôn trọng Chính phủ và trung thành với chính thể dân chủ cộng hoà”
(Điều 85). Bên cạnh đó, theo SL 13 Thẩm phán cũng được hưởng những đặc
quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ khác. Ngoài ra, Điều 3 SL này qui định Ban



11
tư pháp xã có quyền “ thi hành những mệnh lệnh c ủa các Thẩm phán cấp trên”.
Qua các qui định đó có thể hiểu, ngoài việc ra bản án, quyết định theo thẩm
quyền của Toà án, Thẩm phán còn có quyền ra các quyết định khác để giải quyết
một vụ việc cụ thể. Tuy nhiên, quyền hạn ra các loại quyết định khác nào thì
chưa được xác định cụ thể trong các văn bản pháp luật thời kỳ đó.
Như vậy, với SL 13- văn bản pháp lý đầu tiên qui định về tổ chức Toà án và
các ngạch Thẩm phán, vị trí, vai trò của Thẩm phán trong TTDS được xác định
với nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu là xét xử các vụ án dân sự và thương sự (trùng
với nhiệm vụ của Toà án) và nhiệm vụ, quyền hạn ra các quyết định khác để giải
quyết các vụ án cụ thể (độc lập với nhiệm vụ, quyền hạn của Toà án).
I
Với SL 51 ngày 17/4/1946 về “ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân
công giữa các nhân viên trong Toà án”, dưới góc độ tố tụng, vị trí, vai trò của
Thẩm phán trong lĩnh vực TTDS đã được xác định tương đối cụ thể thông qua
nhiệm vụ, quyền hạn của họ. Cụ thể:
+ Thẩm phán toà sơ cấp có quyền:
- Chung thẩm những việc dân sự, thương sự về động sản mà giá ngạch do
nguyên đơn định không quá 150đ và các khoản lệ phí (Điều 6).
- Sơ thẩm những việc dân sự hay thương sự về động sản mà giá ngạch do
nguyên đơn định trên 150đ nhưng dưới 450đ (Điều 6).
- Hoà giải giữa 2 bên đương sự... Biên bản hoà giải có hiệu lực công
chứng thư (Điều 9).
- Những việc kiện dân sự và thương sự thuộc về thẩm quyền của Toà đệ nhị
cấp đều phải giao trước về cho ông Thẩm phán toà sơ cấp thử hoà giải (Điều 12).
- Ngoài ra, ông Thẩm phán sơ cấp có thêm nhiệm vụ kiêm phụ trách tư
pháp cảnh sát trong nội hạt mình dưới quyền chỉ huy của ông Biện lý (Điều 15).
+ Ồ Toà đệ nhị cấp, nhiệm vụ, quyền hạn của ông Chánh án cũng được xác



12
định rõ: “Ông có thể uỷ thác cho các ông Thẩm phán một phần những vụ kiện mà
ông đã thụ lý. Tuy thế, các Thẩm phán và Dự thẩm được tự do định đoạt trong
các việc xét xử thuộc phạm vi của minh...” (Điều 17).
Theo những qui định này, mọi hoạt động của Toà án đệ nhị cấp đều do
Chánh án điều khiển và kiểm soát, nhưng khi Chánh án đã giao cho Thẩm phán
giải quyết một vụ việc nào đó, thì Thẩm phán có đầy đủ quyền hạn như ông
Chánh án trong phạm vi giải quyết vụ việc đó.
So với SL 13 ngày 24/01/1946 nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán và sự
phân định quyền hạn giữa Chánh án và Thẩm phán ở Toà đệ nhị cấp trong SL 51
ngày 17/4/1946 được xác định cụ thể, rõ ràng hơn. Đây là một bước tiến đáng kể,
khẳng định vị trí, vai trò của Thẩm phán trước đòi hỏi của thực tiễn xét xử.
Ngày 9/11/1946 bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà được Quốc hội thông qua; vị trí, vai trò của Thẩm phán tiếp tục được khẳng
định và được ghi nhận trong văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất. Do có vai trò
đặc biệt quan trọng nên: “Các viên Thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm”
(Điều 64-HP 46) hay “Trong khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp
luật, các cơ quan khác không được can thiệp” (Điều 69-HP 46).
Sau đó, do điều kiện của chiến tranh, việc liên hệ giữa các Toà án có thể bị
gián đoạn, nên Điều 8 sắc lệnh 185/SL ngày 26/5/1948 ấn định thẩm quyền của
Toà sơ cấp và đệ nhị cấp cho phép

về dân sự Thẩm phán sơ cấp có quyền ra

mệnh lệnh áp dụng các biện pháp bảo thủ cần thiết, không có giới hạn nào” trong
điều kiện giao thông bị gián đoạn.
Cho đến năm 1950, theo sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ
máy tư pháp và luật tố tụng, ngoài việc đổi tên các Toà án thành TAND huyện,

TAND tỉnh và phúc thẩm, đáng chú ý hơn cả là Thẩm phán huyện còn được giao
thêm các nhiệm vụ: “Chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và
các án hộ, mà chính Toà án huyện hoặc Toà án trên đã tuyên” dưới sự kiểm soát


13
của ông Biện lý (Điều 19).
Hội nghị cán bộ tư pháp toàn quốc lần thứ 7, họp trong tháng 4/1951 đã kiểm
thảo việc thực hiện chế định HTND và thông qua đề án qui định lề lối làm việc của
Thẩm phán và HTND trong TAND. Bộ Tư pháp đã thông qua Thông tư số 2P-4
ngày 5/2/1952 sửa đổi bộ phận chế định HTND và qui định quyền hạn, nhiệm vụ và
lề lối làm việc của HTND các cấp. Thông tư này khẳng định Thẩm phán là công
chức, cùng với HTND lập thành một khối là TAND. Thẩm phán là người chuyên
trách thường xuyên ở Toà án, gánh vác nhiệm vụ theo dõi và nhìn bao quát mọi hoạt
động từ công việc tổ chức, điều khiển, văn phòng, cho đến công việc chuẩn bị cho
việc xét xử và hoà giải... Cả Thẩm phán và HTND cùng chịu trách nhiệm chung
trước Chính phủ và trước nhân dân về kết quả hoạt động của Toà án... Và mỗi người
phải chịu trách nhiệm tuỳ theo nhiệm vụ riêng của mình.
Như vậy,

mặc dù chưa đầy đủ nhưng những qui định về nhiệm vụ,

quyền hạn của Thẩm phán trong giai đoạn này đã khẳng định vị trí, vai trò của
Thẩm phán, nổ không những đã đáp ứng được yêu cầu của công tác xét xử, mà
còn đặt nền móng cho việc hoàn thiện các qui định pháp luật trong các giai
đoạn sau này.
1.2.2. Giai đoạn từ 1960 đến 1980.
Sau khi ban hành Hiến pháp 1959, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà đã thông qua Luật Tổ chức TAND ngày 14/7/1960 và UBTVQH đã thông
qua Pháp lệnh qui định cụ thể về tổ chức TANDTC và tổ chức của các TAND địa

phương ngày 23/3/1961. Các văn bản pháp luật này đã đánh dấu một bước ngoặt
lớn của ngành tư pháp nói chung và pháp luật TTDS nói riêng. Theo qui định tại
các văn bản pháp luật quan trọng này, hệ thống TAND có một số thay đổi, Viện
công tố được tách khỏi hệ thống Toà án và hệ thống Toà án bao gồm: Toà án tối
cao, các TAND địa phương, các Toà án Quân sự.
Trong điều kiện của công cuộc cải tạo XHCN, xây dựng CNXH ở miền


14
Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước ở miền Nam; TAND giữ vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ chế độ, bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ tài sản và quyền, lợi ích
hợp pháp của nhân dân... Thông qua hoạt động của mình các Thẩm phán của các
Toà án giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc với chế độ dân chủ nhân dân,
tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác... Đó là nhiệm vụ nặng nể và
khó khăn, cho nên nhiệm vụ, quyền hạn của Toà án phải do những cán bộ (Thẩm
phán) được sự tín nhiệm của nhân dân, có đủ năng lực và chịu trách nhiệm trước
nhân dân thực hiện. Vì vậy, Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức TAND năm
1960 đã qui định: “Các TAND thực hành chế độ Thẩm phán bầu theo qui định
của pháp luật”; “Khi xét xử, TAND có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Theo qui định tại Điều 99 Hiến pháp 1959 thì “Việc xét xử có HTND tham
gia theo qui định của pháp luật...”, có nghĩa việc xét xử của Toà án được thực
hiện bởi Thẩm phán và HTND. Trên cơ sở qui định này, Điều 12 Luật Tổ chức
TAND năm 1960 có qui định nguyên tắc “Toà án nhân dân thực hành chế độ xét
xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi sơ thẩm, TAND gồm một Thẩm phán và
hai HTND...”. Như vậy, mặc dù nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa
số đã được ghi nhận tại Điều 12 Luật Tổ chức TAND năm 1960, nhưng do Hiến
pháp năm 1992 chưa qui định nguyên tắc này, nên việc Thẩm phán được một
mình xét xử sơ thẩm (không có HTND tham gia) đối với những vụ án nhỏ, giản
đơn và không quan trọng được chấp nhận và được qui định chính tại Điều 12
Luật tổ chức TAND năm 1960.

Về việc TAND xét xử sơ thẩm không có HTND theo qui định này,
Thông tư số 2421-TC ngày 29/12/1961 của TANDTC “hướng dẫn thực hiện
chế độ HTND” có nêu rõ:
Khi xử sơ thẩm mà không có HTND tham gia thì người ngồi xử chỉ là
Thẩm phán. Những trường hợp Toà án xử sơ thẩm mà không có HTND
tham gia phải do Uỷ ban thẩm phán (ở TAND thành phố trực thuộc Trung
ương, tỉnh hoặc đơn vị hành chính tương đương) hoặc Chánh án (ở thị xã,


15
huyện, khu phố) quyết định, v ề dân sự những vụ kiện có thể xử sơ thẩm
mà không có HTND tham gia có thể là những vụ án mà giá ngạch nhỏ
nhặt và sự việc đã rõ ràng [46, tr 90, 91].
Thực tế, việc xét xử không có HTND tham gia còn thường áp dụng trong
việc giải quyết các vụ thuận tình ly hôn. Khi việc giải quyết các vụ thuận tình ly
hôn do một Thẩm phán tiến hành đã trở thành phổ biến thì Thông tư 03 ngày
3/3/1966 của TANDTC đã mở rộng vai trò của Thẩm phán trong việc giải quyết
loại việc này; cụ thể: “Để xét việc xin thuận tình ly hôn, Thẩm phán giải quyết
một mình không có HTND tham gia, không đòi hỏi phải có quyết định của uỷ
ban thẩm phán TAND cấp tỉnh hay Chánh án TAND huyện nữa”. Ngoài ra,
Thông tư này còn qui định: “Chánh án hoặc Thẩm phán có quyền quyết định
những biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi hỏi ý kiến của chính quyền cơ sở, mà
không bắt buộc phải cùng HTND quyết định” (Điểm 2 mục n).
Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong giai đoạn thụ lý, điều tra, hoà giải các
tranh chấp dân sự tiếp tục được xác định và mở rộng theo qui định của Thông tư
39/NCPL ngày 21/1/1972 của TANDTC hướng dẫn việc thụ lý, di lý, xếp và tạm
xếp những việc kiện về HNGĐ và tranh chấp về dân sự. Đó là:
... Nếu thấy nội dung đơn kiện đã rõ ràng, vụ kiện thuộc thẩm quyền
của Toà án mình... Thẩm phán phải thụ lý vụ kiện...; Thẩm phán phải
triệu tập các đương sự đến Toà án để điều tra, hoà giải...; Thẩm phán

có thể hướng dẫn cho tư pháp xã... hoà giải...; Thẩm phán phụ trách
việc điều tra, hoà giải vụ kiện có thể ra quyết định về những biện
pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ kịp thời những quyền lợi chính đáng
của đương sự... những quyết định này của Thẩm phán được chấp hành
ngay...[46, tr 206-208]
Ngoài ra, theo theo qui định tại Thông tư số 06 ngày 25/2/1974 của
TANDTC cũng khẳng định lại vị trí, vai trò, trách nhiệm của Thẩm phán trong


16
việc điều tra:

v ề nguyên tắc Thẩm phán phải trực tiếp thực hiện việc điều

tra... đối với những vụ kiện quan trọng, phức tạp, Chánh án hoặc ưỷ ban Thẩm
phán có trách nhiệm hướng dẫn việc điều tra...”.
Tiếp theo, Thông tư 25/TATC ngày 30/11/1974 của TANDTC hướng dẫn việc
hoà giải trong TTDS cũng qui định: Trong trường hợp hoà giải thành, Thẩm phán
lập biên bản hoà giải thành... và “TAND cần ra một quyết định công nhận việc hoà
giải thành để làm cho những điều mà hai bên đã thoả thuận có giá trị chấp hành”
(Điểm 5 phần B mục ni). Và người ra quyết định công nhận hoà giải thành đó chính
là Thẩm phán và quyết định đó là của Toà án có hiệu lực như bản án.
Tóm lại, trong giai đoạn này, thông thường mọi việc dân sự thuộc thẩm
quyền của Toà án phải được giải quyết tập thể và quyết định theo đa số. Nhưng
do Hiến pháp 1959 chưa qui định cụ thể nguyên tắc này, do đó Thẩm phán được
độc lập xét xử một số vụ án giá trị tranh chấp nhỏ, giản đơn. Đặc biệt Thẩm phán
còn có vai trò quan trọng trong quá trình điều tra, hoà giải, có quyền ra quyết
định công nhận hoà giải thành giữa các đương sự mà quyết định đó có hiệu lực
như bản án, có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thòi. Tuy chỉ
được áp dụng trong một phạm vi còn hạn chế, nhưng một mặt nó không những

thể hiện được vị trí, vai trò của Thẩm phán, mà còn phần nào xác định nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán trong TTDS. Hơn nữa, những qui định này còn góp
phần thúc đẩy công tác giải quyết các vụ việc dân sự của Toà án và tạo một cơ sở
thực tiễn cho việc giải quyết các vụ kiện trong trường hợp các đương sự có thể
thoả thuận được với nhau và một số trường hợp khác.
1.2.3. Giai đoạn từ 1980 đến 1989.
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Nhà nước ta ban hành
Hiến pháp 1980, tiếp theo là Luật Tổ chức TAND 1981, Luật sửa đổi bổ sung luật
Tổ chức TAND 1988. Theo các văn bản pháp luật trên, về tổ chức các Toà án cơ
bản không có gì thay đổi, chỉ khác là ở Toà án cấp tỉnh bước đầu tổ chức các Toà


17
chuyên trách (Toà Hình sự, Toà Dân sự).
Trong giai đoạn này, “việc xét xử tập thể và quyết định theo đa số” đã được
chính thức ghi nhận thành một nguyên tắc tại Điều 132 Hiến pháp 1980, Luật Tổ
chức TAND năm 1981 và Luật Tổ chức TAND năm 1988. Do vậy, mọi việc thuộc
thẩm quyền của Toà án phải được giải quyết tập thể và quyết định theo đa số, các
qui định về việc xét xử sơ thẩm bằng một Thẩm phán không còn được áp dụng
nữa. Vị trí, vai trò của Thẩm phán đối với các loại việc thuộc thẩm quyền xét xử
của Toà án không được xác định rõ ràng. Nhưng vai trò của Thẩm phán trong
hoạt động điều tra, hoà giải theo hướng dẫn tại Thông tư 06-TATC ngày
25/2/1974 và Thông tư 25/TATC ngày 30/11/1974 của TANDTC vẫn được áp
dụng. Có thể nói, so với các giai đoạn trước, vị trí, vai trò của Thẩm phán trong
giai đoạn này không được xác định cụ thể hơn.
1.2.4. Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong TTDS theo pháp luật hiện hành.
Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong TTDS theo pháp luật hiện hành được
xác định từ thời điểm ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
ngày 29 tháng 11 năm 1989. Những qui định pháp luật về TTDS lần đầu tiên
được hệ thống hoá ở mức độ cao, điều đó cho phép Toà án có điều kiện thuận lợi

hơn trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên, phần
lớn các hoạt động TTDS được Pháp lệnh xác định dưới hình thức hoạt động của
Toà án mà không xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán khi được
giao nhiệm vụ giải quyết một vụ việc cụ thể; trừ trường hợp Toà án vẫn tiếp tục tiến
hành thủ tục công nhận hoà giải thành bằng quyết định của một Thẩm phán được
coi như giải quyết một việc dân sự không có tranh tụng. Trình tự và thủ tục này được
ghi nhận tại Điều 44 Pháp lệnh TTGQCVADS và hướng dẫn tại Nghị quyết số 03HĐTPTATC ngày 19/10/1990. Cụ thể: "Khi các đương sự thoả thuận được với nhau
về vấn đề phải giải quyết trong vụ án, thì Thẩm phán lập biên bản hoà giải thành...
Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự...".


18
Kế thừa và phát triển các bản Hiến pháp trước đó, Hiến pháp năm 1992
ra đời đã xác lập một hệ thống các nguyên tắc làm cơ sở cho tổ chức và hoạt
động của TAND. Từ những nguyên tắc cụ thể về tổ chức và hoạt động của Toà
án và Thẩm phán được qui định trong Hiến pháp 1992, Quốc hội đã thông qua
Luật Tổ chức TAND 1992, Luật Tổ chức TAND năm 1993 và ƯBTVQH ban
hành Pháp lệnh Thẩm phán và HTND ngày 14/5/1993. Với các văn bản pháp
luật trên, chức năng, nhiệm vụ của Toà án được xác định là chức năng xét xử
"TAND tối cao, các TAND địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án
khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt nam". So
với trước, chức năng của Toà án được mở rộng trên nhiều lĩnh vực: Hình sự,
Dân sự, Kinh tế, Lao động, Hành chính.
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ đó của Toà án, nguyên tắc "TAND
xét xử tâp thể và quyết định theo đa số" tiếp tục được ghi nhận tại Điều 131
của Hiến pháp 1992. Ngoài ra, các hoạt động tố tụng của Toà án còn thực hiện
trên các nguyên tắc như:
- "Việc xét xử của TAND có HTND tham gia theo qui định của pháp luật.
Khi xét xử, HTND ngang quyền với Thẩm phán" (Điều 129 Hiến pháp 1992,
Điều 4 Luật tổ chức TAND).

- "Khi xét xử, Thẩm phán và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật"
(Điều 130 Hiến pháp 1992, Điều 5 Luật tổ chức TAND).
- "TAND xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định" (Điều 131 Hiến
pháp 1992, Điều 7 Luật tổ chức TAND).
Như vậy, xét xử ở đây được hiểu theo nghĩa xử án và mọi việc thuộc thẩm
quyền xét xử của Toà phải được giải quyết tập thể (từ hai người trở lên) và quyết
định theo đa số. Nhưng ngoài nhiệm vụ xét xử, trong thực tiễn hoạt động tố tụng
của Toà án cũng như theo qui định của các văn bản pháp luật khác (Bộ luật Dân
sự 1995, Luật Phá sản doanh nghiệp 1993...), Toà án có nhiệm vụ giải quyết một


19
số các loại việc khác như tuyên bố phá sản doanh nghiệp, tuyên bố một người
mất tích hoặc đã chết, tuyên bố một người mất hoặc hạn chế năng lực hành vi...
Đây thực chất là các trường hợp Toà án xác nhận một sự kiện pháp lý trên cơ sở
các căn cứ do luật định, theo yêu cầu của người có quyền. Có thể coi đây là các
trường hợp Toà án giải quyết một vụ việc dân sự không có tranh tụng (tức là
không phải xử án); nhưng trừ tuyên bố phá sản doanh nghiệp, việc tuyên bố các
sự kiện trên vẫn được giải quyết tập thể và quyết định theo đa số. Riêng việc ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự vẫn do Thẩm phán thực
hiện và quyết định đó có hiệu lực như bản án. Rõ ràng, việc tiến hành TTDS
trong những trường hợp này nằm ngoài nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định
theo đa số. Không thể coi đây là trường hợp ngoại lệ, mà cần phải hiểu rằng trong
quá trình giải quyết các vụ kiện dân sự, hoà giải là thủ tục bắt buộc trước khi mở
phiên toà xét xử. Hoà giải thành không chỉ có ý nghĩa đối với đương sự, mà còn
với Toà án và với cơ quan Thi hành án. Vì vậy, nó là một nhiệm vụ hết sức quan
trọng của Toà án trong quá trình TTDS và việc thực hiện nhiệm vụ này được trao
cho Thẩm phán, có nghĩa là nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán được xác định
cụ thể khi hoà giải các vụ kiện dân sự. Các qui định về công nhận hoà giải thành
bằng quyết định của một Thẩm phán vẫn tiếp tục được ghi nhận trong Pháp lệnh

TTGQCVAKT (Điều 36) và Pháp lệnh TTGQCTCLĐ (Điều 38).
Như vậy, với qui định của Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND và các Pháp
lệnh TTGQCVADS, Pháp lệnh TTGQCVAKT, Pháp lệnh TTGQCTCLĐ, hoạt
động TTDS được thực hiện theo nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa
số, bên cạnh đó còn có những hoạt động tố tụng nằm ngoài nguyên tắc này mà
thực chất người có vai trò thực hiện hoạt động đó là Thẩm phán. Nhưng do cách
nhìn nhận chưa đúng mức về vị trí, vai trò của Thẩm phán trong TTDS nên chưa
có văn bản pháp luật nào qui định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán.
Văn bản pháp luật đầu tiên qui định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
Thẩm phán là Pháp lệnh về Thẩm phán và HTND ngày 14/5/1993. Lần đầu tiên


20
pháp luật nước ta nêu khái niệm: "Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo qui
định của pháp luật và để làm nhiệm vụ xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của
Toà án" (Điều 1). Qua khái niệm trên, cho thấy hai nội dung:
- Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo qui định của pháp luật. Chế định
Chủ tịch nước bổ nhiệm thay cho chế định Thẩm phán bầu, chứng tỏ Thẩm phán
là một loại công chức đặc biệt, chức danh do người đứng đầu Nhà nước bổ
nhiệm. Đây là bước ngoặt quan trọng trong việc khẳng định vị trí, vai trò của
Thẩm phán trong hoạt động tố tụng nói riêng và hoạt động của các chức danh tư
pháp nói chung.
- Nhiệm vụ của Thẩm phán là nhiệm vụ xét xử và chỉ xét xử những vụ án
thuộc thẩm quyền của TAND.
Đồng thời với qui định trên, trong Pháp lệnh này còn chỉ rõ: "Thẩm phán
làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án" (Điểu 9), khi thực hiện nhiệm vụ
của mình "Thẩm phán có quyển yêu cầu tổ chức, cá nhân thi hành những quyết
định có liên quan đến việc giải quyết vụ án theo qui định của pháp luật tố tụng"
(Điều 10) và "Thẩm phán.... chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo

tính chất, mức độ sai phạm và hậu quả mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự" (Điều 5).
Tiếp đến, Pháp lệnh Cán bộ công chức được UBTVQH thông qua ngày
26/2/1998 qui định: Thẩm phán là một trong các cán bộ công chức và "... chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của mình" (Điều 7).
Như vậy, vấn đề nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán đã
được xác định trong hai Pháp lệnh trên; thậm chí theo Điều 7 Pháp lệnh về Thẩm
phán và HTND thì nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong từng lĩnh vực cụ
thể cần phải được thể hiện trong các văn bản pháp luật về tố tụng, nhất là trong
TTDS, kinh tế, lao động.


21

Văn bản pháp luật đầu tiên qui định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán là Luật Phá sản doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1993 và
có hiệu lực từ ngày 1/7/1994. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán
được qui định tại Điều 16 Luật Phá sản doanh nghiệp. Theo qui định này thì:
Thẩm phán có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a/ Thu thập tài liệu, chứng cứ để lập hồ sơ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp;
b/ Giám sát và kiểm tra hoạt động của các nhân viên tổ quản lý tài sản;
c/ Ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp cần
thiết theo qui định của pháp luật để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mắc nợ;
d/ Ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp;
e/ Tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Ngoài ra, theo qui định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 16 này thì: trong quá
trình giải quyết yêu cầu tuyến bố phá sản doanh nghiệp, nếu phát hiện có dấu
hiệu phạm tội thì Thẩm phán cung cấp tài liệu cho Viện kiểm sát cùng cấp xem

xét để khởi tố về hình sự. Thẩm phán chịu trách nhiệm trước Chánh án TAND
cấp tỉnh về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Trong trường hợp việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp do
một tập thể Thẩm phán phụ trách thì các Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn theo sự phân công giữa các thành viên của tập thể Thẩm phán đó (đã được qui
định trong qui chế làm việc của tập thể Thẩm phán phụ trách yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp, ban hành theo quyết định số 426/QĐ ngày 1/7/1994 của Chánh
án TANDTC). Theo Điều 1 của quyết định 426/QĐ, nhiệm vụ, quyền hạn của tập
thể Thẩm phán được phân công cụ thể như sau:
-

Thẩm phán được giao nhiệm vụ phụ trách tập thể Thẩm phán phụ trách

chung toàn bộ hoạt động của tập thể Thẩm phán, tổ chức chủ trì Hội nghị chủ nợ.


×